Phật học cơ bản
Chánh Pháp và Hạnh Phúc
Thích Minh Châu NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO –2001
08/04/2554 05:40 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

VAI TRÒ CỦA NGƯỜI CÓ TRÍ,

CỦA TRÍ TUỆ TRONG ĐẠO PHẬT

 

Mục đích của đạo Phật là diệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạc và hạnh phúc.  Mục đích của đạo Phật là giải thoát và giác ngộ, và chỉ có trí tuệ (Pannà) mới là phương tiện duy nhất đưa loài Người đến bờ giải thoát và giác ngộ.

Do vậy vai trò của người có trí và vai trò của trí tuệ chiếm cứ vị trí then chốt trong mọi lời dạy của đức Bổn Sư chúng ta. Và chúng ta có thể nói đạo Phật là đạo của người có trí, là đạo của tuệ giác để tìm cho dược một định nghĩa thỏa đáng cho đạo Phật.

Trước hết chúng ta nên phân biệt giữa người có trí thức như thông thường được hiểu và người có trí tuệ như đạo Phật thường định nghĩa. Người có trí thức là người có thể có một tri thức uyên bác về một vấn đề gì, có thể phân tích trình bày vấn đề ấy một cách khúc chiết và triệt để, nhưng người ấy là người chỉ có biết chớ không có hành, và người ấy đối với vấn đế ấy vẫn có thể bị chi phối, không được tự tại. Ví như một người có thể hiểu biết rất nhiều, về vấn đề rượu, hiểu rượu gồm có những chất liệu gì, tác động của rượu đến với cơ thể như thế nào, các sự nguy hại của rượu như thế nào. Người ấy gọi là người có trí thức về rượu nhưng người ấy vẫn uống rượu, vẫn bị say ruợu, vẫn bị rượu chi phối. Như vậy, người ấy chưa có trí tuệ về rượu. Trái lại, một người hiểu rõ được rượu là gì, biết rõ được sự nguy hại của rượu, lại có khả năng không bị rượu chi phối, không uống rượu, không nghiện rượu, không say rượu, vượt ra khỏi sự chi phối của rượu. Như vậy người ấy được xem là người có trí tuệ về rượu. Có người hỏi, nếu có người không có tri thức về rượu, nhưng không uống rượu, người ấy có được xem là có trí tuệ không, lẽ dĩ nhiên là không. Người ấy vẫn hưởng được những lợi ích do không uống rượu đưa đến, như không say rượu, không nghiện rượu do cử chỉ không uống rượu của mình. Nhưng rất có thể, trong một trường hợp đặc biệt nào đó, vì thiếu khả năng đối trị với sự cám dỗ của rượu, vị ấy sẽ bắt đầu uống rượu, đi đến say rượu và nghiện rượu. Với sự phân biệt này chúng ta mới hiểu được định nghĩa người có trí như đã được đức Phật định nghĩa rất rộng rãi trong những lời dạy của Ngài.

Tăng I, trang 113 nêu rõ sự sai khác một trời một vực giữa người ngu và người trí: “Thành tựu ba pháp, người ngu được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Thành tựu ba pháp, người trí được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện” .

