[03]
Học Nhiều
Hiểu Rộng
Phật-Giáo
không quá chú-trọng đến những kẻ thông-minh trí-thức, nghe nhiều học rộng, ăn
nói hoạt bát nhưng tánh nết đê-hèn, tham-lam ích-kỷ. Mà chỉ quan tâm đến những
bậc có tâm Từ-Bi, Hỷ, Xả, những bậc suốt thông kinh-luật. Biết nhận định đâu là
Chánh, đâu là Tà. Biết chê trách mình. Biết nhớ ơn người đã làm cho mình dù
nhỏ-nhặt đến đâu và biết quên ơn mình đã làm đến người. Là những bậc có nếp
sống tinh thần cao cả, khao-khát chân-lý và có tâm nâng đở kẻ khác trên đường
đạo-đức.
Ðức-Phật nói người nghe nhiều
học rộng là kẻ suốt thông Giới - Ðịnh - Huệ và quyết chí thực-hành là kẻ biết
nhận thức tánh cách giả tạm khổ sầu của kiếp sống, là kẻ cố gắng học hỏi để hành
theo, chớ không phải để trở nên một lý thuyết gia lỗi lạc. Người chuyên môn
pháp học, thường khi Cống Cao Ngã-Mạn, Tà-Kiến ngoan cố, khó dạy.
Thời Gian và Tư-tưởng
Một nhà Ðạo-Ðức Ấn kể lại câu
chuyện như sau:
Có người nọ nghe đứa con gái
nói:
-"Hỡi cha, một ngày nữa sắp
trôi qua".
Ô! Thật vậy sao?
Không biết người đó suy nghĩ đến
lời nói của con như thế nào, liền tức khắc bỏ nhà đi vào rừng vắng tu hành và
đắc quả thánh.
Thời gian và tư-tưởng là yếu tố
quan-trọng mà người hành đạo cần phải hiểu qua.
Ðức-Phật dạy Pháp Môn Tứ-Niệm-Xứ
là đường lối đứng đắn nhất để tìm ra chân-lý, tìm ra thực tại của thế-gian.
Nghĩa là tư cách sống trong hiện tại, một trạng thái hòa-hợp với thời-gian và
tư-tưởng.
Thật sự, thời gian không có quá
khứ và tương-lai, những gì xảy ra là nó đang xảy ra. Lúc tối nó chỉ là tối, lúc
sáng nó chỉ là sáng. Vì kinh-nghiệm so-sánh mà ta cho cái gì đã qua là quá khứ,
cái gì chưa đến là tương-lai. Còn thực-tại, những gì đang biến chuyển thì nó
đang biến chuyển. Mọi sự, đều do tư-tưởng của ta mà ra cả. Ít ai bằng lòng với
thực tại của chính mình, người ta thường ân-hận quá khứ, vẽ-vời, mơ-tưởng đến
tương-lai. Nó trìu mến luyến tiếc những việc đã qua ..., đáng lý tôi phải làm
vậy..., đáng lý tôi không nên tin người ta đến thế ..., và người ta thường đặt
trong quá khứ cũng như tương-lai một tiếng "Nếu".
Ngay đến mạng sống có ai lột vỏ,
sống đời đâu, vậy mà nào có ai muốn chết. Người ta vẫn hy-vọng sống lâu thêm
nữa và tiếp tục ước mong như thế, dầu đang hấp hối trên giường bệnh.
Một cơn đau phát sanh, tự nó
không gây sợ hãi, khổ sầu, mà chính bệnh nhân nghĩ nó sẽ trầm trọng sau này nên
đâm ra đau khổ. Người già bận tâm lo nghĩ về cái chết. Người sống ở đời luôn lo
nghĩ một ngày mai sung sướng hơn.
Rốt cuộc chính cái sự lo nghĩ
đó, đẩy con người tham lam, ích-kỷ thêm, tâm trí xao động, bất an vì bi quan và
thất vọng.
Thời gian và tư-tưởng bảo trì
bản ngã và cũng là bức màn che lấp không cho ta nhận thức rõ tư cách vô thường.
Do đó, ta nghĩ rằng mình vẫn khỏe mạnh sống lâu nên quên lững nếp sống tinh-thần
cao đẹp.
Về phương diện đạo đức cũng thế.
Hành giả luôn luôn nghĩ rằng với thời gian mình sẽ tiến hóa thêm, sẽ
Thánh-thiện thêm, mà quên xem hiện tại mình đang làm gì.
Nếu ta tìm hiểu sâu hơn về cách
niệm hơi thở trong Tứ-Niệm-Xứ, thì ý thức được phần nào về thời gian. Ðức-Phật
dạy:
"Với Tâm trí chăm chú, hành
giả hít hơi vô. Với Tâm trí chăm chú, hành giả mới thở ra. Khi thở vô dài, biết
thở vô dài, khi thở ra dài, biết thở ra dài..."
"Chú Tâm trong Thân hành (Kãya
Sankhãra) người hít hơi vào".
"Chú Tâm trong Thân hành (Kãya
Sankhãra) người mới thở hơi ra...".
