PHÁP HỆ THIỀN TÔNG
I. SÁU THIỀN TỔ
TRUNG HOA
Tôi
không kỳ vọng trình bày ở đây một bài nghiên cứu hoàn toàn đúng theo
tinh thần phê phán và khoa học về lịch sử Thiền Tông, vì muốn vậy phải
am tường sự phát triển của Phật giáo Trung Hoa, nhưng về đề tài này,
theo tôi biết, không có sử sách nào vừa tầm bạn đọc. Vậy, chủ ý của tôi
trong thiên cảo luận này trước hết là thuật lại lịch sử cổ truyền của
Thiền Tông theo như các nhà Thiền kể lại, ở Nhật Bản cũng như Trung Hoa.
Phần khảo sát và phê phán sẽ tiếp theo sau, sau khi bạn đọc được chuẩn
bị phần nào để đi xa hơn.
Nguồn
gốc cổ truyền của Thiền Tông Ấn Độ, trước thời du nhập vào Trung Hoa,
theo tài liệu thu nhập trong các bộ văn học Thiền, pha trộn toàn truyền
kỳ đến không có gì đáng tin được. Ở thời chưa có cái học khảo sát, và
mọi việc, nhất là thuộc phạm vi tôn giáo, đặt trọn hết vào lòng tin, ta
không thể đòi hỏi gì hơn. Nay e quá trể rồi để thứ vén màn bí mật bao
trùm nguồn gốc Thiên ở Ấn Độ, trừ phi bằng cách suy diễn ra một cách đại
khái theo những sử liệu đã biết về sự phát triển của Phật giáo Đại Thừa.
Trên thực tế, Thiền Tông, như đã trình bày trước, là sản phẩm của tâm
địa Trung Hoa, hay nói đúng hơn, là sản phẩm Trung Hoa tinh chế ra từ
giáo lý Giác Ngộ. Bởi vậy, khi muốn thuật lại lịch sử Thiền, tốt hơn
trong phạm vi nào đó, ta khỏi đi Ấn mà chỉ lưu lại ở Trung Hoa để học
hỏi tâm lý và triết lý của Hán tộc, và những cơ duyên giúp cho Thiền có
đủ khả năng lớn mạnh trên mảnh đất của giống con trời, vì ta đừng quên
Thiền là đạo giác Ngộ hình thành qua kiến giải Trung Hoa.
Đành
rằng có thể có đôi học giả kích bác luận điệu trên, viện lẽ rằng nếu
Thiền quả là một pháp môn của Phật giáo như các Thiền đức từng truyền
rao, thì Thiền không thể tách rời ngoài toàn thể lịch sử Phật giáo Ấn
Độ. Thật không gì đúng hơn; tuy nhiên, thực tế mà xét, Thiền không có ở
Ấn, tôi muốn nói không có dưới hình thức ta nhận biết hiện nay; bởi vậy,
nếu phải ngoài đất Trung Hoa tìm xa xôi hơn nguồn gốc và dòng khai triển
đạo Thiền, con đường duy nhất mở ra cho chúng ta là con đường tôi đã
nương theo ở nhưng thiên cảo luận trước. Nói một cách khác, ta phải coi
Thiền như một kiến giải Trung Hoa về giáo lý Giác Ngộ, giáo lý từng được
trình bày trong toàn bộ văn học Phật giáo, thiết tha hơn ở Đại Thừa, và
bộc lộ phần nào ở Tiểu Thừa. Với thời gian, giáo lý ấy lớn mạnh, chiếm
trọn tâm hồn người Phật tử, và chi phối dòng diễn tiến chung của tư
tưởng Phật giáo; vì há chẳng phải do Ngộ mà Cồ Đàm thành Phật đà, thành
Giác giả sao? Và mục đích của Phật tử là gì nếu không là theo chân đấng
giáo chủ trên đường chứng quả giải thoát tối hậu? Nhưng hàng “Bồ đề tử”
Trung Hoa phát tâm xiển dương giáo lý Giác Ngộ không khứng nuốt trộng
món Phật giáo Ấn Độ khó tiêu. Tinh thần tưởng tượng thực tiễn của dân
tộc Trung Hoa bèn tạo ra đạo Thiền vậy, và họ tận lực hoằng khai, đáp
ứng theo tâm đạo.
So
sánh Thiền ở hình thái hoàn tựu với giáo lý Giác Ngộ khi mới manh nha
trong Phật giáo nguyên thỉ, ta gặp phải một hố sâu cơ hồ không qua được.
