CHƯƠNG PHỤ LỤC
CÁC VẤN ĐỀ CẦN BIẾT
VẤN ĐỀ THỜ CÚNG CỦA NGƯỜI PHẬT
TỬ
Người Á-Đông thường có tục lệ
thờ cúng, không phải chỉ thờ cúng ở đình, chùa, miếu mạo, mà họ thờ cúng ngay ở
nhà nữa. Tục lệ thờ cúng là một mỹ tục, nhưng nếu không hiểu biết và không làm
đúng ý nghĩa thì trở thành hình thức mê tín. Phật giáo gọi hình thức mê tín ấy
là giới cấm thủ (sīlabatupādāna).
Ý nghĩa thờ cúng là một mỹ tục
khi mà sự thờ cúng ấy nhằm để biểu lộ sự tôn kính, sự ngưỡng mộ, và sự biết ơn.
Người Phật tử thờ Đức Phật vì lòng tôn kính một Đấng giác ngộ đã vạch ra con
đường giác ngộ cho chúng sanh thực hành thoát trầm luân; quần chúng thờ một vị
vua hay vị tướng vì ngưỡng mộ một đấng anh hùng đã làm lợi ích cho nước nhà;
con cháu thờ tổ tiên ông bà cha mẹ vì lòng biết ơn sâu sắc đối với các bậc đã
sanh thành ra mình ...
Nếu việc thờ cúng vì tin rằng
thờ bái vật linh thiêng sẽ phù trợ, thì đó là hình thức mê tín. Người Phật tử
chơn chánh không thờ cúng với quan niệm như vậy.
Về hình thức thờ cúng ở tư gia: Đối với
người Phật tử chỉ nên dựng lập hai bàn thờ là bàn thờ Đức Phật (người Phật tử
Nam Tông chỉ thờ duy nhất hình hoặc tượng Phật Thích Ca, vì là bậc Đạo Sư mình
qui y), bàn thờ tổ tiên (ông, bà, cha, mẹ hay người thân đã quá vãng). Vị trí
thiết lập bàn thờ là ở nơi trịnh trọng nhất trong nhà, có thể là nơi nhà giữa,
hay nơi phòng khách, hoặc nơi một căn phòng riêng biệt, bàn thờ Phật nên đặt
cao hơn bàn thờ tổ tiên.
Việc bài trí bàn thờ: Trên
bàn thờ Phật chỉ nên đặt một lư hương, đôi đèn, một bình hoa tươi, có thể thiết
kế thêm đèn bóng cho sáng. Trên bàn thờ tổ tiên cũng bày biện như ở bàn thờ
Phật và có thể thêm một đĩa quả tử (đĩa rộng để chưng trái cây). Phật giáo Nam
Tông không sử dụng pháp khí chuông mỏ, nên người Phật tử Nam Tông không thờ
chuông mỏ trên bàn thờ.
Nghi lễ cúng bái: Trong
nhà đã có lập nơi thờ phượng, nhất là có thờ Phật, người Phật tử nên cúng bái
hằng ngày hai thời - sáng và chiều tối. Theo nghi lễ sau đây:
- Cúng dường hoa tươi (ít nhất
mỗi tháng hai lần, ngày rằm và 30); hoặc chưng bình hoa vải, hoa nylon cũng
được.
- Mỗi sáng tối dâng hương, thắp
ba nén hương trên mỗi chỗ thờ.
- Những lúc dâng hương đăng,
đảnh lễ Phật 3 lạy (lạy thứ nhất tác ý kỉnh lễ Đức Thế Tôn bậc đã tự giác ngộ;
lạy thứ hai tác ý kỉnh lễ giáo pháp được khéo thuyết bởi Đức Thế Tôn; lạy thứ
ba tác ý kỉnh lễ tăng chúng bậc thừa hành giáo pháp của Đức Thế Tôn).
Nếu trong gia đình thuận dòng tu
tập thì mỗi tối hoặc sáng, các Phật tử trong gia đình họp lại tụng kinh lễ bái
Tam bảo và những bài kinh quán tưởng tu tập.
Vào những dịp tổ chức lễ tại tư
gia như chúc thọ, cầu an, trai tăng, giỗ kỵ ... có thỉnh Tăng về nhà để cúng
dường, thì trang hoàng bàn thờ, dâng hương đăng hoa quả, sau đó mới làm nghi
thức cúng dường Tăng.
Người Phật tử Nam Tông chỉ cúng
dường trên bàn thờ Phật những cúng phẩm là nhang, đèn, bông hoa, dầu thơm,
tuyệt nhiên không bày cúng thức ăn trên bàn thờ Phật.
