Thay lời kết
Thuở nhỏ, tôi rất sợ ma. Thỉnh thoảng, anh tôi thường sai tôi đi mua một 
bao thuốc lá hoặc cục nước đá ở một quán nhỏ cuối xóm. Đường đi băng qua 
khoảng đất trống vắng vẻ dài khoảng vài trăm mét, và quả thật là một cực 
hình cho tôi khi những chuyến đi ấy rơi vào ban đêm.
Tôi còn nhớ, để xua đi nỗi sợ của mình, tôi thường lắc cục nước đá trong 
cái ca nhôm lớn để phát ra tiếng kêu lanh canh khi chạy băng qua khoảng 
đất vắng. Nhưng sự thật thì cách ấy cũng không làm cho tôi bớt sợ. Vì 
thế, tôi thường dừng lại một lát ở đầu khoảng đất trống để lấy sức, rồi 
“chạy như ma đuổi” qua khoảng trống đó, mắt nhìn xuống đoạn đường ngay 
trước mắt mà không dám liếc quanh hay ngẩng lên, cho tới khi đến được 
ngôi nhà đầu tiên có ánh đèn ở phía bên kia khoảng đất trống mới dừng 
lại thở hổn hển vì mệt.
Tâm trạng sợ sệt đó kéo dài cho đến một ngày kia, khi tôi cảm thấy căng 
thẳng đến mức không chịu nổi và quyết định... không sợ nữa. Lần ấy, tôi 
cũng dừng lại ở đầu khoảng đất trống, nhưng không phải để lấy sức chạy, 
mà là chuẩn bị một tâm trạng hết sức bình tĩnh, rồi sau đó tôi chậm rãi 
đếm từng bước trên đoạn đường “ghê rợn” đó. Trong đêm tối tôi vẫn nhìn 
ra được từng gốc cây, từng đoạn rào hai bên ven đường. Tôi chầm chậm 
bước đi và tự nhủ trong lòng: “Nếu có gì xảy ra thì cứ xảy ra đi, để xem 
nó đáng sợ đến mức nào, còn hơn là ngày nào cũng phải sợ.”
Tất nhiên là chẳng có gì xảy ra trên đường cả, nhưng trong lòng tôi thì 
thực sự đã có sự chuyển biến. Sau lần đó, tôi không còn “sợ ma” khi đi 
qua khoảng đất trống ấy vào ban đêm nữa. Vì tôi nhận ra được rằng sự sợ 
hãi của mình trước đó là hoàn toàn vô căn cứ!
Trong đời sống, mỗi chúng ta đều đã từng hoặc đang “sợ ma”. Chỉ có điều 
là “con ma” của mỗi người không giống nhau. Có thể đó là một nỗi khiếp 
sợ không duyên cớ đã hình thành từ thuở nhỏ và đeo đuổi chúng ta, cũng 
có thể là một vấn đề nào đó mà ta chưa từng đối mặt... Nhưng phổ biến 
nhất là nỗi lo sợ về những gì sẽ xảy đến cho chúng ta trong cuộc sống, 
bởi ta không có gì để đảm bảo được là cuộc sống sẽ luôn xuôi chèo mát 
mái... 
Mỗi người chúng ta đều có thể tự phân tích nội tâm để nhận ra “con ma” 
mà ta đang sợ. Và cho dù có vô số “con ma” khác nhau trong cuộc sống 
này, nhưng vẫn luôn có một điểm chung là chúng thật ra không hề đáng sợ 
nếu chúng ta dám một lần đối diện với chúng.
Xin đừng hiểu nhầm là tôi đang phủ nhận một sự hiện hữu nào đó sau khi 
chết. Thứ nhất, ở đây tôi không đề cập đến điều đó. Thứ hai, cũng giống 
như tất cả những người khác còn đang sống, tôi hoàn toàn không có khả 
năng đưa ra một sự xác nhận hay phủ nhận vấn đề này. Điều tôi đang đề 
cập đến chỉ đơn giản là cái tâm trạng “sợ ma” mà hầu hết chúng ta đều đã 
từng trải qua khi còn nhỏ, và thậm chí vẫn còn khá phổ biến ngay trong 
thế giới của những người trưởng thành. Khi chúng ta “sợ ma” như thế, ta 
luôn hình dung có một “con ma”, trong khi thực tế thì ta chưa bao giờ 
nhìn thẳng nội tâm và phân tích xem “con ma” ấy là gì?
Khi tổ Đạt-ma lần đầu tiên gặp Thần Quang, vị này đã khẩn thiết chặt tay 
cầu đạo, mong được nghe những lời chỉ dạy từ Tổ sư. Được Tổ sư nhận lời, 
Thần Quang liền thưa hỏi: “Tâm con không an, nhờ thầy an tâm cho.” (Đệ 
tử tâm bất an. Khất sư dữ ngã an tâm.)
Tổ sư nói: “Ngươi đưa tâm ra đây, ta an tâm cho ngươi.” (Tương tâm lai 
ngã dữ nhĩ an.)