Như vậy nghĩa là hành giả phải
sáng suốt biết mình hiện ở trong tư thế "Hít vô, Thở ra" và người đó
chẳng có nghĩ tới bất cứ chuyện gì khác nữa, hoặc quá khứ, hoặc sẽ đến trong
tương lai. Như thế hành giả chỉ biết sống trong hiện tại mà thôi.
Thời gian cũng là kỳ hạn do tâm
lý tạo ra, để ta thực hiện chuyện gì hay trở thành cái gì, để tiến bộ, để đi
tới mục tiêu. Ta cho thời gian là cần thiết để khám phá chân-lý cứu cánh, để
dứt khổ. Nhưng trái lại thời gian là bức tường ngăn chận, không cho ta thấy tức
khắc một thực tế nào đó. Vì người ta tin rằng với thời gian mình sẽ kinh-nghiệm
hơn, sẽ sáng suốt hơn để thấu rõ điều đó.
Rốt cuộc, thời gian hay kỳ hạn,
chính là chướng ngại vật của đời Ðạo-Ðức. Nó là chất liệu nuôi dưỡng tư-tưởng
về ký ức, tạo chỗ dựa cho bản ngã.
Tư-tưởng phát sanh theo thời
gian vì tư-tưởng phản ảnh ký ức. Ký ức là chủng tử, là kinh nghiệm được
tích-lũy từ lâu bởi thời gian.
Bởi vậy, càng thoát khỏi ảnh
hưởng của ký ức là một việc vô cùng khó khăn. Các bậc Thánh-Nhân vì không còn
lệ thuộc vào thời gian, ký ức và tư-tưởng của sự so-sánh, nên các Ngài mới giải
thoát.
Câu chuyện sau đây cho thấy thời
gian và tư-tưởng cũng là nguồn gốc gây ra ảo-tưởng hay huyển hóa.
Ðể giải thích thế nào là huyển
hóa. Ngày nọ, Vị Thần Krishna dắt
đệ-tử Narada đi dạo đến một vùng sa-mạc khô khan nắng cháy. Trải qua
một đoạn đường dài, Ngài dừng chân nói với Narada: "Hỡi trò! Thầy
đang mệt khát. Vậy con đi kiếm hộ thầy vài hớp nước được chăng?"
Narada đáp:
"Con xin cố kiếm cho được mang về". Rồi chàng đi một đổi xa đến được
ngôi làng (Chỗ này do Thần Krishna hóa
ra để thử trò), tìm đến một nhà gỏ cửa xin nước. Một thiếu nữ tuyệt sắc ra mở. Narada
lòa mắt, đắm say, quên lững việc kiếm nước hộ Thầy. Chàng bị thu hút, lần lựa
cà kê tại xóm, tình tự với nàng rất tâm đầu ý hợp, dợm hỏi cưới nàng và chịu ở
luôn nhà ông nhạc. Thấm thoát mười hai năm đã trôi qua, vợ chồng đã sanh được
ba con. Nhạc gia mất để lại tài sản ruộng vườn. Chàng rất vui với cuộc sống sung
túc, vợ đẹp con thơ.
Rủi thay! Một trận bão lụt vô
cùng khủng khiếp, quét sạch thôn xóm. Tất cả đều bị nước cuốn trôi đi. Narada
nắm tay vợ, tay kia nắm hai con, còn đứa nhỏ hết chàng cho ôm trên cổ. Chàng cố
dìu nhau qua sông để tránh lụt trên một đồi cao. Nhưng rủi thay, con chàng, vợ
chàng đều bị giòng nước lôi đi mất dạng. Riêng chàng còn hơi sức bơi lội và rốt
cuộc được qua bên kia bờ, mệt ngất, nằm trên bải cát (Giông bão này cũng do
Thầy Krishna phóng ra).
Bỗng đâu có tiếng nói
Thánh-Thiện cất lên: "Nào nước đâu con! Con đi kiếm nước giúp Thầy đã ngót
nữa giờ...".
Thời gian, Tư-tưởng, Ảo-ảnh đều
là Huyển hóa. (Maya)
Nhẫn-nại và Tình Thương
Học giả Pháp Romain Rolland viết
về Thánh Gandhi như sau:
"Với đôi mắt mờ sẫm. Một
con người hầu như suy nhược, khung mặt gầy, cặp tai chìa rộng, đội mũ bon-nê
trắng, mặc vải trắng thô, đi chân không. Người sống bằng cơm trái, uống nước
lã, nằm trên sạp ván, ngủ ít làm việc nhiều, thân hình chẳng ra gì, ngoài nét
đặc biệt biểu hiện một tâm hồn nhẫn-nại, chứa đầy nhân-ái. Người giản-dị như
đứa trẻ, dịu hòa lễ-độ luôn cả với kẻ đối nghịch, chấp nhận tất cả lỗi lầm,
tránh né, tránh biện, xa lánh chỗ ồn ào.
Nhưng đây là nhân vật đã khuấy
động 300 triệu người, làm rung chuyển đế-quốc Anh bằng cách khai trương một
đường lối chính trị nhân đạo, một phong trào mạnh-mẽ nhất kể từ hai ngàn năm
qua".