Nói tóm lại, người Phật tử thờ
phượng Đức Phật tại tư gia với tâm niệm tỏ lòng kính ngưỡng, và cũng để gợi
nhắc mình phải noi gương lành của Đức Phật; việc thờ cúng phải có ý nghĩa đúng
với chánh kiến tu tập, không nên làm theo sự mê tín dị đoan.
VẤN ĐỀ LỄ NGHI CỦA NGƯỜI
PHẬT TỬ
Người Phật tử là cư sĩ tại gia,
cần phải có lễ nghi phù hợp với vai trò của mình.
Khi người Phật tử tiếp xúc xã
giao với xã hội bên ngoài, hãy làm theo lễ nghi phổ thông mà người ta thường
làm, như bắt tay, khoanh tay gật đầu, bái xá v.v... người Việt Nam ta không lễ
nghi chào với hình thức tiêu biểu nhất định, tùy theo trình độ văn hóa mỗi
người.
Khi người Phật tử tiếp xúc với
người đồng đạo thì nên có lễ nghi tôn giáo, hình thức đẹp nhất là chắp tay xá
chào. Hình thức này vẫn thường thấy phổ thông ở các xứ Phật giáo như Ấn Độ,
Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào v.v... dân chúng gặp nhau chào nhau bằng
cách chắp tay xá. Người Phật tử không nên câu nệ cho rằng chắp tay xá người thế
tục e đứt tam qui có tội; đó chỉ là nghi thức xã giao chẳng có lỗi gì. Phật tử
gặp nhau nên chắp tay chào nhau, hoặc khi có người chắp tay chào mình thì mình
phải chắp tay chào đáp lễ; Như vậy mới phải phép.
Khi người Phật tử gặp gỡ chư
Tăng, có thể áp dụng một trong bốn nghi lễ tôn kính sau đây:
1- Đảnh lễ (Abhivāda), có ba
cách là quì lạy với năm thể chạm đất, ngồi chồm hổm lạy, ngồi xếp chân cúi đầu
lạy. Người cư sĩ đảnh lễ chư Tăng khi đến chùa và khi chư Tăng đến nhà; nhưng
không nên đảnh lễ lúc vị tỳ kheo đang nằm ngủ hoặc vị ấy đang bận rộn làm việc,
hoặc vị ấy chưa mặc y tề chỉnh.
2- Đứng dậy tiếp đón (Uṭṭhāna),
cử chỉ đứng lên khỏi chỗ ngồi khi thấy vị tỳ kheo đang đi đến. Nghi lễ này được
áp dụng ở mọi nơi mọi lúc; người Phật tử đang ngồi trong nhà hoặc tại trạm xe
hoặc nơi họp hội công cộng khi thấy vị tỳ kheo đến gần thì biểu lộ sự cung kính
bằng cách đứng lên, không cần đảnh lễ. Như vậy cũng gọi là phải lẽ.
3- Chắp tay xá chào
(Añjalīkamma), cử chỉ chắp tay hướng về vị tỳ kheo đứng trước mặt. Nghi lễ này
cũng có thể áp dụng ở mọi lúc mọi nơi; người Phật tử đến chùa gặp chư Tăng đang
trong tình trạng làm việc hoặc không mặc giáo phục, người ấy đều có thể chắp
tay xá chào; thậm chí gặp chư Tăng nơi công cộng, người ấy cũng có thể chắp tay
chào mà không cần đảnh lễ.
4- Tỏ thái độ lịch sự
(Sāmīcikamma), biểu lộ cử chỉ lịch sự ngoài ba nghi lễ trên. Trường hợp này rất
dễ thực hiện trong mọi hoàn cảnh; người Phật tử khi đang đi trên xe thuyền,
đang xách, mang, khuân, vác ... không rảnh tay để xá chào đảnh lễ nếu gặp vị tỳ
kheo, lúc ấy chỉ cần gật đầu chào, hay mắt nhìn với vẻ tươi cười, hay thốt lời
chào hỏi ân cần, hoặc nhường bước ... đó cũng là cách biểu hiện sự cung kính.
Nói tóm lại, lễ nghi của người
Phật tử tất nhiên phải có, vì người Phật tử là người đạo đức, mà người đạo đức
là người có văn hóa, lễ nghi là một trong những hình thức văn hóa. Tuy nhiên,
có lễ nghi nhưng không quá câu nệ thái quá đến nỗi gây cho người khác cái nhìn
khó chịu; phải biết uyển chuyển thực hiện lễ nghi đúng thời hợp lẽ. Sự cung
kính hay thái độ lịch sự là xuất phát từ tâm lành mà ra.