Một sự sai khác rõ rệt nữa giữa người ngu và kẻ trí là đối với các cảm thọ. Người ngu khi gặp khổ thọ về thân, thời sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh. Đức Phật ví dụ như người rơi vào vực thẳm, không đứng trên bờ, không đạt chỗ chân đứng an toàn. Còn bậc trí, đối với khổ thọ về thân, thời “Không sầu muộn, không than van, không khóc lóc, không đập ngực, không đi đến bất tỉnh”. Như vậy đức Phật dạy vị ấy được gọi là: “Bậc Thánh đệ tử nghe nhiều đã đứng trên bờ vực thẳm, đã đạt tới chỗ chân đứng an toàn”. (Tương IV, 212). Bậc Đạo Sư lại nói thêm. Người ngu si nghe ít, khi cảm xúc khổ thọ, thời sầu muộn, than van... đi đến bất tỉnh, như vậy cảm thọ hai loại cảm thọ, cảm thọ về thân và cảm thọ về tâm. Đức Phật ví như người bị bắn trúng hai mũi tên, vừa đau khổ về thân vừa đau khổ về tâm. Lại nữa, người ngu si ít nghe, khi cảm xúc khổ thọ, cảm thấy sân hận nên sân tùy miên tồn tại và tăng trưởng. Vị ấy tìm sự xuất ly khỏi khổ thọ bằng cách hoan hỷ dục lạc, do không tìm được một xuất ly nào khác. Do hoan hỷ dục lạc ấy, tham tùy miên đối với lạc thọ tồn tại và tùy tăng. Vị ấy không như thật biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các cảm thọ ấy. Do vậy vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ tồn tại và tùy tăng. Như vậy, nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, cảm giác lạc thọ, cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy cảm giác như người bị trói buộc. Ở đây, đức Phật dạy: “Người ngu si nghe ít, bị trói buộc bởi sanh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng người ấy bị trói buộc bởi đau khổ”. (Trang 213-214).

Còn đối với bậc Thánh đệ tử nghe nhiều, khi cảm xúc khổ thọ, không có sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh. Vị ấy chỉ cảm giác một cảm thọ, tức cảm thọ về thân, không cảm thọ về tâm. Đức Phật ví như người bị bắn bởi một mũi tên, chỉ đau khổ về thân, không đau khổ về tâm. Lại nữa, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, khi cảm xúc khổ thọ, không cảm thấy sân hận nên sân tùy miên không tồn tại tăng trưởng. Vị ấy tìm được sự xuất ly ra khỏi khổ thọ, ngoài dục lạc. Vị ấy không hoan hỷ dục lạc, nên tham tùy miên đối với dục lạc không có tồn tại, không có tùy tăng. Vị ấy như thật tuệ tri sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hại và sự xuất ly của những cảm thọ ấy. Do vậy vô minh tuy miên  đối với bất khổ bất lạc thọ không tồn tại, không có tùy tăn. Như vậy, vị Thánh đệ tử nghe nhiều ấy cảm giác khổ thọ, cảm giác lạc thọ, cảm giác bất khổ bất lạc thọ, không có như người bị trói buộc. ở đây, đức Phật dạy: “Vị Thánh đệ tử nghe nhiều, không bị trói buộc bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói người ấy không bị trói buộc bởi đau khổ”. (Trang 214-215).

Được hỏi sự sai khác giữa người ngu và bậc Hiền trí, đối với các thân do vô minh che đậy, do ái phược ràng buộc khởi lên quan điểm có thân này, có danh sắc ở ngoài. Do duyên thân này, có sáu xúc xứ và có cảm thọ lạc khổ. Vậy có sự sai khác gì giữa bậc Hiền trí và kẻ ngu? Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc, thân này của người ngu được sanh khởi. Vô minh ấy, người ngu không đoạn tận. Tham ái ấy người ngu không tận trừ. Vì cớ sao? Này các Tỳ kheo, người ngu sống Phạm hạnh không phải vì chân chánh đoạn tận khổ đau. Do vậy, người ngu, khi thân hoại mạng chung, đi đến một thân khác. Do đi đến một thân khác, vị ấy không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng vị ấy không thoát khổ đau”. (Tương ưng II, 28-29).

“Và này các Tỳ kheo, bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc, thân người Hiền trí được sanh khởi. Vô minh ấy người Hiền trí đoạn tân. Tham ái ấy, người Hiền trí tận trừ. Vì cớ sao? Này các Tỳ kheo, người Hiền trí sống Phạm hạnh, vì chân chính tận trừ khổ đau. Do vậy người Hiền trí khi thân hoại mạng chung không đi đến một thân khác. Do không đi đến một thân khác, vị ấy giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng vị ấy thoát khỏi đau khổ”. (Tương II, 28-29).

Một phân biệt tế nhị nữa là người có trí ưa thích im lặng như biển lớn, như cái gì đầy tràn, như ao đầy nước, còn kẻ ngu thì ồn ào như khe núi, như cái gì trống rỗng, như ghè vơi nước:

“Hãy học các dòng nước

Từ khe núi vực sâu;

Nước khe núi chảy ồn,

Biển lớn đầy im lặng.