Đó là điều rất dĩ nhiên vậy. Thử xem: ban đầu, Phật do dự phần nào trong
việc tiết lậu lẽ nhiệm mầu của thể tánh Phật, nghĩ rằng các đệ tử hoàn
toàn không đủ khả năng nối gót theo Ngài. Cảm tưởng đầu tiên sau khi ngộ
đạo ấy chi phối Ngài suốt thời gian hoằng hóa giữa thế gian. Đó là cảm
tưởng Đạo Chánh Đẳng Chánh Giác do Ngài tự chứng nhiệm mầu quá, khó cho
chúng sanh hữu tình cố gắng đạt tới được; mà ví dầu có vén cho họ thấy
cơ huyền họ vẫn khó hiểu thấu, e lại vì căn cơ hạ liệt mà đâm ra phỉ
báng nữa. Ngài há chẳng có ý định và ngay Niết Bàn sau khi thành đạo
sao? Mặc dầu có lời thỉnh cầu của Phạm Thiên, suốt đời Ngài như bị chi
phối bởi cảm tưởng ấy: do dự trao cho thế gian tất cả những gì Ngài
chứng được, cái mà thuật ngữ Lăng Già gọi là tự giác thánh trí. Có thể
lắm, trên thực tế, Ngài đã truyền hết cho đệ tử, không dè dặt, tất cả
đều sở chứng của Ngài, nhưng ấn tượng đến với ta từ các bộ A hàm hoặc
Nikaya là Phật quả có phần do dự nào đó trong việc trao truyền. Hoặc giả
ít ra đó là bổn ý các nhà trước thuật kinh điển đầu tiên cố hình dung
đức Bổn sư, dầu bất cứ vì duyên cớ nào. Trong tình thế ấy, khái niệm
Giác Ngộ không được diễn lên đầy đủ và nổi bật trong văn học Tiểu thừa
khiến ta phải chú ý ngay. Nhưng ta đã lưu ý khái niệm ấy chỉ bị vùi sơ
giữa những khái niệm khác, ít quan hệ hơn, và dễ làm hiển lộ ra nếu bằng
luận lý và tâm lý ta khéo dõi theo trong kinh điển dòng diễn tiến đưa
đến sự thành đạo của Phật.
Các
nhà trước thuật đầu tiên quan niệm Bốn Diệu Đế, hoặc Mười Hai Nhân
Duyên, hoặc Tám Chánh Đạo là giáo lý trung tâm của đạo Phật, trong đó,
về mặt tâm lý, bao gồm luôn thuyết vô ngã. Nhưng, cả ở mặt triết học và,
trên quan điểm Thiền, nếu suy nghiệm kỹ về đời sống của Phật và về diệu
lý của Phật tánh, ta không thể không đặt nặng lý Giác Ngộ coi như phần
có ý nghĩa nhất, cốt yếu nhất, và lợi lạc nhất của Phật giáo. Bởi vậy,
dầu hàng Tiểu Thừa luận và hiểu cách nào về cái gọi là Phật giáo nguyên
thỉ, điều mà Phật thực tâm muốn trao truyền cho các đệ tử phải nói là
giáo lý Giác Ngộ. Tuy nhiên, Phật giáo thịnh đạt ở Ấn Độ bao lâu thì
khái niệm chủ yếu ấy vẫn y nguyên, nghĩa là không ngoài phần khai triển
của hầu hết kinh điển Đại Thừa. Chỉ sau khi Bồ Đề Đạt Ma qua
Trung Hoa, khái niệm ấy mới mọc rễ và lớn mạnh lên ở đây thành cái mà
nay ta gọi riêng là Phật Giáo Thiền tông. Vậy, nói đúng ra, hoặc
trong phạm vi hẹp hơn, ta có thể coi Thiền Tông như mở đầu trang sử ở
Trung Hoa. Mầu đất Ấn Độ siêu hình quá, giàu tinh thần tưởng tượng ngoan
lộng quá để cho cây Thiền có thể đơm bông kết trái được trong hình thức
thuần túy như hiện có
Nêu sự
ngộ tánh, tánh Phật hoặc tánh La Hớn, làm cứu cánh, Phật chứng tỏ một
tinh thần thực tiễn, luôn luôn đi sát với thực tế thường tục, và luôn
luôn, trong các bài nói pháp thông thường, đề cao một đời sống điều hòa
bằng giới luật. Phật cũng không hề có ý tiết lộ, bằng con đường trí thức
hoặc siêu hình, nội dung của Giác Ngộ, phải tự chứng lấy, không thể giải
thích được. Phật không bao giờ quên nêu cao ý nghĩa của tự chứng, vì
chứng Niết Bàn hoặc chứng đạo là bổn thân mình chứng lấy, bằng tự lực và
trong nội tâm mình. Bốn Diệu Đế hoặc Mười Hai Nhân Duyên hoặc giáo lý Vô
Ngã chỉ là người hướng đạo trí thức chỉ con đường thực hiện sinh hoạt
Phật giáo. Một giáo lý như vậy không thể có chút giá trị thực dụng nào
hết trừ phi cuối cùng nó đưa đến Giác Ngộ.