VẤN ĐỀ TRANG PHỤC CỦA NGƯỜI PHẬT
TỬ
Trang phục của người cư sĩ có
kiểu mẫu đa dạng, tùy theo thời đại, tùy theo dân tộc tính.
Người Phật tử trong sinh hoạt xã
hội, trang phục tùy thích, sao cũng được. Nhưng đừng quá lố, bất xứng với tư
cách đạo đức, hạnh kiểm của một Phật tử tục gia; không để cho người khác cười
chê và đánh giá thấp đạo đức của mình. Như vậy là tốt rồi.
Nói về trang phục của người Phật
tử trong sinh hoạt tôn giáo, khi đến chùa, khi gặp gỡ tiếp kiến chư Tăng. Đức
Phật không có một qui chế nào về trang phục của các cư sĩ. Nhưng hãy thử hình
dung cách quan niệm về trang phục của những vị thánh cư sĩ thời Đức Phật khi họ
đến chùa, thì từ đó suy ra được nguyên tắc căn bản về trang phục của Phật tử
trong sinh hoạt tôn giáo.
Ngày nọ, bà Visākhā sửa soạn đến
chùa lễ Phật và nghe pháp, bà đang trang phục với chiếc áo choàng nạm ngọc quí
giá, sang trọng cực kỳ. Nhưng lúc đến cổng chùa bà chợt nghĩ "Trước mặt
Đức Thế Tôn mà ta trang phục rực rỡ như thế này thật không thích nghi".
Nghĩ vậy bà cởi chiếc áo choàng quí giá ấy và gói lại giao cho người nữ tỳ cầm
giữ, rồi mới vào chùa đảnh lễ Đức Phật và nghe pháp.
Người Phật tử trang phục nên
biết một số nguyên tắc sau đây:
Khi ra ngoài xã hội vẫn có thể
mặc theo model thời trang, nhưng:
- Không quá lố lăng, làm ảnh hưởng đến phẩm chất đạo đức.
- Không quá lòe loẹt màu sắc, làm cho người khác có ấn tượng khó chịu.
Khi đến chùa, tiếp xúc với chư
Tăng, mặc dù không bắt buộc trang phục hình thức nào, nhưng người Phật tử:
- Nên trang phục lịch sự kín đáo
- Nên trang phục giản dị hòa hài
- Nên trang phục sạch sẽ trang trọng.
Có câu nói "Nhìn trang phục
biết tư cách"; quả thật vậy, người trang phục lịch sự kín đáo là người
biết tự trọng; người trang phục giản dị hòa hài là người dễ dải cởi mở; người
trang phục sạch sẽ trang trọng là người biết tôn trọng người khác.
Tóm lại, sự trang phục chỉ là
hình thức bên ngoài, nhưng người Phật tử cũng nên chú ý cách ăn mặc của mình
sao cho phù hợp với cương vị người tu hiền, giữ được phẩm chất đạo đức, không
gây trở ngại cho việc tu tập. Như vậy là phải lẽ.
VẤN ĐỀ NGÔN NGỮ CỦA
NGƯỜI PHẬT TỬ
Ngôn ngữ là phương tiện thông
tin, phương tiện giao tiếp. Ngoài hai ý nghĩa trên, ngôn ngữ theo Phật giáo còn
là tác nhân hình thành nghiệp quả (khẩu nghiệp) đưa đến an vui hoặc đau khổ
nữa.
Dùng ngôn ngữ nếu biết cẩn trọng
sẽ đem lại lợi lạc, bằng như ngôn ngữ bừa bãi sẽ mang đến tai ương. Người Phật
tử cần phải tu tập khẩu nghiệp, cũng như tu tập thân nghiệp và ý nghiệp vậy.
Có năm loại ngôn ngữ gọi là thiện
ngôn (subhāsita) mà người Phật tử nên áp dụng trong sinh hoạt giao tiếp và
thông tin:
1- Nói hợp thời (Kālena bhāsitā)
là nói đề tài hợp với hoàn cảnh, đúng lúc, đúng người; dù nói thiện pháp nhưng
phi thời cũng không hay. Người Phật tử phải biết lúc nào nên nói gì; nếu thấy
nói không hợp thời thì thà rằng giữ im lặng.