Nhẫn-nại là món khí giới hữu
hiệu nhất mà các hiền giả trên đời xử dụng để thành đạt những mục đích
phi-thường. Thánh Gandhi còn nói:
"Nhẫn-nhục ví như không
khí, chẳng biết chống trả, nhưng có khả năng vô hiệu hóa những quả đấm của kẻ
bạo tàn".
Lão Giáo dạy lấy mềm thắng cứng,
lấy yếu thắng mạnh. Người mạnh nhất trên thế-gian là kẻ giữ được sự bình tỉnh
trước mọi biến cố. Nhưng đức điềm đạm chỉ tìm được trong con người nhẫn-nhục.
Chúa Ki-Tô cũng dạy nên gieo rắc tình thương.
Trong các bậc Thánh-nhân,
Ðức-Phật đề cao đức nhẫn-nhục lên tột đỉnh là không những đừng chống trả, căm
hờn, mà người Phật tử cần phải gieo rắc tình thương đến những kẻ gây ra nghiệp
dữ, vì người ác tâm tư luôn luôn xao-xuyến, hằng sống trong nỗi khổ triềm miên.
Ngài thuyết:
"Hỡi này các Tỳ-Khưu! Kẻ
nào muốn xứng đáng là con của Như-Lai, chẳng nên nóng giận, oán thù, dù bị bọn
cướp phanh thây ra từng mảnh, bị bọn chúng cắt đứt tay chân bằng cưa bén. Nếu
gặp hoàn cảnh đó, người phải biết thừa cơ-hội để rèn luyện giới đức tinh vi
thêm và hãy tự nhủ: Tai họa này không sao lay chuyển được lòng ta. Ta chẳng nên
thóa mạ, giận hờn, mà phải trầm tỉnh, dịu hòa, giữ lòng bác ái, rãi lòng điện
từ đến kẻ ác và chúng-sanh trên khắp Thế gian". (Majjhima Nikãya I-129)
Ðức-Phật tán dương đức
nhẫn-nhục, bác-ái, cho đó là trọng điểm để thành đạt chân-lý siêu thoát:
"Bất cứ công phu nào khác
để tiến hóa trong cuộc đời thánh thiện chỉ giá trị bằng một phần mười sáu
(1/16) của tâm từ ái. Từ-Bi nhẫn-nhục là ánh sáng soi đường Thánh đức. Tình
thương tủa sáng khắp nơi cũng như ánh sáng muôn sao chỉ bằng một phần mười sáu
(1/16) ánh sáng của mặt trăng". (Itivuttaka 19)
Nhẫn-nhục là Pháp thiêu hủy cao
thượng. Nhẫn-nhục là nơi trổ sanh giống lành không đâu bì kịp. Người nhẫn-nhục
là người đi trên đường về cõi trời và Niết-Bàn. Người nhẫn-nhục là người hết
lòng thành kính Ðức Như-Lai bằng cách cao thượng.
Nhà hiền triết Hy-Lạp Socrate
thời Trung cổ cũng là tổ sư của Pháp nhẫn-nhục. Ông nói trường hợp nhẫn-nhục
khó khăn nhất là biết nhịn-nhục trong gia đình, vì phần đông đàn ông là chủ gia
đình nên rất cống cao độc đoán, vợ con thường luôn luôn khép nép sụt sè. Nhưng
ông rất có phước nên mới được bà vợ hung dữ khỏi chê và ông nhờ đó mà điêu
luyện nhẫn-nhục lên tận cao điểm.
"Pháp luật đặt ra nhiều
giới cấm. Nhưng các Tỳ-Khưu cần nên ghi nhớ một điều thiết yếu. Ðó là tâm từ
ái, bi-mẫn đối với tất cả chúng-sanh". (Jãtaka)
Ðức-Phật thường khiển trách các
đệ tử, ỉ mình học giỏi, hành nhiều rồi trở nên ngã-mạn:
"Dù thầy Tỳ-Khưu cố gắng
học hành tiến hóa tới mức độ nào, nhưng đâm ra cống cao tự đắc, khinh rẻ kẻ còn
thấp kém. Thầy Tỳ-Khưu đó vẫn là con người bất hảo, không từ-bi nhẫn-nại, chẳng
đáng khen tặng chút nào". (Majjhima Nikãya)
Ðức-Phật ví nhẫn-nhục như nước
luôn luôn mát mẻ và chỉ tìm chảy xuống những nơi thấp nhất. Nhưng chính nước là
chúa tể của muôn loài, là vĩ đại hơn tất cả. Hung hăng tàn bạo như lửa, vẫn bị
nước dập tắt dễ dàng. Nước ban bố sự sống đến khắp nơi, mà có thể đắm chìm cả
một vùng lục địa xuống tận đáy sâu. Khi triều lưu bị ngăn chận, nước nhẫn-nại
tìm khe lách khác để tiếp tục chảy ra biển cả.
- Nhẫn-nhục là yếu điểm của tất cả đạo học tâm linh.
- Nhẫn-nhục là pháp đắc nhân tâm tuyệt diệu.
- Nhẫn-nhục dập tắt tham lam sân hận tối mê.