Thần Quang sau một lúc suy nghĩ đáp: “Con tìm tâm khắp nơi mà không 
được.” (Mịch tâm liễu bất khả đắc.)
Tổ sư nói: “Ta an tâm cho ngươi xong rồi đó.” (Ngã dữ nhĩ an tâm cánh.)
Thần Quang nhân đó bừng hiểu được vấn đề, được Tổ sư đổi tên cho là Huệ 
Khả, sau làm Tổ thứ hai của Thiền tông Trung Hoa.
Khi chúng ta ôm trong lòng những nỗi sợ hãi vô căn cứ, tâm chúng ta luôn 
ở trong trạng thái bất an. Chúng ta chạy quanh tìm kiếm những giải pháp 
này nọ để xua tan đi nỗi lo sợ, bất an của mình. Khi không làm được điều 
đó, chúng ta hốt hoảng cầu cứu nơi người khác. Nhưng sự thật là không ai 
có thể giúp ta được điều gì cả, bởi những nỗi sợ đó chỉ là của riêng ta. 
Cách duy nhất để giải quyết vấn đề là ta phải tự mình đối mặt với nó.
Khi Tổ Đạt-ma bảo Thần Quang “đưa tâm ra đây”, thì yêu cầu này của ngài 
đồng nghĩa như một câu hỏi quật thẳng vào vấn đề: “Sự bất an của ông là 
gì? Thật ra thì ông đang lo sợ điều gì?” Và Thần Quang ngay đó đã hiểu 
được ý chỉ của Tổ sư, quay về tự tâm để nhìn thấy được rằng sự bất an, 
những nỗi lo sợ của mình vốn là không thật có. Ngay khi ông đối mặt và 
nhận ra điều này, Tổ sư liền xác định: “Ta an tâm cho ngươi xong rồi.”
Thiên đường, địa ngục, việc lành, việc dữ... những điều đó luôn quay 
quắt trong ta từ khi bắt đầu có được nhận thức đầy đủ về cuộc sống. Cho 
dù ta luôn mong muốn vươn lên hoàn thiện, nhưng trong đời sống thực tế 
này, ta không tránh khỏi những lúc lỗi lầm. Thường xuyên tạo tác các 
nghiệp thiện ác trong đời sống, nên ta không sao tránh khỏi tâm trạng 
bất an do những hành vi của mình mang lại. Vì thế, ngay cả khi ta hướng 
đến việc làm lành lánh dữ thì điều đó cũng chưa đảm bảo giải tỏa được 
mọi nỗi lo sợ, bất an trong lòng ta. Điều chúng ta cần đến là một nhận 
thức đúng và đầy đủ về mọi hành vi của mình cũng như kết quả của chúng. 
Do đó, chúng ta cần học biết phép an tâm.
Khi nói rằng “nhất thiết duy tâm tạo”, điều đó không có nghĩa là ta có 
thể thổi vào một nắm cát để hóa thành lầu đài cung điện như trong những 
câu chuyện thần kỳ, cổ tích, mà điều đó thực sự có nghĩa là tính chất 
của cuộc sống này, thế giới này là hoàn toàn do tâm ta tạo ra. Mọi việc 
thiện ác là do ta quyết định, vì thế mà hậu quả của chúng cũng sẽ do 
chính ta nhận lãnh. Tuy nhiên, bởi vì “nhất thiết duy tâm tạo” cho nên 
vấn đề quan trọng nhất không phải là chúng ta chỉ biết làm thiện, mà là 
chúng ta phải biết tu dưỡng để có một tâm thiện. Khi đã có tâm thiện thì 
mọi việc làm lớn nhỏ, nhất cử nhất động của ta đều sẽ là việc thiện, đều 
sẽ hướng đến sự lợi lạc cho hết thảy mọi người. Khi đó, chỉ cần quay về 
quán sát tự tâm là ta sẽ lập tức được an tâm, bởi không một nỗi bất an, 
một sự sợ hãi nào thực sự tồn tại trong tâm ta. Ngược lại, nếu ta vẫn 
nuôi dưỡng ba tâm độc (tham, sân, si), thì dù suốt ngày làm rất nhiều 
việc thiện mà vẫn không thực sự có được tâm thiện, và do đó cũng sẽ 
không bao giờ đạt được sự an tâm, bởi trong tâm ta luôn tồn tại những 
nỗi bất an, những sự lo lắng, sợ hãi.
Khi Lương Võ Đế lần đầu tiên gặp Tổ Đạt-ma đã hỏi rằng: “Trẫm từ khi lên 
ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng, nhiều không kể xiết, có công 
đức gì không?” (Trẫm tức vị dĩ lai, tạo tự tả kinh độ tăng, bất khả 
thắng kỉ, hữu hà công đức?) Tổ sư đáp: “Đều không có công đức.” (Tịnh vô 
công đức.)