2- Nói chân thật (Sacca
bhāsitā), là nói lời thật, nói đúng sự thật, chuyện có nói có, chuyện không nói
không. Người Phật tử không nói dối, không nói sai sự thật; nếu thấy nói thật sẽ
gây bất lợi có thể làm hại mình hại người thì nên im lặng, hoặc nói lảng chuyện
khác khi không thể im lặng.
3- Nói nhã nhặn (Saṇha
bhāsitā), là nói lời thiện cảm, lời nói làm cho người nghe thông cảm đến tim.
Người Phật tử khi nói chuyện xã giao nhất là khi tiếp xúc với chư Tăng, nên
dùng cam ngôn mỹ từ, nói chuyện nhã nhặn, không nên thô lổ, to tiếng, dù gặp
chuyện bất bình cũng thế.
4- Nói hữu ích (Atthasañhita
bhāsitā), là nói những đề tài liên hệ lợi ích thiết thực. Người Phật tử phải tu
dưỡng tâm trí, vì vậy nếu có nói chuyện với ai chỉ nên nói chuyện gì đáng nói
để không làm mất thời giờ làm việc hay thời giờ tu dưỡng. Ngoài xã hội thì nên
nói điều lành mạnh có lợi ích trong sinh hoạt cuộc sống; khi vào chùa thì nên
bàn luận điều thiện có lợi ích tiến hóa về tri kiến tu tập.
5- Nói với từ tâm (Mettācitta
bhāsitā), là nói với tâm hiền thiện mát mẻ, không sân giận, độc hiểm. Người
Phật tử khi tiếp xúc, nên có ý niệm "Mong tâm ta luôn mát mẻ, trong hoàn
cảnh nào cũng nói bằng tâm từ không bằng tâm sân"; cho dù lúc quở trách
người khác lầm lỗi cũng chỉ nên nói với ý tốt, xây dựng nhau, và giúp nhau tiến
hóa thôi.
Đó là năm hình thái ngôn ngữ mà
người Phật tử nên biết và áp dụng trong cuộc sống giao tiếp; khi tiếp xúc với
chư Tăng là đối tượng khả kính thì người Phật tử cần phải ngôn ngữ thích hợp và
tốt đẹp hơn nữa để không mắc lỗi lầm khẩu ác nghiệp.
VẤN ĐỀ ẨM THỰC CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ
Việc ăn uống là một trong những
nhu cầu tất yếu của cuộc sống; con người phải ăn mới sống được. Triết lý đó
tưởng chừng như đơn giản vậy thôi, nhưng kỳ thực vấn đề "Ăn" của loài
người rất phức tạp. Loài người không như các loài động vật khác ăn thức ăn
thuần túy của giống loài. Con người tự chế biến ra thức ăn, tạo thức ăn theo ý
thích, theo sắc thái dân tộc, theo tư tưởng tôn giáo v.v... từ đó đã sanh ra
những tệ hại, như sát phạt nhau vì miếng ăn, hoặc tranh luận nhau về cái ăn
v.v...
Ở đây chỉ bàn đến vấn đề ẩm thực
trong đời sống của người Phật tử, sao cho hợp lẽ đạo và đúng nghĩa ăn để sống,
sống để tu hành. Ở đây không có điểm tranh luận.
Lập trường tu tập của người Phật
tử là không làm điều ác, năng hành điều thiện, thanh lọc nội tâm.
Việc ăn uống mặc dù là nhu cầu
nuôi sống nhưng không nên vì thế mà để việc ăn uống chi phối lập trường tu tập.
Người Phật tử không nên quan niệm
ăn uống như là một pháp môn tu hành, mà chỉ nên biết rằng tu tập thế nào để
trưởng dưỡng thiện tâm, tu tập thế nào để phát triển trí tuệ ... để đem lại an
lạc, phá tan phiền não, chấm dứt mọi khổ đau.
Về vấn đề ẩm thực, người Phật tử
cần biết những nguyên tắc sau đây:
1- Ăn uống tiết độ. Tức là ăn
uống có chừng mực, vừa phải, để cho thân được nhẹ nhàng và không mất nhiều thời
gian tu tập thiền định.
2- Ăn thức ăn dễ tiêu hóa. Tức
là ăn uống những thức ăn thức uống hợp với thể tạng; không ăn những thức ăn khó
tiêu, những thức ăn có nhiều độc tố, những thức ăn gây bệnh. Điều này cũng có
nghĩa là người Phật tử chơn chánh không có thành kiến về thức ăn chay mặn, miễn
là thức ăn không gây thân bệnh là được.
