4. Phép lạ thứ tư:
Tirobhva: Biến bóng
tối trở nên sáng chói và che khỏi tầm nhìn những gì đang phơi ra trước ánh sáng
Một vị tỳ khưu đã
được phú cho phép thần thông Pāṭithāriya cần tu luyện hành thiền đến mức Thiền
Bậc Bốn, như là “Sức Bật” của ngài, ta có thể gọi như vậy và quyết định bằng
cách tụng câu. “mong rằng chỗ sáng biến thành tối,” hay “Mong rằng không ai
nhìn thấy nơi này cả” và tức khắc nơi đó và cảnh quan đó liền diễn ra như ý
nguyện của ngài.
Điều này được kể lại
trong tác phẩm Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) tác giả Buddhaghosa đã nêu lên
một câu hỏi thật thích hợp hỏi rằng: ai có khả năng thực hiện được loại phép lạ
(thần thông) này. Để trả lời câu hỏi trên, ngài kể lại những phép lạ (thần
thông) liên quan đến chàng trai Yasa và Trưởng lão Mahāpappina một cách ngắn
gọn. Tuy nhiên tiếp theo đây tôi xin mô tả lại cả hai biến cố để hầu quí độc
giả muốn biết thêm những chi tiết liên quan.
Liên Quan Đến Trưởng
Lão Yasa
Theo Đại Phẩm
(Mahāvagga) thuộc Tạng Luật, biến cố này xảy ra sau khi Đức Phật đã làm cho năm
người sống nhờ vào của bố thí đạt đến Bậc A-la-hán. Vào buổi sáng sớm ngày mồng
sáu, tháng tám, chàng trai Yasa, con trai duy nhất của một Nhà Triệu Phú trong
thành phố Bārāṇasī hay còn goi là thành Ba-la-nại (Benares)
đã rời khỏi nhà vào buổi đêm, và đến nơi Đức Phật đang cư ngụ. Trên đường đi
chàng thanh niên luôn lẩm bẩm câu, “Nơi này quá phiền toái, nơi đây quá buồn
khổ”. Lúc đó Đức Phật đang hành thiền bách bộ tại một nơi quang đãng thoáng
mát. Nhìn thấy chàng trai ngài liền tạm ngưng hành thiền, và trải tọa cụ xuống
đất và ngồi trên đó, khi chàng trai tiến lại gần ngài, miệng vẫn thốt lên những
lời lẽ như vậy, ngài liền cho gọi chàng trai lại và nói “Nơi này chẳng phiền
toái đâu, nơi này chẳng có gì buồn bã cả.” Hãy đến và ngồi xuống đây. Ta sẽ
thuyết pháp cho con.” Lời nói của Đức Phật khiến cậu bé cảm động và thích thú.
Cậu bỏ dép và ngồi xuống một chỗ thích hợp gần bên Đức Phật.
Sau đó, Đức Phật
thuyết pháp cho cậu về nắm pháp tuần tự để được tiến triển hay là
Anupubbīkathā, bắt đầu với bố thí, giới luật, cõi thiên đường, rồi đến những
mối nguy do thú vui giác quan đem lại và lợi ích diệt dục là như thế nào. nhìn
thấy được (qua Nhãn Thông) từ lúc đó tâm chàng trai đã dịu trở lại, trở nên
linh hoạt hơn và thoát khỏi mọi triền cái, chàng trai hoàn toàn choáng ngợp
trong trạng thái mê ly và ánh sáng chói chang, Đức Phật liền tiến hành giải
thích cho cậu về Tứ Diệu Đế nghĩa là đau khổ là thế nào, nguyên nhân của đau
khổ từ đâu mà ra, diệt được khổ và cách thức diệt khổ như thế nào. Vào cuối bài
thuyết pháp chàng trai Yasa đã đạt đến Pháp Nhãn giúp giải thóat khỏi mọi vết
nhơ bẩn thỉu. Thể hiện được pháp cho là “bất kỳ những gì được tạo thành sẽ đi
đến chỗ bị hủy diệt.” Tâm chàng trai mở ra khi nhận được Pháp Nhãn, nên giống
như một miếng vải trắng tinh sạch không một vết nhơ, sẵn sàng thấm thuốc nhuộm.
Lý do tại sao chàng
trai rời khỏi nhà trong thời gian như vậy đã được kể lại trong một đoạn văn
tiếng Pali như sau:
Vào thời đó trong
thành phố Bārāṇasī có một chàng trai tên là Yasa, con trai của một nhà triệu
phú, một thanh niên được nuôi dạy hết sức cẩn thận. Cậu được cha mẹ xây cho ba
lâu đài để ở, một dành cho mùa đông, một dùng vào mùa hè, và còn một căn dùng
vào mùa mưa. Lúc nào cậu cũng được các nữ tỳ chơi nhạc để tiêu khiển, chẳng có
một nam tỳ nào cả. Trong suốt bốn tháng mùa mưa chàng trai đã thưởng thức mọi
thú vui sắc dục trong lâu đài mùa mưa và không bao giờ rời khỏi ngôi tòa lâu
đài đó để ra ngoài hay xuống phố đi đây đi đó cho khuây khỏa.
Bước ngoặt trong đời
chàng trai bắt đầu xuất hiện vào một đêm kia sau khi đã tiêu khiển đủ mọi thú
vui do các tỳ nữ đem lại đến choáng ngợp, chàng đã đi ngủ sớm có nghĩa là trước
khi các nữ tỳ của chàng lên giường. Thế rồi, vào những canh đầu tiên trong đêm
đó chàng đã thức giấc, do ánh sáng một ngọn đuốc cháy suốt đêm. Điều này khiến
nổi lên một cảm nghĩ lạ lùng chàng trai chưa từng bao giờ mơ thấy trước đó.
Trước mặt chàng nằm la liệt những cô gái trẻ với đủ mọi điệu bộ lẳng lơ, một số
ôm đàn hạc trong tay, những cô khác ôm trống đeo ở cổ và trên ngực, nhiều cô
khác đầu tóc rối bù. Một số khác miệng phun nước miếng và số còn lại nói lảm
nhảm trong giấc mộng. Toàn cảnh diễn ra trước mặt chàng giống như cảnh một
nghĩa trang chất đầy xác chết nằm rải rác la liệt đây đó. Chàng trai bị choáng
ngợp trước cảm nghĩ mệt mỏi ảo tưởng. Khiến cho chàng phải thốt lên, “Nơi này
quá phiền toái, nơi đây thật buồn khổ!”.
Trong trạng thái mệt
mõi tràn ngập những thú vui nhục dục như vậy, thình lình chàng trai thức dậy sỏ
dép và rời khỏi nơi đó qua cánh cửa có các vị chư thiên canh gác cẩn thận, các
vị này đã giúp mở cửa cho chàng với ý nghĩ “Mong rằng việc ra đi của chàng trai
theo đuổi cuộc sống vô gia cư không bị ngăn cản.” Sau đó chàng trai tiến thẳng
tới cổng thành, tại đó cũng có các vị chư thiên giúp mở cổng với cùng một ý
nghĩ như những chư thiên đầu tiên giúp mở cửa cho chàng.
Sau khi đã thoát ra
ngoài thành, Yasa tiến thẳng tới Công Viên Con Nai tại Isipatana và cuối cùng
chàng đã gặp Đức Phật, nghe bài thuyết pháp của ngài và đạt được Pháp Nhãn, như
đã kể ở trên.
Từ những đoạn trích
trong Kinh Pali, chúng ta còn biết thêm một số chi tiết về chàng trai như sau:
Sáng hôm sau người ta phát hiện ra chàng trai bị mất tích, khi mẹ chàng trở vào
cung và không gặp được con trai ở đó, bà vội vã thông báo tin chẳng lành cho
chồng. Ông liền sai người đi tìm kiếm chàng khắp nơi. Trong khi đó chàng trai
đi theo chánh đạo dẫn đến thành Isipatana tại công viên con nai. Ở đó người cha
vô cùng ngạc nhiên, nhận ra đôi dép của con trai, sau đó ông lần theo lối đi
của chàng và tiến thẳng tới chỗ Đức Phật và con trai của ông đang ngồi đàm đạo.
Đức Phật nhìn thấy nhà triệu phú từ xa, ngài suy nghĩ nên thực hiện một phép lạ
(thần thông) ngăn cản hai cha con không nhìn thấy nhau vào lúc này.(đoạn văn
viết bằng tiếng Pali như sau: Disvā Bhagavato etadahṅi yannūnāhaṃ tathārūpaṃ
iddhābhisankhāraṃ abhisañkhāreyyaṃ yathā seṭṭhī gahapati idha nisinno idha
nṅinnaṃ. Yasaṃ kulapūttaṃ na pasayyạti. Atha kho Bhavavā tathārūpaṃ
iddhābhisankhāraṃ abhṅankhiresi.)
Nhìn thấy Đức Phật ngồi đó, cha chàng trai Yasa tiến lại gần ngài và hỏi xem
ngài có nhìn thấy con trai của ông đến đây không.
Thế là Đức Phật đã
trả lời câu hỏi của ông như sau “Hãy ngồi xuống đây cái đã, ôi ông chủ gia nhân
ơi. Có lẽ, đang khi ông ngồi đây thì ông có thể nhìn thấy con trai Yasa cũng
đang ở đây.” Câu trả lời của Đức Phật khiến cho Nhà Triệu Phú hài lòng, ông
nghĩ có lẽ con trai ông đang ngồi ở đó. Ông có thể nhìn thấy con trai mình, cậu
ta cũng đang ở quanh đây thôi. Thế rồi ông tỏ lòng tôn kính Đức Phật và ngồi
đúng vào chỗ dành cho ông. Cha của Yasa ngồi ở một bên, Đức Phật liền thuyết
pháp cho ông về năm pháp tuần tự giúp tiến bộ quan trọng như thế nào.
(Anupubbīkatha) rồi ngài diễn giảng Tứ Điệu Đế y hệt như cách ngài đã làm cho
chàng trai Yasa của ông. Vào cuối bài thuyết pháp người cha của chàng trai Yasa
cũng đạt được Pháp Nhãn.
Sau khi người Cha đã
đạt đến được Pháp Nhãn, Đức Phật chúc lành với một niềm tin không lay chuyển
nơi Phật pháp, sau đó ông vượt qua mọi nghi ngờ nơi Tam Bảo, ông được phú cho
lòng can đảm không gì lay chuyển nổi. Không nghe theo bất kỳ lời nói nào của ai
liên quan đến Phật Pháp. trong ngây ngất và tin tưởng ông đã thưa với Đức Phật.
“Ôi Đấng Thế Tôn, lời thầy thật là đầy sức sống, lời thầy quá ư tốt đẹp”. Bằng
nhiều cách Đấng Thế Tôn đã công bố Phật Pháp, giống như người chỉ chánh đạo đối
lại những gì đã bị đảo lộn, hay mở ra những gì đang còn bị tù túng, chỉ lối cho
những kẻ lạc đường và thắp lên ngọn đèn nơi tối tăm để cho người sáng mắt có
thể nhìn thấy bất kỳ điều gì như bình thường.
“Do vậy tôi đi đến
nương nhờ đức Phật - Giáo Pháp và Tăng Già. Mong rằng Đức Thế Tôn nhận con là
một cận sự nam (upāsaka) hết lòng vì đạo pháp cho đến hết đời, kể từ ngày hôm
nay trở đi”.
Với lời phát biểu đầy
đức tin không gì lay chuyển như vậy, Cha chàng trai Yasa đã trở thành người cận
sự nam đầu tiên (upāsaka) đã đi đến nương nhờ đức Phật, giáo pháp và Tăng già.
Nhiều chi tiết nữa
được kể lại trong kinh Pali như sau:
Đang khi Đức Phật còn
thuyết pháp một bài về năm pháp tuần tự tạo sức mạnh tiến tới quan trọng dành
cho Cha của chàng trai Yasa, ông Bố chiêm ngưỡng những lời dạy của Đức Phật một
lần nữa, có thể phát triển tâm và cập nhật thâm sâu hơn vào tuệ giác. Cho đến
khi ông đạt đến giác ngộ hoàn toàn và đã trở thành một vị A-la-hán, với tâm
được giải thóat hoàn toàn khỏi những lậu hoặc (savas) và thụy miên phiền não
trong tâm thông qua diệt dục toàn diện.
Lúc này thông qua
phép Nhãn Thông, Đức Phật biết được toàn bộ tâm chàng trai Yasa đã được giải
thóat khỏi mọi lậu hoặc thông qua diệt bỏ hết những tham lam phù phiếm và nhận
ra được bằng cách nào chàng không thể nằm ở vị thế một cận sự nam để khỏi phải
trải qua nhũng dục lạc một lần nữa. Yasa đã loại bỏ hết những ngụy trang thần
thông vẫn kìm hãm chàng cho đến lúc này còn che dấu Yasa không nhìn thấy cha
mình và ngược lại. Lúc này Cha Yasa có thể nhìn thấy con trai của mình, thực sự
đang ngồi ngay sát bên ông từ bấy lâu nay. Chính vì thế ông nói với con trai.
“Mẹ con đã đau khổ buồn thảm rất nhiều, con trai Yasa yêu quí. Xin hãy cứu mẹ
con khỏi chết.” Nghe đến đây chàng trai liền ngước mắt nhìn lên Đức Phật như
thể cầu khẩn ngài nói thay cho chính mình. Đức Thế Tôn hiểu ý chàng liền nói
với Nhà Triệu Phú mà rằng. “Ôi chủ gia nhân, ông đang suy nghĩ gì thế? Lần đầu
tiên Chàng Trai Yasa đạt được Pháp Nhãn cùng một cách như ông, với tuệ giác ở
mức độ Đấng Nhập Lưu. Sau đó, cậu ta chiêm ngắm thành tích mình đã đạt được một
lần nữa (đang lúc đó ta đang thuyết pháp cho ông.). Lúc này thì tâm của chàng
trai Yasa đã được giải thoát khỏi mọi Lậu hoặc (savas) thông qua tận diệt hết
các tham lam. Lẽ nào cậu ta lại phải trở thành một cận sự nam để lại phải qua
những thú vui nhục dục như trước?”
Nhà triệu phú trả
lời, “Không đời nào chuyện đó diễn ra, ôi Đức Thế Tôn. Một khi tâm của Yasa đã
được giải thoát khỏi mọi lậu hoặc (savas) thông qua tận diệt hết mọi ảo tưởng.
Chính là một thắng lợi quá lớn cho con trai tôi. Con trai tôi thật xứng đáng
được như vậy. Mong rằng Đức Thế Tôn, cùng với Yasa và các tỳ khưu đi theo, đến
nhà tôi tham dự một bữa tiệc vào ngày hôm nay.”
Nghe vậy Đức Phật giữ
im lặng, ra hiệu cho chàng trai biết ngài đồng ý và chấp nhận lời mời của ông.
Nhà triệu phú hiểu ra điều này liền đứng lên, tỏ lòng tôn kính Đức Phật quay
quanh Đức Phật dừng lại ở bên trái ngài và rồi ra đi.
Ngay sau khi nhà
triệu phú ra đi, Chàng trai Yasa đã yêu cầu Đức Phật cho Thọ đại giới.”Ôi Đức
Thế Tôn, mong rằng con có thể nhận Đại Thọ Giới gia nhập vào Tăng già của Đức
Thế Tôn được chăng?” rồi sau đó Đức Phật ban cho phép chàng trai chấp nhận EHI,
với những lời lẽ sau đây. “EHI hãy đến và trở thành tỳ khưu, mong rằng Phật
Pháp được diễn giải cho tốt, hãy sống cuộc đời phạm hạnh.” Nhờ những lời trên
Chàng Trai Yasa được ban Đại Thọ Giới theo cách EHI và cũng chính thông qua Bậc
A-la-hán, con số các vị A-la-hán đã lên đến con số 7 người (kể cả Đức Phật và
năm người sống bằng của bố thí).
Tuy nhiên người ta
không kể lại chi tiết việc tỳ khưu Yasa nhận y cà sa và Bát khất thực như thế
nào, và Yasa đã nhận nghi thức cắt tóc và râu khi nào và ở đâu. Nhưng trong tác
phẩm Paṭhamasambodhikathā do Trưởng lão Kromphra Paramānujitajinorasa biên soạn
có mô tả lại một biến cố đó như sau:
“Ngay sau khi cha ông
lên đường về nhà, Chàng thanh niên Yasa đã xin Đức Thế Tôn được nhận thọ đại
giới. Rồi sau đó Đức Phật đã ban cho chàng chức tỳ khưu EHI, thốt lên cùng một
cách thức giống như ngài đã thực hiện với năm vị A-la-hán sống bằng của bố thí.
Còn về y cà sa và bát khất thực và các đồ dùng cá nhân khác, toàn bộ những thứ
đó đã được đem đến cho chàng từ trời rơi xuống, nhờ những công đức chàng đã
tích lũy được từ trước. Trong khi đó râu và tóc của chàng tự động biến mất. Rồi
ngài lãnh y cà sa mặc và mang theo nhiều đồ cần thiết hàng ngày; như vậy đã
hoàn tất nghi lễ nhận thọ đại giới của chàng trai Yasa”
Một điều cần lưu ý là
những đoạn văn trên do nhà soạn thảo chép từ những bản Kinh Phật cổ tức là Kinh
Pali và các tập Chú Giải. Tác giả chẳng tự biên soạn điều gì cả, Tuy nhiên, tác
giả đã không chịu khó đề cập đến những đoạn văn đó đã được sắp xếp ở đâu.(vì
vào thời đó, điều đó không nhất thiết phải làm như vậy.)
Đây là một bài tường
thuật ngắn viết về Trưởng lão Yasa, đặc biệt đoạn văn cho thấy Đức Phật đã tận
dụng phép thần thông Tirobhāva tức là phép lạ (thần thông) ngăn không cho thấy
người hay đồ vật mà thực tế có thể dễ dàng nhìn thấy. Thêm vào biến cố này,
chúng ta còn được biết Đức Phật cùng với Trưởng lão Yasa, đã đến tham dự bữa
tiệc tại nhà riêng của nhà triệu phú ra sao vào buổi sáng ngày hôm sau. Mẹ và
vợ của chàng thanh niên Yasa cũng đã chăm sóc Đức Phật thì nhất thiết hai người
đó cũng đã nhận ra chàng thanh niên Yasa đã trở thành tỳ khưu ra sao, nhưng ta
không thấy đề cập gì đến phản ứng của hai người cả. Rồi sau đó Đức Phật đã
thuyết pháp cho cả hai người phụ nữ này về năm pháp tuần tự quan trọng phải
tiến tới là như thế nào, đồng thời ngài cũng diễn giải cho họ về Tứ Diệu Đế
giống hệt như Ngài đã thuyết pháp cho Yasa và cha của chàng. Vào cuối bài
thuyết pháp cả hai đã được nhận Pháp Nhãn, họ hết lời khen ngợi tài thuyết pháp
của Đức Phật và tuyên bố trở thành là cận sự Nữ (upāsikās) có nghĩa là đồ đệ
đạo hữu trong suốt cuộc đời còn lại của họ. Theo Kinh Pali thuật lại, hai người
phụ nữ đó đã trở thành những cận sự nữ Phật giáo đầu tiên vậy.
Trưởng lão Đại Đức
Maha Kappina
Trưởng lão Kappina là
hoàng tử của nhà vua nước Kukkutavatī. Ngài đã lên kế vị vua sau khi cha truyền
lại ngai báu cho ngài. Hoàng hậu của nhà vua tên là Anojādevī, là con gái của
vua thuộc thành phố Sāgala, vương quốc Maddarraṭṭha. Nhà vua có năm con ngựa
nòi có tên theo thứ tự như sau: Bala, Balavāhana, Puppha. Pupphavāhana và
Supatta, con ngựa cuối cùng được dành riêng cho nhà vua. Trong khi đó bốn con
còn lại được giao cho những người khác để đưa nhà vua đi thăm nhiều nơi trong
khắp vương quốc để xác định xem những tin tức được tường trình có thực sự diễn
ra nơi Tam Bảo tức là Phật, Pháp và Tăng già hay không và chính xác đến mức độ
nào. Mỗi buổi sáng ngài đều cho các sứ giả dùng bữa điểm tâm rồi sai họ bủa đi
khắp nơi để thu thập tin tức. Họ chỉ cần vượt qua một ít Yojana mỗi ngày rồi
lại quay trở về báo hết mọi tin tức cho nhà vua.
Một ngày kia chính
nhà vua cũng cưỡi ngựa Supatta ra đi thu thập tin tức như vậy, cùng với một
đoàn tùy tùng cưỡi ngựa khoảng cả ngàn con ngựa. Họ đã bắt gặp một đoàn thương
gia lên đến năm trăm người đang mệt mỏi lê bước tiến về phía thành phố. Nhà vua
nghĩ trong tâm, “Những người này chắc đã phải di chuyển từ một vùng đất xa lắm
đến đây thì phải, chính vì vậy họ xem ra có vẻ mệt mỏi và kiệt sức. Rất có thể
trẫm nên khai thác một ít tin tức từ những thương gia này.” Nói đoạn nhà vua ra
lệnh cho các thương gia đến gặp ngài và hỏi họ, nói rằng, “ Các ngài từ nước
nào tới đây vậy?”
“Ôi Tâu Đức Đề Bà”
một vị thương gia lên tiếng, “chúng tôi đến từ một miền xa xôi cách đây cả 120
Yojana, ở đó có một thành phố tên là Sāvatthi. Chúng tôi đã đến từ thành phố
đó.”
Nhà vua lên tiếng, “Ở
đó có điều gì các khanh có thể cho trẫm biết được chăng?”
Họ trả lời, “Ôi Tâu
Đức Đề Ba, ở đó chẳng có gì quan trọng cả, chỉ trừ có một điều thành phố đó đã
có Đức Chánh Đẳng Chánh Giác giáng lm ở đó.”
Nghe thấy những lời
đó nhà vua tràn ngập vui mừng với năm trạng thái phỉ lạc làm cho nhà vua quên
mất những gì đang diễn ra xung quanh đó trong giây lát. Một nguồn vui tràn ngập
đã khiến nhà vua quên mất điều các thương gia vừa cho ngài biết trước đó khiến
ngài lại nhắc lại câu hỏi và nhà vua đã nhắc lại những câu hỏi ba lần liên tiếp
như vậy. Cho mãi đến lần thứ tư nhà vua mới có thể kiểm sóat được chính mình và
ngài hỏi họ thêm. “Thế không còn tin tức gì nữa hay sao?” Khi họ cho nhà vua
biết cả Giáo Pháp và Tăng Già cũng được sanh ra ở đó. Nhà vua lại vui mừng hơn
truớc về những tin tức đo, rồi ngài ban cho họ ba ngàn tiền làm phần thưởng.
Sau đó nhà vua truyền
cho đoàn tùy tùng gồm một ngàn cận thần, “Đến giờ trẫm mới nghe biết Đức Phật,
Giáo Pháp và Tăng-Già đã được sinh ra trên cõi đời này, trẫm sẽ không quay trở
về thành phố nữa và muốn đến gặp Đức Phật và dành cuộc đời còn lại của trẫm đến
sống cuộc đời phạm hạnh với ngài. Thế các khanh có ý kiến và làm gì không?” Họ
đồng thanh trả lời. “Tâu Bệ Hạ, chúng hạ thần cũng muốn theo gương bệ
hạ.”
Rồi nhà vua truyền
cho những người lưu giữ hồ sơ hoàng gia ghi lệnh của ngài lên một tấm bia bằng
vàng và truyền cho các thương gia, nói rằng “Hoàng hậu Anojā sẽ ban thưởng cho
các khanh ba trăm ngàn đồng. Trẫm yêu cầu các khanh hãy thông báo cho hoàng hậu
là trẫm truyền lại ngai vàng cho Hậu. Mong rằng Hậu lên ngôi vua và sống hạnh
phúc. Nếu Hậu có hỏi các khanh, trẫm đi đâu, các khanh cứ nói cho Hậu biết là
trẫm sẽ tiến hành cuộc sống vô gia cư và cống hiến cuộc đời còn lại của trẫm
cho Đức Phật, Nhà vua đã thực hiện điều này trước khi về cõi thiên thai.”
Toàn bộ các vị cận thần
của nhà vua cũng sai người về báo cho vợ con của họ như vậy và mọi sự đã được
thực hiện đúng y như vậy, Đức vua cùng với một ngàn vị cận thần đã rời khỏi địa
điểm đó và tiến thẳng về thành phố Sāvatthi.
Đức Thế Tôn vào buổi
sáng ngày hôm đó đã nhìn thấy có người xuất hiện trên mạng Nhãn Thông của Ngài
và đó là nhà vua Kappina cùng với một ngàn vị cận thần đang trên đường đi và
qua phép nhãn thông ngài đã nhìn thấy tất cả những gì đã xảy ra ngay cả trước
đó. Đức Phật cũng biết rõ toàn bộ họ đều đã may mắn có tiềm năng đạt đến bậc
A-la-hán. Ngài cũng còn biết trước họ cũng sẽ gặp ngài vào ngày hôm sau. Chính
vì thế, ngài đã mặc y cà sa và lấy bát khất thực vượt một chặng đường khoảng
hơn 120 Yojana để chào đám người đó. Chính Ngài ngồi dưới gốc một cây đa cổ thụ
gần bờ sông Candabhāganadī, tỏa ra ánh sáng sáu màu cùng hương thơm ngọt ngào
dâng trào.
Nhà vua cùng đoàn tùy
tùng phải vượt qua ba con sông trước khi có thể tiến đến chỗ Đức Phật đang ngồi
thiền chờ họ. Con sông đầu tiên họ phải vượt qua có tên là Āravapacchā, con
sông thứ hai tên là Nilavahan và sau cùng là con sông CandabhĀga. Cả ba con
sông đều rất rộng và không có bất kỳ cây cầu, thuyền tầu hay bè mảng có thể
giúp họ qua sông. Chính nhờ phép lạ (thần thông) mà tất cả họ đã thành công
vượt qua được cả ba con sông. Cùng với toàn bộ ngựa đi trên mặt nước giống như
trên mặt đất cứng. Tập Chú Giải Pháp Cú Kinh (Dhammapada) đã mô tả tình tiết
này như sau:
Tiến lại gần bờ sông,
nhà vua lên tiếng hỏi, “Tên sông này là gì vậy?” họ trả lời “Tâu Hệ Hạ, con sông
có tên là Āravapacchā,.”
Nhà vua liền hỏi
thêm, “Sông có rộng không?”
“Tâu Bệ Hạ, Sông sâu
một Gāvuta và rộng khoảng hai Gāvuta.” (một Gāvuta bằng 4 km.)
Nhà vua hỏi thêm, “Có
kiếm đâu ra tàu thuyền hay bè mảng gì không?”
“Tâu Bệ Hạ, chẳng có
gì cả.”
Như vậy nhà vua nói.