- Nhẫn-nhục là yếu tố phát sanh tâm từ ái. Là yếu tố phát triển ba giai đoạn
toàn hảo Giới - Ðịnh - Huệ của con đường siêu việt (Bát Chánh Ðạo).
- Nhẫn-nhục đưa người tới tự-do tuyệt đối là Niết-Bàn.
- Người nhẫn-nhục dễ thấu triệt ba chân-lý: Vô-Thường,
Khổ-Não, Vô-Ngã.
- Người nhẫn-nhục thích sống trong bóng tối nhưng vẫn được đưa ra ngoài ánh
sáng. Người thường ở sau nhưng vẫn được đặt lên phía trước.
- Người nhẫn-nhục sống tri túc nhưng chẳng thiếu gì cả và rất tự do về vật
chất.
- Người nhẫn-nhục là vô địch vì không tranh chấp với bất cứ ai.
- Người nhẫn-nhục đang vượt ra ngoài biển trầm luân.
Kẻ sát nhân Angulimãla
cải tà qui chánh, xuất gia theo Phật, đi khất thực bị dân chúng nguyền rủa, lấy
đá liệng. Nhiều hôm đi về với bình bát không, ông ta đến than van với Ðức-Phật.
Ngài thuyết:
"Này Angulimãla,
ngươi hãy rán nhẫn-nại, nhẫn-nại thêm lên để hủy diệt tất cả nghiệp báo trong
hiện kiếp, mà đáng ra ngươi phải trả quả trong vô lượng kiếp về sau". (Majjhima
Nikãya)
Tán dương Ðức-Phật có đức
nhẫn-nại vô song, Ðức Xá Lợi Phất kể lại:
"Ðức Thế-Tôn thật hòa ái,
khiêm tốn nhẫn-nại trong mọi hành vi, ngôn ngữ. Ngài thường dạy: Chính thế gian
chống lại Như-Lai chớ Như-Lai đâu chống lại thế gian. Cái chi người đời
chấp-nhận, Như-Lai không phủ nhận. Cái chi kẻ thế vui thích, Như-Lai cũng không
phê-phán. Cái chi người đời chê trách Như-Lai cũng điềm nhiên tiêu cực".
"Cũng như không thể lấy da
phủ khắp mặt địa cầu để ngăn ngừa chông gai đá sỏi. Nhưng mang một đôi giầy, ta
có thể xông pha khắp mọi nơi mà chân vẫn không đau đớn chút nào". (Majjhima
Nikãya)
"Ðất không hề biết thích
thú hay nhờm chán, khi người đổ lên vật thơm tho hay thúi bẩn thế nào? Thì cũng
như thế ấy, Ðức-Phật nhẫn-nại chịu đựng tất cả sự chê khen của người thế và rải
tâm-từ đến bất cứ bạn hay thù". (Jãtaka)
- Nhẫn-nại trong giới bổn để chế ngự tham lam, sân-hận,
không cho thân, khẩu, ý hành động bất thiện.
- Nhẫn-nại trong thiền định để diệt trừ phiền-não do động tác của sắc trần.
- Nhẫn-nại trong Minh-Sát-Tuệ để bứng gốc rễ những ô nhiễm tiềm tàng.
- Nhẫn-nại đương đầu với mọi thống khổ như tai họa ốm đau.
- Nhẫn-nại chịu đựng thiếu thốn vật chất.
- Nhẫn-nại đối với những nghịch cảnh khi bị người nhục-mạ hành hung, không giận
hờn chỉ trích.
- Nhẫn-nại để bảo-trì tâm tư vắng lặng, không xao động vì các Pháp Thế-gian.
Người nhẫn-nại chiến thắng trong
mọi nơi.
"Chẳng khi nào hận thù xóa
bỏ được hận thù. Chỉ có tình thương mới xóa bỏ được hận thù. Ðó là Chân-lý muôn
đời". (Dhammapada)
Tuệ
"Ðem ý chí này thay cho ý
chí khác.
Có một thứ ý chí hữu ích cao
thượng chủ trương hành thiện, để hủy diệt cái ý chí đê hèn hướng về việc ác. Ðó
là hành động cứu cánh để thiêu hủy nghiệp quả, phá tan dục vọng.
Cái tâm khao khát giải thoát xâm
chiếm cõi lòng, làm mất chỗ dựa của tâm khao khát dục vọng trần gian". (Samyutta
Nikãya)
Trong một kiếp Bồ Tát, Ðức-Phật
có nguyện như vầy:
"Ta nguyện sao đừng nghe
tiếng nói của người ngu muội, đừng thấy kẻ ngu muội, đừng tiếp xúc với kẻ ngu
muội, đừng bận rộn khổ sầu vì phải chung chạ với người ngu muội!"
Nghe vậy, Trời Ðế Thích đến hỏi
Bồ-Tát tại sao Ngài rất Từ-Bi, Hỷ, Xã đối với chúng-sanh lại có thái độ như
thế? Ðức Bồ-Tát dạy:
"Vì chẳng mong gì nơi một
con người ngu muội, y là kẻ Si mê cố chấp có thành kiến hủ lậu, không thích
nghe lời dạy bảo, nên chẳng cách nào cải hóa y được". (Jãtaka)
"Những kẻ ôm bình bát xin
ăn không phải là khất sĩ. Những kẻ ngụ trong rừng vắng không phải là đạo-sĩ.