3- Ăn thức ăn không gây ảnh
hưởng giới luật người tu. Điều này có nghĩa là người Phật tử không thọ dùng
miếng ăn có được do sát sanh, hay do trộm cướp, hay do tà mạng bất chánh.
4- Ăn thức ăn không làm tổn giảm
thiện pháp. Điều này có nghĩa là người Phật tử không ăn bằng sự tham đắm, bằng
sự bận rộn tìm kiếm, bằng sự gây khó khăn cho người cấp dưỡng.
Nếu áp dụng được bốn nguyên tắc
về ẩm thực như thế, người Phật tử thật sự sống an lạc và không có lỗi lầm trong
việc ẩm thực.
VẤN ĐỀ HƯỞNG THỤ CỦA NGƯỜI PHẬT
TỬ
Người cư sĩ (gihi) là người còn
hưởng dục (kāma-bhogī). Tức là hạng người còn chất chứa tài sản và thọ dụng năm
món dục lạc; thưởng thức sắc, thinh, hương, vị, xúc.
Nhưng giữa các người cư sĩ có
hạng sống lương thiện, có hạng sống không lương thiện. Người Phật tử là hạng cư
sĩ sống lương thiện.
Người cư sĩ lương thiện là người
sống tầm cầu tài sản hợp pháp không thủ đoạn, là người biết tự nuôi dưỡng mình
và cấp dưỡng người trong gia đình, là người biết san sẻ và tạo nhiều công đức.
Người Phật tử chân chính không
phải chỉ là người cư sĩ sống lương thiện mà còn phải biết cách sống để đạt đến
trạng thái thánh thiện, quả vị giải thoát trong tương lai nữa.
Người Phật tử cư sĩ mặc dù còn
thụ hưởng tài sản, nhưng ngoài cách sống lương thiện, còn phải có những khuynh
hướng nội tâm thánh thiện như sau:
1- Thọ dụng tài sản có tri túc,
tức là biết đủ với những gì có được, không đua đòi quá đáng.
2- Thọ dụng tài sản không tham
đắm, tức là không quá đam mê hưởng thụ, không nhiễm trước đến nỗi làm nô lệ cho
tài sản.
3- Thọ dụng tài sản thấy được
nguy hiểm, tức là thấy được sự nguy hiểm của các dục; ngũ trần như khúc xương,
như tử thi, như đuốc rơm, như hầm lửa, như giấc mộng, như đồ tạm mượn, như trái
độc, như đao kiếm, như dao thớt, như đầu rắn độc; Ngũ trần vui ít khổ nhiều,
nguy hiểm càng nhiều hơn.
4- Thọ dụng tài sản có trí tuệ
xuất ly, tức là có trí quán thấy luân hồi phải bị khổ sanh, khổ già, khổ bệnh,
khổ chết, các pháp hữu vi là vô thường, khổ não, vô ngã, chỉ có sự tịch diệt
Níp bàn mới thật sự an lạc.
Đó là thái độ đúng đắn của một
người Phật tử chí thiện, mặc dù đời sống cư sĩ còn hưởng thụ.
DỨT
CHƯƠNG PHỤ LỤC
CHỮ VIẾT
TẮT
(Dùng
trong quyển sách này)
A: Aṅguttaranikāya,
Tăng Chi Bộ Kinh
Comp: Compendiuṃ of Philosophy, Thắng Pháp Tập
Yếu Luận (Abhidhammatthasaṅgaha)
D: Dīghanikāya, Trường Bộ Kinh
DA: Dīghanikāya Atthakathā, Chú giải Trường Bộ Kinh.
KhA: Khuddakapāṭha Atthakathā, Chú giải tập Tiểu
Tụng (của Tiểu Bộ Kinh).
S: Saṃyuttanikāya, Tương Ưng Bộ Kinh
Sn: Suttanipāta (Khuddakanikāya), Kinh Tập (thuộc Tiểu Bộ)
SÁCH
THAM KHẢO
Tương ưng bộ kinh (HT Thích Minh Châu dịch)
Tăng chi bộ kinh (HT Thích Minh Châu dịch)
Tìm hiểu Phật giáo (Pháp sư Thông Kham)
Gương lành bậc xuất gia (Tỳ kheo Hộ Pháp)
Cư sĩ vấn đáp (Lê văn Giảng)
Nghi thức và lễ giáo của Phật tử tại gia (Tỳ kheo Dũng Chí)
Kinh nhật hành (HT Hộ Tông)
Kho Tàng Pháp Học (Tỳ kheo Giác Giới)
Nền tảng Phật giáo - Cẩm nang (Tỳ kheo Hộ Pháp)