Cái gì trống kêu to,

Cái gì đầy yên lặng,

Ngu như ghè vơi nước,

Bậc trí như ao đầy” (Tiểu Bộ I, 106)

Có người hỏi vì sao bậc có Trí sống Phạm hạnh rừng sâu, ăn một ngày một bữa, lại có dung sắc thù diệu, còn kẻ ngu lại héo mòn, như lau xanh rời cành. Đức Phật trả lời với bài kệ:

“Thường sống trong rừng núi,

Bậc Thánh sống Phạm hạnh

Một ngày ăn một bữa,

Sao sắc chúng thù diệu?

Không than việc đã qua,

Không mong việc sắp đên,

Sống ngay với hiện tại,

Do vậy sắc thù diệu.

Do mong việc sắp tới,

Do tham việc đã qua,

Nên kẻ ngu héo mòn,

Như lau xanh rời cành”." (Tương Ưng I, 6)

Một số sự sai biệt nữa giữa người ngu kẻ trí được khéo diễn tả trong một số bài kệ sau đây:

“Người ngu si thiếu trí,

Chuyên sống đời phóng dật,

Người trí không phóng dật,

Như giữ tài sản quý”. (Pháp Cú 26)

“Người trí dẹp buông lung

Với hạnh không phóng dật,

Leo lầu cao trí tuệ,

Bậc trí không âu lo,

Nhìn chúng sinh sầu muộn,

Chẳng khác đứng núi cao,

Nhìn kẻ ngu đất bằng!” (Pháp Cú 28)

Đối với đời, người ngu kẻ trí có thái độ thật sai khác:

“Hãy đến nhìn đời này

Như xe vua lộng lẫy,

Người ngu mới tham đắm,

Bậc trí nào đắm say”. (Pháp Cú 7)

Nhiều khi sự sai biệt giữa người trí kẻ ngu, sai biệt chỉ bằng gang tấc, tiến tới thành người ngu, dừng lại là bậc trí:

“Người ngu nghĩ mình ngu,

Như vậy thành có trí,

Người ngu tưởng có trí,

Thật xứng gọi chí ngu”. (Pháp Cú 64)

Một sự sai khác, khá rõ rệt là thái độ người ngu kẻ trí đối với Chánh pháp:

“Người ngu dù trọn đời,

Thân cận người có trí,

Không biêt được Chánh pháp

Như muỗng với vị canh.

 

Người trí dù một khắc,

Thân cận người có trí,

Biết ngay chân diệu pháp,

Như lưỡi với vị canh”. (Pháp Cú 64-65)

Ở nơi đây chúng ta cũng đã thấy vì sao, người ngu hay xuyên tạc lời dạy của đức Phật, còn người Hiền trí bao giờ cũng giữ một thái độ đứng đắn, trung thành với lời dạy của Ngài: “Này các Tỳ kheo, có hai hạng người này hay xuyên tạc Như Lai. Thế nào là hai? Người nêu rõ Như Lai có nói, có thuyết là Như Lai không nói không thuyết. Và người nêu rõ Như Lai không nói không thuyết là Như Lai có nói có thuyết”.

“Này các Tỳ kheo, có hai hạng người này không xuyên tạc Như Lai. Thế nào là hai? Người nêu rõ Như Lai có nói có thuyết là Như Lai có nói có thuyết. Và người nêu rõ Như Lai không nói không thuyết là Như Lai không nói không thuyết”.

                                                         (Tăng I, 72-73)

Khi chúng ta đã hiểu được định nghĩa người có trí ngang qua một số lời dạy của đức Phật, chúng ta nay có khả năng trình bày các định nghĩa căn bản của trí tuệ (Pannà, prajnà) trong đạo Phật và khả năng của trí tuệ đưa đến giác ngộ và giải thoát.