Làm vô số việc thiện mà tâm chưa thuần thiện! Do đó mà vị vua này mới 
quan tâm đến việc “có” hay “không có” công đức. Nếu tâm tham đã trừ dứt, 
làm sao còn có sự tham cầu phước báo, công đức? Tổ sư vì muốn giúp nhà 
vua hiểu được chỗ này nên mới nói là “không có công đức”. Tiếc là Lương 
Võ Đế không hiểu được ý Tổ sư, nên sau đó ngài đã chia tay với vị vua 
này.
Khi chúng ta hiểu được điều này, thì vấn đề không phải là ta có đủ khả 
năng để làm nhiều việc thiện lớn lao hay chăng, mà quan trọng nhất chính 
là ta có tu dưỡng được tâm thiện hay không, có trừ dứt được ba tâm độc 
tham, sân, si hay không?
Vào thời đức Phật còn tại thế, có bà già nghèo phát tâm cúng dường một 
đèn dầu trong dịp lễ cúng rất lớn do nhà vua tổ chức. Sau khi lễ cúng 
hoàn tất, các vị tỳ-kheo dọn dẹp lễ đàn, thổi tắt các ngọn đèn, chỉ 
riêng một ngọn đèn thắp bằng số dầu do bà lão cúng dường là không sao 
thổi tắt được. Các vị lấy làm lạ lùng, liền thưa hỏi đức Phật. Phật dạy 
rằng, do tâm chí thành của bà lão, nên ngọn đèn ấy không thể tắt được, 
mà còn chiếu sáng khắp mười phương. Hơn thế nữa, đức Phật còn thọ ký cho 
bà lão nghèo khổ ấy, do công đức cúng dường đèn dầu hôm nay mà về sau sẽ 
thành tựu quả Phật.
Cúng dường một đèn dầu nhỏ nhoi mà công đức lớn như thế, trong khi xây 
chùa, chép kinh, độ tăng, số nhiều vô kể, lại không có công đức. Ý nghĩa 
của vấn đề chính là ở chỗ này. Lương Võ Đế nắm cả thiên hạ trong tay, 
nên việc làm của ông tuy lớn lao nhưng chưa phải là khó khăn, tâm lượng 
nhà vua lại nhỏ hẹp, chưa thoát khỏi sự tham cầu công đức, vì thế mà kết 
quả của việc làm ấy là rất hạn chế. Bà lão nghèo khó, kiếm được một đèn 
dầu không phải chuyện dễ dàng, nhưng chí thành phát tâm cúng dường Tam 
bảo, không một niệm tham cầu pha tạp. Lòng bà trong sạch sáng suốt, tâm 
lượng rộng lớn nên cảm ứng đến kết quả việc làm, khiến cho ngọn đèn của 
bà thổi không thể tắt, lại còn chiếu sáng khắp mười phương. Do tâm chí 
thành ấy mà được Phật thọ ký quả Phật trong tương lai.
Do đó mà suy ra, nếu chúng ta may mắn được giàu sang, có thể làm được 
những việc thiện lớn lao, cũng nên xét lại sự phát tâm trong khi làm 
những việc ấy. Do tâm thiện mà khởi làm, thì kết quả tốt đẹp chắc chắn 
không còn phải nghi ngờ gì nữa. Nhưng nếu do tham cầu danh tiếng hoặc 
xuất phát từ những nguyên nhân, động lực nào khác, thì kết quả chắc chắn 
sẽ vô cùng hạn chế. Ngược lại, nếu chúng ta không may có một cuộc sống 
khó khăn, tay làm hàm nhai, vất vả qua ngày, thì điều đó cũng không có 
nghĩa là ta không thể phát khởi và nuôi dưỡng tâm thiện. Cho dù sự thể 
hiện qua việc làm của chúng ta có thể rất nhỏ nhoi, nhưng kết quả vẫn là 
rất lớn!
Thiên đường, địa ngục đều là những khái niệm do con người tạo ra. Chúng 
ta cũng không cần thiết phải quan tâm đến việc những nơi ấy có thật sự 
hiện hữu hay không. Vấn đề đã được làm sáng tỏ chính là dựa vào những gì 
chúng ta đang cảm nhận ngay hôm nay, trong cuộc sống này. Khi bạn trừ 
dứt được những tâm niệm tham lam, sân hận và si mê, tâm hồn bạn sẽ luôn 
có được trạng sáng suốt, thanh thản và tràn đầy những niềm vui nhẹ 
nhàng, thanh thoát. Khi ấy chính là thiên đường đang hiện hữu trong cuộc 
sống, và cánh cửa địa ngục chắc chắn phải vĩnh viễn khép lại sau lưng 
bạn. Ngược lại, mỗi một tâm niệm tham lam, sân hận, si mê khi khởi lên 
trong lòng bạn đều kết thành những hoa trái của khổ đau, và bạn sẽ không 
cần phải thắc mắc về một địa ngục ở đâu xa, vì quả thật là có một địa 
ngục đang hiện hữu ngay trong lòng bạn!