Những kẻ mặc áo cà-sa không phải là Tỳ-Khưu, khi tâm trí chứa đầy tham lam
dục-vọng".
Muốn chữa bệnh khổ sầu với sự
hiểu biết suông chưa đủ, mà cần phải sáng suốt, có quyết tâm và thiện chí. Muốn
thoát khỏi tham dục không phải chỉ diệt trừ những hư-hỏng nhất thời, mà cần
phải dập tắt lòng ham muốn. Không phải chỉ sa thải dục lạc hiện tại, mà cần
bứng tận gốc của nó trong ngày vị lai.
"Khi gốc rễ còn nguyên vẹn,
dù cây thốt nốt bị chặt đứt, nó vẫn mọc lại như trước. Khi chưa hủy diệt được
mầm mống của tham dục, những nỗi thống khổ trong cuộc sống sẽ trở lại
triền-miên". (Dhammapada 338)
Người giới tử có trí tuệ, quyết
tâm tin-tưởng nhưng cần phải tinh tấn thực hành. Ðức Thế-Tôn thuyết:
"Như-Lai đã giải bày rành
mạch, phải tu tập cách nào để thành đạt bốn Pháp Tinh-tấn cao siêu.
Thầy Tỳ-Khưu phải dũng-mãnh, tín
tâm, chiến đấu để thực hành ba giai đoạn toàn hảo của chánh pháp là: Giới -
Ðịnh - Tuệ phải thuần thục về Pháp-Học và Pháp-Hành". (Majjhima Nikãya
II - 113)
Hiểu Biết và Tư Duy Chân-Chánh
Phần lớn tín-đồ trong các tôn
giáo khác chú trọng, niềm tin nơi một tha lực huyền bí hay quyền năng của Ðấng
Thiêng Liêng để cứu rỗi linh hồn. Các Giáo-sĩ Ðạo-sĩ là những sứ đồ thừa kế sự
nghiệp của các Giáo chủ, trong đó có vài vị có một lịch sử không rõ-rệt, vài vị
khác thì bất khả tư nghì. Nhà truyền-giáo dạy Tín đồ phải nhiệt thành
tin-tưởng, khấn vái đấng hóa công ban bố cho vài ân huệ trong kiếp sống và sau
khi chết. Tin như thế khiến con người trở nên yếu đuối, mất khả năng tự lập chỉ
trông cậy vào một thế lực vu vơ, chấp dính thành kiến sai lầm, không phấn đấu.
Ðức tin cũng rất cần thiết đối
với người tu Phật. Nhưng đây cũng là Ðức tin có tính cách thực tế và không dị
đoan. Vì Ðức-Phật có dạy nếu tin nơi Ngài, thì phải biết tin Giáo Pháp là chánh
đáng, bằng không thì cũng như bài bác Ngài thôi, hãy tin những điều sau khi đã
xét đoán và thực hành thấy hợp với chân-lý.
Người Phật-tử cũng không bị buộc
phải tin theo kinh điển cho đó là thiêng liêng thần thánh, mà tin nơi đường lối
tu tập hữu hiệu do Ðức-Phật chủ trương và Ngài như người Hướng-Ðạo hay một danh
y, chớ không phải là đấng cứu tinh.
Ðức-Phật có dạy:
"Những điều gì Như-Lai nói
không vội tin mà cũng không vội bỏ, phải suy xét và thực hành. Nếu sau khi
thực-hành mà Tham lam, Sân-hận, Si-mê bớt lần đi thì lời đó của Như-Lai. Còn
những điều nào khi Hành làm cho Tham lam, Sân-hận, Si mê gia tăng thì đó không
phải là của Như-Lai".
Những lời dạy của Ðức-Phật hướng
đến sự thực hành để giác ngộ, để hành giả nếm được hương vị giải thoát. Trong
một đoạn kinh Ðức-Phật dạy:
"Nước trong tất cả các
Ðại-dương có một vị duy nhất là vị mặn. Giáo Pháp của Như-Lai có một vị duy
nhất là vị Giải-thoát".
Sau đây là những gì người
Phật-tử cần tin-tưởng:
- Tin nơi Phật-Bảo tức là Ðức
Thích-Ca Mâu-Ni Gotama, là Bậc đã giác ngộ nhờ công phu tu tập trong
nhiều đời, nhiều kiếp, chớ không phải do thần khải hay một vị tổ vị Phật nào mà
lịch sử mập mờ, không chỉ cho chúng ta một cách hành đạo nào.