“Thế thì đợi cho đến lúc chúng ta tìm được tầu thuyền và bè mảng chắc đứa bé
mới sanh ra chắc đã phải đạt đến tuổi già, và người có tuổi chắc đã chết từ
lâu. Lúc này trẫm không có nghi ngờ hay lưỡng lự gì cả, phải tiến tới bằng bất
cứ giá nào để trẫm dâng hiến cuộc đời còn lại của trẫm cho Tam Bảo. Nhờ phép
thần thông của Tam Bảo, mong rằng nước biến thành điều gì đó không phải là
nước.” Nói xong những lời đó, nhà vua nhập thiền định nhất quán không lay
chuyển vào các ân đức Tam Bảo, Nhà vua liền cưỡi ngựa đi trên mặt nước, tiếp
theo sau là đoàn tùy tùng của nhà vua đi theo sau, mọi người cũng có cùng thái
độ tuệ giác giống y hệt như nhà vua. Lạ lùng thay, toàn bộ ngựa đều phi nước
đại trên mặt nước thoải mái như thể đang phi trên mặt đất vậy. Và toàn bộ đoàn
ngựa đã qua sông ráo chân.
Nhà vua và đoàn tùy
tùng cũng vượt qua sông thứ hai và thứ ba y hệt như vậy, ngay sau khi họ đã
vượt qua con sông thứ ba ráo chân, họ nhìn thấy luồng sáng sáu màu phát ra và
mùi thơm ngào ngạt lan tỏa từ thân xác Đức Phật đang ngồi thiền dưới gốc cây
đa. Toàn bộ cây đa, như cành cây, nhánh to nhánh bé và lá đều được tắm trong
ánh sáng siêu nhiên đó. Toàn bộ đều giống như được mạ một lớp vàng vậy.
Hiện tượng đầy kinh
ngạc này bảo đảm cho nhà vua một điều rằng những ánh sáng thiên cung tuyệt vời
đó chắc chắn phải thuộc về Đức Phật và nguồn phát ra thứ ánh sáng đó chẳng phải
ai khác hơn là đức Thế Tôn vậy. Nhà vua nghĩ trong tâm Đấng Toàn Giác chắc chắn
đã phải nhìn thấy họ đang tiến tới và chính vì vậy Ngài đã ngồi thiền dưới gốc
cây đa đó và đợi tất cả chúng ta.
Tất cả họ xuống ngựa
và tiến lại gần Đức Thế Tôn, ngài đã thuyết pháp cho họ một bài nhờ vậy mà toàn
bộ họ đã đạt được Pháp Nhãn và tất cả đã yêu cầu được nhận Thọ Đại Giới.
Biến Không Khí Thành
Những Vật Rắn Chắc
Chấp nhận ban Thọ Đại
Giới cho họ, Đức Phật đã cân nhắc đắn đo. “Có nên lấy phép lạ (thần thông) để
tạo y Cà Sa và bát Khất Thực bọn người này chăng?” Nhớ lại tiền kiếp của họ,
Ngài được biết họ đã từng dâng một ngàn y cà sa cho một ngàn vị phật độc giác.
Một lần nữa, mới xẩy đây thôi, có một đức phật giáng trần với tên gọi là Ca
Diếp (Kassapa), họ cũng đã dâng hai mươi ngàn bộ y cà sa cho hai mươi ngàn tỳ
khưu. Điều này khiến họ có thể được nhận y Cà Sa và bát Khất thực một cách kỳ
diệu.
Sau khi nhận ra điều
này, Đức Phật liền đưa tay phải ra và nói với họ, “Hãy lại đây, và trở thành tỳ
khưu. Hãy theo đuổi cuộc sống phạm hạnh vì muốn diệt trừ đau khổ.” Ngay sau đó
xuất hiện đầy đủ y Cà sa và bát khất thực cùng những vật dụng cần thiết cho những
người này sử dụng. Sau khi họ đã được mặc y cà sa và nhận những vật dụng cần
thiết. Họ trông giống hệt những vị Trưởng lão đã được nhận Thọ Đại Giới cả trăm
năm nay. Tất cả họ đều bay lên trời, rồi hạ xuống để tỏ lòng tôn kính Đức Thế
Tôn và ngồi vào vị trí dành riêng cho họ.
Dưới đây là một số
nhận định của tôi liên quan đến những đoạn trên đây. Đoạn nói về những người
ngày đã dâng một ngàn bộ y Cà sa cho các vị phật Độc giác và cho hai mươi ngàn
Chư vị tỳ khưu được trích trong Kinh Phật gọi là Thí Dụ Kinh (Apadāna) (33/186)
kể lại tiền kiếp của nhà vua Mahāpappina. Điều này chứng tỏ một chân lý cho
rằng bất kỳ một điều gì được nhận một cách lạ lùng đều phải có cơ sở, cũng như
nên đặt cơ sở trên luật nhân quả. Không có việc dâng cúng nào đó trong quá khứ
làm nhân duyên thì chẳng hy vọng nhận được bất kỳ điều gì hậu quả cả. Chúng ta
cũng nên nhớ rằng Đức Phật không thể tạo ra bất kỳ vật dụng cần thiết nào cho
toàn bộ Chư Vị A-la-hán đó. Một ví dụ được nêu lên trong trường hợp ngài
Bāhiya. Ngay cả sau khi ngài đã đạt đến bậc A-la-hán, sau khi đã nghe Đức Phật
thuyết pháp, chính ngài đã nói với ông hãy tự đi kiếm lấy cho mình y cà sa và
bát khất thực. Điều này chứng tỏ bāhiya chưa tích lũy được loại công đức này và
như vậy ngay cả Đức Phật cũng klhông thể tạo ra được y cà sa và bát khất thực
cho ngài Bahiya.
Đối với những ai biết
tiếng Pali đồng thời muốn tìm hiểu trực tiếp đoạn này, chúng tôi xin giới thiệu
đoạn văn (trích từ tập chú giải Pháp Cú Kinh (Dhammapada) dưới dây như sau:
“Desanāvasāna rājā
saparivāro sotāpạttiphale patiṭṭhahi. Atha sabbeva uṭṭhahitvā pabbajjaṃ
yāciṃsu. Satthā :Āgamissati mu kho imesaṃ kulaputtānaṃ iddhimayapattacūvaranti”
upadhārento “Ime kulaputtā paccekabuddhasahassassa cūvarasahassaṃ adaṃsu.
Kasapabuddhakāle vīsatiyā bhikhusahassānanpi visati cūvarasahassāni adaṃsu.
Anacchariyaṃ imesaṃ iddhimayapattacūvaragamananti” ñatvā dakkhinahatthaṃ
pasāretvā “Etha bhikkhavo, caratha brahmacariyaṃ sammā dukkhasa antakiryāyāti”
āha. Te tāvadeva aṭṭhaparikkhāradharā vassasatikattherā viya hutvā vehāsaṃ
abhuggantvā paccoroitvā satthāraṃ vanditva nīsidiṃsu.”
Tuy nhiên, những đoạn
Pali dài hơn vẫn không làm cho sự việc rõ ràng hơn cho những ai muốn biết thêm
nhiều chi tiết khác nữa. Rất có thể, ngay sau khi đưa cánh tay phải ra và nói
như vậy, liền xuất hiện những đồ cần dùng cho tất cả các tỳ khưu đã được tạo ra
một cách mầu nhiệm. Ngay sau đó nhờ những hành động công đức họ đã thực hiện
được trong quá khứ. Rồi họ bắt đầu xuống tóc và mặc y cà sa, hay cũng có thể họ
không xuống tóc ngay lúc đó (tóc của họ tự động rụng hết cùng một lúc) nhưng
chỉ mặc y cà sa mà thôi. Lại nữa, điều này có thể xảy ra, ngay sau khi Đức Phật
đã phán như vậy, thì quần áo đời thường của họ biến mất và rồi được thay thế
ngay tức khắc bằng áo cà sa cho các vị tỳ khưu trên mình họ. Trường hợp thứ hai
này giống như việc thay quần áo về phần các opapātika có nghĩa là các vật vô
hình. Thường hay xảy ra một cách nhanh chóng lạ thường.
Toàn bộ những điều
vừa nêu trên tôi xin dành để cho các học giả phê phán vì điều này vượt quá hiểu
biết và kiến thức của tôi vào lúc này. Biết bao nhiêu phép lạ (thần thông) như
vậy đã được ghi lại trong Kinh Phật, vậy mà với một người hiện đại, hình như họ
vẫn không thể tin được.
Trong tập Chú giải Pháp Cú Kinh (Dhammapada) còn có một số chi tiết như sau:
Khi các sứ giả thương
gia đến gặp hoàng hậu và tường trình về những gì họ được yêu cầu phải làm,
ngoài việc trả cho họ phần thưởng ba trăm ngàn đồng vàng, hoàng hậu còn cho
thêm một số tiền khoảng chín ngàn đồng nữa. Đây là món tiền thưởng cho những
tin tốt lành họ đã đem đến cho hoàng hậu. Có nghĩa là việc xuất hiện của Tam
Bảo. Cuối cùng hoàng hậu cùng với các bà vợ của một ngàn vị cận thần đi theo
nhà vua, đã công bố theo gương nhà vua. Tuy nhiên, họ không cưỡi ngựa, nhưng
ngồi trên một ngàn chiếc xe có ngựa kéo. Trên đường đi họ cũng gặp ba con sông
phải vượt qua. Nhờ vào quyết định trung thành, họ đã thành công vượt qua sông
theo cách nhà vua và các vị cận thần đã thực hiện. Cho đến khi họ đến gặp Đức
Phật, ngài vẫn đang ngồi thiền dưới gốc cây đa, cùng với nhà vua Mahākappina và
các vị cận thần của ngài ngồi bên cạnh.
Tuy nhiên nhờ phép
thần thông ngụy trang Đức Phật đã khiến cho nhà vua và các vị cận thần không
thể nhận ra hoàng hậu, khiến cho hoàng hậu và đám tùy tùng không thể nhận ra
nhà vua và những người cận thần vào lúc đó. Khi hoàng hậu hỏi Đức Phật về nhà
vua chồng của bà, Đức Phật nói với hoàng hậu “Ôi hoàng hậu, hãy ngồi xuống đây,
chút xíu nữa ngài sẽ nhìn thấy Hoàng Thượng ngay tại đây.” Đương nhiên là hoàng
hậu và đoàn tùy tùng rất phấn khởi chắc chắn là chẳng bao lâu nữa họ sẽ có thể
gặp được nhà vua và các vị cận thần. Thế là họ ngồi vào chỗ dành cho họ.
Đức Phật đã diễn
giảng cho họ năm pháp tuần tự phải tiến tới. Tiếp theo ngài cũng diễn giảng Tứ
Diệu đế cho các phụ nữ đó. Cuối cùng hoàng hậu và đoàn tùy tùng cũng nhận được
Pháp Nhãn và trở thành Đấng Nhập Lưu. Trong khi đó nhà vua cùng với các vị cận
thần ngồi gần ngay bên đã nhập thiền một lần nữa những gì Đức Phật đã thuyết
pháp trong bài giảng cho hoàng hậu và đoàn tùy tùng và nhà vua đã đạt đến bậc
A-la-hán cùng với bốn loại Vô Ngại Giải Đạo (paṭisambhidā) vào cuối bài thuyết
pháp.
Sau khi biết được
điều này Đức Phật đã giải tỏ sức mạnh thần thông của ngài và khiến cho các phụ
nữ nhìn thấy đức vua và các vị cận thần của ngài lúc này đã trở thành các vị đồ
đệ bậc thánh A-la-hán.
Lý do được nhắc đến
trong kinh Phật ở đây chính là giống như trường hợp chàng trai Yasa và cha cậu,
Đức Phật biết rằng nếu các phụ nữ này trông thấy chồng họ sớm hơn thì tâm trí
họ có thể không tập trung được vì chú ý của họ có lẽ sẽ bị phân tán vì hình
bóng người đàn ông. Điều này có thể ngăn cản bước tiến tới đến thánh đạo. Nhưng
sau khi họ đã đạt đến thánh đạo và kết quả là họ đã trở thành Đấng Nhập Lưu họ
sẽ được chúc lộc lành với đức tin không thể lay chuyển nổi vào Tam Bảo. Chính
vì thế họ được phép nhìn thấy chồng sẽ không tạo ra nguy hại cản đường thành
đạt của họ nữa.
Vừa nhìn thấy nhà vua
đã trở thành tỳ khưu, những người đàn bà liền phủ phục trước chồng và lên tiếng
“Thật tuyệt vời, ôi người tôi yêu, chàng đã trở thành hoàn hảo, cuộc sống tịnh
tấn trước mặt em” nói xong, họ liền đứng vào đúng vị trí của họ và xin Đức Phật
ban Thọ Đại Giới cho họ.
Đức Phật nói “các
ngươi có thể đi đến thành phố Sāvatthi và được thọ giới theo nhóm các tỳ khưu
ni ở tại đó.” Toàn bộ các phụ nữ đã làm y những lời Đức Phật truyền dạy, họ đã
trẩy Sāvatthi cách đó 120 Yojaga và nhận được những lời khen ngợi và kính trọng
từ những người địa phương. Cuối cùng thì họ cũng đến được địa điểm cần đến và
nhận được thụ phong theo giáo phái tỳ khưu ni và đã đạt đến bậc A-la-hán. Tuy
nhiên. Đức Phật đã dẫn một ngàn tỳ khưu bay trên không đến khu rừng Kỳ Viên
(Jeta) (đoạn tiếng Pali như sau: Satthāpi Bhikkhusahasssaṃ ādāya ākāsenava
Jetavanaṃ agamāsi)
Trong tập Chú Giải
Pháp Cú Kinh (Dhammapada) còn có một số chi tiết các bài tường thuật về Trưởng
lão Mahākappina, nhưng chẳng có gì liên quan đến các phép lạ (thần thông) chúng
tôi sẽ bàn đến lúc này. Mục tiêu của Trưởng lão Buddhaghosa trong việc tường
trình chuyện kể này chính là kể lại một ví dụ được gọi là Phép lạ (thần thông)
Tirobhāva tức là phép lạ (thần thông) ngăn không cho thấy người hay đồ vật mà
thực tế có thể dễ dàng nhìn thấy rõ ràng và gần sát ngay bên. Như chính Đức
Phật đã thực hiện trong trường hợp này.
Tuy nhiên, trong
Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) còn ghi lại một số khác biệt liên quan đến
chuyện kể vừa đề cập đến ở trên như sau:
Vì Đức Phật biết rõ
nhà vua Kappina cùng với các vị cận thần đã quyết định “lên đường” và đang di
chuyển đến gặp ngài đã tiến tới sông Candabhāga, là nơi Đức Phật đang ngồi
thiền chờ họ dưới gốc cây đa bên bờ sông. Người ta cũng kể lại rằng ngài đã
phải vượt một chặng đường dài 120 Yojana. Nhưng không cho biết ngài bay trên
không hay đi bộ đến đó. Khi những người trên đã đến đó, ngài liền thuyết pháp
cho họ một bài và sau bài giảng nhà vua đã đạt đến bậc Quả Bất Lai (anāgami),
còn các vị cận thần cũng đã đạt đến bậc Đấng Dự Lưu (Sotapnna). Sau này, khi
hoàng hậu Anojā đến được cùng địa điểm trên y như cách nhà vua và các vị cận
thần đã phải vượt qua. Đức Phật đã thực hiện phép lạ (thần thông) dấu không cho
nhà vua và các vị cận thần của ngài đang ngồi gần đó, khiến họ không thể nhìn
thấy người nhà của mình. Khi Hoàng hậu hỏi ngài có gặp hay không, Đức Phật hỏi
lại họ một câu mang tính Phật pháp rất có lợi cho họ, nói rằng: Hoàng Hậu đi
tìm Đức Phật hay tìm chính mình vậy. Khi Hoàng hậu trả lời rằng Hậu chọn đi tìm
chính mình và ngồi xuống, Đức Phật đã thuyết pháp cho họ một bài giảng, nhờ đó
hoàng hậu và một ngàn người đi tháp tùng đã đạt đến bậc Quả Nhập Lưu. Các vị
cận thần của nhà vua sau khi nghe bài giảng đó cũng đã đạt đến bậc Quả Bất Lai.
Trong khi đó chính nhà vua lại đạt đến bậc A-la-hán.
Điều đó được mô tả
trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga). Cũng cần lưu lý rằng trong tập Chú Giải
Pháp Cú Kinh (Dhammapada) sau bài giảng cho họ, cả nhà vua và các vị cận thần
đã đạt đến bậc Quả Nhập Lưu cùng một lúc. Chính sau này, khi họ được nghe bài
giảng ấy lần thứ hai Đức Phật giảng giải cho hoàng hậu Anojā và đoàn tùy tùng
thì nhà vua cùng các vị cận thần đạt đến bậc A-la-hán. Nhưng theo Thanh Tịnh
Đạo (Visuddhimagga), trước tiên nhà vua đã đạt đến bậc Quả Bất Lai, rồi sau đó
là bậc A-la-hán, trong khi đó lúc đầu các vị cận thần của ngài chỉ đạt đến được
bậc Quả Nhập Lưu, rồi sau đó mới đến bậc Quả Bất Lai. Không đả động gì đến Tứ
đạt thông (fourfold Fluency Paṭisambhidā); cũng như việc Đức Phật dẫn toàn bộ
các tỳ khưu bay trên không trở lại Rừng Kỳ Viên (Jeta Grove).
Một Phép lạ (thần
thông) Khác Về Dấu Không Cho Nhìn Thấy
Chuyện kể này được
thuật lại trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) như sau:
Như đã mô tả ở trên,
người thực hiện phép lạ (thần thông) này đã dấu không cho nhìn thấy cả những
vật lẫn những người trước mặt, nhưng lại không tự dấu chính mình được. Những ví
dụ về loại phép lạ này phép lạ hiện diện tại hai nơi cùng một lúc (Twin
Miracle), chính Đức Phật đã thực hiện trước sự chứng kiến của rất nhiều người.
Tất cả đều nhìn thấy người thực hiện phép lạ (thần thông). Nhưng còn có một
khía cạnh khác thuộc phép lạ (thần thông) này đó là: trong đó người khác cũng
có thể chứng kiến chính phép lạ (thần thông), nhưng không nhìn thấy người thực
hiện. Điều này giống với các phép lạ (thần thông) Āvibhāva Pāṭithāriya. Có một
ví dụ kể về một vị trưởng lão đã đạt đến bậc A-la-hán, tên là Mahaka và Vị
Thiên Chủ Phạm Thiên tên là Baka. Tuy nhiên, các biến cố được kể lại trong đó
lại rất ngắn gọn. Rất khó cho những ai chưa biết đến các vị đó. Bởi vậy cho nên
tác giả kể lại chi tiết cả hai biến cố trích trong Kinh Pali (18
Saḷāyatanavagga trang 356 số 554 – 21 và Mūlapaṇṇāsaka trong Trung Bộ Kinh
trang 590 số 551)
Chuyện Kể Về Trưởng
lão Mahaka
Một lần kia có rất
đông các vị trưởng lão trụ trì tại khu rừng Ambakata, gần rừng Macchikasaṇḍda.
Vào thời đó có một người giàu có tên là Citta đã đến thăm các vị trưởng lão,
khi đã an vị đúng chỗ dành riêng cho ông, liền lên tiếng, “Trọng kính các chư
vị trưởng lão, các vị có thể đến dùng bữa tại trại bò của tôi vào ngày mai được
không.” Các vị trưởng lão đã nhận lời mời bằng cách giữ im lặng. Sau khi được
biết và hiểu ra sự ưng thuận của họ, Citta đứng dậy ra khỏi chỗ ngồi và đi vòng
bên phải quanh họ, và rồi ông ra về.
Vào buổi sáng hôm sau
các chư vị tỳ khưu mặc y Cà Sa và lấy bát khất thực tiến lại trại bò và ngồi
thiền ngay tại chỗ đã sửa sọan cho họ. Rồi người giàu có kia đã dâng cho họ món
cơm trộn với một loại bơ lỏng hảo hạng do chính tay ông sửa soạn. Sau khi kết
thúc bữa ăn các tỳ khưu rửa tay và cả bát khất thực rồi xếp bát khất thực vào
vị trí bố thí rồi về trở lại rừng Ambakara.
Citta ra lệnh cho các nô bộc và những người trong trại xử lý số đồ ăn còn dư
lại. Trong khi đó chính ông đi tiễn các vị tỳ khưu. Lúc đó trời nóng oi ả ngột
ngạt và các vị tỳ khưu mệt mỏi bước đi trên đường thân xác họ như bị co dúm lại
(một thành ngữ ám chỉ thân thể họ giống như miếng khoai tây chiên hay một
khoanh thịt nướng trên lửa đang bị teo lại)
Trong số các tỳ khưu
đó, có vị trẻ nhất (căn cứ vào tuổi nhận thọ giới), ông đã xin vị tỳ khưu niên
trưởng trong nhóm, nói rằng, “Ôi thưa ngài trưởng lão kinh mến, nếu như lúc này
có một cơn gió lạnh và ánh mặt trời dịu xuống dăm ba độ, cùng với một cơn mưa
phùn thì hay biết mấy.” Vị trưởng lão nói với tỳ khưu Mahaka, “Ôi! Thật tuyệt
vời nếu được như vậy.” Khi vị trưởng lão vừa dứt lời, thông qua sức mạnh thần
thông của mình, tỳ khưu Mahaka đã tạo ra một cơn gió lạnh. Cùng lúc đó ánh mặt
trời dịu hẳn đi và có cơn mưa phùn bay lất phất. Các vị tỳ khưu giờ đây không
còn phải đổ mồ hôi nhễ nhãi dưới sức nóng mặt trời như thiêu như đốt nữa.
Được chứng kiến phép lạ (thần thông) nhãn tiền đó, người giàu có Citta tự nhủ,
“Vị tỳ khưu này tuổi nhỏ mà tài cao; tuy vậy ngài đã có khả năng đáng kinh ngạc
như vậy.” Sau khi các vị tỳ khưu đã quay trở lại khu Rừng, tỳ khưu Mahaka hỏi
trưởng lão niên trưởng trong đám các vị tỳ khưu. “Thưa ngài Trưởng lão, làm như
vậy đã đủ sức mạnh sáng tạo chưa?” Vị trưởng lão lên tiếng, “Ôi Mahaka, quá đủ
rồi, ngài đã thực hiện điều thật tuyệt vời.”
Các vị tỳ khưu trở về
phòng riêng dành cho mỗi người, Còn Citta người giàu có đã theo tỳ khưu Mahaka
về phòng riêng, sau khi đã an vị đúng chỗ, Citta yêu cầu tỳ khưu, nói rằng,
“Xin Ngài Trưởng lão chỉ cho tôi thấy sức mạnh thần thông của ngài.”
Tạo Ra Lửa
Tỳ khưu Mahaka nói
với Citta, “Nếu ông ước ao được thấy điều đó, hãy để chiếc khăn choàng của ông
xuống hành lang kia, rồi rải chút cỏ lên đó.” Citta làm y theo lệnh truyền,
trong khi đó Mahaka đi vào trong sảnh đường, đóng cửa và cài then kỹ lưỡng, rồi
thông qua sức mạnh thần thông, ngài đã tạo ra các lưỡi lửa phun ra từ lỗ chìa
khóa và các kẽ hở trên cửa. Ngọn lửa đã bắt cháy và thiêu rụi nắm cỏ khô một
cách kỳ lạ, còn chiếc khăn choàng của Citta không hề hấn gì.
Được chứng kiến phép
lạ (thần thông) đó, Citta như bị choáng ngợp trong nỗi kinh ngạc sung sướng vô
ngần, khiến tóc gáy ông dựng đứng lên. Ông nhặt chiếc khăn choàng lên, vẫn còn
sót lại ít cỏ khô đã cháy gần hết, để chắc chắn là mình chỉ không “nhìn thấy”
mà thôi mà còn sờ mó nữa. Lúc đó vị trưởng lão bước ra và hỏi ông, “ Ôi chủ gia
nhân, hãy cho tôi biết phép thần thông như vậy đã đủ chưa?”
Citta trả lời, “Dạ đủ
rồi thưa ngài Trưởng lão, ngài đã thực hiện một điều tuyệt vời. Mong rằng ngài
được sung sướng sống tại khu rừng Ambakata này, gần bên khu rừng
Macchikasaṇḍda. Về phần tôi, tôi sẽ chu cấp cho các vị y cà sa, của bố thí, chỗ
ở và thuốc men.”
Vị trưởng lão trả lời
“ Ôi Chủ Gia nhân, điều ông nói thật là tuyệt.” Rồi ngài trưởng lão thu gom y
cà sa, bát khất thực và rời khu rừng Macchikasaṇḍda, không bao giờ trở lại nữa.
Đây là những gì được
kể lại trong Kinh Pali về Trưởng lão Mahaka. Ta cần lưu ý là tiết mục phép lạ
(thần thông) cuối cùng của ông cũng gồm trong loạt những phép lạ (thần thông)
được gọi là Tirobhāva (phép lạ (thần thông) gần) vì ngài đã trở vào thiền viện
hay chính xác hơn, vào trong sảnh đường trước khi tạo ra các lưỡi lửa lóe ra
qua lỗ ổ khóa và các kẻ hở trên cửa, lúc đó ngọn lửa chỉ thiêu rụi một cách lỳ
lạ dúm cỏ khô rải trên tấm khăn choàng, nhưng lại chừa khăn choàng không hề hấn
gì. Toàn bộ khoảng thời gian đó vị trưởng lão lại ở trong sảnh đường, cửa đóng
kín và cài chốt khóa rất cẩn thận. Chủ Gia nhân không nhìn thấy vị trưởng lão;
những gì ông nhìn thấy chỉ là các lưỡi lửa phát ra để thiêu rụi nắm cỏ khô ở
bên ngoài. Trong phép lạ (thần thông) này, người thực hiện không được nhìn
thấy. Phép lạ này được gọi là Tirobhāva (gần với, hay là được ngụy trang) cũng
còn được gọi với một tên khác nữa là Apākaṭapāṭithāriya, có nghĩa là phép lạ
(thần thông) không thể nhìn thấy người thực hiện.
Đức Phật Cảm Thắng
Phạm Thiên Baka
Một ví dụ khác nữa về
phép lạ (thần thông) Tirobhāva (phép lạ (thần thông) xuất hiện ở một nơi xa lạ
hay tự dấu mình) do Trưởng lão Buddhaghosa, tác giả Thanh Tịnh Đạo
(Visuddhimagga), kể lại về trường hợp Đức Phật cảm thắng Phạm Thiên Baka. Nhưng
chỉ được bàn cãi một cách tình cờ và ngắn gọn khiến những độc giả trước kia
chưa bao giờ nghe nói đến phép lạ (thần thông) này chắc chắn sẽ bỏ qua không
chút quan tâm. Nhằm phục vụ quí độc giả chúng tôi xin trích dẫn ở đây với đầy
đủ chi tiết về những bài tường thuật sau đây trích từ Kinh Pali. Tuy nhiên,
chúng ta cũng cần trích một đoạn kệ trong các trích đoạn “Bāhuṃ” (có nghĩa là
những kẻ được chúc phước” có liên quan đặc biệt đến giai thoại này như sau:
Duggāhadiṭṭhi
bhujagena sudatthahatthaṃ
Brahmaṃ
visuddhijutimiddhakābhidhānaṃ
Ñāṇāgadhena vidhinā
jitvā munindo
Tantejasā bhavatu te
jayamañgalāni.