Trước hết là một số định nghĩa căn bản của trí tuệ: “Như thế nào được gọi là tri tuệ? Vì có tuệ tri, vì có tuệ tri nên được gọi là tri tuệ. Tuệ tri gì? Tuệ tri (Pajànàti) đây là Khổ. Tuệ tri đây là Khổ tập. Tuệ tri đây là Khổ diệt. Tuệ tri đây là con đường đưa đến Khổ diệt. Vì tuệ tri, vì tuệ tri nên được gọi là tri tuệ. (Trung I, 293)”. Như vậy tri tuệ là biết với tri tuệ, biết sự kiện, biết sự kiện tập khởi, biết sự kiện đoạn diệt, biết con đường đưa đến sự kiện đoạn diệt. Mở rộng thêm định nghĩa này là tuệ tri vị ngọt (Assàda), tuệ tri sự nguy hiểm (àdinavà), và tuệ tri sự xuất ly (nissarana) của các pháp và do vậy nói chung có tất cả bảy lãnh vực cần phải tuệ tri, đối với một pháp, hay đối với bất cứ sự kiện nào, dù tốt hay xấu cũng vậy. Như lấy dục làm đối tượng, thời phải tuệ tri dục, dục tập khởi, dục đoạn diệt, con đường đưa đến dục đoạn diệt, vị ngọt của dục, sự nguy hiểm của dục và sự xuất ly ra khỏi dục. Biết như vậy mới gọi là tuệ tri.

Một định nghĩa nữa của tri tuệ được đề cập đến. “Thế nào là tuệ lực? Ở đây, vị Thánh đệ tử có tri tuệ, thành tựu sự tri tuệ về sanh diệt, với sự thể nhập bậc Thánh vào con đường đoạn tận khổ đau (Tăng II, B trang 28)”. Tri tuệ về sanh diệt tức là tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn diệt các pháp, như trước chúng ta đã thấy. Nay có thêm định nghĩa mới là sự thể nhập bậc Thánh vào con đường đoạn tận khổ đau. Danh từ Pàli chuyên môn là Ariyàya nibbedhikàya sammàdukkha-kkhaya-gàminiyà (D. III, 237). Ở đây chữ Nibbedhikàya có hai cách dịch, một là sự thể nhập, đi sâu vào con đường có khả năng đoạn tận khổ đau, tức là có khả năng giải thoát khỏi đau khổ. Cách dịch thứ hai là có khả năng đâm thủng dục lậu hữu lậu, vô minh lậu, hay tham, sân, si để cuối cùng đoạn tận khổ đau. Như vậy tri tuệ, ngoài khả năng tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn diệt, còn có khả năng đâm thủng được vô minh để cuối cùng được giải thoát. Một định nghĩa nữa lại càng làm rõ rệt hơn càng nâng diệu dụng của tri tuệ (Pannà). “Tri tuệ có nghĩa là thắng tri (abhinnàttha), có nghĩa là liễu tri (parinnattha), có nghĩa là đoạn tận (pahànattha)”.

Như vậy tri tuệ có khả năng thắng tri, tức là biết với Thiền định, và Thiền định đây là Thiền định bất động thứ tư. Lại có khả năng liễu tri với sự hiểu biết rốt ráo trọn vẹn; và cuối cùng có khả năng đoạn tận các lậu hoặc, dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, đoạn diệt được tham, sân, si, chấm dứt khổ đau. Cho được rõ ràng hơn, chúng ta cần phân biệt tưởng tri (sanjànàti) nhờ tưởng (sannà) đưa đến, thức tri (vijànàti) do thức (vinnàna) đưa đến, và ý tri (Jànàti) do ý (manas) đưa đến. Tưởng tri, thức tri và ý tri là ba sự hiểu biết thông thường của thế gian, đưa đến sự hiểu biết về khoa học, kỹ thuật, triết học, bác học v.v... Đạo Phật đóng góp thêm thắng tri và tuệ tri sự hiểu biết ngang qua Thiền định, tạo thêm sức mạnh cần thiết để con người làm chủ được bản thân, làm chủ được hoàn cảnh. Tuệ tri đưa đến một hiểu biết toàn diện, hoàn mãn, có khả năng đâm thủng vô minh, đoạn tận tham, sân, si, đưa đến chấm dứt khổ đau. Nhưng tri tuệ chưa phải là cứu cánh mà chỉ là phương tiện đưa đến giải thoát. Với tri tuệ như vậy, vị ấy sanh nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, từ bỏ và cuối cùng đưa đến giải thoát, theo tiến trình như sau: “Do nhàm chán nên ly tham; do ly tham nên giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: “Ta đã giải thoát”. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành những việc nên làm đã làm. Nay không còn trở lui trạng thái này nữa (Tương ưng IV, 29)””.