- Tin nơi Pháp-Bảo, căn bản là
Tứ-Diệu-Ðế, là chân-lý bất di bất dịch của Chư-Phật, có thể đưa chúng-sanh đến
nơi dứt khổ. Khi vừa đắc đạo Ngài đã chọn Giáo-pháp làm thầy. Lẽ đó Phật-tử
phải tôn thờ Pháp-Bảo như Ðức-Phật. Ðức-Phật có dạy: "Kẻ ở gần Như-Lai
theo nắm chéo y Như-Lai nhưng không thấy Pháp, kẻ đó cũng như cách xa Như-Lai
muôn dặm. Còn người ở xa Như-Lai muôn dặm nhưng thấy Pháp, người đó cũng như ở
kế cận Như-Lai".
- Tin theo Tăng Bảo là những Bậc
xuất gia tu tập đúng theo Chánh-Pháp, là Bậc có tâm từ-bi, hỷ, xả là Bậc có
bổn-phận bảo tồn Giáo-pháp của Ðức-Phật cho tròn đủ 5000 năm.
Thánh Tăng là Bậc đã giác-ngộ.
Phàm-Tăng còn dính mắc trong thế gian cần gìn giữ chiếc bè Giới - Ðịnh - Huệ
nếu không nó sẽ rã-rời và thầy Tỳ-Khưu phải bị chìm xuống đáy sâu.
- Tin nơi Nghiệp Quả: Tội Phước
Chính Tà. Không nên vội tin một điều gì để dễ sa vào Tà-Kiến.
- Tin có Ðạo quả Thánh-Nhân, có
Niết-Bàn là nơi dứt khổ.
- Tin có Lục-đạo là Trời, Người,
Ngạ-quỉ, Súc-sanh, A-Tu-La, Ðịa-ngục.
- Tin nơi quả của Thiền-Ðịnh
nhất là Minh-Sát-Tuệ để hủy diệt phiền-não, tẩy trừ ô-nhiễm tiềm tàng.
- Tin nơi công phu tu tập không
phải là vô-ích và trước sau gì cũng đến mục đích cuối cùng nếu ta thực hành
đúng và không nản chí.
Chân-Lý
"Thành đạt Chân-lý là động
cơ tối cần để bước vào vòng Thánh Vức. Vô-Minh là vết nhơ, làm hoen ố và tai
hại hơn tất cả bận nhơ. Tư cách dứt khổ chỉ đến với những kẻ hoàn toàn trong
sạch". (Dhammapada - 243)
"Chân-lý chỉ có một. Không
hề có chân-lý thứ hai gây ra dị biệt giữa vị Thánh này với vị Thánh khác. Thật
ra chân-lý không nhiều mà cũng không khác biệt". (Sutta Nipãta)
Ðức-Phật nói, trong con người có
khả năng có thể thành đạt chân-lý nếu biết chuyển hóa Trí Tuệ Phàm nhân sang
trí tuệ Thánh nhân. Nghĩa là nhờ vẹt màn Vô-Minh, người mới có thể trực nhận
thực chất của mọi sự vật. Ðức-Phật thuyết: "Chân-lý là mặt trăng còn
giáo-lý của Như-Lai là ngón tay chỉ mặt trăng. Ðừng hiểu lầm ngón tay là mặt
trăng". Như thế Giáo-lý là cái bóng của chân-lý có thể diễn tả, còn chẳng
có ngôn ngữ nào để giải thích chân-lý tuyệt đối và chỉ kẻ nào chứng nghiệm được
nó mới hiểu nó.
Quan-niệm về chân-lý thật vô
cùng phức tạp. Mỗi Tôn-giáo hay triết thuyết diễn tả và ý thức chân-lý dưới
nhiều hình thức khác nhau:
- Phái Duy Vật cho rằng chỉ có vật
chất là thực tế, là Chân-lý. Vì tất cả hiện tượng tinh thần đều xuất phát từ
các vật thể thấy được, nghe hay sờ mó được.
- Phái Duy Tâm chủ trương
"Vạn-vật do tâm tạo". Ngoài tư-tưởng chẳng có thế gian. Tư cách lớn
nhỏ, cao, thấp, dài, ngắn, tốt xấu, phải quấy của mỗi sự vật đều do tâm ấn-định
chớ chẳng có gì tuyệt đối, bền bỉ cả.
- Nhất nguyên thuyết nói: Cái
nguyên lý đầu tiên, hình thành vũ trụ là Chân-lý cùng tột, trong khi Ðức-Phật
xác định không một ai biết được chúng-sanh khởi điểm từ lúc nào?
- Phiếm Thần Luận cho rằng quyền
năng thiên nhiên là Chân-lý cao cả hơn hết.
- Ðộc Thần Giáo dạy rằng: Uy lực
của Ðấng Hóa Công là Chân-lý Tối thượng nên dự trù nhiều cảnh Thiên đàng hay
cực lạc để con người an hưởng sau khi chết.
- Ða Thần giáo thì không cần
biết Chân-lý là gì và chỉ tin-tưởng nơi ân huệ của các Thần Linh giúp ngưòi đời
tránh khỏi những tai họa trong kiếp sống.
Ðức-Phật Thích-Ca nhận định
Chân-lý một cách khoa-học thực tiển hơn. Ðem ra ánh sáng một nền tảng Chân-Lý
của Chư Phật là Tứ-Diệu-Ðế, chẳng sao tìm thấy Chân-lý giải thoát ngoài
Tứ-Diệu-Ðế. Nhiều nhà Tâm lý học không chịu khảo sát toàn diện hệ thống của
Tứ-Ðế, chỉ nhìn sơ qua sự khổ rồi vội phê phán sai lầm cho rằng Phật Giáo là
Ðạo Yếm thế Bi quan.