Vị Sa môn Ưu Việt
(tức là Đức Phật) đã cảm hóa được vị Phạm Thiên tên là Baka, một nhân vật thực
hiện được rất nhiều phép thần thông, nhưng lại theo tà kiến và đã coi mình nổi
tiếng với nhiều công đức đã được tà kiến. Ngài đã kiên định bám víu với những
tà kiến đó (có nghĩa là tự lừa dối mình), do vậy ngài được ví như một người đã
bị mãng xà vương cột chặt. Nói cách khác, ngài giống như một người nắm phải rắn
độc, và bị rắn mổ vào tay vô tội vạ. Chính nhờ một bài thuyết pháp dẫn nhập đến
tuệ giác, Đức Thế Tôn đã thuyết phục và cảm hóa được con người này. Mong rằng
ngài được ban thưởng vinh quang chiến thắng nhờ những kệ chiến thắng này.
Đây là một phần trong
các đoạn Kinh Tụng gọi là Kinh Bāhuṃ, gồm có việc được chúc phúc nhờ ân huệ các
việc thuyết phục và chiến thắng của Đức Phật trong cuộc sống của ngài. Đoạn này
trích trong Kinh Pali (tác phẩm Mulapaṇṇāsaka thuộc Trung bộ Kinh, trang 290 số
551).
Vào thời điểm nọ, Đức
Phật đang lưu lại trong Khu Rừng Kỳ Viên (Jeta) do một nhà triệu phú tên là Anāthapiṇḍika
dâng tặng cho Ngài, khu rừng tọa lạc gần thành phố Sāvatthi. Tại đây ngài kể
lại câu chuyện sau đây cho các vị tỳ khưu.
“Các vị tỳ khưu thân
mến, một dịp nọ, ta đang lưu lại dưới bóng cây cổ thụ Sila trong khu rừng
Subhāga gần thành phố Ukkaṭṭha, lúc đó có một vị Phạm Thiên nọ tên là Baka,
đang theo đuổi tà kiến cho rằng, “Cõi Phạm Thiên bất biến, bền vững, tồn tại
vĩnh viễn và tuyệt đối, là nơi không còn “diệt” (cuti) mà cũng chẳng có “sanh”.
Không còn tuổi già, cảnh chết, cảnh diệt và tái sinh nữa. Chính vì chẳng tồn
tại bất kỳ khởi đầu diệt khổ nào, thế nên chẳng tìm đâu ra nguồn cội khổ nơi
cõi Phạm Thiên đó.”
“Ôi chư vị tỳ khưu,
vừa biết quan điểm sai lạc của vị Phạm Thiên này, ta đã lập tức rời khỏi bóng
mát cây cổ thụ Sāla trong khu rừng Subhāga, và ngay sau đó thầy đã có mặt nơi
cõi Phạm Thiên. Ta đã thực hiện điều này dễ dàng giống như một người khỏe mạnh
giang cánh tay ra rồi lại gập lại chỉ trong nháy mắt.
“Nhìn thấy mình xuất
hiện từ xa, Phạm Thiên Baka liền lên tiếng với ta, nói rằng, “Xin Chào Đấng Tận
Diệt đau khổ. Ta đến thật đúng lúc. Đã một thời gian dài trước khi ta đến đây.
Trước khi ta đã tận diệt hết đau khổ khỏi cõi Phạm Thiên này, nơi đây vẫn tồn
tại vĩnh cữu, bất biến, lúc nào cũng hiện hữu và tuyệt đối, chẳng còn có cảnh chết
diễn ra tại đây. Ở đây, cũng chẳng còn cảnh sanh, hay tuổi già, chết chóc và
tái sinh. Chẳng còn nơi nào làm nơi Nương Tựa tốt hơn và cao siêu hơn cõi Phạm
Thiên này nữa.”
Ôi các chư vị tỳ khưu
thân mến, chính Phạm Thiên Baka đã nói với ta như vậy, ta liền bảo ông, ‘Ôi
Phạm Thiên Baka, nhà ngươi đã bị Vô Minh mê mẩn. Nhà ngươi hiểu sai về nguyên
lý vô thường đối với những gì trường cửu, nhà người đã lẫn lộn những gì là vô
thường với những gì hay thay đổi, những gì không tồn tại muôn thuở với những gì
tồn tại vĩnh cửu, điều hữu hạn với điều tuyệt đối; điều có khả năng tiêu diệt
với điều không thể vĩnh viễn tồn tại trong đó. Vậy thì, trong cõi Phạm Thiên
cũng tồn tại rất nhiều chúng sanh, họ đã được sanh ra, chết đi rồi lại tái sanh
(có nghĩa là sanh và diệt) ấy thế mà nhà ngươi lại bảo ở đây không có sanh, gi
và chết, diệt cũng như tái sanh. Ngay cả khi có một nơi nương tựa nào đó tuyệt
vời hơn cõi này, nhưng nhà ngươi vẫn cứ kiên định chẳng còn nơi nương tựa nào
tốt hơn nữa. Chính là vì vô minh vẫn choáng ngợp nhà ngươi. Ôi Phạm thiên Baka
thân mến, điều này có nghĩa là nhà ngươi vẫn còn bị vô minh làm cho mê mệt,
chính vì thế nhà ngươi mới thốt lên những lời lẽ trên.
“Ôi chư vị tỳ khưu, ngay sau khi ta nói xong những lời trên, Māra hay kẻ xấu
(có nghĩa là kẻ đã cố gắng khuyên can Đức Phật đừng theo đuổi cuộc sống ly tục
nữa (vô gia cư), đã chiếm lấy tôn giả (Pārisajja) Phạm Thiên và thông qua Phạm
Thiên đó đã nói với thầy rằng, ‘Xin đừng xúc phạm đến Đấng Chí Tôn Phạm Thiên,
ôi sư đạo kia, [8] xin đừng xúc phạm đến Ngài Phạm Thiên đó. Ngài thực sự là
một vị Đại Phạm Thiên, ngài chính là Đấng Abhibhū, có nghĩa là đấng cai quản
mọi sự, và Đấng Anabhibhūto có nghĩa là đấng chẳng ai trấn áp nổi, là Đấng
Aññadatthudaso có nghĩa là nhà tiên tri vĩ đại, Đấng Vasavattī có nghĩa là
người có sức mạnh phi thường, Đấng Issaro có nghĩa là Đấng Tối Cao trên thế
gian này, Đấng Kattā Nimmitā có nghĩa là người tác tạo ra thế gian này. Tạo ra
thế giới nghĩa là Rừng Himavanta, núi Sineru, vũ trụ, đại dương, mặt trăng, mặt
trời, ngài còn là Đấng Jeṭṭho có nghĩa là vị trưởng lão, là Sajjitā có nghĩa là
người tổ chức vạn vật trên thế gian này bất kỳ ai cũng từ người mà phát ra dưới
mọi hình thức -- cho dù là vua chúa, là thầy Phạm Thiên, thương gia, lao động,
người đời, hay tỳ khưu, cũng đều do phán quyết của ngài mà ra. Ngay cả ở cõi
động vật, cho dù đó có thể là lạc đà, hoặc trâu bò v.v… cũng hoàn toàn thông
qua lệnh của ngài mà xuất hiện. Ngài là Đấng toàn năng, là cha muôn loài đã
sanh ra và được tái sanh.
(những ý nghĩa các tước
vị của Đức Phạm Thiên nói trên được trích từ tập Chú Giải. Đối với những ai
muốn đọc đoạn văn Pali bản gốc, chúng tôi xin ghi lại dưới đây như sau:
Aññadatthudaso: Sabbaṃ passanti. Vasavattī: Sabbaṃ Janaṃ vase vatteti. Issaro:
loke issaro: Kattānimmitāti: Lokassa kattā ca nimmitā ca
paṭhavīhimavantasinerucak – kavālamahāsamuddacandimasuriyā iminā nimmitāti
dīpeti. Jeṭṭho sajjitāti: Ayaṃ lokasa uttamo ca sajjitā ca, tvaṃ khattiyo nāma
tvaṃ brahmano nāma vesso nāma suddo nāma gahaṭṭho nāma pabbajito nāma antamaso
oṭṭhopi hoti goṇo hotīti evaṃ sattānam sajjitā ayanti dasseti. Vasī pītā
bhūtabhabyānaṃ)
Vị Phạm Thiên
(Pārisajja) sau khi nói đoạn liền tiếp lời.
“Ôi tỳ khưu kia, có
một số Sa môn và thầy Phạm Thiên trên trần gian này thường hay phê phán và chê
bai (giới) đất, nước, khí, lửa, nói rằng toàn bộ những thứ đó chỉ là vô thường,
khổ và vô ngã. Họ phê phán và chán ghét các sanh linh (Bhūta), các Chư thiên
(Devata), các Đấng Phạm Thiên (Brahmas) và các Đấng Pajāpati (cũng là một bậc
Phạm Thiên), nói rằng, toàn bộ con người và loài vật đó chỉ là vô thường, gây
khổ và vô ngã. Hiện thời những vị Sa môn và các Thầy B la mơn (Brahmin) đó, sau
khi thân xác đã bị tan rã và dứt hơi thở, tất cả đều phải đầu thai vào thể xác
thấp hèn hơn, nghĩa là đầu thai vào cõi đau khổ. Ngược lại kẻ nào ca ngợi Đất,
Nước, Khí và lửa, các sanh linh (Bhūta), các Chư thiên (Devata) các bậc Phạm
Thiên (Pajāpati), cho những thứ đó đều là bất biến và tồn tại vĩnh cửu, sau khi
thân xác của họ tan rã và hơi thở bị diệt, sẽ đầu thai thành các thân xác tinh
tế hơn, nghĩa là đầu thai vào cõi Phạm Thiên.
“Chính vì thế, ôi chư
vị tỳ khưu, ta nói cho các ngài biết, lúc này đây nếu quí vị không muốn khổ,
hãy thực hiện như Đức Phạm Thiên nhắc nhở, xin đừng phản lại lời của ngài, bằng
không những thất lợi sẽ trút xuống trên đầu các người như kẻ bị đuổi khỏi nhóm
Siri (có nghĩa là biểu tượng vinh quang) sẽ đến với ngài, hoặc giống một người
đang phải rơi xuống vực thẳm nơi miệng hố đó chẳng có gì để mà bám víu được;
cũng chẳng có chiếc gậy nào để cho bạn có thể tựa vào được. Chỉ cần làm những
gì được truyền phải làm; xin đừng bao giờ phản lại lời Ngài. Hơn thế nữa, chẳng
phải ngài đã nhìn thấy một đoàn các vị Phạm Thiên hay sao, toàn bộ họ đều toát
lên những ánh sáng và đang được chỉ dẫn cặn kẽ.”
Sau khi đã dựa vào
lời Ma-vương (Māra) tức là Ác Ma (Evil One) đã chiếm lấy được Phạm Thiên. Đức
Phật tiếp tục kể một câu chuyện cho các vị tỳ khưu, nói rằng:
“Bấy giờ, Ma-vương
(Māra) kẻ ác ma, ta đã biết ngươi quá rõ, đừng tưởng rằng vị Sa môn Cồ Đàm
(Gotama) này không biết rõ ngươi đâu, thực vậy chính ngươi là ác ma, các tăng
đoàn Phạm Thiên và các vị tôn giả Phạm thiên hoàn toàn đã nằm trong tay nhà
ngươi, dưới quyền của nhà ngươi. Rồi nhà người lại ngây thơ mà kết luận rằng kẻ
Sa môn này cũng phải dưới quyền nhà ngươi, dưới sức mạnh của nhà ngươi hay sao.
(Rồi Phạm thiên Baka
thưa với Đức Phật)
“Ôi thưa Ngài, rõ
ràng Ngài không phải khổ. Thế còn những điều bất biến, vững vàng, tồn tại vĩnh
viễn, tuyệt đối, không lay chuyển (nghĩa là không phải tái sanh cũng như không
phải chết); chẳng bao giờ có được những điều như vậy và ta tuyên bố lại có điều
đó nơi cõi Phạm Thiên, Tứ Diệu Đế không hề tồn tại, chẳng có sanh, tử, lão,
chẳng có tái sanh mà cũng không có diệt, chẳng bao giờ có bất kỳ nhân duyên nào
thoát khỏi khổ hơn là ở đây, chính vì lẽ đó ta tuyên bố như vậy.
“Hơn thế nữa, các vị
Sa môn, và các vị Bà-la-môn đã xuất hiện trước khi các người biết được tuổi tác
các ngươi là bao nhiêu, các ngươi đã tu luyện khắc khổ được bao lâu, và có nơi
nương tựa nào cao vời hơn chốn Phạm Thiên này không. Họ đã biết rất rõ điều
này, thế thì tại sao ta phải nói như vậy? Chính là vì (ta biết được) các ngươi
không thể tìm được nơi nương tựa nào hơn nơi này, (vậy lúc này nhà ngươi không
chấp nhận pháp này) các ngươi sẽ phải chịu nhiều đau khổ.
“Lúc này đây, ôi các
tỳ khưu kia, các ngươi có nuốt đất chăng (nghĩa là tôn trọng, và kính nể cõi
đất) hay là các ngươi chỉ kính trọng đất, nước, lửa, khí, các sanh linh (Bhūta)
Chư thiên (Devata) các bậc Phạm Thiên (Pājapati) và Đấng Phạm Thiên (Brahma)
(tức là kính trọng và tôn thờ những điều nói trên), thế rồi các ngươi lại nói
các ngươi đang ở gần ta, trong nhà ta, rồi ta sẽ bảo vệ các ngươi theo kiểu ta
muốn.”
Đức Phật tiếp tục nói
cho tỳ khưu biết điều ngài trả lời Baka như sau:
“Ta biết rõ điều nhà
ngươi nói với ta, ta còn biết cả lý do tại sao nhà ngươi nói nữa cũng như biết
rõ định mệnh, khả năng, sức lực và hiện trạng của nhà ngươi nữa.”
Nghe những lời Đức
Phật nói như vậy, Baka, Đấng Phạm Thiên, liền hỏi Đức Phật, nói rằng. “Giờ thì
thầy đã nói là thầy biết cả sanh thú, khả năng, sức mạnh và cả hiện trạng của
ta, xin thầy cho ta biết ta có được những gì nào.”
Để trả lời Đức Phật
lên tiếng,
“Không biết bao nhiêu
vũ trụ có mặt trời, mặt trăng chiếu sáng và quay quanh quĩ đạo, chiếu sáng đi
muôn phương, thì khả năng của nhà ngươi cũng giãi chiếu ra như thế. Trong vũ
trụ đó có biết bao nhiêu chúng sanh, cả thô thiển lẫn tinh tế, kể cả những
chúng sanh bị ái dục tràn ngập và những kẻ thoát khỏi điều đó, kể cả một số
được sanh ra dưới điều kiện hiện hữu, và những người thuộc các hoàn cảnh khác
nhau, cả kẻ ra đi, rồi lại trở lại, Ôi Phạm Thiên (Brahma) ta biết sanh thú và
vinh quang của nhà ngươi ra sao. Chính vì thế ta cũng biết được cả khả năng của
ngươi, kể cả sức mạnh và hiện trạng của nhà ngươi nữa.
“Ôi Phạm Thiên Baka
giờ đây còn có ba cõi thiên khác nữa vượt quá cõi đời này, mà nhà người không
được biết đến, những ta biết và còn thấy rất rõ nữa là đàng khác. truớc tiên là
cõi được gọi là Quan Âm Thiên (Abhassara). Thực chất nhà ngươi được sinh ra ở
đó, trong số những thân xác cõi trời đó. Nhưng từ khi nhà ngươi đã thoát ra
khỏi cõi đó từ bấy lâu nay và tái sanh ra tại nơi đây, nơi Cõi Đại Phạm Thiên
(Mahābrhama) này, tới đây đã quá lâu rồi, nhà người đã quên nơi ở xưa của mình
và không thể hình dung ra nơi đó được nữa và nhà người cũng chẳng nhìn thấy nơi
đó bao giờ. Nhưng ta biết và ta đã nhìn thấy nơi đó. Ôi Pham Thiên Baka, ngay
cả ở mức độ này phép thần thông của ta vượt trội hơn hẳn của nhà người. Chính
vì thế cớ sao nhà ngươi lại suy nghĩ ta thua kém nhà ngươi? Thực tế, chính ta
đã có phép thần thông vượt trội hơn hẳn nhà ngươi rất nhiều.
“Hơn thế nữa, còn có
những cõi thiên đường Biến tịnh thiên (Subhakiṇha) và Quảng quả thiên
(Vehapphala) mà nhà ngươi chẳng hề biết đến, nhưng ta lại biết rất rõ và đã
được biết thực chất nhà ngươi cũng được tái sanh ra ở đó, trong đoàn ngũ những
người thần tiên, Nhưng vì nhà ngươi đã thoát ra khỏi cõi đó hàng đại kiếp qua
và đã được tái sanh ra tại đây (trong cõi Cõi Đại Phạm Thiên (Mahābrahma) này
đã từ lâu nhà ngươi đã quên khuấy đi mất chỗ ở cũ đó đi và không thể hình dung
ra nơi đó nữa, không thể nhìn thấy nơi đó. nhưng ta lại biết và nhìn thấy những
cõi phạm thiên đó, ngay cả ở lãnh vực này, ôi Phạm Thiên Baka. Phép thần thông
của ta vượt trội hơn của nhà ngươi biết mấy. Chính vì thế, làm sao nhà ngươi
lại dám nghĩ ta kém nhà ngươi ở chỗ nào? Thực vậy, chính ta đã có được sức mạnh
thần thông vượt trội hơn hẳn nhà ngươi.
“Ta còn nhiều điều để
nói cho nhà ngươi biết, Ôi Phạm Thiên Baka. Giới như địa, thủy, hỏa và khí là
gì vậy và làm thế nào những giới đã sanh ra ta cũng biết được cả những điều đó
thực chất chúng là như thế nào. Điều đó gồm cả sanh linh (Bhuta) Chư thiên
(Devata), đấng bậc Phạm Thiên (Pajāpati) và các Đấng Phạm Thiên (Brahma) khác
nữa. Còn kể cả Abhibhūbrahma (tvn?), nổi tiếng vì đã trổi vượt hơn tất cả. nó
lại gồm toàn bộ những gì hiện hữu trên cõi đời này và toàn bộ các cõi khác.
Toàn bộ những thứ đó ta đã hình dung ra thực sự là gì. Tuy nhiên, sau khi biết
được những điều đó ta không hề gắn bó với chúng ta cũng chẳng tỏ ra thích thú
gì cả. Bất kỳ điều gì cả.
“Ôi Baka, còn nhiều
thứ khác nữa, những thứ chính mắt ta đã được chứng kiến. Đó là cõi vô biên
(Ananta) (có nghĩa là những gì tồn tại tới muôn đời, vô thủy vô chung, vô sinh và
vô tử) đó chính là Sabbatopabham (có nghĩa là phát sáng ra tứ phía, chiếu sáng
mọi nơi mọi lúc) trong cõi đó chẳng có đất, nước, lửa và khí. Cũng không có
sanh linh (Bhuta) Chư thiên (Devata), đấng bậc Phạm Thiên (Pajāpati), Quang Âm
Thiên (Abhassara) Biến tịnh thiên (Subhakiṇha), Quảng quả thiên (Vehapphala),
và cũng chẳng có Abhibhū. Thực chất chẳng có gì trong đó cả, trong đó ta đã
nhận ra hoàn toàn hiện thực. Ở mức độ này thần thông (Abhiññā) của ta vượt hơn
hẳn của nhà ngươi. Baka thân mến, làm sao nhà ngươi lại nghĩ ta thua kém nhà
ngươi? Thực chất phép thần thông (Abhiññā) của ta vượt trội hơn của nhà ngươi
biết mấy.”
(sau khi Đức Phật dứt
lời thì Phạm Thiên Baka đã thách đấu tay đôi với thần thông của Đức Phật, nói
rằng,)
“Thôi được rồi, vì
thầy đã nói như vậy, đừng để cho lời thầy trở thành trống không, tẻ nhạt và vô
dụng. Tôi sẽ biến mất để thầy không còn thấy được tôi trong giây lát.”
Rồi Đức Phật lại nói,
“Thử làm coi, Ôi Phạm Thiên Baka, nếu nhà ngươi có khả năng làm được điều đó.”
Và thế là Phạm thiên
Baka lại thốt lên những lời sau.
“Tôi sẽ biến khỏi
trước sự hiện diện của vị Sa môn Cồ Đàm (Gotama)” Nhưng. cho dù cố gắng hết
sức, hắn vẫn không thể nào biến mất được.
Thấy vậy, Đức Phật
liền bảo Phạm Thiên Baka.
“Đời là thế (có nghĩa
là vì nhà ngươi không thể làm cho mình biến mất khỏi ta) thế thì ta sẽ làm điều
đó cho nhà ngươi coi.”
Nghe vậy, Phạm Thiên
Baka lên tiếng, “Nếu ngài làm được điếu đó, ắt hẳn ngài là đấng không phải đau
khổ, ôi mong rằng được như vậy.”
Tiếp theo đó, Đức
Phật đã ra phép thần thông và biến mất trước mặt Phạm Thiên Baka và trước sự
chứng kiến của cộng đoàn Tăng Già. Tất cả họ chỉ nghe được tiếng ngài nói,
nhưng không thể nhìn thấy ngài ở đâu cả. Chính trong lúc tàng hình Đức Phật đã
thốt lên những kệ như sau:
“Ta đã biết rõ những
mối nguy hiện hữu (Bhava) và toàn bộ những hiện hữu (Bhava) ta đã được giải
thoát. Những kẻ nào muốn tìm phi hữu (vibhava) cũng không thể thoát khỏi con
mắt của ta.
“Chưa bao giờ ta thấy
một hiện hữu (Bhava) ta cũng chẳng thấy sung sướng vì đã làm được như vậy, ta
cũng chẳng chấp thủ với bất kỳ hiện hữu (Bhava) nào.”
Vào lúc đó Phạm Thiên
Baka, tập hợp các chúng sanh Phạm Thiên và nhóm Phạm Thiên Pārisajja cảm thấy
sợ hãi và đầy kinh ngạc trước Đức Phật nghĩ rằng, “Ôi các bạn, thật là tuyệt
vời, thật sửng sốt biết bao, chưa bao giờ chúng ta được chứng kiến hay được
nghe biết tài năng của bất kỳ ai mãnh liệt và vinh quang tương tự ngài Sa môn
Cồ Đàm (Gotama) như vậy. Người xuất xứ từ bộ tộc Thích Ca, và là người đã tận
diệt đựơc hết mầm mống các loại hiện hữu (Bhava) ở mọi mức độ.”
(Nhưng Ma-vương
(Māra) kẻ độc ác lại nhập vào một Phạm Thiên Pārisajja khác và nói với Đức Phật
rằng)
“Giờ đây, nếu ngài đã
thể hiện được như vậy và hoàn toàn giác ngộ như vậy, xin ngài đừng khuyên nhủ
bất kỳ ai, cũng đừng cố công thuyết pháp, cũng đừng tỏ ra thích thú bất kỳ vị
tỳ kheo hay đồ đệ cả. lý do làvì trước mặt ngài các vị Sa môn và các thầy
Bà-la-môns thường tự coi mình là A-la-hán, là những người giác ngộ trên cõi đời
này. Họ thường khuyên nhủ người khác, thuyết pháp và tỏ ra ưu ái đối với các vị
tỳ khưu và đồ đệ của mình. Nhưng sau khi thân xác bị tàn rữa và tắt hơi thở họ
thường phải tái nơi cõi thấp hèn (tức là cõi khổ.) Trong khi đó các vị Sa môn
và các thầy Bà-la-môn không tuyên bố như vậy, đồng thời không tỏ ra quá ưu ái
với các đồ đệ và các vị tỳ kheo lại được tái sanh với thân xác tinh tế. (có
nghĩa là nơi cõi Phạm Thiên) sau khi thân xác của họ tàn rữa và trút hơi thở
cuối cùng.
Điều này là có thực,
tôi có thể trình bày với ngài như vậy: mong rằng Ngài hãy hài lòng với điều ít
ỏi của mình (có nghĩa là đừng thuyết pháp cho ai cả) nhưng hãy nhập thiền cả
ngày đêm để được hưởng niềm hạnh phúc bao la của mình. Đó chính là một hành vi
chí thiện. Ngài không bao giờ phải đau khổ xin đừng thuyết pháp cho ai và hãy
thực hiện những việc công đức.
(trả lời những yêu cầu của Ma-vương (Māra) Đức Phật nói)
“Hỡi Ma-vương (Māra)
kẻ xấu xa, giờ đây xin nhà người đừng nghĩ là Sa môn Cồ Đàm (Gotama) này không
hay biết gì đến nhà ngươi, là kẻ xấu xa. Nếu ngươi thực sự có ý đồ nghiêm túc
muốn điều tốt lành cho chúng sanh, chắc hẳn ngươi đâu có nói với ta những lời
như vậy. Chính vì nhà ngươi chẳng muốn điều gì tốt cho bất kỳ ai, nên ngươi mới
nói với ta như vậy. Hơn thế nữa ngươi biết rõ nếu Sa môn Cồ Đàm (Gotama) này
giảng Phật Pháp cho chúng sanh, thì những người này sẽ vượt xa khả năng và
những gì ngươi đã đạt được. Chính vì vậy mà ngươi đã nói với ta như thế.
“Ngoài ra, những
người nhà người liệt kê là thích cho mình là A-la-hán nhưng lại không thuyết
pháp cho bất kỳ ai thì họ chẳng phải là A-la-hán, cũng như chưa phải là người
hoàn toàn giác ngộ được.
“Ôi Ma-vương (Māra),
kẻ dối trá, ngươi nên biết rằng ta có diễn giảng Phật Pháp hay không, ta có
khuyên can các đồ đệ hay không, thì lúc nào ta cũng vẫn luôn chỉ là ta mà thôi.(chẳng
có gì phải gọi là thích cả.) tại sao vậy? Đó là vì bất kỳ Lậu Hoặc (Āsava) nào
có thể làm cho ta trở nên dơ bẩn, tạo ra nhiều hiện hữu (Bhava) hơn và xáo
động. Kết quả là đau khổ phát sinh vì phải tái sanh nơi khổ cảnh, ta đã tuyệt
đối tận diệt tham đến tận gốc, tống khứ đến tận nền móng hiện hữu, tước đoạt
khỏi tái sanh những điều đó giống như cành lá thốt nốt, khi bị cắt ngọn không
thể tăng trưởng được nữa.”
Cũng cần lưu ý là Đức
Phật đã diễn giảng kinh này không do yêu cầu của Ma-vương (Māra), kẻ độc ác,
nhưng qua lời yêu cầu (hay là một lời thách thức.) của Phạm Thiên Baka. Chính
vị vậy kinh này được đặt tên là Brahmanimanta-nika (tvn?), là kinh được diễn
giảng theo lời yêu cầu từ phía Phạm thiên.