Như vậy vai trò của trí tuệ là lựa chọn các đối tượng để quán tri, để tuệ tri, và nhờ tuệ tri mới đưa đến nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, từ bỏ và cuối cùng là giải thoát. Các đối tượng rất nhiều, tùy theo pháp môn lựa chọn, tùy theo căn cơ của vị hành giả nhưng nếu đối tượng có khác, pháp môn tu tập có khác, tiến trình giải thoát có thể xem là giống nhau hay gần giống nhau.

Sau đây là một số tiến trình giải thoát, trích thuật từ kinh tạng Pàli, nói lên vai trò của trí tuệ đưa đến giải thoát và giải thoát tri kiến. Trong kinh Xà Dụ, đối tượng cần phải tuệ quán là năm thủ uẩn: Sắc, thọ, tường, hành, thức, bất cứ năm thủ uẩn nào, quá khứ, vị lai, hiện tại; nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả năm thủ uẩn cần phải được tuệ quán: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi. Nhờ tuệ quán như vậy, vị Đa văn Thánh đệ tử yểm ly sắc, thọ, tướng, hành, thức. Do yểm ly nên ly tham, do ly tham nên được giải thoát. Trong sự giải thoát khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã được giải thoát”. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”. (Trung I, 138b).

Trong Đại Kinh Mã ấp, đối tượng cần phải tuệ quán là khổ và các lậu hoặc. Vị hành giả cần phải tuệ tri: “Đây là Khổ”; “Đây là Khổ tập”; “Đây là Khổ diệt”, “Đây là con đường đưa đến Khổ diệt”. “Đây là những lậu hoặc”; “Đây là lậu hoặc tập khởi”; “Đây là những lậu hoặc đoạn diệt”; “Đây là con đường đưa đến lậu hoặc diệt”. Nhờ tuệ tri như vậy, hiểu biết như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi Dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát”. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm. Sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa”. (Trung I, trang 279).

Trong kinh Đoạn giảm, đối tượng cần phải tuệ quán là các sở kiến. “Này Cunda, những loại sở kiến này khởi lên trên đời, hoặc liên hệ đến ngã luận hoặc liên hệ đến thế giới luận, chỗ nào những sở kiến này tiềm ẩn và chỗ nào những sở kiến này hiện hành, chỉ có cách như thật quán sát chúng với trí tuệ rằng: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi. Có vậy thời có sự đoạn trừ các sở kiến ấy có sự xả ly những sở kiến ấy”. (Trung I, 40-40a).

Trong kinh Mật Hoàn, đối tượng được lựa chọn là các vọng tưởng hý luận (papancasan-nasankhà): “Này các Tỳ kheo, do bất cứ nhân duyên gì, một số hý luận vọng tưởng ám ảnh một người. Nếu ở đây không có gì đáng tùy hỷ, đáng đón mừng, đáng chấp thủ, thời như vậy là sự đoạn tận tham tùy miên, sự đoạn tận sân tùy miên, sự đoạn tận mạn tùy miên, sự đoạn tận hữu ái tùy miên, sự đoạn tận vô minh tùy miên, sự đoạn tận chấp trượng, chấp kiến, đấu tranh, tránh tranh, luận tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ. Chính ở nơi đây, những ác bất thiện pháp này đều được tiêu diệt, không có dư tàn” . (Trung I, 110).