Ðức-Phật thuyết:
"Dù các Ðấng Toàn-giác có
xuất hiện trên thế-gian hay không, những thảm trạng: Vô-Thường, Khổ-Não, Vô-Ngã
vẫn luôn luôn tồn-tại". (Anguttara Nikãya)
Người tu Phật biết rõ nguồn gốc
của cái khổ là Vô-Minh, Ái-Dục rồi quyết tâm diệt chúng bằng cách thực hành
theo Bát-Chánh-Ðạo. Nghĩa là dám đương đầu với nỗi khổ, không bi-quan nản chí.
Thế gian là cái kho khổng lồ
tích trữ đầy tội lỗi khổ đau.
Người đời chỉ được tương đối
bình an trong giấc ngủ và khi bừng mắt thì sự khổ đã lãng vãng quanh mình. Một
Triết gia kể lại câu chuyện lý thú như sau: Người nô-bộc của ông Bá Hộ làm lụng
cực nhọc tối ngày, than trách số phận và mong kiếp sau được giàu có sang trọng
hơn. Tối y nằm mộng thấy mình được làm vua, có người hầu kẻ hạ hả hê hưởng lộc
đế vương. Sáng ra y lại cắm đầu vào việc tôi tớ. Có ông khách đến chơi hỏi:
"Chắc chú khổ lắm phải không?" Y đáp: "Trời đất có đêm có ngày.
Ban đêm lúc tôi ngủ được làm vua, sung sướng đủ điều. Ban ngày làm việc cực
nhọc như vầy thì có chi là khổ".
Còn ông chủ Bá Hộ thì keo kiệt,
tham lam, tháo vát, tính toán bận rộn suốt ngày. Tối ngủ ông ta mơ thấy đi ở
đợ, bị người sai khiến chửi mắng, sáng ra ông than: "Thật khổ quá, ngày
đêm gì tôi cũng không được chút bình an". Người khách tới chơi nói:
"Trời đất làm vậy rất công bằng chớ sao? Ban ngày ông làm chủ thì
tối làm tớ có chi lạ đâu". Chuyện này ngụ ý trong đời chẳng mấy ai hoàn
toàn vui hay hoàn toàn khổ. Tuy nhiên, ông Bá Hộ khổ nhiều hơn tên thầy tớ là
vì ông quá tham lam giàu rồi còn muốn giàu thêm.
Ðây là nói về người đời, hể giàu
có sang trọng chừng nào, thì càng khổ sở, vì ham muốn được nhiều thêm, lo gìn
giữ sợ trộm cướp nên mất cả tự do. Còn bậc hiền giả có nếp sống thanh bần ít
bận rộn. Tuy thiếu thốn về vật chất, nhưng rất tự do về tinh thần, không bị
ràng buộc bởi lợi danh nên ít khổ.
Pháp (Dhamma hay Dharma)
Danh từ Pháp rất quan trọng và
cũng rất tế nhị. Nếu muốn nhận xét đúng theo tinh thần Phật Giáo. Pháp là bất
cứ một sự việc gì, một trạng thái, một hiện tượng tinh thần hay vật chất, phát
sanh thường xuyên trong con người hay ngoài sự vật, ngoài Niết-Bàn Pháp (Nibbãna
Dhamma) và Không Gian Pháp (Akãsa Dhamma) là không biến đổi nên gọi
là Vô Vi Pháp. Còn tất cả Pháp Hữu vi khác đều vô thường biến đổi. Chính
trạng thái vô thường là nguyên nhân tạo ra muôn vàn thống khổ, hối tiếc, than
van. Các Pháp Hữu Vi cũng được gọi là Chúng-sanh Pháp.
Tuy cả hai Thiện Pháp và Ác Pháp
đều Vô Thường, nhưng Thiện Pháp là nấc thang cần thiết đưa người tới giải
thoát, trái lại Ác Pháp đưa người xuống hố sâu.
Có vô số Pháp xuất hiện và biến
mất thường xuyên trong mỗi con người, bởi vậy có khi chúng ta là Thiện, có khi
là Ác, có khi Từ-Bi, có khi Bạo Tàn.
Hành giả theo dõi liên tục các
Pháp sanh diệt trong tâm mình. Cố gắng diệt trừ những Tâm Bất Thiện, cố vun-bồi
những Thiện Tâm Từ-Bi, Tinh-Tấn, Nhẫn-Nhục. Muốn vậy, chúng ta cần biết đến
những Pháp căn-bản là:
Năm Pháp Chướng ngại:
- Tham-Dục
- Sân-Hận
- Hôn-Trầm
- Hoài-Nghi
- Phóng-Tâm.
Năm Pháp này làm cho Tâm ta bất
an và là trở ngại lớn cho những ai thực hành Thiền-Ðịnh.
Năm Uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành,
Thức; là những vật liệu đã tạo thành cơ thể vô thường này.