Những bài tường thuật
có liên quan đến Phạm Thiên Baka đã được Trưởng lão Buddhaghosa kể lại trong
Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) để làm bằng chứng phép thần thông
Tirobhāvapaṭihāriya, tức phép lạ (thần thông) người không thể nhìn thấy người
thực hiện. Những gì thấy được cho là chính hiện tượng phép lạ (thần thông) mà
thôi. Đây chính là điều các chúng sanh Phạm Thiên có thể nghe được tiếng của
Đức Phật nhưng không thể nhìn thấy người, tuy nhiên câu chuyện kể trên quá ngắn
những người chưa quen hiện tượng đó có thể hiểu được một cách tường tận. Chính
vì thế tôi đã trích toàn bộ câu chuyện trong Kinh Pali nhằm giúp cho các độc
giả muôn biết thêm nhiều chi tiết khác nữa.
Những Điểm Cần Cân
Nhắc
Tuy nhiên, vẫn còn có
nhiều điểm trong Kinh có thể chuyển tải cảm nghĩ hoài nghi hay không chắc chắn
nơi các vị học giả. Một trong những trường hợp như vậy chính là khi Kinh kể lại
Đức Phật thình lình biến mất khỏi gốc cây cổ thụ Sāla trong khu rừng Subhāga,
gần thành phố Ukkaṭṭhā và tức thời lại xuất hiện nơi cõi Phạm Thiên (Brahma).
Điều này có một vấn đề nổi lên ở đây: liệu Đức Phật đến cõi đó bằng thân xác
cõi trời của ngài hay qua việc di chuyển thân xác của ngài đến đó mà thôi?
Chúng ta chẳng tìm thấy có ý kiến nào nêu ra trong các tập Chú Giải cho thấy
Ngài đến cõi Phạm Thiên bằng cách nào. Nhưng căn cứ vào Kinh trích trong Tương
Ưng Bộ Kinh (Saṃyutta nikāya) thuộc bộ Đại Phẩm Kinh (Mahāvāravagga) (cuốn 19
trang 363 số 1208), có trích một lời tuyên bố của chính Đức Phật cho thấy, nếu
Ngài muốn thực hiện điều đó bằng cách di chuyển thân xác của Ngài tới Cõi Phạm Thiên
điều đó không khó khăn gì. Tiếp theo sau đây là bài tường thuật liên quan đến
Kinh đó:
Đức Phật di chuyển
Vào cõi Phạm Thiên với thân xác của ngài
Đã có thời Đức Phật
còn cư ngụ tại Khu Rừng Kỳ Viên (Jeta) do một người giàu có ở Anāthapiṇḍdika
dâng tặng, gần thành phố Sāvatthī, Trưởng lão Ānanda, tiến lại gần Đức Phật, tỏ
lòng cung kính và ngồi vào đúng chỗ dành cho ngài ngay cạnh bên Đức Phật. Rồi
ngài hỏi Đức Phật nói rằng.
“Tâu Đức Thế Tôn,
ngài có thể dùng phép thần thông để tiến vào cõi Phạm thiên qua hóa tâm thông
hay không?” (có nghĩa là thân thể cõi trời)
Đức Phật trả lời, “Ôi
Ānanda, đúng vậy, ta có thể làm được điều đó”
Trưởng lão Ānanda hỏi
thêm, “ Tâu Đức Thế Tôn, ngài có thể hóa phép thần thông để tiến vào cõi Phạm
Thiên bằng chính thân xác được sanh ra bằng tứ đại được không? (nghĩa là thân
xác thô thiển của ngài).
“Ānanda kính mến, ta
cũng có thể làm được như vậy, dùng phép thần thông để tải thân xác của ta đến
đó.”
Đức Phật tiến hành
giải thích cho Trưởng lão Ānanda như sau:
“Ānanda thân mến, bất
cứ khi nào ta kiến lập tâm, hay làm như vậy trên thân xác của ta, do dó được an
lập trong niềm vui vô tận Sukhasaññā (lạc tưởng) và Lahusaññā (khinh tưởng) nơi
thân xác, thì lúc đó thân xác của ta trở nên nhẹ hơn, trở nên linh hoạt hơn, dễ
sai khiến hơn, tỏa sáng nhiều hơn bình thường. Giống như một thanh sắt được tôi
nóng suốt ngày trở thành nhẹ hơn, dễ uốn hơn và dễ điều khiển hơn là bình
thường.
“Hay nói một cách
khác, bất kỳ lúc nào ta kiến lập thân xác dựa trên tâm và kiến lập, tâm trên
thần và an lập lạc tưởng là khinh tưởng thuộc về thân ta trở nên sảng khoái hơn
bình thường, lúc đó thân xác của ta sẽ dễ dàng bay bổng lên, điều này giống như
một nắm bông, có thể dễ dàng bay bồng bềnh trên không.”
Đoạn trích Kinh Phật
trên đây có thể dùng để khẳng định một sự thật đó là: Đức Phật có khả năng tiến
vào cõi Phạm Thiên như ý ngài muốn hoặc với thân xác cõi trời (astral body) hay
tải thân xác thô thiển của ngài. Tuy nhiên, còn một vài điểm liên quan cần được
làm rõ thêm. Những chi tiết này sẽ được giải thích chi tiết hơn trong chương đề
cập đến vấn đề Thần Thông hay các Thần Túc Thông (Iddhividhi) này, nói trong
đoạn “một Thiền sinh (Aspirant) với Tuệ Giác nhập thiền định vững vàng, được
thanh tịnh v.v… có thể di chuyển vào cõi Phạm Thiên hoặc với thân xác cõi trời
hay tải thân xác của mình vào đó.
5.
Tirokuḍḍādigamanāpātihāriya (Đi Xuyên Qua Tường v.v…)
Đoạn văn Pali xác
định loại phép lạ (thần thông) này như sau:
“Tirokuḍḍam
tiropākāraṃ tiropākāraṃ asajjamāno gacchati seyyathāpi akāse.”
(Một tỳ khưu với khả
năng thần kỳ này) có thể đi xuyên qua các bức tường hay các tấm liếp ngăn hay
đi xuyên qua núi mà không bị cản trở, giống như bay ngang qua không khí vậy.)
Việc giải thích dưới
đây được trích từ Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga):
Một chư vị tỳ khưu
trang bị cho mình phép thần thông này, lại muốn nhập thiền định bằng phương thế
này thông qua Niệm đề mục hư không biến xứ (Ākāsakasiṇa) hướng tâm của mình vào
cõi hư không cho đến khi đạt đến được Thiền Jhana bậc bốn, sau đó thoát khỏi
hiện trạng thiền Jhana và nhắm suy tư của mình vào một bức tường, một ngọn núi
người đó muốn đi xuyên qua, kể cả núi Sineru hay toàn vũ trụ nữa, sau đó chư tỳ
khưu lại quyết tâm biến bức tường và ngọn núi thành không khí. (giống như thứ
khí ngài đã nhập tâm), giai đoạn tiếp theo là bức tường hay ngọn núi ngài muốn
đi xuyên qua sẽ trở nên trống rỗng đối với ngài và như vậy ngài có thế vượt qua
không bị trở ngại nào cả.
(Lưu ý: Ta thấy ở đây
có sự sóng đôi, trong trường hợp này là chúng sanh Hóa Sinh (Opapatika) (tức là
vô hình) cũng có thể đi xuyên qua được các bức tường một căn phòng mà không gặp
trở ngại nào, cho dù ta đi ra hay đi vào căn phòng đó, và bức tường có thể làm
bằng gỗ, gạch hay sắt, có kích cỡ dầy đến cỡ nào đi chăng nữa. Điều này có thể
so sánh với sóng âm thanh đi xuyên qua bất kỳ vật thể rắn chắc nào mà không gặp
bất kỳ cản trở nào.)
Tuy nhiên, không có
sự giải thích chi tiết nào ở đây về những điểm trong câu hỏi có thể gây hoài
nghi đối với những nhà tư tưởng hiện đại ngày nay như sau:
1. Liệu bức tường hay
bức liếp đó có tan biến thành không khí do đó ta có được một không gian trống
rỗng cho phép tỳ khưu vượt qua hay không?
2. Nếu bức tường có
tan biến thật, thì chỉ một phần hay toàn bộ bức tường đó, dành cho tỳ khưu một
khoảng trống đủ để ngài chui qua hay toàn bộ bức tường đó tan biến đi ngay tức
khắc.
3. Có ai chứng kiến được tỳ khưu đi xuyên qua bức tường chăng? và khi đã đi
xuyên qua phía bên kia mà bức tường vẫn còn y nguyên như cũ hay không?
4. Hoặc giả bức tường
chỉ tan biến đi trong chốc lát sau khi tỳ khưu bước xuyên qua rồi bức tường trở
lại tình trạng như trước?
Đây là những thắc mắc
rất hay những người hoài nghi đích thực có thể nêu lên. Tuy nhiên ngài Hòa
Thượng Buddhaghosa tác giả Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) lại đưa ra giải thích
như sau:
Đối với chư vị tỳ khưu đạt được phép thần thông này, bất kể lúc nào ngài muốn
đi xuống (cho dù là xuống nhà ở tầng dưới hay nhào vào lòng đất rồi lại trồi
lên chỗ ngài dự định sẽ vượt qua, có thể trở thành một cái lỗ trống dành chỗ
cho ngài đi qua. Mặt khác, nếu ngài muốn trồi lên, ngài cũng có thể làm được
tuần tự như vậy.(ví dụ đã được được kể lại về bốn vị Sa-di (Samaṇera) A-la-hán
đã bay lên mái nhà. Câu chuyện được trích trong Phẩm Bộ kinh (Brāhmaṇavagga)
thuộc tập Chú Giải Pháp Cú Kinh (Dhammapada). Những đoạn viết bằng tiếng Pali
sau đây khẳng định khả năng này để làm rõ ý nghĩa những gì đã đề cập đến ở
trên.
Adho otaritukāmassa
uddhaṃ vā ārohitukāmassa susiro hoti, Vinivijjhivā gantukāmassa chiddo. So
tattha asajjamāno gacchatipi.
Chính vì thế ta biết
được bằng cách nào chư vị tỳ khưu đạt được phép thần thông loại này có thể đi
xuyên qua một bức liếp, một bức tường hay ngay cả đi xuyên qua một ngọn núi
hoặc nhào xuống mặt đất rồi lại trồi lên bất kỳ lúc nào theo ý ngài muốn mà
không bao giờ bị cản trở.
Trưởng lão tác giả Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) cũng trích dẫn một đoạn trong
Kinh Pali như sau:
Cứ sự thường khi chư
vị tỳ khưu đạt được khả năng thần thông này và đã thành công trong việc nhập đề
mục hư không biến xứ (Akāsakasiṇa) bất kỳ lúc nào ngài liên tưởng đến điều gì
đó ngăn cản bước đi của ngài, cho dù là một bức liếp, một bức tường, hay một
ngọn núi, và nhất quyết dùng khả năng của mình muốn biến thứ đó thành khí, ngay
lập tức chúng sẽ biến thành không khí. Chính vì thế ngài có thể đi xuyên qua mà
không bị cản trở bước tiến. Điều này giống như một người bình thường, không có
khả năng tạo phép thần thông này có thể đi ngang qua một chỗ trống không mà
không bị rào dậu ngăn cản gì cả.
Bằng cách này vị tỳ
khưu đạt được khả năng thần thông đó đã đạt đến năm khả năng Vasī (hay thuần
thục liên quan đến thiền Jhana (như khả năng tụ rút vào nhập thiền hay tự trồi
ra khỏi hiện trạng đó.) có thể đi xuyên qua một bức liếp, một bức tường hay
ngay cả đi xuyên ngọn núi và rồi lại xuất hiện ở phía bên kia mà không bị cản
trở gì giống như đi ngang qua một chỗ trống không.
Dưới đây là câu
chuyện về phép lạ (thần thông) được gọi là Tirokuḍḍādigamana (phép lạ (thần
thông) dấu mình không bị phát hiện) như đã được kể lại trong Thanh Tịnh Đạo
(Visuddhimagga) như sau. Tuy nhiên không có ví dụ nào kể lại ai là người thường
thực hiện phép lạ (thần thông) này. Chính vì thế rất có thể đây chỉ là phỏng
đoán- từ biến cố này khi trưởng lão Moggallāna nhào xuống lòng đất và rồi lại
trồi lên ngay tại chân Đức Phật đang khi ngài diễn giảng cho mẹ ngài tại cõi
thiên đàng Tam Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa) câu chuyện cho rằng một sự trình diễn
như vậy có thế được kể là phép lạ (thần thông) thuộc loại này. Rất có thể tại
sao ngài không bận tâm dẫn chứng bất kỳ một ví dụ nào đặc biệt đốivới phép lạ
(thần thông) này.
6. Phép lạ (thần
thông) nhào vào lòng đất rồi lại trồi lên (Paṭhavi-ummujjanimmuja pāṭihāriya)
Trích đoạn Pali kể về
phép lạ (thần thông) này như sau:
“Paṭhaviyāpi
ummujjanimmujaṃ karoti seyyathāpi udake” nghĩa là một vị tỳ khưu đạt được phép
lạ (thần thông) này, có thể nhào vào lòng đất rồi lại trồi lên khỏi đó nếu như
ngài muốn thế.”
Tuy nhiên cần lưu ý ở đây là đoạn văn viết bằng tiếng Pali trên lại để động tác
‘trồi lên’ trước rồi mới tới động tác ‘lặn xuống’. Bản dịch ở đây chỉ muốn khớp
với lẽ thông thường của những con người bình thường, muốn kết luận là động tác
“nhào xuống phải được thực hiện trước động tác ‘trồi lên’
Tác phẩm Thanh Tịnh
Đạo (Visuddhimagga) giải thích loại phép lạ (thần thông) này như sau:
“Một chư vị tỳ khưu
muốn thực hiện phép lạ (thần thông) này phải nhập thiền Jhana đề mục thủy biến
xứ (có nghĩa là Āpokasiṇa) ngài phải thực hiện được điều này khi đã nhập sâu
vào thiền Jhana. Ngài phải xác định được lòng đất ngài muốn nhào xuống và rồi
thực hiện quyết tâm. Tập trung tâm vào vùng đó (với sức mạnh thiền Jhana) để
biến chỗ đó thành nước. Kết quả là, vùng được xác định đó ngay lập tức trở
thành nước.”
Sau khi đã mô tả cách
thức, cho thấy làm thế nào ngài thực hiện được điều đó Trưởng lão tác giả lại
đưa ra một đoạn khác trích trong Kinh Pali. (Khu. Pa. 31/593) để củng cố cho lời tuyên bố của
ngài như sau:
“Một vị tỳ khưu đạt
được thiền chứng (samāpatti). (một hiện trạng thiền bậc cao) dựa trên nước có
thể biến đổi toàn bộ chỗ ngài muốn nhào xuống bằng cách làm quyết tâm, dựa vào
sức mạnh hành thiền Jhana, muốn khu vực đó biến thành nước.
Chính vì vậy nên ngài
có thể nhào xuống đó như nhẩy xuống nước vậy và rồi lại trồi lên sau đó giống y
hệt như người không đạt được khả năng làm phép lạ (thần thông) đó nhẩy xuống
nước rồi lại trồi lên.”
Còn có nhiều giải
thích mô tả nhiều kết quả phép lạ (thần thông) này.
“Một vị tỳ khưu đạt
được khả năng thực hiện phép lạ (thần thông) dựa trên thiền chứng (samāpatti)
dựa trên nước ngài ngoài khả năng nhào xuống lòng đất và rồi lại trồi lên, ngài
còn có khả năng biến đất trở thành bất kỳ loại chất lỏng nào theo ý ngài muốn
để uống hay dùng vào những mục đích khác. Hơn thế nữa nếu ngài muốn biến nước
thành loại sữa ngon, dầu ăn, mật ong, nước mía hay bất kỳ loại chất lỏng nào, ngài
có thể làm như vậy theo như ý muốn của ngài. Bất kỳ điều gì “được tạo ra” hay
biến đổi từ đó trở thành điều này điều nọ như trong thực tế (tức là không chỉ
có ảo giác hay ảo ảnh do kết quả của khả năng thần thông.) Đây chính là đồ vật
thực sự thuộc loại đó và có thế dùng được. Trong trường hợp sữa hảo hạng giống
y hệt như sữa thực sự được chế biến từ các loại sữa khác.
Một hiệu quả phụ
khác, có thể nói như vậy, cũng được đề cập đến – đó là ngài có thể để cho nước
đó làm ướt hay ảnh hưởng gì, tức là khô ráo như cũ tuỳ theo ý ngài muốn, kể cả
nước được tạo nên để sử dụng hay cả vũng nước ngài nhào xuống đó.
Có một số vấn nạn
mang nhiều ý nghĩa tương tự như câu hỏi liên quan đến loại phép lạ (thần thông)
vừa kể (tức là loại thứ năm) ở đây tác giả đã tuyên bố như sau:
“Mặt đất ngài quyết
định biến thành nước phải là loại nước dành riêng cho ngài mà thôi. Đối với
những người khác thì vẫn chỉ là đất cứng như bình thường. Bất cứ ai cũng có thể
bước lên được hay có thể vào đó bằng bất kỳ cách nào.”
Rồi lại còn một đoạn
bổ sung không kém phần hấp dẫn. Theo tác giả, nếu ngài có thể theo ý muốn, biến
vùng đó thành nước để phục vụ người khác, ngài phải xác định được thời gian
ngài muốn thực hiện điều đó kéo dài trong bao lâu. Sau đó nước lại phải biến
thành đất trở lại như cũ.
Còn có đoạn bổ sung khác nữa đó là: nước được biến trở lại thành đất trong vùng
được xác định bằng quyết tâm của ngài, không phải là bất kỳ loại nước nào hiện
có trong vùng đó như nước trong hồ hay trong chai trong lọ đâu. Loại nước đó
không thể biến thành đất được.
Đối với những ai muốn
có bằng chứng về đoạn này, tôi xin trích đoạn văn Pali viết về điều này như
sau:
“Tasseva ca sa
paṭhavī uakaṃ hoti, avasesajanassa paṭhavīyeva. Tattha manussā pattikāpi
gacchanti, yānādīhipi gacchantipi kasikammadīhipi karontiyeva. Sace panāyaṃ
tesampi udakam hotuti icchati, hoti yeva. Parichinakālaṃ atikkamitvā yaṃ
pakatiyā ghaṭotalākādīsu udekaṃ taṃ ṭhapetvā avasesaṃ parichinnaṭṭhānaṃ
paṭhavītyeva hoti.” (Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga 2/232)
Ta không thấy đề cập
đến một ví dụ nào về loại phép lạ (thần thông) này. Nhưng biến cố khi Trưởng
lão Moggallāna nhào xuống lòng đất và rồi lại nổi lên ngay dưới chân Đức Phật
–điều này đã được một đám đông chứng kiến, như đã được khẳng định trong tình
tiết kể về Phép song thông (nghĩa là phép lạ (thần thông) Đức Phật hiện diện ở
hai nơi cùng một lúc), dùng để xác định lại sự kiện này như là một ví dụ điển
hình nhất trong trường hợp này.
7.
Abhijjamānodakagamana Pāṭihāriya
(Đi Bộ Trên Nước
Không Làm Xáo Trộn Mặt Nước)
Những đoạn tiếng Pali
như là lời Đức Phật nói liên quan đến loại phép lạ (thần thông) này như sau:
“Udakepi abhijjamāne gacchati seyyathāpi paṭhaviyam”
“ Một vị tỳ khưu đạt
được khả năng có thể đi trên mặt nước giống như đi trên mặt đất, không làm
khuấy động mặt nước.”
Dưới đây là lời giải
thích được trích từ tác phẩm Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga)
“Một chư vị tỳ khưu
muốn đi trên mặt nước mà không bị chìm trong nước.(chân không chạm mặt nước)
cần phải nhập thiền Jhana dựa trên đề mục địa biến xứ (paṭhavīkasiṇa) (cho đến
khi ngài có được tầm nhìn rõ ràng về điều này và có khả năng kiểm soát được
việc mình làm. Khiến cho nước phải tuân theo vị tỳ khưu ấy như ý muốn. Sau khi
đã thoát ra khỏi Thiền Jhana. Tỳ khưu sẽ gắn tâm mình vào mặt đất và quyết
tâm.” Mong rằng mặt nước trong vùng trở nên cứng như đất, thế rồi mặt nước sẽ
chuyển đổi và vâng y theo lời của vị tỳ khưu đó khiến cho ngài có thể bước đi
trên đó giống như bước đi trên mặt đất vậy.”
Đoạn giải thích này
lại được kèm theo những đoạn trích trong Kinh Phật (Khu. Pa. 31/593) khẳng định rằng:
“Một vị tỳ khưu nhập
Thiền Chứng (samāpatti) dựa trên cơ sở đất biến xứ, gắn tâm ngài lên mặt nước
và quyết tâm, “Mong rằng mặt nước trong vùng này trở nên cứng như đất” nước sẽ
tuân thủ ý muốn của tỳ khưu, chính vì thế ngài đã bước đi trên đó mà không làm
xáo trộn mặt nước. Điều này đã diễn ra giống như một người bình thường không có
phép thần thông nhưng lại có thể bước trên mặt đất mà không tạo ra bất kỳ rạn
nứt nào trên đó.”
Dưới đây còn có một
lời giải thích được đưa ra như sau:
“Vị tỳ khưu này còn
có khả năng không những bước đi trên nước, nhưng còn lưu lại trên đó trong bất
kỳ tư thế nào, như ngồi hay nằm trên đó.”
“Ngoài ra ngài còn có
thể biến nước thành pha lê, thành vàng, thành một ngọn núi cao hay là một ngọn
cây, hoặc thực tế thành bất kỳ điều gì ngài muốn. Ngài chỉ cần thực hiện quyết
tâm và nước sẽ phản ứng lại theo như ý ngài muốn.” Đoạn văn Pali mô tả lại sự
việc này như sau: Na kevatañca paṭhavīmeva maṇisuvannapabbatarukkhddīsupi yaṃ
yaṃ icchati taṃ vuttanayeneva āvajjitvā adhiṭṭhāti yathadhiṭṭhitameva hoti, --
(trích trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) 2/232)
Thanh Tịnh Đạo
(Visuddhimagga) cũng mô tả rằng:
“Nước được biến đổi
thành đất cứng thông qua phép thần thông đó chính là đất chỉ dành cho vị tỳ
khưu mà thôi. Đối với những người khác thì mặt nước vẫn y như cũ. Mặt nước đó
vẫn có thể là chỗ các sinh vật sống trong đó như cá và rùa, có thể bơi lội cách
thoải mái như trước. Có một số loài chim có thể bơi lội trên mặt nước như chim
nước (một loại chim dùng để săn bắn) vẫn có thể đi rong ruổi trong đó hoặc lặn
xuống như bình thường.”
“Tuy nhiên, nếu vị tỳ
khưu với khả năng thần thông như thế lại muốn biến nước cho cả những người khác
nữa, ngài cũng có thể làm được như vậy. Nhưng ngài phải xác định việc này kéo dài
trong bao lâu mặt nước cứng như thế. Sau thời gian ấn định, thì mặt đất được
“tạo thành” như vậy sẽ trở lại tình trạng ban đầu. Những đoạn viết bằng tiếng
Pali như sau: Tasseva ca taṃ udakam paṭhavī hoti sesajanassa udakameva.
Macchakacchapā ca udakākākadayo ca tathāruciṃ vicaranti. Sace panāyaṃ aññesampi
manussānaṃ taṃ paṭhavī kātuṃ icchati. Karotiyeva. Paricchinnakālātikkamena pana
udakameva hoti. – Trích Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) 2/233
Ngài Trưởng lão
Moggallāna muốn thực hiện một phép lạ (thần thông) biến đổi mặt đất, nhưng đã
bị Đức Phật ngăn lại và không cho phép.
Đến đây lại nổi lên
một vấn nạn đang được nghiên cứu phát xuất từ mối nghi ngờ chính đáng của một
số người sợ rằng, nếu như nước trong vùng đó biến thành đất cứng để thực sự có
thể bước đi trên đó, thì điều gì sẽ xảy ra đối với những động vật sống trong
nước? Liệu chúng có thể bị do mặt đất cứng lại hay không? Ta không tìm thấy câu
trả lời nào cho câu hỏi này, nhưng có một đoạn trích trong Kinh Phật Đại Phẩm
(Mahāvagga 1/11) ở mức độ có thể soi chiếu ánh sáng cho vấn đề này. Bài tường
thuật trong Kinh Phật có nội dung như sau:
Một lần kia, đang lúc
Đức Phật còn lưu lại trong thời gian An Cư Kiết Hạ tại thành phố Verañjā cùng
với một số vị tỳ khưu rất đông, tổng số lên tới (khoảng) năm trăm vị. Điều này
đã khiến cho Đức Phật và các vị tỳ khưu khác gặp rắc rối liên quan đến thực
phẩm dùng hàng ngày. Có rất ít người có khả năng dâng cho các tỳ khưu của bố
thí vì dân chúng chỉ có đủ thực phẩm cho chính họ mà thôi. May mắn thay, cuối
cùng thì cũng có một nguồn bố thí được dành cho các vị đó tuy nhiên có hơi ít
ỏi một chút. Nguồn này là do đoàn thương gia buôn bán ngựa đến từ thị trấn
Uttarāpatha, mang theo với họ khoảng năm trăm con ngựa để bán. Họ đang tìm chỗ
ở qua mùa mưa tại thị trấn Verañjā và tiến hành dâng cho mỗi vị sư khoảng độ
bốn vốc gạo đỏ (thuộc loại soàng nhất) bất cứ khi nào các vị tỳ khưu không thể
xin được của bố thí. Họ có thể chạy đến chuồng ngựa của những thương gia buôn
ngựa tại đó họ nhận được phần lương thực dành cho mỗi người. Loại gạo này phải
đem giã trong một cái cối và lấy chày giã nát ra trước khi ăn. Chính vì gạo quá
cứng, do thuộc chất lượng xấu. Chính Trưởng lão Ānanda cũng phải giã gạo bằng
cách đó và dâng cho Đức Phật sử dụng. Ngài cũng đã tham gia khất thực giống ý
như các tỳ khưu khác.
Nhìn thấy điều kiện
khốn khổ xảy ra cho Đức Phật và các vị tỳ khưu, Trưởng lão Moggallāna tiến lại
gần Đức Phật và đề nghị với người, nói rằng,
“Tâu Đức Thế Tôn, lúc
này đang một trận đói xảy ra tại thị trấn Verañjā. Dân chúng đang trong cảnh
cực kỳ khổ sở. Các bộ xương (những người chết đói) có thể tìm thấy khắp nơi.
Gạo cho dân chúng được phân phối theo định lượng. Điều này đã trở thành cực kỳ
khó khăn cho các tỳ khưu đi khất thực có thể kiếm được những gì dân chúng dâng
tặng. Nhưng dưới mặt đất lại có rất nhiều loại vật nhỏ như là ong. Chúng sạch
sẽ. nếu ngài cho phép, Ôi Đấng Thế Tôn, con sẽ lật mặt đất lên để các tỳ khưu
có được thức ăn đầy chất lượng.”