Trong kinh Song Tầm, đức Phật kể lại kinh nghiệm của Ngài khi Ngài chưa giác ngộ, Ngài đã sử dụng bất thiện tầm và thiện tầm như thế nào để hành trì Giới, Định, Tuệ, cuối cùng đưa đến giải thoát, giác ngộ. Ngài chia các loại tầm ra hai loại: Bất thiện tầm và dục tầm, sân tầm, hại tầm, và thiện tầm là ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm. Khi dục tầm, sân tầm, hại tầm khởi lên, vị Bồ Tát tuệ tri: “Các bất thiện tầm này khởi nơi Ta, và các bất thiện tầm này đưa đến tự hại đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết Bàn”. Khi Bồ Tát khởi lên suy tư như vậy thời các bất thiện tầm biến mất, và vị Bồ Tát tiếp tục từ bỏ, tẩy trừ, chấm dứt các bất thiện tầm khởi lên.

Khi ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm khởi lên, vị Bồ Tát tuệ tri: “Các thiện tầm này khởi nơi Ta; và các thiện tầm này khởi lên nơi Ta; và các thiện tầm này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền não, dưa đến Niết Bàn. Nếu ban đêm, Ta suy tư về ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm, không phải từ nhân duyên ấy, Ta thấy sợ hãi. Nếu ban ngày, Ta suy tầm suy tư về ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm, không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hãi. Và nếu Ta suy tầm suy tư quá lâu thân thể Ta có thể mệt mỏi. Khi thân mệt mỏi, thì tâm bị dao động. Khi tâm bị dao động, thì tâm xa lìa định tĩnh. Rồi tự nội thân, Ta trấn an tâm, trấn định tĩnh. (Trung I, 116-116A)”. Với tâm định tĩnh như vậy, vị Bồ Tát đoạn trừ năm triền cái, chứng sơ Thiền, nhị Thiền, tam Thiền, tứ Thiền; chứng Túc mạng trí, Thiên nhãn trí, Lậu tận trí và cuối cùng được giải thoát giác ngộ”.

Nay chúng tôi đề cập đến lý duyên khởi để giải thích vai trò của trí tuệ, lấy con người làm đối tượng để tuệ quán, và từ nơi đây, vừa tìm được công thức đưa đến sự có mặt của con người và sự tập khởi của toàn bộ năm thủ uẩn, vừa tìm được công thức duyên diệt, đưa đến sự chấm dứt sanh tử và toàn bộ năm thủ uẩn này, như đã được diễn tả trong ái Tận Đại Kinh (Trung I trang 261b).

Trước hết, đức Phật đặt vấn đề sự có mặt của con người (Bhùta), sự có mặt này lấy bốn thức ăn làm nhân duyên, làm tập khởi, làm sanh chủng, làm hiện hữu, và một khi bốn món ăn này đoạn diệt thì cũng chấm dứt sự có mặt của sinh vật này. Sinh vật đã do bốn món ăn làm tập khởi ái do thọ làm tập khởi, thọ do xúc làm tập khởi, xúc do sáu xứ làm tập khởi, sáu xứ do danh sắc làm tập khởi danh sắc do thức làm tập khởi, thức do hành làm tập khởi hành do vô minh làm tập khởi. Như vậy duyên vô minh có hành, duyên hành có thức, duyên thức có danh sắc, duyên danh sắc có sáu xứ, duyên sáu xứ có xúc, duyên xúc có thọ, duyên thọ có ái, duyên ái có thủ, duyên thủ có hữu, duyên hữu có sanh, duyên sanh có già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ năm thủ uẩn.

Như vậy, do duyên sanh nên có già chết, do duyên hữu nên có sanh, do duyên thủ nên có hữu, do duyên ái nên có thủ, do duyên thọ nên có ái, do duyên xúc nên có thọ, do duyên sáu xứ nên có xúc, do duyên danh sắc nên có sáu xứ do duyên thức nên có danh sắc, do duyên hành nên có thức, do duyên vô minh nên có hành. Như vậy đức Phật xác chứng duyên sanh của toàn bộ khổ uẩn tức là con người với công thức: “Cái này có mặt, cái đây có mặt. Cái này sanh, cái đây sanh”. (Imasmin sati, idam hoti, Imass uppadà, idam uppajjati).