Sáu bản chất Chủ quan: Lục-Căn -
Nhản, Nhỉ, Tỉ, Thiệt, Thân, Ý
Sáu yếu tố Khách quan: Lục-Trần
- Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp
Hành giả phải kiểm soát và chế
ngự Tâm, khi Lục-Căn tiếp xúc với Lục-Trần đừng để cho Tâm móng vọng Tham lam
hay Sân-hận.
Hủy diệt được những Ác Pháp kể
trên, khiến tâm hành giả trở nên trong sạch, vắng lặng, sáng suốt rồi tiếp-tục
tiến lên để thành đạt những Pháp cao thượng.
Hành giả đi sâu thêm vào nội
tâm, kiểm soát sự Sanh Diệt của thân Ngũ-Uẩn theo Pháp Tứ-Niệm-Xứ:
- Quán Thân thấy Bất Tịnh.
- Quán Thọ trực nhận được
Khổ-Não.
- Quán Tâm thấy sự Vô Thường
Sanh Diệt.
- Quán Pháp thấy mọi sự vật đều
theo nhân duyên hợp thành, dầu ta muốn không già nó vẫn già. Muốn không bệnh
hoạn nó vẫn bệnh hoạn, muốn đừng chết cũng có ngày chết. Tánh Vô-Ngã phát sanh
rõ-rệt trong tâm hành giả. Hành giả thấu triệt được thế nào là Chân-lý tuyệt
đối. Khi đến trạng thái này, mọi hành giả đều có cặp mắt nhìn sự vật này giống
như nhau là:
"Tất cả những gì có sanh,
đều mang sẵn mầm mống của sự hoại diệt". (Dhammacakkappavattana Sutta -
Chuyển Pháp Luân Kinh)
Cặp mắt nhìn thấy sự vật như vậy
gọi là Pháp Nhãn (Dhamma Cakkhu), và hành giả đã bước vào giòng
Thánh-Vức đã đắc quả Tu-Ðà-Hườn và không lâu với sự tinh-tấn Hành-đạo, hành giả
sẽ cởi bỏ tất cả mọi ràng buộc và được giải thoát khỏi vòng Sanh Tử Luân-Hồi.
Ðấy chính là mục đích mà
Chư-Phật đã đạt đến rồi giáo hóa lại cho chúng-sanh để cùng được giải thoát như
Ngài.
Chúng ta là những tín đồ của
Ðức-Phật, có diễm phúc được thừa hưởng lời Giáo-hóa thậm thâm vi diệu, thì
chúng ta phải cố gắng từng giờ từng phút để đạt đến mục đích cuối cùng. Sau
đấy, chúng ta đem ra chỉ dẫn lại để cứu độ những chúng-sanh hữu duyên, để cùng
hướng về đấng Cha Lành mà thực-hành Chánh-Ðạo. Ðó là hạnh nguyện cao cả mà
người Phật-tử chân-chánh cần phải thực-hành.
- CHUNG
-
Sau đây là Phật Ngôn có liên
quan đến trạng thái giải thoát.
Ngày nọ có vị trời (Chư-Thiên)
đến hầu Phật và hỏi:
"Bạch Ðức Thế-Tôn, những
người thường lai vãng chốn rừng sâu, những Bậc Thánh-Nhân có đời sống đạo hạnh,
mỗi ngày chỉ dùng một lần.
Tại sao các vị ấy trông có vẽ tự
tại? Xin Ðức Thế-Tôn từ mẫn chỉ dạy cho".
Ðức Thế-Tôn đáp:
-"Những vị ấy không than-van sầu muộn những chuyện đã
qua,
Không nóng nảy, khát-khao những gì chưa đến,
Chỉ tập trung tâm trí vào hiện tại,
Do đó, các vị ấy được Tự Tại".
Nhận định về Phật Giáo, học giả Georges
GRIMM viết như sau:
"Cửa Trường-cửu không mở
rộng cho con người đang say ngủ trong giả tạm".
"Cõi Siêu-việt, không dành
cho những kẻ đang chìm đắm dưới bùn nhơ. Hạnh-phúc khó tìm ra trong
Dục-Lạc".
"Tư cách an vui tuyệt đối
chỉ có ngoài những hiện tượng phù du cấu tạo, ngoài tối mê và cõi chết".
"Giáo-lý của Ðức-Phật là
một lối đi chính đáng đưa tới mục đích Siêu-thoát cuối cùng. Ðặc biệt con đường
này, khác hẳn tất cả phương thức được xây dựng theo truyền thống, tập quán cố
hữu mơ hồ".
"Thành đạt trình độ
Viên-mãn tuyệt vời đó, rất nhọc nhằn, kham khổ. Nhưng với người có đức tự tin,
giàu nghị lực, từ tâm, nhẫn-nại, cố tiến tới từng bước một, tuy chậm-chạp nhưng
vững chắc, thì sớm muộn gì cũng tới đích".
"Mỗi bước theo dấu chân của
Ðức Như-Lai là một giai đoạn hạnh-phúc an-lành tuyệt diệu không sao phủ nhận
được".
-HẾT-