“Nhưng Moggallāna,
thế còn các sinh vật sống trên mặt đất này thì sao (tức là con người và súc vật
đang sống trên mặt đất và dưới đó.)? Con sẽ làm gì đối với chúng?
“Con sẽ tạo ra một
trong hai cánh tay của con mở rộng ra như thể bãi đất. Điều này dành cho các
tạo vật đó cư ngụ. Rồi con sẽ lật mặt đất lên với cánh tay còn lại. (Ekāhaṃ
bhante pāṇiṃ abhinimminissāmi seyyathāpi mahāpaṭhavī. Ye paṇhavīnissitā pana.
Te Tattha saṇkāmessāmi ekena hatthena paṭhaviṃ parivattessāmīti.)”
“Không được đâu
Moggallāna, không được hân hoan lật ngược mặt đất lên như thế. Các sinh vật sẽ
gặp phải kết quả ngược lại.” Đức Phật phán (Alaṃ Moggallāna mā te rucci
paṭhaviṃ parivattetuṃ vipallāsanpi sattā paṭilabheyyunti).”
“Ôi Đức Thế Tôn, rồi
sau đó con sẽ sai tất cả các tỳ khưu đến Kurupadīpa để khất thực. (Sādhu bhante
sabbo bhikkhusañgho uttarakuruṃ piṇḍāya gaccheyyāti)”
“Nhưng điều gì sẽ xảy
ra đối với các tỳ khưu không có được phép thần thông?”
“ Con sẽ khiến họ đi
tới đó bằng phép thần thông của con. Ôi Đức Thế Tôn. (Tathāhaṃ bhante karissāmi
yathā sabbe bhikkhū gacchissatīti.)”
“Không được đâu, xin
đừng làm hài lòng các vị tỳ khưu đi đến khất thực tại Kurupadīpa.”
Các đoạn nói đến ở
trên mô tả cuộc đối thoại giữa Đức Phật và Trưởng lão Moggallāna có ý nghĩa rất
lớn cho dù đối với một số học giả hiện đại hình như điều đó không chắc chắn đã
xảy ra. Nhưng, rốt cuộc những đoạn trên có thể được tìm thấy trong Kinh Phật
viết bằng tiếng Pali (cuốn 11. trong 11,12), không thấy có trong các văn bản
được viết sau này như các cuốn Chú giải chẳng hạn. Sự kiện này khiến ta đi đến
ý tưởng thứ hai và chính xác hơn, có sự phân tích của các nhà hoài nghi đích
thực phải đi đến kết luận là nên loại bỏ sang một bên coi như là điều không
đáng phải quan tâm. Cuối cùng những đoạn trên xuất hiện để khẳng định chẳng có
gì cả, tuy nhiên thật lạ kỳ hay khó tin không có thể xảy ra cho một vị tỳ khưu
có được khả năng thần thông như vậy.
Nguyên do cơ bản
Lý do khiến Đức Phật
ngăn cản Moggallāna không được làm như vậy đã được nhắc đến trong bản văn sau
này gọi là Bình đẳng tính trí (Samantapāsādikā (cuốn 1 trang 208) cho rẳng Đức Phật
ngăn cấm Trưởng lão Moggallāna không được làm như vậy – cho dù Đức Phật dư biết
Trưởng lão Moggallāna thực sự có thể làm được điều đó, chính là vì ngài nhận
thấy nếu một sự kiện như vậy cứ liên tục xảy ra nhiều lần sau này, thì nhiều
người sẽ tìm đến các tỳ khưu để xin họ giúp đỡ với sức mạnh thần thông của ngài
và khi các vị đó không thể có mặt ở đó luôn mãi để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của
nhân dân trong thời gian hoạn nạn xảy ra. Với một cách giải quyết ấn tượng như
vậy chỉ xảy ra có một lần và chỉ được phép thực hiện có một lần mà thôi, để khi
dân chúng nghe biết biến cố đó sẽ không đi tìm kiếm tỳ khưu xin giúp đỡ họ
thoát khỏi những cơn hoạn nạn như vậy. Liệu có ai từ chối đến cứu giúp họ
chăng? cho dù thực tế có một số các vị Tôn Giả không có được sức mạnh thần
thông đó. Rồi dân chúng sẽ xỉ vả và nói xấu họ bằng nhiều cách. Chính vì các vị
tôn giả này đã không thể tiếp cứu họ khỏi cơn hoạn nạn. Hành vi bất xứng của
dân chúng như vậy đối với các vị tôn giả chắc chắn sẽ khiến họ phải tái sanh
nơi cõi khổ. Chính vì thế Đức Phật đã không cho phép Trưởng lão Moggallāna thực
hiện phép lạ (thần thông) vào thời điểm đó.
Người ta cũng cho
rằng một vị tỳ kheo với khả năng thần thông có thể biến đổi nước thành đất cứng
cũng có thể đổi nước thành các vật cứng, gồm cả kim loại, như thuỷ tinh, núi,
cây cối, nếu ngài muốn như vậy, ngay cả biến nước thành vàng hay thành bất kỳ
loại vật chất nào ngài muốn biến đổi, tỳ kheo chỉ cần muốn thực hiện là xong và
quyết làm như vậy theo cách đã mô tả ở trên. Rồi nước sẽ được biến đổi theo như
ước muốn của tỳ kheo theo khả năng thần thông của ngài.” điều này đọc thấy
trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) 2/232
Ta không thấy đề cập
đến ví dụ điển hình nào về khả năng như vậy trong bản văn trên. Nhưng những bài
tường thuật liên quan đến trưởng lão Pilindavaccha giúp xác định lời tuyên bố
trên. Trưởng lão là một vị A-la-hán có sức mạnh thần thông rất lớn dưới thời
Đức Phật tuy nhiên bài tường thuật sau không phải là sự biến đổi nước thành
đất, mà chỉ nhằm chứng minh lời tuyên bố “một tỳ kheo với sức mạnh thần thông
có thể biến đổi bất kỳ điều gì sang một điều gì đó.
Trưởng lão
Pilindavaccha chuyển đổi vật chất cơ bản thành vàng.
Một buổi sáng nọ
trưởng lão đi khất thực tại một ngôi làng là nơi ngài thường xuyên đến thăm mỗi
ngày. Vào thời điểm trong làng có tổ chức nhiều trò vui chơi giải trí, với trẻ
nít được trang điểm bằng hoa và các đồ trang sức và đến thưởng thức những cuộc
biểu diễn. Ngài trưởng lão đã đi từ nhà này sang nhà khác cho tới khi ngài đến
nhà một người làm công quả tại một thiền viện và ngài ngồi vào chỗ dành riêng
cho ngài.
Tại đó ngài bắt gặp
một đứa con gái đang khóc, con bé là con gái của chủ ngôi nhà đó. Vì lòng bi
mẫn ngài liền hỏi mẹ cô bé xem tại sao nó lại khóc như vậy. Người mẹ trả lời vị
trưởng lão, nói rằng. “Con gái tôi thấy các đứa trẻ khác đang thưởng ngoạn
những cuộc trình diễn và được trang điểm bằng hoa và nữ trang. Cháu cũng muốn
đi đến tham gia, nhưng lại không có gì để trang điểm cả. Con gái tôi đã xin mẹ
nó, nhưng tôi bảo sao một người nghèo như chúng ta có thể bỏ tiền ra mua cho
con gái những đồ đó. Chính vì thế mà cháu buồn và khóc nức nở.
Biết được sự việc như
vậy, Trưởng lão Pilindavaccha nhặt lên một nắm cỏ khô gần đó và đưa cho mẹ cô
gái, nói rằng, “Hãy đeo vào cổ cho con gái bà đi.” Người mẹ làm y như trưởng
lão nói. Ngay khi bó cỏ đụng tới đầu bé gái, thình lình biến thành một sợi giây
chuyền hảo hạng. - còn tốt hơn nhiều so với những gì có trong kho bạc hoàng
gia.(đoạn này viết bằng tiếng Pali như sau: Atha kho sa ārāmikini taṃ
tiṇṇadūpakuṃ gahetvā tassā dārikāya sise paṭimuñci. Sā ahosi suvaṇṇamālā
abhirūpā dassaniyā pāsādikā. Natthi tādisā raññopi antepure suvaṇṇamālā. –
Trích trong Đại Phẩm (Mahāvagga) thuộc bộ Luật Tạng 2/120)
Điều xảy ra mơ cũng
không có được và điều đó đã được đồn thổi và lan truyền đi khắp nơi từ miệng
người này sang miệng người khác. Sau đó ít lâu có một nhóm dân làng đến tâu nhà
vua Bimbisāra. Họ tố cáo gia đình cô bé đã ăn trộm thứ đó từ dâu đó, nói rằng
“Một cô gái trong một gia đình đi làm công quả cho một thiền viện thì lấy đâu
ra tiền để mua được một vòng hoa bằng vàng đẹp đến như vậy. Ngay cả trong kho
bạc nhà vua cũng chẳng tìm đâu ra. Họ thuộc gia đình nghèo thì làm sao có thể
có được một đồ quí giá đến như vậy, nếu như không phải họ đã đánh cắp ở đâu
đó?”
Nghe kể sự việc như
vậy. nhà vua ra lệnh trói các thành viên trong gia đình lại và dẫn đến cho nhà
vua hỏi cung.
Buổi sáng hôm sau vị
trưởng lão cũng đi khất thực như thường lệ tại nhà người làm công quả cho thiền
viện. Không thấy ai ở nhà. Ngài liền hỏi những người làng xem họ đi đâu cả rồi
mà bỏ nhà vắng tanh như vậy. Dân làng cho hay họ đã bị tố cáo ăn cắp vòng vàng
cho con gái đeo vào ngày hôm trước.
Sau khi được thông
báo như vậy, vị Trưởng Lão tiến đến hoàng cung. Tại đó ngài được mời ngồi vào
chỗ riêng dành cho ngài. Khi vua Bimbisāra biết có Trưởng Lão đến thăm liền đến
tỏ lòng tôn kính ngài và ngồi ngay bên cạnh gần vị Trưởng Lão.
Trưởng lão
Pilindavaccha nói với nhà vua, “Thưa hoàng thượng, gia đình này đã làm điều gì
sai trái đến nỗi các thành viên trong gia đình lại phải xiềng lại như thế kia.”
Nhà vua lên tiếng,
“Thưa ngài Trưởng Lão, ở nhà họ có một sợi dây chuyền bằng vàng rất đẹp và quí
giá đến nỗi không có gì so sánh được ngay cả trong kho bạc hoàng cung cũng
không tìm đâu ra. Làm sao họ có dược điều quí giá đó vì họ quá nghèo và thiếu
thốn đến như vậy, chẳng phải do họ đã đánh cắp đâu đó hay chăng?”
Nghe thấy những lời
nhà vua vừa nói, Trưởng Lão liền quyết định thông qua sức mạnh thần thông của
ngài, thình lình ngài biến toàn bộ sảnh đường của nhà vua thành vàng. Ngay sau
đó toà sảnh đường của nhà vua liền biến thành vàng, theo y như ý muốn sức mạnh
của trưởng lão. Rồi ngài Trưởng lão hỏi nhà vua, “Thưa Hoàng Thượng, làm sao
Ngài lại có được những thứ đó, một lượng vạng nhiều đến như vậy? “(đoạn viết
bằng tiếng Pali như sau: Attha kho āyasamā Pilindavaccho rañño Māgadhassa
seniyassa Bimbisārassa pāsādaṃ suvaṇṇanti adhimucci. So ahosi sabbaso
suvaṇṇamamayo Idaṃ pana te mahārājjātāvabahuṃ suvaṇṇaṃ kutoti.)
Điều này đã hoàn toàn
thuyết phục được nhà vua, ngài liền nói. “Giờ thì tôi hiểu, thưa ngài Trưởng
Lão kính mến, trường hợp này hoàn toàn là kết quả của sức mạnh thần thông của
ngài mà ra” Rồi nhà vua cho tha những thành viên gia đình người làm công quả
cho thiền viện. Miễn cho họ khỏi truy tố về tội ăn cắp.(đoạn văn Pali viết như
sau: Aññataṃ Bhante ayyasseveso iddhānubhāvoti taṃ ārāmikulaṃ muñcāpesi.---
Trích trong Đại Phẩm (Mahāvagga) thuộc Tạng Luật 2/121)
Trường hợp trên của
Trưởng Lão Pilindavaccha dùng để khẳng định tuyên bố cho rằng đối với một vị tỳ
khưu đạt được những sức mạnh Thần Thông như vậy thì bất kỳ điều gì cũng được
biến đổi sang bất kỳ điều gì theo ý muốn của ước mơ trổi vượt của ngài.
Lời Tuyên Bố của
Trưởng Lão Xá lợi Phất (Sāriputta)
Đối với những ai muốn
có thêm bằng chứng, bài tường thuật trích trong Kinh Phật sau đây (cuốn 22
trang 312 (Kinh Hathisārīiputta trong cuốn Chakkanipāta, thuộc Tăng Chi Bộ
Kinh) có thể giúp họ đạt đến mục tiêu trên.
“Đã có lần Đức Phật
đang lưu lại trên núi Gijakūṭa (ngọn núi chim kền kền) gần thành phố Rājagaha.
Chính vào một buổi sáng, sau khi ngài Trưởng Lão Xá-lợi Phất (Sāriputta) đã mặc
y cà sa, liền xuống núi đem theo bát khất thực cùng với một số các vị tỳ khưu.
Nhìn thấy một đống củi chất đống trước mặt, ngài liền hỏi các vị tỳ khưu xem họ
có nhìn thấy đống củi trước mặt hay không. Khi nghe họ trả lời khẳng định, ngài
liền tiến hành nói với họ những lời sau đây:
“Ôi anh em thân mến, một vị tỳ khưu đạt được phép thần thông, và có ý muốn tâm
linh (fluency), nếu người đó muốn, ngài có thể biến đổi đống củi đó thành đất
một cách tức thì. Tại sao thế? Đó chính là nội trong đống củi đó đã có mang địa
giới. Cũng cách đó nếu ngài muốn đống củi biến thành nước, lửa hoặc không khí,
nó tức khắc liền biến thành thành tố này thành tố nọ ngay. Tại sao thế? Đó
chính là trong đống củi đó đã chứa sẵn các thủy hỏa và phong giới. Hơn thế nữa,
ngài còn có thể tạo ra một điều gì đó rất đẹp hay rất xấu nếu ngài muốn. Điều
này xảy ra là vì trong đống củi đó cũng có chứa cả thành tố đẹp (Subhadhātu) và
thành tố xấu (Asubhadhātu) trong đó.”
Cho dù lời khẳng định
trên là của Trưởng Lão Xá-lợi Phất (Sārīputta), chứ không phải của Đức Phật,
nhưng không kém nặng ký như chính những lời của Đức Phật, là vì cũng còn thấy
có những lời nói khác của chính Đức Phật hoàn toàn để khẳng định sự kiện này.
Điều quan trọng hơn là có một yếu tố rất hấp dẫn và giá trị cần phải lưu ý
trong câu nói này. Đó chính là theo Phật giáo, trong vật chất, cho dù là chất
cứng, chất lỏng hay chất khí. Tất cả những cái được gọi là thành tố đều có trong
đó là đất, nước khí và lửa. Bản chất cứng xuất hiện nhiều hơn khiến cho vật đó
cứng là vì nó chứa đặc tính cứng (đất) rõ nét hơn các đặc tính khác. Cũng giống
như vậy chất đó là lỏng hay là nước là vì nó chứa thành tố gọi là nước rõ nét
hơn các thành tố khác, nhưng vẫn tồn tại trong vật chất đó dưới một dạng được
khống chế theo một tỷ lệ nhất định nào đó.
Lời công bố của Đức
Phật
Một sự kiện đáng lưu
ý khác liên quan đến phép thần thông được ghi lại trong tác phẩm Chakkanipāta
thuộc Tăng Chi Bộ Kinh trong Kinh Phật (cuốn 22. trang 346 số 295) Các đoạn
được coi như là các lời dạy của Đức Phật như sau:
“Ôi các vị tỳ khưu
thân mến, nếu một trong số các vị được phú cho sáu phẩm chất sau đây, nếu vị đó
muốn, tiêu huỷ cả núi Hymalaya cũng được chỉ trừ có điều xấu được gọi là Vô
minh (avijja) mà thôi. Ôi tỳ khưu, sáu điều đó là gì thế? đó là:
1. Một tỳ khưu trong
tăng già có tài khéo trú vào thiền.
2. Ngài có khả năng
ổn vị thiền một cách nhanh chóng.
3. Ngài có khả năng
thoát khỏi hành thiền.
4. Ngài có khả năng thuần
thục (fluency) thiền chứng.
5. Ngài có khả năng
trong những tình huống dẫn đến nhập thiền.
6. Ngài có khả năng
đặt được các sức mạnh thần thông và gây ấn tượng do kết quả hành thiền đem lại.
Ta cần phải lưu ý từ
những điều kể trên là vị tỳ khưu nào đạt được sáu phẩm chất đó chẳng có gì khác
với vị tỳ khưu đã đạt được tính thuần thục tâm (iddhima cetovasippatto) như đã
đề cập đến ở trên. Nếu ta liên hệ điều này với lời phán quyết của Trưởng Lão
Xá-lợi Phất (Sārīputta)về hiệu quả một vị tỳ khưu tầm cỡ đó đạt được, nếu ngài
muốn, ngài có thể biến cả một đống củi trở thành đất hay nước, thì ta thấy ý
nghĩa được làm rõ ở đây.
Tuy nhiên, có một vấn
đề về ý nghĩa của từ Pali được dùng trong câu là số bốn tức là ‘kallata’ trong
đoạn “Samādhissa kallatākusalo hoti”, có nghĩa là có khả năng thuần thục “hành
thiền”. Từ ‘kalla’ tạo ra một vấn đề đó là phải giải thích làm sao để biết
chính xác từ đó muốn ám chỉ điều gì. Trong bản văn gọi là Manorathapūraṇī một
trong những bản văn chú giải, chỉ có một đoạn giải thích ngắn ngủi như sau
“Samādhissa Kallatākusaloti Samādhissa Kallatāya kusalo. Samādhicittaṃ hāsetuṃ
kallaṃ katuṃ sakkotīti attho.” Có nghĩa là có được tài xoay sở ‘kalla’. Lời
giải thích này xem ra không rõ ràng. Chính vì thế mà vấn đề vẫn là ở chỗ từ
‘kalla’ còn hàm chứa nhiều ý nghĩa khác có thể được hiểu ra.
Trong tự điển
Pali-Anh do giáo sư Tiến sĩ Rhys Davids, ta đọc thấy những ý nghĩa sau: 1.
khỏe, khoẻ mạnh, lành mạnh; 2- giỏi, có khả năng, khéo léo; 3. sẵn sàng, được
sưả soạn; 4. thích hợp, tương ứng, đúng.
Thí dụ như:
Kallakusala = tài khéo lành mạnh.
Với những ý nghĩa đa
dạng như ở trên, vẫn còn một vấn đề là làm thế nào để chọn cho được cách giải
thích tốt hay hoàn hảo nhất. Đương nhiên quyết định của tôi chỉ mang tính cách
tùy chọn trong việc lựa chọn cách giải thích ý nghĩa từ Fluency mà thôi, đó
chính là nó mang ý nghĩa chỉ một khả năng hay là một kinh nghịêm nào đó trong
vấn đề rút vào và thoát ra khỏi, nhập thiền cũng còn có khả năng quyết định và
thay đổi đề mục thiền. Những điều này cũng còn hàm chứa cả kinh nghiệm hướng
tâm về việc thực hiện các phép lạ (thần thông) nữa.
Liên quan đến phẩm
chất thứ sáu tức là phẩm chất cuối cùng được nhắc đến ở trên. Như đã được giải
thích trong tập Chú Giải đó là: vị tỳ khưu đó phải có khả năng rút vào những mức
độ hành thiền đậm đà cho đến khi đạt đến mức độ cao nhất. Các đoạn nói về điều
này viết bằng tiếng Pali như sau: Samādhissa abhinihārakusaloti upari
samāpattisamāpajjjanatthāva paṭhamajhānādasamādhi abhunihārituṃ sakkonto
samādhisa abhinihārakusalo nāma hoti. So paṭhamajhānā vuṭṭhāya dutiyaṃ
samāpajati dutiyajjyhānā vv…. tatiyajjhānāya vuṭṭhāya catutthaṃ samāpajjatīti.
Trích trong tác phẩm Manoratthapūraṇī 3/ 122
Từ ‘Abhinihāra’ nghĩa
đen là “hướng tới một cách mạnh mẽ” cần được so sánh với cùng một từ được dùng
ở các nơi khác. Để có thể nắm được hiểu biết rõ hơn về ý nghĩa của nó. Đó là
các đoạn “ Một vị tỳ khưu với tâm nhập thiền được thanh tịnh. v.v….hướng tâm
của mình tới việc Nhớ Lại Tiền Kiếp...” các từ Pali như sau:
pubbenivāsānusssatiñāanṇāya cittaṃ abhinīharati abhinināmeti. Từ ‘abhinīhara’
và ‘abhivūharati’ có cùng một ý nghĩa, chỉ khác là từ trước là một danh tự còn
từ sau là động tự. Vì thế cả hai đều mang ý nghĩa là thông qua ứng dụng sức
mạnh tâm có được qua nhập thiền hướng về một mục đích như vậy. Có thể là khả
năng Nhớ Lại Tiền Kiếp hay là bất kỳ loại trí ñāṇa nào khác (có nghĩa là Tuệ
giác), như vậy đoạn này có nghĩa là “ Khả năng Abhinīhara thiền nên hiểu là một
tỳ khưu đạt được khả năng thuần thục tâm linh (cetovasippatto). Trong bất kỳ hướng
nào ngài ra một quyết tâm áp dụng sức mạnh hành thiền của mình, kết quả sẽ có
được ngay lập tức dưới dạng thần thông (Abhiñña) ngài muốn thực hiện. Đây là lý
do tại sao Đức Phật khẳng định sự thật, tuyên bố điều đó. Giống như tiếng sư tử
rống, hậu quả là một vị tỳ khưu đạt được khả năng thuần thục tâm phải có được
phẩm chất chung cuộc quan trọng nhất đó là khả năng “Abhinīhara - thiền”.
Những Nghi Ngờ Tiếp
Theo
Giờ đây, đối với
những người có thể chấp nhận khả năng có được những Thần Túc Thông (Iddhividhi),
một câu hỏi xuất phát từ mối nghi ngờ thuần tuý có thể xuất hiện ở dây một lần
nữa: liệu những thực thể “được sáng tạo” hay “được biến đổi” có thể tồn tại
luôn hay chỉ tồn tại lúc đó sau rồi thì thôi? Điều này ám chỉ sợi dây chuyền
bằng vàng, có được thể hiện dưới dạng một triều thiên bằng vàng đội lên đầu cho
cô bé con của người làm công quả cho thiền viện. và sảnh đường của nhà vua
Bimbisāra – cả hai đều được tạo ra do phép thần thông của ngài Trưởng Lão
Pilindavaccha. Đương nhiên, đây là những câu hỏi cần được nghiên cứu có thể nổi
lên nơi một số người, hay nhiều người muốn tìm hiểu nhiều hơn và muốn biết
những chi tiết khác nữa liên quan đến cả hai vấn đề là điều dễ hiểu.
Với câu hỏi trên,
tiếp theo là một câu hỏi khác không kém phần hấp dẫn đó là: Tại sao những vị
A-la-hán đạt được sức mạnh thần thông như vậy thực sự có khả năng tạo ra bất kỳ
điều gì? Tại sao họ không tạo ra biết bao nhiêu đồ với một số lượng lớn đề đáp
ứng nhu cầu của nhiều người trên toàn thế giới như là: mùa màng, thực phẩm và
các loại tài sản khác hay những đồ quí giá khác. Toàn bộ những thứ đó xuất phát
từ lòng thương sót đối với những người nghèo và những người thiếu thốn khắp nơi
trên trái đất này? Vì điều này có thể cứu được nhiều người thoát khỏi khó khăn
khốn nạn họ phải chịu đang khi phải chật vật tìm kiếm của ăn để nuôi sống bản
thân.
Thẳng thắn mà nói,
đây chính là lô-gic hay lý do chắc chắn sẽ thấy nổi lên nơi một số những nhà tư
tưởng hiện đại vì họ không hài lòng với bất kỳ điều gì được mô tả trong Kinh
Pali như là chính những lời của Đức Phật có thể dùng làm câu trả lời hoàn hảo
cho một nghi ngờ như vậy.
Đức Phật có thể biến
cả một ngọn núi đá vững chắc trở thành một núi vàng
Một lần kia Đức Phật
đang lưu lại trong một túp lều trong rừng, bên cạnh dẫy núi Hymalaya, trong
vương quốc Kosala. Đang khi ngài còn lưu lại hành thiền, thì một ý tưởng xuất
hiện trong tâm ngài là nếu như ngài được lên ngôi vua một cách chính trực,
không gây phiền hà cho bất kỳ ai hay khiến người khác gây phiền hà cho bất kỳ
người nào, không xâm phạm đến tài sản của bất kỳ ai hay để cho ai đó xâm phạm
đến tài sản của người khác và không gây phiền hà cho bất kỳ ai, mà cũng không
để cho ai phải phiền hà đến người khác. “Nếu như tất cả những điều này có thể
xảy ra cho tôi?” ngài nghĩ tiếp.
Ngay lúc đó, Ma-vương
(Māra) tên ác ma biết được ý nghĩ của Đức Phật thông qua ý tưởng (đọc được ý
của người khác) liền tiến lại gần Đức Phật và đã đề nghị những lời sau đây.
“Mong rằng Đấng Thế
Tôn tiến lên ngôi vua. Mong rằng việc ngài tiến lên chiếm lấy ngai vàng là điều
tốt: Ngài thật xứng đáng làm điều đó lắm chứ.”
Ma-vương (Māra) tên
ác ma nói như vậy, Đức Phật liền hỏi hắn, nói rằng,
“Ôi Ma-vương (Māra)
tên ác ma, thế nhà người nhìn thấy gì trong ta, mà khiến cho nhà ngươi nói như
vậy?”
Ma-vương (Māra) trả lời,
“Ôi Đức Thế Tôn, đó là Tứ Thần Túc (iddhipada),.. ngài đã vun trồng xưa nay,
khiến nên giống như chiếc xe luôn lúc nào cũng sử dụng được, chính vì thế đã
trở nên rất thuận tiện. Ngài đã kiên trì tu luyện bốn phẩm chất đó. ngài đã
kinh qua được chúng. Dù Ngài có muốn ngọn núi gọi là Himalaya
biến thành vàng, thì ắt sẽ y như lời ngài nói vậy. Chính vì thế ta đã mời ngài
tiến lên nắm ngôi vua. Ôi Đức Phật thế tôn.” Đoạn trên được viết bằng tiến Pali
như sau: Bhagavato so bhante cattāro Tư Thần Túc (iddhipādā) bhāvitā bahulīkutā
yanikatā vatthukatā anuṭṭhitā paricitā susamāraddhā ākañkhamāno pana bhante
bhagavā himavantaṃ pabbatarrājaṃ suṣantveva adhimucceyya suvaṭṭantveva
adhimucceyya suvaṭṭapabbatassāti)
Để trả lời cho
Ma-vương (Māra) Đức Phật lên tiếng:
“Ngay cả toàn bộ ngọn
núi này có thể biến thành vàng ròng tỏa sáng và tăng số lượng gấp đôi cũng
chẳng đủ cho một con người (không có tư tưởng đủ trong tâm những ai quá tham
lam.) Sau khi phát hiện ra điều này một người vẫn bình thản, tại sao một người,
sau khi đã nhận ra những đau khổ gây ra cho người khác (do tham lam) do thú vui
nhục dục, lại hướng tâm mình vào đó làm gì?