Từ lý duyên sanh, đức Phật đi đến lý duyên diệt. Do vô minh đoạn diệt xả ly một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt, do thức diệt nên danh sắc diệt, do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt, do sáu xứ diệt nên xúc diệt, do xúc diệt nên thọ diệt, do thọ diệt nêu ái diệt, do ái diệt nên thủ diệt, do thủ diệt nên hữu diệt, do hữu diệt nên sanh diệt, do sanh diệt, nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ năm thủ uẩn diệt.

Như vậy do sanh diệt nên già chết diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt, do thủ diệt nên hữu diệt, do ái diệt nên thủ diệt, do thọ diệt nên ái diệt, do xúc diệt nên thọ diệt, do sáu xứ diệt nên xúc diệt, do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt, do sáu xứ diệt nên xúc diệt, do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt, do thức diệt nên danh sắc diệt, do hành diệt nên thức diệt, do vô minh diệt nên hành diệt. Như vậy đức Phật xác chứng lý duyên diệt với công thức: “Cái này không có mặt, cái đây không có mặt. Cái này diệt, cái đây diệt”. (Imasmin asati, idam na hoti. Imassa nirodhà, idam nirajjati). Vị hành giả, với trí tuệ biết được hai công thức duyên sanh và duyên diệt, nên sau khi giữ giới, sau khi chứng bốn Thiền định, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, vị ấy không tham ái đối với sáu trần khả ái, không ghét bỏ đối với sáu trần không khả ái, vị ấy sống an trú niệm trên thân, với một tâm vô lượng. Vị ấy như thật tuệ tri tâm giải thoát tuệ giải thoát. Chính nhờ chúng, các bất thiện pháp được trừ diệt một cách hoàn toàn. Như vậy, vị ấy từ bỏ thuận ứng nghịch ứng, có cảm thọ nào khởi lên, vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không đắm trước thọ ấy. Vì vị ấy không có tùy hỉ, không có hoan nghênh, không có đắm trước, nếu có dục hỷ khởi lên, đối với các cảm thọ, dục hỷ ấy được trừ diệt không có dư tàn. Do dục hỷ của vị ấy diệt nên thủ diệt, do thủ diệt nên hữu diệt, do hữu diệt nên sanh diệt, do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ năm thủ uẩn này.

Như vậy, với những đối tượng sai khác như năm thủ uẩn, khổ và các lậu hoặc, các sở kiến, các vọng tưởng hý luận, các bất thiện tầm và các thiện tầm, lý duyên khởi, trí tuệ đóng một vai trò then chốt trong trách nhiệm tuệ tri các đối tượng, liễu tri các đối tượng, cuối cùng đoạn tận được các lậu hoặc để chứng quả A-la-hán.

Để nêu rõ định nghĩa và vai trò của trí tuệ hơn nữa, chúng tôi ghi chép sau đây một vài câu Phật dạy trích dẫn từ kinh tạng Pàli để chứng minh các sự giải thích trên:

“Tất cả hành vô thường

Với Tuệ, quán thấy vậy,

Đau khổ được nhàm chán,

Chíhh con đường thanh tịnh.

Tất cả hành khổ đau,

Với Tuệ, quán thấy vậy,

Đau khổ được nhàm chán,

Chính con đường thanh tịnh.

Tất cả pháp vô ngã,

Với Tuệ, quán thấy vậy,

Đau khổ được nhàm chán,

Chính con đường thanh tịnh”.

                                      (Pháp Cú 277, 278, 279)

 

“Thấy Khổ và Khổ tập

Thấy sự khổ vượt qua,

Thấy Đường Thánh tám nghành,

Đưa đến khổ não tận”. (Pháp Cú 191)

 

“Mắt thịt, mắt chư Thiên,

Vô thượng, mắt trí tuệ,

Cả ba loại mắt ấy

Được bậc Vô thượng nhân,

Đã tuyên bố trình bày ...

Từ đây trí khởi lên.

Tuệ nhãn là tối thượng

Ai chứng được mắt ấy

Giải thoát mọi khổ đau”.

(Phật Thuyết Như vậy, Trang 457-458)

 

 

Xem phần tiếp theo

--- o0o ---