“Một người đã biết
Upadhi (tức là thú vui nhục dục) là trở ngại trên trái đất này nên tìm hiểu từ
bỏ upadhi là như thế nào.”
Thấy phản ứng của Đức
Phật như vậy, khiến cho tên ác ma (Ma-vương (Māra) đau khổ và hối hận, nghĩ
rằng, “Đức Thế Tôn đã biết rõ tôi. Ngài thông suốt đã đọc được tâm của tôi!.”
Hắn liền biến mất.
Câu chuyện trên được
trích trong cuốn 15 trang 169 số 475 trong Kinh Pali.
Dùng để xác định lại
một lần nữa một sự thật là: nếu ngài muốn Đức Phật có thể biến đổi toàn bộ núi Himalaya thành vàng. Nhưng ngài đã không làm thế và sẽ
không làm như vậy bao giờ, làm như thế vì lý do ngài đã nói với Ma-vương (Māra)
là tên tội lỗi.
Đối với những ai lúc
nào cũng luôn nghi ngờ, một ý tưởng có thể nổi lên đó là chính Đức Phật rất có
thể đã không làm được điều đó. Nhưng nếu chúng ta nhớ lại ngay cả các vị đồ đệ
A-la-hán của ngài như tỳ khưu Pilindavaccha cũng có thể làm được điều đó, thì chẳng
còn gì phải nghi ngờ Đức Phật lại không thể biến cả ngọn núi trở thành vàng,
trừ việc một số người cho là những bài tường thuật về Pilindavaccha chỉ là
những điển hình hay những điều hoàn toàn do tưởng tượng mà ra. Một thái độ tâm
như vậy của một số Phật tử thường nhằm để làm giảm giá trị những ân đức của Đức
Phật và các đồ đệ A-la-hán của ngài mà thôi. Nhưng mục tiêu của tác phẩm này
đầu tiên lại dựa vào tính trung thực của những gì được tường trình lại trong
Kinh Phật liên quan đến khía cạnh này của Phật giáo. Khả năng hay nói khác hơn,
những sức mạnh thần thông này sẽ được nói đến sau cho dù ý kiến của tác giả cho
là chúng có thể dựa trên sự thật chứ không phải ảo tưởng.
8. Ākāse
Pallaṇkekamapāṭihāriya (Bay bổng lên trời trong tư thế ngồi thiền)
Đoạn Kinh Pali về
những lời Đức Phật dạy điều này như sau:
Ākāsepi
pallaṇkanakamati seyyathāpi pakhīsakuṇo.
“Một vị tỳ khưu được
phú cho sức mạnh có thể khiến cho chính mình bay bổng lên đang khi trong tư thế
ngồi. Giống như loài chim có cánh vậy.”
Đoạn Pali chỉ nói đến
tư thế ngồi xếp bằng, nhưng phải hiểu là những tư thế thân khác như đứng hay
nằm cũng được kể đến. Hơn thế nữa, ngài còn có khả năng di chuyển đến phía
trước hay ngồi bất động trên không tuỳ ý muốn. Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga)
(2/233) mô tả chi tiết này như sau:
“Một tỳ khưu đạt được
khả năng thần thông này cùng với phép Cetovasi có nghĩa là thuần thục tâm lại
muốn thực hiện phép lạ (thần thông) này chỉ cần nhập Thiền Jhana dựa trên
Paṭhavī, có nghĩa là Đất. Sau khi đã thoát khỏi thiền, ngài có thể ra quyết
tâm, xác định không gian ngài định ngồi thiền hay có thể giữ nguyên ở bất kỳ vị
thế nào và biến đổi thành đất cứng. Điều này có nghĩa là ngài muốn ngồi trên
không, đang khi di chuyển về phía trước giống như con chim đang bay (sace nisimo
gantumicchati pallañkappamanaṃ ṭhānaṃ parichinditvā parikammaṃ katvā
vuttanayeneva adhiṭṭhātabbaṃ v.v.. saha adhiṭṭhānā paṭhavīyeva hoti)
Trong trường hợp ngài muốn nằm xuống đang khi di chuyển (sace nippanno
gantukamo hoti) hay bách bộ (sace pādasā gantukāmo hoti) ngài chỉ xác định vùng
nào ngài nằm hay bước đi. Muốn có được đất cứng. Rồi ngay đó sẽ biến thành đất
cứng theo y như ý muốn của ngài.
Sau khi đã giải thích
như vậy, tác giả đã trích dẫn đoạn dưới đây trong kinh Pali.
“Một tỳ khưu đạt được
sức mạnh thần thông cùng với thuần thục tâm có thể ngồi xếp bằng đang khi di
chuyển trên không giống như những con chim có cánh” Điều này có nghĩa là vị tỳ
khưu này phải đạt đến Thiền chứng (samāpatti) dựa trên cơ sở là đất
Kasina.Trước khi làm được như vậy ngài phải quyết tâm về không khí và thực hiện
một dốc quyết bằng khả năng ý chí, Muốn điều đó biến thành đất, thình lình
không khí biến thành đất và ngài có thể lưu lại trong đó với bất kỳ tư thế nào
giống như những tư thế một người thường có khi ngồi trên đất cứng. Những đoạn
viết bằng tiếng Pali như sau: Pakatiyā paṭhavīkasiṇasamāpattiyā lābhī hoti
ākāsaṃ āvajitvā ñāṇema adhiṭṭhāli paṭhavī hotūti, paṭhavī hoti, so ākāse
antalikkhe cahikamatipi tiṭṭhatipi nisīdatipi seyyampi kappenti evameva so
iddhimā cetavasippatto ākāse antalikkhe cañkamati.v.v..ṣeyyampi kappeti... –
(trích trong Thí Dụ Kinh (Apādāna) thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddakanikāya) 31/594)
Từ những đoạn kể
trên, một điều rất rõ ràng là: để thực hiện được phép lạ (thần thông) này một
vị tỳ khưu phải đạt được thành công trong đề tài thiền này có nghĩa là Kasiṇa
đất. Ngài phải thực hiện điều này cho tới khi ngài đã cảm nghiệm được đầy đủ
trong đó đi đôi với với khả năng thuần thục trong việc nhập thiền và thoát ra
khỏi thiền và nhiều điều khác nữa. Điều này muốn ám chỉ năm Vasi hay là thuần
thục. Có nghĩa là Cetovasippatto. Tuy nhiên, trước khi làm được vậy, ngài phải
đạt được khả năng bay bổng lên không. Khả năng này không được mô tả ở đây đã
thực hiện được bằng cách nào. Rất có thể đây là điều thất bại vì như đã nói ở
trên trong một số nơi khác như là chính những lời của Đức Phật khi ngài giải
thích cho Trưởng Lão Ānanda trước đó: để làm thế nào ngài đã có thể chuyển thân
xác của ngài sang cõi thiên đàng Phạm Thiên. Điều này được thực hiện bằng cách
gọi là Sukhasañña và Lahusañña có nghĩa là tưởnghạnh phúc và tưởng nhẹ nhàng.
Không có ví dụ nào
được trích dẫn trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) cho thấy ai thường thực
hiện được điều này và trong không gian và thời gian như thế nào. Để thực hiện
được những bài tường thuật hoàn hảo tôi chỉ còn biết cung cấp cho quí vị câu
chuyện trích trong Bài Chú Giải Pháp Cú Kinh (Dhammapada) sau đây:
Đức Phật đi trên
không
Câu chuyện này là một
trích đoạn trong phép song thông (Yamakapāṭihāriya) (tức là một người hiện diện
ở hai nơi cùng một lúc.) Đoạn văn Pali như sau: Satthā ākāse ratanacañkamanaṃ,
māpesi: Đức Thế Tôn đã tác tạo Chánh Đạo (lối thánh) để hành thiền bách bộ trên
không. (Trích trong Phật Phẩm (Buddhavagga) Pháp Cú Kinh (Dhammapada).
Vẫn còn một đoạn Pali
khác nữa như sau: Idaṃ pana pāṭhātriyaṃ satthā tasmiṃ cañkame cañkamitvā akāsi.
Đoạn trên khẳng định
rõ Đức Phật đã thực hiện ‘Kinh Hành” (Cahkamana) nghĩa là di chuyển qua lại
trên không. Trong tập Chú Giải Pháp Cú Kinh (Dhammapada) đã đưa ra nhiều chi
tiết rất tỷ mỉ. Nhưng vào lúc này, tác giả muốn trích dẫn những gì đã được mô
tả trong cuốn sách có tựa đề là ‘Paṭhamasambodhikathā do vị đại giáo chủ Thái
Lan là Somdet Kromphra Paramānujjitajinorasa (viết bằng tiếng Thái với một văn
phong hoành tráng) như sau:
“Với mục tiêu nhằm
chứng minh khả năng thần kỳ làm phương tiện qua đó mà khuất phục những kẻ đi
theo dị giáo ngạo mạn, thông qua khả năng thần thông Đức Phật đã tạo một chánh
đạo (lối thánh) để hành chánh thiền, suốt chiều dài con đường đó con người ta không
thể nhìn thấy hết. Với những ngọn núi cao như có trụ cột nâng đỡ và những tinh
tú trong vũ trụ đó như đang chiếu sáng vòm trời rực rỡ. Mặt trăng, mặt trời
trong toàn cõi khoảng không đó đã toả sáng khắp nơi, trong khi đó chánh đạo
hành thiền chỉ tựa như những hạt cát vàng long lanh.
Đức Thế Tôn sau đó đã
nhập tứ thiền, nhờ sức mạnh thần thông ngài đã bay bổng lên không trung, tiến
hành di chuyển qua lại trên chánh đạo hành thiền thánh ngài đã vạch ra, sở dĩ
ngài làm được như vậy là do bởi ngài đã đạt đến Paṭhavīkasiṇa (có nghĩa là địa
kasiṇa) tiếp theo ngài đã tạo ra hóa thân (replica) tức mô hình sao chép chính
bản thân ngài để thực hiện nhiều chức năng khác nhau. Một dịp kia Đức Phật đang
hành thiền đi bộ qua lại. Trong khi đó hóa thân (replica) của ngài lại đang nằm
yên. Lại một dịp khác nữa Đức Phật đã hỏi thần thân của mình nhiều điều, và đã
nhận được nhiều câu trả lời quí báu. Sau đó ngài dang cánh tay ra để đụng tới
mặt trời và mặt trăng, trong khi đó hóa thân lại đang thuyết pháp.
Sau khi đã thực hiên
từng đó phép lạ (thần thông) bằng nhiều cách khác nhau, Đức Phật muốn thể hiện
đến tột đỉnh Phép song thông đó (hiện diện ở hai nơi cùng một lúc.), một điều
độc nhất vô nhị ngài đã làm được, vì không có mặt tại thị trấn nơi có một số đồ
đệ của ngài đang có mặt. Với dụng trong tm, ngài nhập thiền chứng(samāpatti)
dựa trên kasiṇa nước (tvn?). Sau đó ngài thoát thiền rồi lại nhập thiền
chứng(samāpatti) dựa trên kasina lửa. Tức thì có một tia nước kèm theo với một
tia lửa phun ra ngay trên đầu ngài. Một khoảng thời gian sau đó từ thân xác
ngài toát ra nhiều tia lửa ở phía đàng trước, đồng thời nhiều tia cũng chảy ra
ở phía sau lưng. Sau ít phút hiện tượng này lại thể hiện ngược lại với lửa toát
ra ở sau lưng còn nước phun ra ở phía trước v.v…
Sau khi Đức Thế Tôn
đã thực hiện Phép song thông đó bằng nhiều cách ngài đã từ trời xuống ngồi trên
ngai vàng cao khoảng một do tuần (Yojana). Ngai vàng tối cao đó ngự ngay trên
đỉnh ngọn cây xoài của một người tên là Gaṇḍāma. Ngay chính giữa một đám đông
người từ khắp tứ phương thiên hạ qui tụ lại và cùng tiến về một hướng kéo dài
trên một quãng đường tới bốn mươi hai do tuần (Yojana). Lúc này Đức Thế Tôn
ngồi trên ngai mặt hướng về phía đông, đang khi đó bằng tm nhãn ngài đăm chiêu
dõi theo mọi khả năng giác ngộ của chúng sanh nơi cõi trần gian lẫn cõi thiên
cung. Ngài thực hiện điều này trước khi chọn lấy bài thuyết pháp tích hợp nhằm
đáp ứng mọi xu hướng của mọi chúng sanh đang có mặt tại đó. Người ta kể lại
rằng sau bài thuyết pháp đó nhiều chúng sanh đã lắng nghe bài đó đã chứng thánh
Đạo và đạt Chánh Quả con số lên đến bốn mươi bốn Koti[1]vào thời điểm đó. Nhưng
có sáu thiền sư theo tà đạo (họ đã chủ trương những tà kiến hết sức độc hại)
cùng với đoàn tuỳ tùng đã vô cùng khiếp sợ do sức mạnh của Đức Thế Tôn đã tỏ ra.
giống như một đoàn nai đông đảo chúng đã hoảng sợ và trốn chạy trước chúa tể
rừng xanh. tức là con sư tử, đang đứng hiên ngang dõi nhìn theo chúng trên đỉnh
vách đá.
Đoạn văn trên do cố
Trưởng Lão Krom Phra Paramānujitajinorasa biên soạn là một trong những tác phẩm
giá trị thuộc loại này. Trước thời gian cố Trưởng Lão Somedej Kromphrraya
Vajirañāṇavarosa, tác phẩm này được coi như là một cuốn sách ‘Tiểu sử Đức Phật‘
thuộc loại có uy tín và được sử dụng rộng rãi làm đề tài cho nhiều bài thuyết
pháp dành cho dân chúng Thái khắp đất nước. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua
dân chúng lại có khuynh hướng không tin vào các bài tường thuật về các Thần Túc
Thông được kể lại trong cuốn sách đó. Biết được sự kiện này ngài cố Trưởng lão
Vajirañāṇvarasa lại bắt đầu viết một cuốn khác về cuộc đời Đức Phật, trong cuốn
sách này các chi tiết viết về phép lạ (thần thông) được loại bỏ hầu hết. Tác
phẩm của ngài được coi như là một trong số những tác phẩm viết về các bài tường
thuật lịch sử để khớp với khuynh hướng và sự lựa chọn của chúng sanh hiện đại.
Tác phẩm mới này được gọi là “Cuộc đời Đức Phật” gồm ba cuốn và được dùng như
là một cuốn sách tham khảo từ đó cho hiện nay. [2]
Thực vậy, những bài
tường thuật liên quan đến Thần Túc Thông được kể lại trong tác phẩm được để cập
đến ở trên là “Paṭhamasambodhikathā’ không phải do tác giả đáng kính bịa đặt
một cách tuỳ tiện đâu. Chúng được trích và rút ra từ Kinh Pali. Tuy nhiên vấn
đề là ngài đã không đề cập đến những nguồn tham khảo đó, vì vào thời điểm đó
không cần thiết phải làm như vậy. Những phần cơ bản của các bài tường thuật về
Phép song thông (tức phép lạ (thần thông) một người có thể hiện diện ở hai nơi
cùng một lúc) được mô tả ở trên rõ ràng đã được rút ra từ tập Chú Giải Pháp Cú
Kinh (Dhammapada), tuy nhiên, các phép lạ (thần thông) còn lại thì chưa chắc
chắn được trích từ nguồn nào. Chỉ có điều chắc chắn là ngài không bịa ra những
câu chuyện như vậy.
Yamakapaṭithāriya tức
là Phép song thông có thể đọc thấy trong tác phẩm Vô Ngại Giải Đ ạo
(Paṭisambhidāmagga) thuộcTiểu Bộ Kinh (Khuddakanikāya) (cuốn 31 trang 182-184)
trích trong Kinh Pali. Chính vì thế không nên nghi ngờ một cách ngây thơ là
những phép lạ (thần thông) đó do các nhà Chú Giải biên soạn sau này. Nhưng cũng
cần lưu ý là Kinh Pali chỉ khẳng định Đức Phật đã thực hiện phép lạ (thần
thông) đó và bằng cách nào ngài đã thực hiện được như vậy. Không còn những bản
tường trình chi tiết nào khác tỷ dụ như việc Đức Phật đã biến một hạt soài ngay
tức khác tăng trưởng thành một cây to lớn mang trái sum suê. Những bài tường
thuật giống như bài giảng của Đức Phật cho mẹ ngài nơi cõi Tam Thập Tam Thiên
(Tāvatiṃsa) đã được các nhà Chú Giải biên soạn sau này. Có điều còn tuỳ vào
phán đoán của các vị học giả để đưa ra phán quyết cho là những câu chuyện trên
rất có thể đã không xảy ra hay không chắc có thực và rất có thể các câu chuyện
đó được các vị Chú Giải thêm vào sau này. Nhưng chối bỏ cách dứt khoát sự thật
này hay khả năng có thực đối với phép song thông do Đức Phật thực hiện có thể
là một kết luận vội và nguy hiểm, một phán đoán hấp tấp và có thành kiến hoàn
toàn không thích hợp đối với các Phật tử, chúng ta nên thận trọng trước tâm vẫn
còn giới hạn của mình và như vậy để khỏi rơi vào những thành kiến quá hẹp hòi.
Một sự kiện khác nữa
cũng được đề cập đến trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) (2/233) liên quan đến
việc một vị tỳ khưu đã bay bổng lên trời., ngài còn muốn ngồi xếp bằng mà đi
tới đi lui trên không giống như chim bay vậy. Người ta kể lại rằng hình như đây
là một dấu hiệu cho thấy vị tỳ khưu cũng phải có được khả năng nhìn thấy những
gì vô hình, có nghĩa ngài có Thiên Nhãn Thông (dibbacakkhu). Lý do là ngài gặp
phải hai loại trở ngại trên đường, trở ngại đầu tiên là những cản trở rất tự
nhiên như cây cối và rừng núi, trong khi đó lý do thứ hai là những cản trở được
tạo ra do những thế lực vô hình nổi lòng ghen tức, như là long vương (Nāga) và
Thần Điểu (Garuda). Với khả năng nhìn suốt những điều vô hình (Thiên Nhãn
Thông) ngài có thể khám phá ra những trở ngại đó đúng lúc và những khả năng
nhập thiền Jhana rồi quyết tâm vô hiệu hoá những cản trở đó để không thể cản
trở ngài trên bước đường tiến tới. Một lợi ích phụ nữa từ khả năng thiên nhãn
thông đó khiến ngài dễ dàng đáp xuống, khiến cho ngài có khả năng tìm thấy nơi
đáp xuống an toàn từ nời ngài ngồi trên không.
9.
Candimasuriyaparāmāsana Pāṭihāriya (Đụng chạm tới được mặt trăng và mặt trời)
Đoạn văn Pali viết như sau: Imepi candimasuriye evaṃ mahiddhike evaṃ
mahañnubhañve pañṇninañ parañmassati parimajjati.’
“Một vị tỳ khưu đạt
được khả năng này có thể cảm nhận và đụng tới mặt trời và mặt trăng, là hai thế
lực to lớn và hùng mạnh.”
Điều cho là mặt
trời và mặt trăng là hai vật to lớn và dũng mãnh, theo lời giải thích trong
Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) cho là hai vật thể này có khả năng di chuyển
ngay phía trên mặt đất, cả hai đều có khối lượng lớn khoảng 42.000 do tuần
(Yojana) và chúng có thể soi sáng ba châu lục cùng một lúc.
Từ “Parāmasati’ có
nghĩa là ‘đụng tới’ ngụ ý muốn nói sự thể là một chư vị tỳ khưu tầm cỡ như vậy
có thể đụng tới một phần mặt trời và mặt trăng, ngược lại từ ‘Parimajjati’ có
nghĩa là cảm thấy hay là vuốt ve mặt trời và mặt trăng bằng tay giống hệt như
một người sờ vào đụng vào mắt của mình vậy.
Một thông tin khác
nữa cho là thành quả đối với chư vị tỳ khưu không cần thiết phải ước ao thực
hiện phép lạ (thần thông) này để có thể đạt đến thành công ở bất kỳ thiền chỉ
Kasiṇa nào. Chỉ có một yêu cầu duy nhất đó là chư vị tỳ khưu đó phải hoàn tất
được tình trạng thiền Jhana cần được áp dụng như là cơ sở để thực hiện một phép
lạ (thần thông). Để xác minh được điểm này, có một trích đoạn từ Kinh Pali
(Paṭisamabhidāmagga trong Trung bộ Kinh
Pa. 31/594) như Trưởng lão Xá-lợi
Phất (Sārīputta) giải thích như sau:
“Một vị tỳ khưu đạt
dược khả năng thuần thục tâm (Cetovasi) cho dù có ở tư thế ngồi hay nằm mà muốn
đụng tới mặt trăng hay mặt trời, chư vị đó chỉ cần hướng chú ý tới mặt trăng
hay mặt trời, ngay lúc đó ngài quyết tâm thông qua sức mạnh trí ñāṇa, thì tức
khắc mặt trời và mặt trăng đều nằm trong khả năng tầm với của chư vị đó. Kết
quả xảy ra là ngài sẽ thực hiện được ước muốn của ngài y hệt như những người
bình thường không có được sức mạnh thần thông đó, lại có thể dùng bàn tay của
mình mà đụng tới hay là vuốt nhẹ bất kỳ điều gì.”
Đó là lời giải thích
của Trưởng Lão Xá-lợi Phất (Sārīputta) trong kinh Vô Ngại Giải Đạo
(Paṭisambhidāmagga) trích trong kinh Pali, có nghĩa là vị tỳ khưu không cần
phải vượt qua một khoảng không để có thể đụng tay vào hay cảm thấy được hoặc
vuốt ve mặt trăng hay mặt trời đang bay trong quĩ đạo trong không gian. Nói cách
khác, đây không phải là ngón điêu luyện của Nhà Vua Khỉ có tên là Hanumāna
trong một thiên sử ca mang tên Rāmāyana, trong đó nhà vua khỉ đã lao vào không
gian và nắm lấy chiếc xe của một vị thần mặt trời không cho cả chiếc xe và vị
thần thắp sáng lên hành tinh trái đất vào đúng giờ bình minh. Tuy nhiên điều
này cũng có nghĩa là vị tỳ khưu đó đã có ý chí mạnh mẽ và quyết tâm cao không
thể kéo dài cánh tay của mình ra trên không gian để có thể đụng tới hay vuốt ve
hai thiên thể đang bay trong quỹ đạo. Rất có thể những người khác có thể nhìn
thấy ngài đụng tới mặt trời và mặt trăng, điều này lại do quyết tâm của ngài
đưa tới hay đề nghị họ nhìn thấy như vậy. Nhưng một điều không thể xảy ra đó là
một thiên thể có thể rời khỏi quỹ đạo đến nằm gọn trong tay họ.
Nhưng quan điểm của vị Trưởng Lão tác giả Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) tức tỳ
khưu (Phra) Buddhaghosa lại không giới hạn khả năng vào điều Trưởng Lão Xá-lợi
Phất (Sārīputta) mô tả. Ngài khẳng định rõ ràng là tỳ khưu thực hiện được phép
lạ (thần thông) này khi ngài giương cánh tay ra để đụng tới mặt trời và mặt
trăng, nói cách khác, ngài đã giữ nguyên ý nghĩa của đoạn văn theo nghĩa đen
một cách nghiêm túc. Quan điểm của ngài được diễn tả trong Thanh Tịnh Đạo
(Visuddhimagga) (2/235) như sau:
“Một vị tỳ khưu đạt
được sức mạnh thần thông đó có khả năng bay bổng lên để đụng tới và vuốt ve cả
mặt trăng cùng với mặt trời bằng chính bàn tay của mình, bằng chính bàn tay của
mình đang khi ngài ở trên mặt đất này. Trong trường hợp này mặt trời và mặt
trăng sẽ giống như một trái thốt nốt rớt khỏi cây xuống ngay trên tay vị tỳ
khưu đó. Đây là đoạn văn viết bằng tiếng Pali dành cho những ai muốn có được
xác minh chắc chắn như sau:
Svāyam yadi icchati
gantvañ parāituṃ gantvā, paramasati yadi pana idheva nisinnako vañ nipannako vā
parāmasitukamo hoti hatthapāse hotūti adhiṭṭhāti. Adhiṭṭhānabalena vaṇaṭā
muttālaphalaṃ viya āgantvā hatthapāse ṭhite vā parāmasati hatthaṃ vā vaḍḍhetvā.
Như bình thường, ngay
cả với sự chấp nhận khả năng có được ngón điêu luyện như vậy, thì vẫn nổi lên
câu hỏi sâu sắc xuất phát từ mối nghi ngờ chân chính như sau:
‘Liệu vị tỳ khưu,
đang khi ngồi hay nằm tại đó có thể kéo dài tay mình ra cho đến lúc có thể chạm
tới được được mặt trời hay mặt trăng nhưng thân xác của vị tỳ khưu đó vẫn có
dáng vẻ bình thường? Hay vị tỳ khưu đó có thể biến thân mình đạt đến một kích
thước khổng lồ theo tỷ lệ với cánh tay để có thể vươn ra tới không gian như vậy
sao?
Hình như đối với vị
Trưởng Lão tác giả Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) thì thân xác phải tỷ lệ với
cánh tay. Điều này có nghĩa là thân xác phải có một kích thước khổng lồ. Nếu
trường hợp này xảy ra, chắc chắn thân xác phải có một hình dáng to lớn khủng
khiếp -- khủng khiếp đến nỗi đối với chúng ta khó lòng có thể tưởng tượng ra nó
to lớn và vĩ đại đến mức độ nào. Tuy nhiên, tác giả đã trích dẫn những từ của
vị Trưởng Lão Tipiṭakacūlanāga, [3] người nói: “Kính thưa chư huynh, tại sao
thân xác này đôi khi trở thành bé nhỏ hơn và lúc khác lại trở nên to lớn hơn
rất nhiều lần như vậy? Bất kỳ lúc nào vị tỳ khưu cũng có thể chui qua lỗ khoá
cánh cửa để ra ngoài, thì thân xác đó phải trở nên nhỏ bé hơn bình thường rất
nhiều. Ngược lại, bất kỳ lúc nào ngài muốn thân xác đó trở nên lớn hơn, thì
chắc hẳn thân xác đó phải lớn được như vậy. Đây chính là trường hợp Trưởng Lão
Moggallāna đã quyết định qua phép thần thông của mình trở nên thật là vĩ đại để
chiến đấu tay đôi với long vương tên là Nandopananda.
Trưởng lão Moggallāna trong trận chiến tay đôi đầy dũng mãnh chống lại Long
vương Nandopananda.
Một lần kia có một người giàu có tên là Anāthapiṇḍika, sau khi đã nghe bài
giảng thuyết của Đức Phật liền mời ngài đến dùng bữa tại nhà ông, nói rằng,
“Thưa Đức Thế Tôn, mong rằng ngài cùng với năm trăm chư vị tỳ khưu đến dùng bữa
tại nhà tôi vào ngày mai.” Đức Phật nhận lời mời của ông bằng cách giữ im lặng.
Trước bình minh ngày hôm sau Đức Thế Tôn đã dùng Thiên Nhãn quan sát toàn vũ
trụ để xem có người nào xuất hiện trên mạng lưới thần thông của ngài hay
không.- Để thấy chắc rằng người đó đã đủ trưởng thành và như vậy sẵn sàng nhận
lời giáo huấn của ngài, tức thì ngài nhìn thấy long vương tên là Nandopananda
xuất hiện trước mắt Phật, và ngài cũng biết được long vương đó đang ấp ủ tà
kiến, như vậy đã chẳng đặt niềm tin nơi Tam Bảo, khi ngài nhìn tiếp xem ai sẽ
là người đầu tiên có thể thuyết phục được nhà vua từ bỏ niềm tin sai lạc đố,
Đức Phật thấy xuất hiện Trưởng Lão Moggallāna là người có thể đảm nhiệm được
trọng trách đầy thách thức này.
Vào lúc bình minh sau
khi đã tắm, Đức Phật liền điệu Trưởng Lão Ānanda, nói với ngài thông báo cho
năm trăm tỳ khưu là họ sẽ đi cùng Đức Phật lên cõi thiên đàng.
Ngày hôm đó có rất
nhiều long vương cũng nhập thành đoàn tuỳ tùng cùng với long vương Nandopananda
đang sửa soạn chỗ cho một buổi lễ hội to sắp sửa diễn ra, đang khi đó chính nhà
long vương Nandopananda ngồi trên ngai vàng cùng với phẩm phục lộng lẫy, cùng
chiếc lọng màu trắng che trên đầu. Bao quanh là ba nhóm vũ nữ, đang chiêu đãi
nhà vua với những tiết mục biểu diễn hấp dẫn. Chính vào lúc đó Đức Phật và năm
trăm chư vị tỳ khưu đi theo ngài cũng đang di chuyển trên không, hướng về cõi
thiên đàng Tam Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa). Đương nhiên họ cố ý bay ngang qua
vùng đó để cho long vương nhìn thấy. Vì Đức Phật biết rõ điều này sẽ đụng chạm
tới niềm kiêu hãnh của long vương và như thế là khiến cho nhà long vương nổi
giận đùng đùng.
Long vương nhìn thấy
Đức Phật và đoàn tuỳ tùng của ngài và đã phát điên lên vì cảnh tượng đó và niềm
tin sai lạc và ý tưởng xấu xa đã tràn ngập tâm long vương. Nhà vua nghĩ trong
lòng, “Được rồi, tại sao những tên Sa môn đầu trọc này lại băng ngang qua trên
đầu trẫm trên đường đi tới cõi Tam Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa)? Hình như họ muốn
chứng tỏ sức mạnh của họ để chế ngự ta chăng? Được rồi kể từ nay trở đi ta sẽ
không cho phép chúng rải bụi chân của bọn chúng xuống đầu ta nữa.” nói xong,
long vương liền đứng dậy khỏi ngai vàng và tiến về phía núi Sineru. Tại đó nhà
vua biến thành một long vương rất to và dài đến nỗi có thể quấn bảy vòng ngọn
núi Sineru. Rồi sau đó trải chiếc mũ trùm đầu che phủ tầm nhìn lên cõi Tam Thập
Tam Thiên (Tāvatiṃsa), tọa lạc ngay trên đỉnh ngọn núi đó. Như vậy long vương
đã che khuất toàn bộ cõi Tam Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa) trong bóng tối bằng
chiếc mũ khổng lồ của mình, khiến cho cảnh tượng giống như rơi vào cõi đen tối
thay vì là cõi ánh sáng như thường thấy ít giây phút trước đó.
Vào lúc này một vị tỳ
khưu tên là Raṭṭhapāta đề nghị Đức Phật, nói rằng,”Ôi Đức Thế Tôn, con thường
đứng ở đây và nhìn ngắm ngọn núi Sineru và những ngọn núi phong cảnh xung
quanh, đồng thời cũng nhìn thấy cõi thiên đường Tam Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa),
ngay trên đỉnh núi. Bằng cách đó cõi Tam Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa) được bao
phủ bằng chiếc mũ khổng lồ, khiến cho nó biến thành một cõi đen tối thay vì cõi
ánh sáng như đã thường thấy trước kia.
Ngay lúc đó có một vị
tỳ khưu tên là Raṭṭhapāta hỏi Đức Phật nói rằng, “Ôi Đức Thế Tôn, trước kia con
thường đứng đây và nhìn ngắm ngọn núi Sineru và các ngọn núi xung quanh đồng
thời cũng nhìn thấy cõi Tam Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa) cùng với những toà lâu
đài xoắn ốc và cờ sí trên đỉnh núi. Tại sao lúc này, ôi Đúc Thế Tôn con chẳng
còn nhìn thấy toàn bộ những thứ đó?
Đức Phật nói,
“Rattathapala thân nến, đó là vì quyền phép của long vương Nandopananda đã nổi
giận vì chúng ta hắn đã quấn quanh ngọn núi Sineru bảy vòng và che đỉnh núi với
chiếc mũ của hắn. Chính vì thế chúng ta không thể nhìn thấy cõi Tam Thập Tam
Thiên (Tāvatiṃsa) nữa.
Biết được điều đó, Raṭṭhapāta liền xung phong chiến đấu với sức mạnh của
Nandopananda. Nói rằng, “Ôi đức thế tôn, con muốn khuất phục tên long vương
đó.” nhưng Đức Phật đã không cho phép Raṭṭhapāta thực hiện điều đó. Một vị tỳ
khưu khác hình như là Trưởng Lão Bhaggiya và Rāhula cũng xung phong nhưng cũng
giống vậy họ đều không được phép. Cuối cùng thì Trưởng Lão Moggallana đã được
đề nghị thực hiện công việc này, ngay sau đó thì Đức Phật nói với ngài. “Ôi
Moggallana, xin con hãy ra đi và khuất phục tên long vương đó.”
Được phép của
Đức Phật Trưởng Lão Moggallāna biến thân xác của ngài thành một con rắn còn lớn
hơn cả long vương. Ngài liền cuốn mười bốn vòng quanh thân xác của Nandopanada.
Rồi trải chiếc mũ che luôn chiếc mũ của long vương. Sau đó Moggallana ép mạnh
thân xác của ngài trên xác Nandopananda khiến cho không thể chịu nổi, sức ép đó
liền phun ra khói độc làm cho Trưởng Lão bị ngộp. Nhưng Moggallana đã không mất
bình tĩnh, liền vặn vẹo nói rằng, không chỉ có mình nhà ngươi có thể phun ra
thứ khói độc đó. ta cũng có thể làm như thế.” Rồi ngài cũng phun ra khói độc để
tấn công lại long vương. tuy nhiên kết quả thì khói của Trưởng Lão cũng làm
ngột ngạt được long vương. nhưng không thể ngược lại được.
Nhìn thấy vậy,
Nandopananda liền đáp trả bằng một chiến thuật khác. Lần này long vương khạc ra
lửa, thay vì khói. Nhưng Trưởng Lão cũng đáp trả lại cùng như vậy, nói rằng,
“Không chỉ lửa của nhà ngươi tạo ra được, ta cũng có thể làm vậy được.” Nói
đoạn ngài liền phóng ra tia lửa nhỏ vào phép thần thông của ngài như lần trươc,
kết quả là lửa của vị Trưởng Lão đã gây rối trầm trọng Nandopananda, nhưng
không xảy ra điều ngược lại được.
Nhận thấy chiến thuật
của mình không hiệu quả, Long vương liền giả đò tỏ thái độ hiền dịu, nói rằng,
“Thưa ngài Trưởng Lão. Ngài là ai?” Trưởng Lão trả lời, “Ta là Moggallāna, ôi
nhà vua.” Mong rằng Trưởng Lão hãy từ bỏ sức mạnh này và quay trở lại với đời sống
tu trì đó. Nandopananda yêu cầu.
Nhưng Trưởng Lão,
biết Nandopananda không chấp nhận thua, liền từ chối chấp nhận yêu cầu và thay
đổi chiến thuật, và ngài trở lại hình dạng nguyên thuỷ của ngài như trước và
chui vào lỗ tai bên trái của long vương, và chui ra khỏi lỗ tai bên kia. Rồi
ngài lập đi lập lại qui trình, và ngài đã thực hiện nhiều lần như vậy chui vào
tai bên phải rồi ra phía tai bên trái. Đến lúc có lần Long vương há miệng to
thế là Trưởng Lão đã chui lọt vào miệng long vương và bước vào dạ dày của nó.
Đức Phật, chứng kiến
những gì Trưởng Lão thực hiện, và đến đây ngài liền nhắc nhở Trưởng Lão, nói
rằng, “Hãy chú ý, Ôi ngài Moggallāna, con rắn này có nhiều sức mạnh phi thường
đó.”
Moggallāna liền nói
từ trong dạ dày Long vương ra mà rằng. “Ôi Đức Thê Tôn, con đã luyện được Tứ
Thần Túc (iddhipāda) và đang được tăng cường sức mạnh khiến chúng thành
luân(được sử dụng ngay lập tức) tứ thần túc đã sẵn sàng trở thành một khí giới
lợi hại. Có thể sử dụng được và luôn tuân thủ theo ý của con. Không chỉ có thể
khuất phục được Nandopanand, nhưng ngay cả một trăm hay một ngàn chúng cũng
không thể vượt qua nổi sức mạnh của con đâu”
Lúc này, Long vương
sôi sục lên vì tức giận liền nghĩ kế để trả thù vị Trưởng Lão, hắn nghĩ trong
bụng, “Được rồi, nhà người chui vào bụng ta đang lúc bất ngờ nên ta không biết,
nhưng nếu nhà ngươi chui ra là lúc ta sẽ nghiền nát nhà người trong miệng ta
cho đến chết.” Rồi Long vương nói với Trưởng Lão, “Xin ngài chui ra khỏi bụng
tôi, và đừng làm tôi đau bằng cách dầy xéo trong bụng tôi như vậy nữa” Chỉ
trong nháy mắt Trưởng Lão đã thoát ra khỏi bụng hắn và Long vương không hề hay
biết gì. Nhìn thấy Trưởng Lão ra ngoài an toàn, long vương liền phun ra một
luồng gió mạnh đủ để thổi bật bất kỳ ai trên đường đi. Nhưng Trưởng Lão biết trước
được những gì sẽ xẩy cho ngài, liền rút vào nhập thiền Jhana trước ngọn gió
dông bão được phun ra. Như trước đó ngài không hề bị mảy may ảnh hưởng, không
chỉ một ngọn tóc của ngài bị xáo trộn.
Thất vọng vì sức mạnh
của mình không tài nào đánh bại được Trưởng Lão, hắn liền bỏ trốn, quá kinh hãi
bằng cách nào vị trưởng Lão được phú cho sức mạnh siêu phàm đến như vậy. Trưởng
lão Moggallana nhìn thấy vậy liền biến thành một con chim ưng khổng lồ đuổi
theo Long vương, đang khi chim ưng vỗ cánh liền tạo ra một cơn giông bão khủng
khiếp. Lúc này Long vương rơi vào giai đoạn kết của cuộc chiến và biết rằng
không còn cách nào chạy trốn nổi, Long vương liền lấy lại hình dạng một chàng
thanh niên, và cầu khẩn trưởng lão, “Tôi xin chạy lại nương nhờ nơi ngài, Ôi Trưởng
Lão.” Hắn quì gối dưới chân Trưởng Lão.
Biết Long vương đã
thành khẩn chấp nhận thất bại. Trưởng Lão Moggallana nói với hắn, “Ôi Nanda,
hãy lại đây, Đức Phật đã có mặt ở đây. Chúng ta hãy đến gặp ngài nào.
Lúc này, Long vương
đã bị khuất phục và chấp nhận thất bại, liền theo Moggallāna đến gặp Đức Phật.
Hắn ngồi vào một bên cạnh ngài vào đúng chỗ dành cho hắn, và nói, “Tôi đi đến
nương nhờ Đức Thế Tôn” và rồi Đức Phật chào đón hắn nói rằng, “Mong rằng long
vương được chúc hạnh phúc muôn đời.” Sau đó cùng với đoàn tuỳ tùng các vị tỳ
khưu trở lại nhà người giàu có Anāthapiṇḍika.
Người giàu có hỏi tại
sao ngài lại đến trễ hơn bình thường. Đức Phật trả lời rằng đã xảy ra một trận
chiến giữa Trưởng Lão Moggallāna và Mãng Xà Vương Nandopanando. Được hỏi tiếp theo
ai là người chiến thắng, Đức Phật nói, chính vị Trưởng Lão đã chiến thắng Long
vương, Anāthapiṇḍika sau đó đã mời Đức Phật và năm trăm vị tỳ khưu tham dự một
bữa tiệc tại nhà của ông trong bảy ngày liên tiếp. Đức Phật chấp nhận lời mời
bằng cách im lặng.
Đây chính là những
bài tường thuật liên quan đến Trưởng Lão Moggallāna chiến thắng được long vương
Nandopananda do vị Trưởng Lão tác giả Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) kể lại
(phần hai trang 235). Tuy nhiên, không thấy đề cập gì đến trong kinh Pali. Có
lẽ cũng có ở đâu đó, nhưng tôi chưa tìm thấy được vào lúc này.
Ngoại trừ điều đã
được kể trên, còn có nhiều lời giải thích liên quan đến phép lạ (thần thông)
đụng tới và ve vãn mặt trời, mặt trăng bằng tay, đã được nói tới như là điều ảo
giác hay thôi miên mà ra. Đây là một số câu chuyện liên quan đến như sau:
Phép lạ (thần thông)
đụng tới mặt trời và mặt trăng và sờ vào được như là một loại ảo giác.
Một vị tỳ khưu đạt
được phép thần thông, có thể không chỉ giang tay ra đụng đến tận mặt trời và
mặt trăng đang khi ngài còn ở trên mặt đất này, nhưng còn có thể biến chúng
thành bệ ngôi cho ngài để chân lên. Ngoài ra, ngài còn có thể biến mặt trời mặt
trăng trở thành ghế ngồi để ngài có thể ngồi trên đó, hay biến thành giường để
nằm và tựa lưng để nâng lưng ngài vào lúc mỏi mệt.
Những đoạn văn dưới
đây tiếp theo những giải thích của ngài Trưởng Lão tác giả mang nhiều ý nghĩa
quan trọng. Ngài cho biết tác dụng của những thần túc thông như dã được mô tả ở
trên được thực hiện không phải chỉ trong tưởng tượng của người quan sát mà
thôi, ngoài ra không còn bất kỳ nhân duyên bên ngoài nào có thể tạo ra nhưng
thần túc thông đó cả, nói một cách chính xác, chỉ mang tính ảo giác mà thôi.
(đến đây tôi phải nói thêm một trường hợp trùng hợp với điều này có thể thấy
trong trường hợp Đức Phật tạo ra cho Ni cô Rūpanandā một gương mặt người con
gái trẻ rất đẹp đang quạt cho ngài khi ngài thuyết pháp. Chỉ có mình Rūpanandā
được chứng kiến điều này diễn ra, gương mặt được tạo ra đó tự nhiên trở nên già
cả và già đến nỗi nàng ngã ra chết ngay tại nơi đó. Rồi trở thành một thân xác
trương phình lên. Toàn bộ các hiện tượng này chỉ được tạo ra cho chính Ni cô
Rūpanandā xem thấy mà thôi, không có người nào thấy được cả). Trưởng Lão tác
giả, với giọng đầy quả quyết xác nhận trong tuyên bố ngài đưa ra giải thích về
hậu quả đang lúc phép lạ (thần thông) đó được thực hịên. Cho dù chỉ có một tỳ
khưu hay nhiều hơn thế thì quĩ đạo của mặt trăng và mặt trời, kèm theo với việc
chiếu sáng cho trái đất vẫn không hề bị xáo trộn. Điều này giống như trong một
ngàn chiếc bình đựng nước ta có thể nhìn thấy sự phản chiếu của mặt trời mặt
trăng, mà những người khờ có thể coi như mặt trời mặt trăng rơi vào trong bình
đó. Nhưng thực chất không có gì xáo trộn, không có bất kỳ thiên thể nào trong
đó cả. Chính vì thế, chúng ta cũng có thể kỳ vọng phép lạ (thần thông) của vị
tỳ khưu có thể giang tay ra đụng tới mặt trăng và mặt trời hay có thể biến cả
hai thiên thể đó đến tay ngài đang khi ngài còn ở trên cõi mặt đất này vẫn có
thể thực hiện được cơ mà.
Vì đoạn văn giải
thích trên đây có thể mang nhiều ý nghĩa cho tất cả những ai ấp ủ trong lòng
mối nghi ngờ cố hữu. Tôi xin được trích dưới đây những giải thích đó trong bản
văn Pali như sau:
“So evaṃ katvā na kevalaṃ condimasurriye parāmasatiṢace icchati pādākaṭṭhalikāṃ
katvā pāde thapeti. Pithaṃ katvā nisīdati. Mañcam katvā nipajjāti.
Apasenaphalakaṃ katvā apassayati. Yathā ca eko evaṃ aparopi. Anekesupi hi
bhikkhusatasahassesu evam karonto teasñco ekamekassa tatheva ijjhati
candimassuriyānañca gamanampi ālokakaraṇampi tathave hoti. Yathā hi
cāṇisahanssesu udakapūresu sabbacāṭīsu candamaṇḍalāni dissanti pakatimeva
candassa gamanampi ālokakaraṇañca hoti tathūpamanetaṃ pāṭithāriyaṃ. (Trích từ
Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) 2/240)
Đoạn văn Pali trên
tuy chỉ được dịch thoáng nghĩa để giúp cho những ai chưa quen với văn phong và
thành ngữ Pali có thể dễ dàng hiểu được ý nghĩa của bản văn mà thôi. Tuy nhiên,
có điều chắc chắn là ý nghĩa Trưởng Lão tác giả muốn diễn đạt vẫn không bị thay
đổi. Những ai hiểu được tiếng Pali có thể kiểm tra sự chính xác từ đoạn văn
Pali nêu trên.
10. Kāyena
Vasavattana Pāṭihāriya - (Phép lạ - thần thông - lên cõi Phạm Thiên bằng thân
xác thô thiển hay bằng thân xác cõi trời)
Đây là đoạn văn ghi
lại chính lời Đức Phật liên quan đến phép lạ (thần thông) này.
“Yāva Brahmalokāpi
kāyena vasaṃ vatteti.”
Một vị tỳ khưu đạt
được sức mạnh thần thông có thể nhập cõi Phạm thiên với chính thân xác phàm
(thô thiển) của mình.
Ý nghĩa này được ám
những lời Đức Phật có thể được xác định, theo Trưởng Lão Sārīputta giải thích
trong Vô Ngại Giải Đạo (Patisambhidamagga (31/594) như sau:
Một vị tỳ khưu đạt
được phép thần thông và Cetovasi, có nghĩa là sức mạnh thiền thục tâm có thể
khiến những nơi xa xôi trở thành gần lại. Ngài cũng có thể đảo ngược lại qui
trình đó, khiến cho những chỗ gần có thể biến ra xa theo ý muốn. Điều này kể cả
khả năng biến một vật trở nên nhiều và biến nhiều vật trở thành ít hay ngược
lại. Ngoài ra, ngài còn có thể thông qua phép nhãn thông và phép nhĩ thông để
nhìn thấy chúng sanh nơi cõi Phạm Thiên và nghe được cả tiếng nói của họ nữa,
ngay cả tư tưởng của người đó ngài cũng đọc được bằng phép “tha tâm thông” có
nghĩa là đọc được tư tưởng của người khác đang suy nghĩ.
Lúc này, bất kỳ ai
muốn đi vào cõi Phạm Thiên, qua thân xác hữu hình của mình. Người đó chỉ cần
hướng tâm trí đến bản chất thân xác (Kāyavasena cittaṃ pariṇāmeti) thực hiện
quyết tâm để hòa trộn tâm vào với bản chất của thân xác (kāyavasena cittaṃ
adhiṭṭhāti). Rồi trú vào lạc tưởng (Sukhasañña) và nơi tinh thần phấn chấn (Lahusañña).
Rồi đi vào cõi Phạm Thiên thông qua thân xác siêu hình của mình.
(Nhập cõi Phạm Thiên
theo cách thức vừa kể trên) Chư vị Tỳ khưu sẽ tạo ra cho mình Ý Sinh thân
(mind-made-form) có nghĩa là thân xác không thể nhìn thấy được, hay còn gọi là
thân xác siêu hình thân xác này hoàn toàn giống như thân xác hữu hình, cũng gồm
có tứ chi và các cơ quan (như chân, tay, dùi….) cùng với các giác quan được vận
hành nghiêm chỉnh (có nghĩa là mắt, tai v.v… những giác quan này đều hoạt động
chứ không bất động hay không có sự sống (không chậm chạp) thân xác vô hình này
lúc nào cũng có thể xuất hiện ngay trước chúng sanh nơi cõi Phạm Thiên. Nếu chư
vị tỳ khưu trên cõi đời này đang thực hiện hành thiền bách bộ. Hay hóa thân
(replica) của tỳ khưu cũng vẫn thực hiện được y hệt những gì trên cõi Phạm
Thiên. Điều này cũng tương tự như vậy đối với các điệu bộ khác nơi cử điệu của
thân xác cho dù là người đó đang ở tư thế đứng hay trong tư thế nằm. Ngay cả
trong các hành động khác với các tư thế thân xác cũng hoàn toàn ăn khớp với
nhau. Thí dụ như khi tỳ khưu phun ra khói hay lửa hoặc thuyết pháp hay hỏi và
thưa bất kỳ câu hỏi nào thì “cả hai” thân xác của ngài đều thực hiện cùng một
hành động như vậy ở cả hai nơi khác nhau. Trong trường hợp tỳ khưu đang đứng
thuyết pháp cho chúng sanh nơi cõi trần gian này, thì tại cõi Phạm Thiên tỳ
khưu cũng làm được y như vậy. Như vậy “cả hai” thân xác và hóa thân cùng có
những hành vi y hệt như nhau, tuy ở hai cõi khác nhau. Đây là những ví dụ cho
thấy bằng cách nào cả hai thân xác (Hóa thân) ở hai nơi có liên quan với nhau.
Những đoạn văn ở trên
do trưởng lão tác giả Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) trích trong Vô Ngại Giải
Đạo (Paṭisambhidāmagga), Thí Dụ Kinh (Apadāna) – 31/594), đều là những lời dạy
của Trưởng Lão Xá-lợi Phất (Sārīputta). Tuy nhiên có một điểm thật khó hiểu. Đó
là đoạn cuối cùng khẳng định rằng trong trường hợp tỳ khưu đứng nói với chúng
sanh nơi cõi Phạm Thiên. Hóa thân của ngài ở dưới thế cũng sẽ thực hiện cùng
một việc như thế, có nghĩa là ngài sẽ nói với các chúng sanh khác cũng ở trên
cõi đời này. Đoạn văn Pali viết như sau: Sace so iddhimā tena brahmunā saddhiṃ
santiṭṭhati sallapati sākacchaṃ samāpajjati, minnmitopi thattha tena brahamunā
saddhiṃ satiṭṭhati sallapati sākacchaṃ samājjati yaṃ yadeva hi so iddhimā
karoti taṃ tadeva nimmito karoti.
Ở điểm này có thể tạo
ra nghi ngờ chính là lời tuyên bố về hậu quả cho rằng vị tỳ khưu đó, đang khi
còn sống trên cõi đời này, lại có thể đứng trước chúng sanh Phạm Thiên và đàm
đạo được với họ. Rất có thể là Đấng Phạm Thiên không những có thể đàm đạo với
cùng một nhân vật cả ở trên cõi đời này lẫn ở trên cõi Phạm Thiên nữa. Liệu có
nhất thiết chỉ là Chúng sanh duy nhất hay cần phải tạo ra một thân khác để xuất
hiện trước chúng sanh Phạm Thiên? [4] Điều rất tiếc là không có lời giải thích
nào khả dĩ được thực hiện để làm sáng tỏ điểm này. Chính vì thế mà câu hỏi vẫn
bỏ ngỏ chưa có kết luận dứt khoát xem đấng Phạm Thiên có đàm đạo với chính là
chúng sanh đó hay chỉ là một “Bản Sao” của nhân vật đó mà thôi. Hay có thể chỉ
là một ví dụ điển hình cho thấy khung cảnh đó đã phải được “sao chụp lại” có
thể nói như vậy, và chỉ là bản sao của bất kỳ sự kiện nào đã diễn ra trên cõi
đời này.
Việc mô tả trên cũng
đáng quan tâm. Hình như đã đả động đến khái niệm nhập thể Phạm Thiên Thuyết
(Brahmanism of Incarnation): chúng sanh siêu nhiên mặc lấy hình dáng con người,
không bị giới hạn ở bất kỳ số lượng nào. Chính vì thế mà chúng sanh siêu nhiên
khi tái đầu thai nơi thân xác con người có thể khoác lấy cả thân xác hữu hình,
hay thân thể cõi trời cũng vẫn được như thường. Rất có thể cả trăm hay cả ngàn
thân xác không chừng. cũng chẳng ảnh hưởng gì đến thân xác siêu nhiên đó. Thân
xác siêu nhiên đó luôn cư trú tại cõi thần tiên. Đây là một kiểu song hành,
nhưng nhất thiết không phải một thân xác tương đương. Ta tìm thấy trong Phật
giáo có trường hợp Hoà Thượng A-la-hán Cūlapanthaka. Như đã được nhắc đến ở tập
một phần một. Trong trường hợp này, Ý Sinh Thân của trưởng lão lệ thuộc hoàn
toàn vào “bản sao” của ngài trên cõi đời này. Điều này khác với trường hợp
Avatāra hay là nhập thể siêu nhiên thuộc Phạm Thiên thuyết.- lại phải lệ thuộc
vào thân xác vô hình, thần tiên thuộc cõi thần tiên hay cõi Phạm Thiên. Trong
trường hợp Cūlapanthaka, các Ý Sinh Thân được tác thành để hiện hữu tạm thời mà
thôi. Như vậy, theo quan điểm Phật giáo sau khi Đức Phật Tương Lai đã tái sanh
trên cõi đời này làm con trai hoàng hậu Māyā, thì sẽ không còn “bản sao chép”
của ngài trên cõi Phạm Thiên (hay thiên đàng) nữa. Chính vì thế đây là điều căn
bản, là điểm khác cơ bản giữa Phật giáo và Phạm Thiên Thuyết (Brahmanism). Rất
có thể có hai khía cạnh tồn tại một vài điểm giống nhau. Tuy nhiên vẫn luôn có
sự khác biệt căn bản rõ ràng như một biên độ vĩnh viễn nêu trên.
Bằng cách nào có thể
biến một nơi xa thành gần Và một nơi gần lại biến thành xa
Theo Trưởng Lão
Buddhaghosa, một vị tỳ khưu đạt được các khả năng thần thông có thể nhập thiền
Jhana, đây chính là bàn đạp để thực hiện mọi phép lạ (thần thông). Rồi ngài
phải xác định cõi Thiên Đàng hay cõi Phạm Thiên, rồi quyết tâm để cho điều đó
biến thành gần. Sau khi thực hiện được điều này, ngài phải ngay lập tức trú
thiền Jhana trở lại, rồi lại thực hiện quyết tâm thông qua sức mạnh trí (ñāṇa)
ước mong được đến gần hơn và những gì ngài muốn tức khắc sẽ xuất hiện.
Một ví dụ đã được nêu
ở trên trong trường hợp Đức Phật thực hiện Phép song thông. Trước khi tiến hành
điều đó, ngài đã nhập vào cõi Thiên Đàng thông qua quyết tâm của ngài, mong
muốn hai rặng núi Yugandhara và Sineru tiến lại gần ngài. Rồi khi ngài vẫn còn
đứng đó. Ngài đã đặt chân lên đỉnh núi Yugandhara còn chân kia lại đặt lên đỉnh
núi Sineru.
Ví dụ thứ hai là
trường hợp Trưởng lão Moggallāna khi còn lưu lại thành phố Sāvatthī, ngài tỏ
lòng ước muốn được đưa đến với đám đông những người từ Sāvatthī đến thị trấn
Saṇkassa, cách xa khoảng độ ba mươi do tuần (Yojana). Ngài cũng đã thực hiện
phép thần thông, rút ngắn khoảng cách giữa hai nơi lại như Đức Phật đã làm.
Trường hợp thứ ba
được kể về Trưởng Lão tên là Culasambudda người Sri Lanka. Người đã di chuyển bảy
trăm tỳ kheo để có thể cung cấp của bố thí cho họ tại thị trấn tên là
Pāṭalipuitta tại Ấn Độ, nghĩa là về phía bên kia bờ Đại Dương chia cách hai
quốc gia. Tuy nhiên Thị trấn Pāṭalipuitta lại toạ lạc trên một hòn đảo, chứ
không nằm trong đất liền. Ấy vậy mà ngài có thể chuyên đám người đông đảo đến
như vậy chỉ trong vòng một thời gian ngắn đến địa điểm ấn định.
Xét khía cạnh ngược
lại, có nghĩa là biến nơi gần lại trải dài ra và trở thành một nơi rất xa, một
ví dụ được Đức Phật thực hiện trong đoạn giai thoại ngài bước đi một cách bình
thường trước tên cướp dây chuyền Nagulimāla khiến cho tên cướp phải chạy thụt
hơi, vẫn không thể chạy theo kịp Ngài.
Giải thích việc chiêm ngưỡng một chúng sanh Phạm Thiên
bằng Thiên Nhãn Thông
Ở đây được giải thích
về hậu quả cho là vị tỳ khưu đạt được phép thần thông như vậy, đang khi còn ở
trên cõi đời này, có khả năng trú vào Thiền Jhana dựa trên sự trống rỗng có
nghĩa là không gian kasiṇa. Rồi vị này sẽ có khả năng nhìn thấy hình dạng của
một vị Phạm Thiên nơi cõi Phạm thiên, rồi nghe được bất kỳ điều gì vị Phạm
Thiên đó nói, và cuối cùng biết được bất kỳ điều gì vị Phạm Thiên này suy nghĩ.
Giải thích về việc hướng tâm tới bản chất tự nhiên của
thân xác
Câu ‘hướng tâm tới
bản chất của thân xác ” được dịch từ câu tiếng Pali sau Kāyavasena cittaṃ
pariṇāmeti’. được giải thích là việc ứng dụng tâm vào bậc thiền Jhana (đây là
điều căn bản hay là nguồn mọi khả năng thần thông.) để thâm nhập vào thân xác,
như vậy làm chậm lại vận tốc của tâm, khiến thân xác bắt kịp với tâm và khiến
cho tâm chiếm lãnh được bản chất của thân xác (thường mang đặc tính cồng kềnh
và nặng nề)
Tuy nhiên những đoạn
trên đây đã được đơn giản hoá, vậy mà vẫn còn khó hiểu. Một ý tưởng rõ hơn có
thể được tìm thấy trong bản văn gọi là Paramatthamañjusā đã được Thanh Tịnh Đạo
(Visuddhimagga) giải thích như sau:
Một Thiền sinh
(Aspirant) muốn tiến tới cõi Phạm Thiên bằng phương tiện thân xác hữu hình. Chỉ
cần trú nhập thiền Jhana. Chính là căn bản của thần túc thông (psychic feats).
Rồi lại thoát ra thiền Jhana và nhắc lại trong tâm “Mong rằng tâm tiến tới với
mức độ thân xác.’ rồi người đó lại trú nhập thiền Jhana và khi xuất khỏi Jhana,
liền quyết định bằng khả năng trí (tức là Ñāṇa) muốn thực hiện điều đã thực
hiện trước đó.
Ngay cả với những
giải thích trên trong Paramatthamañjjusā, xem ra khó khăn vẫn còn đó. Theo ý
kiến của tôi, mười loại Thần Túc Thông (Iddhividhi), tức là thần túc thông
(psychic feats) đều là những kết quả của cái gọi là “Adhiṭṭhāna” có nghĩa là
quyết tâm hay khả năng ý chí mạnh mẽ được tăng cường một cách mạnh mẽ. Chính vì
thế chúng được gọi là Adhiṭṭhāna Iddhi’. Tuy nhiên, một thiền sinh (aspirant)có
khả năng tận dụng được một cách hiệu quả khả năng Adhiṭṭhāna của mình phải đắc
thủ được với cái gọi là sức mạnh lợi khẩu tâm linh, tức là sức mạnh thuần thục
tâm, điều này ngầm hiểu, tỷ dụ như, thuần thục trong việc trú nhập thiền, rồi
lại thoát ra khỏi thiền Jhana. Chính vì thế không có khó khăn nào đối với vị tỳ
khưu đắc được những khả năng đi tới được Phạm Giới (Brahmaloka), cho dù bằng
phương tiên thân xác hữu hình của “bản sao thần tiên”. Đối với vị tỳ khưu này
không có vấn đề gì trong việc bay bổng lên, có nghĩa là làm cho thân xáccủa
mình bay lên và bồng bềnh trên không trong bất kỳ tư thế nào của thân xác và ở
bất kỳ vận tốc nào ngài cho là thích hợp.
Những giải thích về
Tri giác hạnh phúc và phấn khởi
Từ Pali ám chỉ hai
loại tưởng (saññā) này chính là Okkamati, có nghĩa đen là “hạ xuống tới” ám chỉ
hành vi rút lui nhập thiền tới tận lạc tưởng và khinh tưởng như đã được đề cập
tới ở trên, cả hai đều là những phẩm chất tâm cùng xảy ra một lúc khiến cho có
thể thực hiện được những phép lạ (thần thông) và dựa trên căn bản Thiền Jhana.
Những ai muốn tham khảo những đoạn nguyên thuỷ chúng tôi trích ra đây đoạn văn
Pali sau đây: Sukhasaññañca lahusaññañca okkamatīti pādakajjhānārrammaṇena
iddhicittena sahajātam sukhusaññanca lahusañññañca okkamati pavisati phusati
sumpanuṇāti….
Tuy nhiên từ
‘Sukhasaññā hay là lạc tưởng còn ám chỉ xả tường (Upekkhā) (có nghĩa là không
phải thuộc hạnh phúc cao độ như ám chỉ theo nghĩa đen.) Lý do là vì mức độ hạnh
phúc cao độ nơi thiền Jhana thì lúc nào cũng phảng phất lâng lâng và tinh tế
đến nỗi được gọi là hành xả. Đoạn viết bằng tiếng Pali xác định điều được mô tả
về bốn đặc tính của thiền Jhana như sau: “Yantaṃ ariyā ācikkhanti upekkhako
satimā sukhavihārīti: những ai đạt được xả bất tận và liên tục có thể kết hợp
trong mọi Sát na tâm với niệm, được các vị thánh gọi là xả niệm.
Từ ‘Lahusaññā, nghĩa
đen có nghĩa là khinh tưởng. Ta có thể nói bao gồm không gì hơn là kết quả (đi
kèm theo) với lạc tưởng. Điều đó có thể cho là ‘nhẹ nhàng’ hay là ‘nhanh nhẹn”
hoàn toàn tách biệt khỏi bất cứ điều gì là nặng nề có thể làm chậm trễ tiến bộ.
Những điều này chẳng là gì hơn là năm triền cái và ngăn trở khác đối với những
bậc Thiền Jhana cao hơn như vitakka (tầm) vicāra(tứ) piti (hỷ) (Ecstasy) và
sukha (lạc) một trong thiền bậc ba). Làm sao những triền cái (nivaraṇa) có thể
gây trở ngại cho phát triển đối với một thiền sinh có thể được thấy rõ ràng. Vì
ngay cả ở Thiền thứ nhất thì tâm của thiền sinh đã được giải thoát khỏi
(relieved) mọi áp lực của tâm bướng bỉnh và (tâm viên muốn nói hay bắt chước)
do đó được tinh tế, tuân thủ theo ý muốn và dễ dàng uốn nắn. Bất kỳ chủ đề
thiền nào thiền sinh gắn kết tâm trên đó đều được ấn định cách vững chắc và không
thể lay chuyển. Khi mà chỉ có những triền cái đã được loại bỏ một cách hiệu
quả, chính vì thế ta thử tưởng tượng xem thân xác ta sẽ được nhẹ nhàng và trôi
nổi bồng bềnh như thế nào ngay cả khi những yếu tố cấu thành thiền Jhana bậc
thấp cũng sẽ được kìm lại. Ở mức độ thiền này tâm chắc chắn sẽ đạt được sức
mạnh kiến tạo cao siêu.
Đây chính là phương
cách và lý do tại sao Thiền Jhana Bậc Bốn được bổ sung thêm với năm pháp thuần
thục chính là căn bản hay là nguồn sức bật của việc thực hiện những phép lạ
(thần thông) đó. Như vậy an lạc tinh tế và được thanh tịnh ở đây tương đương
với xả (Upekkhā), chính vì thế được đề cập đến ở đây như là một đức tính của
thiền Jhana bậc bốn..
Còn nhiều giải thích
nữa, cũng đem lại hiệu quả cho là với việc đạt đến thiền bậc bốn thì thân xác
bụi trần của thiền sinh (có nghĩa là thân xác hữu hình) sẽ trở nên nhẹ nhàng và
bồng bềnh như một nắm bông. Đây là điều khiến cho thân xác dễ dàng và tự nhiên
để cho di chuyển tới được cõi Phạm Thiên. Giống hệt như nhúm bông được thổi bay
theo chiều gió. Trên đường bay đó, nếu người đó muốn đi bộ trên không người đó
sẽ tạo ra được một lối đi trên đó thông qua sức mạnh thiền dựa trên đất Kasiṇa.
Mặt khác, nếu người đó có thể quyết tâm dựa trên phong-kasiṇa. Thì ngọn gió này
có thể mang đi, hoặc dưới dạng một nhắm bông gòn hay như dạng một mũi tên do
người bắn cung bắn đi, điều này hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn của người đó.
Những giải thích ở
trên đã làm rõ bằng cách nào vị tỳ khưu đạt được thuần thục tâm ở các mức Thiền
khác nhau, hình như có vẻ xung khắc với luật tự nhiên được con người hiện đại
biết và hiểu được cho đến thời điểm này. Câu hỏi hiện nay là liệu một con người
còn có thể làm được điều đó hay không. Tuy nhiên ta thấy có hiện tượng rất
nhiều các thiền sinh nhập thiền đã cảm nghiệm được, đó là sau một giai đoạn tu
luyện nghiêm túc, và đạt đến được một mức độ tập trung tư tưởng nào đó
(one-pointedness) hình như đối với họ thì thân xác có thể bay bổng lên được.
Nhưng cho đến nay, trường hợp một thiền sinh kinh qua được những kinh nghiệm
như vậy thực sự đã bay bổng lên trời vẫn chưa thấy được ghi lại bao giờ. Tuy
nhiên theo ý kiến của tôi khả năng hiện tượng này có thể xảy ra không phải là
không có.
Những giải thích hướng thân xác về những sức mạnh
tâm
Một điều cần lưu ý đó
là, di chuyển trên không bằng thân xác thể lý hữu hình theo đoạn Pali được ghi
lại là “Kāyavasena cittaṃ pariṇāameti” nghĩa là “hướng(hay là xác định) tâm tới
sức mạnh của thân xác, trong khi đó di chuyển bằng tâm hay thân xác thần tiên,
tiếng Pali ghi lại là “cittavasena kāyaṃ pariṇāmeti” có nghĩa là hướng thân xác
tới sức mạnh tâm linh, điều này được giải thích như sau:
“Hướng (hay quyết
tâm) thân xác tới sức mạnh tâm ” gồm đặt thân xác dưới sức khống chế của tâm.
‘Biến thân xác trở thành nhậy cảm với sức mạnh tâm. Điều này khiến thân xác di
chuyển nhanh như tâm, đến nỗi không cần thời gian để di chuyển qua lại. Điều
này được ghi lại bằng tiếng Pali như sau: Kāyaṃ gahetvā citte āropeti
cittānugatikaṃ karoti sīghagamanaṃ, cittagamanaṃ hi sīghaṃ hoti.
Những đoạn văn trên
là những giải thích của Trưởng lão Buddhaghosa trong bản văn có tên l
Paramatthamañjusā(2/292) do Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) giải thích, còn có
một số giải thích ý hệt như vậy đối với hiệu quả đó như sau:
‘Đặt thân xác trên
tâm” có nghĩa là “quyết tâm bằng cách nhắc lại thân xác được tác tạo nên từ tro
bụi, đã biến thành một chủ đề được ghi lại trong “Pādakajhānacitta’ (cho là tâm
là bệ phóng thiền Jhana) để có thể thực hiện quyết tâm, ‘Mong rằng thân xác này
được giống như tâm này’ chính vì thế điều này đã khiến cho thân xác được khoác
lấy bản chất của tâm (khiến thân xác nhẹ nhàng và bồng bềnh như tâm tâm vậy.)
Lời dạy của Đức Phật
Điều cần lưu ý thêm
là ngoài những lời giải thích trên, còn có những lời dạy của Đức Phật như đã
được ghi lại trong Kinh Phật, rất ngắn gọn và cô đọng như sau: Yāva
Brahmalokāpi kāyena vasaṃ vatteti. Điều này có nghĩa là hướng tới (hay quyết
tâm) sức mạnh qua thân xác đến cõi Phạm Thiên.’ Câu trên xem ra bao gồm toàn bộ
những gì đáng nói, không những chỉ xác định xem có thể dùng sức mạnh thân xác
hay tâm. Một câu trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) còn đưa ra ý nghĩa như
sau: ‘Brahanaloke kāyena attano vasaṃ vatteti’ nghĩa đen là ‘Hướng sức mạnh của
mỗi chúng ta tới thân xác nơi cõi Phạm Thiên’
Những lời giải thích
của ngài Trưởng lão Xá-lợi Phất (Sārīputta)
Lời dạy của Đức Phật
được ghi lại ở trên xem ra hơi quá ngắn gọn và khó hiểu, Trưởng Lão Xá-lợi Phất
(Sārīputta)lại đưa ra những giải thích về hiệu quả có thể hướng sức mạnh qua
thể xác ngầm chứa một sự thật là nếu một vị tỳ khưu muốn đi vào cõi Phạm Thiên
với thân xác hữu hình, và thân thể của mình, ngài được yêu cầu hướng tâm đến
sức mạnh thể lý (Kāyavasena cittaṃ pariṇāameti kāyavasena cittaṃ adhiṭṭhati).
Nhưng nếu ngài muốn đến cõi đó bằng thân xác vô hình (có nghĩa là thân xác cõi
trời) ngài phải yêu cầu hướng tới tâm và thực hiện một điều quyết tâm để thân
xác của ngài phải đáp lại được với sức mạnh tâm (Cittavasena Kāyaṃ pariṇāneti
cittavasena kāyaṃ adhiṭṭhāti).
Từ nhũng giải thích
nêu trên do Trưởng Lão Xá-lợi Phất (Sārīputta) thực hiện. Chúng ta có thể giải
thích rằng: Để có thể đi tới cõi Phạm Thiên với thân xác vô hình hay thân xác
cõi trời, một quyết tâm phải được thực hiện dựa trên cơ sở sức mạnh Thiền Jhana
để tạo ra một Ý Sinh Thân, có khả năng di chuyển nhanh chóng như chính tâm vậy.
Người nào được thuần thục tâm sâu xa như thiền Jhana thì không khó khăn gì để
tạo và phóng ra được sức mạnh đó tới mục tiêu yêu cầu.
Đạt đến lạc tưởng và
khinh tưởng là điều vô cùng thiết yếu
Theo Trưởng Lão
Xá-lợi Phật (Sariputta) việc đạt đến lạc sung tưởng (Sukhasaññāa) và khinh
tưởng (Lahusaññā) là vô cùng thiết yếu để có thể di chuyển thiền sinh
(Aspirant) tới được cõi Phạm Thiên, cho dù thông qua thân xác hữu hình, hay bản
sao chép vô hình ý sinh thân. Lời tuyên bố của ngài như đã đề cập đến ở trên.
Các giai đoạn, “đáp
xuống (hay trú vào) tới lạc tưởng và khinh tưởng’ có nghĩa là thực hiện được
việc gia nhập cõi Phạm Thiên thông qua cả hai loại tưởng đều đi kèm theo với
tâm thần thông (iddhicitta) có nghĩalà tâm kỳ diệu to lớn dựa trên chủ để thân
xác (Sukhasaññañca lahusaññañca okkamatīti rūpākāyārammanena iddhicittena
sahajātaṃ sukhasaññaña lahusa ññañca okkamatīti. (trṅch trong Thanh Tṇnh Ḍạo
(Visuddhimagga) 2/245)
Điều khác biệt cơ bản
giữa việc gia nhập vào cõi Phạm Thiên bằng thân xác hữu hình và thể lý do ý
sinh thân, hay thiên thể chúng ta nên lưu ý ở đây. Trong trường hợp thứ nhất
(có nghĩa là bằng thân xác thô thiển) lúc này xuất hiện một tưởng nhẹ nhàng và
bay bổng đi kèm theo với tâm thần thông (iddhicitta) dựa trên cái gọi là
‘pādakajhāna’ là loại thiền Jhana trên hay là bệ phóng của mọi sức mạnh thần
thông.
Trong trường hợp một
vị tỳ khưu muốn tới cõi Phạm Thiên bằng ý sinh thân, hay là thân xác cõi trời
thì cũng phải trải qua hậu quả là trú vào lạc tưởng v khinh tưởng, đi kèm theo
tâm thần thông dựa trên thể xác. Tâm thần thông (iddhicitta) có nghĩa là tâm
được linh hoạt sẵn sàng thực hiện các phép lạ (thần thông). Điều này được đạt
đến thông qua mức độ thiền Jhana cao hơn.
Từ những giải thích ở
trên, ta có thể hiểu rằng nhập vào cõi Phạm Thiên thông qua ý sinh thân cần
thiết phải trú vào nhập thiền Jhana dựa trên thân xác thô thiển của ta. Điều
này chính là tạo ra, hay phát ra ý sinh thân như là một phương tiện di chuyển
tới đó. Mặt khác, để có thể đi tới cõi Phạm Thiên bằng thân xác, điều cần thiết
lại là rút vào nhập thiền Padakajhana như đã được bàn đến ở trên. Điều này gồm
khả năng thiền Jhana có thể biến thân xác thành nhẹ nhàng như một nắm bông.
Chính Đức Phật cũng
thường xác định khả năng này (trong Đại Phẩm Kinh (Mahāvāravagga) thuộc Tương
Ưng Bộ Kinh 19/ 363 như sau:
“Ôi Ananda, bất luận
khi nào Đấng Như Lai (Tathāgata) thiết lập được thân xác trên tâm và tâm trên
thể xác, trú vào lạc tưởng và khinh tưởng. Rồi thân xác Đấng Như Lai
(Tathāgata) trở nên nhẹ hơn bình thường và linh hoạt hơn (có nghĩa là dễ dàng
tuân thủ và sẵn sàng thích hợp với các mệnh lệnh của tâm) trở thành dễ dàng
linh hoạt, cơ động hơn và bóng láng rạng rỡ hơn v.v… ở vào thời điểm đó thì
thân xác của Đấng Như Lai (Tathāgata) có thể dễ dàng bay bổng lên. Giống như
một nhúm bông, vì nhẹ nhàng có thể trôi bồng bềnh trên không tuỳ theo ý muốn.”
Đối với những ai quan
tâm đến các đoạn nguyên thủy Pali, chúng tôi xin trích như sau:
“Yasmiṃ Ānanda samaye
Tathāgato kāyampi citte samādahati citampi kāye samādahati sukhasaññañca
lahussaññañca kāye okkamitvā okkamitvā viharati.
Tasmiṃ Ānanda samye
Tathāgatassa kāyo lahutaro ceva hoti mudutaro ca kammanīyataro ca
Tasmiṃ Ānanda samaye
Tathāgatassa kāyo appakasireneva pathaviya vehāsaṃ abbhuggacchiti seyyathāpi
Ānanda tūlapicu vā kappāsapicu va lakuko dhārupādāno appakasireneva paṭhaviyā
vehāsam abbhuggacchati”
Theo tập Chú giải,
đoạn “Kayampi citte samādạhati’: thiết lập thân xác trên tâm có nghĩa là hướng
thân xác và thiết lập trên tâm. Điều này có nghĩa là biến thân xác lệ thuộc vào
tâm, hướng thân xác tới bản chất hay điều kiện của tâm có nghia là
Mahaggatacitta. Tâm miệt mài hành thiền Jhana. Vào lúc này, tâm không còn thì
giờ để di chuyển đâu đó nữa. Khi thân xác được biến đổi thành bản chất của tâm.
thì lúc đó thân xác có thể vượt qua được với tốc độ tâm. (Kāyaṃ gahetvā citte
aropeti cittasannisitaṃ karoti cittitgatiyā peseti. Cittaṃ nāma mahaggatacittaṃ
gatigamanaṃ lahukiṃ hoti”
Với câu, “Citampi
kāye samādahati” có nghĩa là hướng tâm và nhập tâm vào thân xác.’ Đây chính là
biến tri tuệ lệ thuộc vào thân xác, hướng tâm tới bản chất và điều kiện của
thân xác, nghĩa là thân xác thô thiển. Việc di chuyển đi lại của thân xác này
vô cùng chậm chạp (Citaṃ gahetvā kāye aropeti kāyasannissitaṃ karoti kāyagatiyā
peseti. Kāyo nāma karajakāyo. Kāyagatigamanaṃ dandhaṃ hoti.)
Lạc tưởng và khinh
tưởng, có nghĩa là tri thức đi kèm theo với Tâm Thần Thông (Abhiññācitta)(có
nghĩa là trí tâm có khả năng thực hiện các phép lạ (thần thông)) điều đó được
gọi là lạc tưởng, là vì tâm này có thể thâm nhập được vào tới niềm sung sướng
tột độ đó và bình an thanh thản. Điều đó đựợc gọi là Lahusaññā là vì không còn
bị những vẩn đục đè nặng có thể tạo ra chậm trễ. (Sukhasaññañca Lahusaññañcāti
abhiññācittasahajātasuññāṢā santasukhasamannāgatattā sukhasaññā nāma hoti.
Kilesadandhāyitattāya ca abhāvā lahusaññā nāma --- (trṅch trong Samantapāsādika
3/ 368)
Tóm lại, toàn bộ
những gì được triển khai ở trên đều là những giải thích về giáo lý của Đức Phật
“để nhập thể xác nơi tâm và nhập tâm nơi thể xác’ Tất cả đều mang ý nghĩa giống
như các đoạn này “Để có thể đi tới cõi Phạm thiên giới (Brahmaloka) bằng thân
xác thô thiển. Điều cần thiết là hướng tâm tới, thực hiện quyết tâm để cho tâm
mặc lấy bản chất và điều kiện của thân xác. Ngược lại để có thể đi tới cõi Phạm
Thiên bằng ý sinh thân, điều cần là hướng thân xác và thực hiện quyết tâm để
cho thân xác có được những điều kiện và bản chất của tâm.
[1] Một Koti tương
đương với mười triệu.
[2] Bản dịch tiếng
Anh cũng được tìm thấy trong tiệm sách Mahamakut, Đường Phra Sumeru, Băng-cốc 10200.
[3] Hòa Thượng
Tipitaka Cūlanāga là một trưởng lão người Sri Lanka hầu như được biét sống
vào những năm 475-530 trước CN. Ngài là một trong số những đồ đệ của Trưởng lão
Tipiṭaka Cūla Sumanathera thuộc thiền viện Dipa. Ngài là người biên soạn nhiều
tác phẩm Chú Giải về Luật Tông (Vinaya) và Kinh Phật được ghi lại trong tập Chú
gải Uparipaṇṇasaka cho là ngài đã một lần thuyết pháp một bài có rất đông người
và cả các chư thiên nữa, khoảng một trăm ngàn người trong số họ đã đạt đến bậc
A-la-hán ngay sau bài giảng.
[4] So tassa brahmuno
purato rūpaṃ abhinimmināti manomayaṃ rūpaṃ sabbaṇgapaccanaṃ ahīnindriyaṃ.
[5] Theo tập chú giải từ “Vidhura” hàm chứa sự kiện cho là từ thời xa xưa Dhura
(trách nhiệm hay là hoạt động) thuyết pháp thì không có người nào vượt trội hơn
ngài. (đoạn bằng tiếng Pali cho lời khẳng định này như sau: Vidhura
Vigatadhuro. Aññehi saddhiṃ asadisoti attho)
Cuốn tự điển Pali Anh
ngữ do bà Rhys Davids cũng đưa ra giải thích này từ tập chú giải: - Chính vì
thế tôi quyết định dịch từ mang ý nghĩa là “không ai sánh bằng” lỗi lạc nhất.
Hay là không ai sánh bằng. Vì đối với ngài không cần sử dụng bất kỳ cố gắng nào
để đạt đến khả năng độc nhất của ngài đó.
Người ta kể lại rằng
ý nghĩa căn bản của cả hai từ “tài giỏi” và ý nghĩa của từ ‘Vidhura’ có thể
được dùng để thay cho từ ‘Vidura’ có nghĩa là một học giả Ấn Độ hay là người có
uy tín trong bất kỳ lãnh vực kiến thức nào.
[6] Con số ở đây cũng
như nhiều chỗ khác, chỉ mang tính cách thành ngữ, chứ không có giá trị con số
chính xác tuyệt đối.
[7] Xem phụ chú cuối
trang 348-349 bản dịch trang 1 file 8.