Phật
không bao giờ nghĩ rằng đồ chúng sau nầy lại cóthể đặt chọn điểm tâm yếu
của Phật pháp trên những tạo tác ấy của khối óc, những tạo tác không
thềm tự đứng vững nếu không được nội tâm hổ trợ. Tám Chánh Đạo, Phật coi
như người hướng đạo luân lý chỉ con đường đến Giác Ngộ. Người thiển kiến
nhìn vào Phật giáo không thể thấy gì khác hơn ngoài ý nghĩa đạo đức sẽ
chấp Phật giáo làm một thứ học thuật luân lý. Họ coi Phật giáo như một
thứ triết lý thực nghiệm luận, và tăng già như một đoàn thể của những
người tu theo luân lý. Họ ca tụng Phật như người sáng tạo một hệ thống
tôn giáo có tinh thần khoa học, không nhiễm phải những dị đoan về đạo
thường nảy nở bao trùm quanh tôn giáo. Nhưng nghiệm kỹ, nhưng kiến giải
ấy không hoàn toàn đúng với lời Phật dạy; chúng chỉ phản ánh một khía
cạnh, không kiến chiếu được cả toàn thể. Nếu, cùng với những nhận xét
trên, người ta nêu thêm sự hành Thiền - dhyana -
một yếu tố của Phật giáo, sự phán đoán có thể nói là đạt lý; tuy nhiên,
cả đến dhyana cũng chỉ là một hình thức luyện tâm mở đường chứng cứu
cánh Niết Bàn. Dhyana, tự nó, không phân biệt Phật giáo
với nhưng hệ thống triết giáo khác thịnh hành ở Ấn Độ khi Phật còn tại
thế. Cho nên muốn hiểu Thiền như đạo Giác Ngộ thể hiện trọn vẹn lý tánh
của pháp Phật, ta phải chờ hưng khởi lên trào lưu Đại Thừa giáo. Và khi
trào lưu này du nhập vào Trung Hoa theo gót Bồ Đề Đạt Ma là khai
diễn lên cái mà nay ta được biết dưới danh từ Thiền Đạo.
I. TRUỚC
BỒ ĐỀ ĐẠT MA
Tương
truyền khởi nguyên của đạo Thiền ở ấn độ diễn Ấn Độ diễn ra như sau:
Ngày kia, tại ngọn núi Kên Kên (Linh Thứu) Thích Ca Mâu Ni lên tòa nói
Pháp. Lần này Phật không dài dòng luận giải, Phật chỉ đưa lên trước pháp
hội một cành hoa do một cư sĩ mới dâng cúng, im lìm không nói một lời.
Không ai hiểu ý Phật ra sao, chỉ trừ tôn giả Ca Diếp lặng lẽ mĩm cười
như ngầm thâm ngộ ý nghĩa của lời dạy im lặng, nhưng hùng hồn ấy của Đức
Thế Tôn. Phật bèn bảo ông Ca Diếp: “Ta có kho tàng quý nhất, tâm linh
siêu việt, nay ta trao cho ông, tôn giả Ca Diếp”[1]
Các
nhà tu Thiền chánh thống thường nhắm mắt nắm lấy câu chuyện ấy làm điểm
khai thông câu chuyện, theo họ, hàm ẩn cái diệu tâm của Phật cũng như
huyền chỉ của Thiền. Vì lẽ Thiền tự coi là cốt tủy của Phật giáo, và
trực tiếp được Phật truyền tâm ấn cho vị đại đệ tử là Ca Diếp nên tự
nhiên đồ chúng của phái này đặc biệt hướng đến giây phút truyền thừa
giữa sư và đệ. Đại khái ta biết Ca Diếp thừa tiếp Phật làm thượng thủ
thống lãnh tăng chúng về phương diện tín ngưỡng, như về câu chuyện
truyền tâm ấn Thiền, ta không có một sử liệu nào trong khối văn khố Phật
giáo Ấn Độ hiện còn lưu trữ. Theo chỗ tôi biết, câu chuyện trên được đặc
biệt nêu lên lần đầu tiên trong một bộ Thiền sử Trung Hoa gọi là
Quảng đăng lục[2]
vào năm 1029, và cả trong bộ Truyền pháp chánh tông ký của Khế
Tung soạn năm 1064, trong bộ này, soạn giả duyệt lại sử kiện trên
coi như hoàn toàn không xác thực. Trong bộ Truyền Đăng lục, soạn năm
1004, là bộ Thiền sử cổ nhất hiện còn, tác giả không đá động gì đến sự
đặc truyền tâm ấn Thiền ấy trong đời Phật. Vì lẽ tất cả các bộ sử cổ hơn
về Thiền nay đều thất lạc, ta không tiện quyết đoán truyền thống Thiền
khởi đầu trên đất Trung Hoa vào thời nào. Chắc rằng giữa hàng tu Thiền
người ta mới bàn đến sau này, khi đạo Thiền đã lập tông khai giáo vững
chắc trên đất Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ VIII.
Đương
thời, hẳn họ thấy cần phải dựng lên một truyền kỳ như vậy cốt phong uy
tín cho Thiền Tông, vì Thiền càng hưng thịnh, uy thế và ảnh hưởng thấm
nhuần đến đại chúng, thì các tông phái hiện có đâm ganh tỵ và kích bác
Thiền không có một sự tích đủ tín lực nào về sự truyền thừa trực tiếp
của Bổn Sư như các môn nhân từng rao truyền. Sự thế tự nhiên là vậy,
nhất là khi Thiền chủ trương uy tín tối hậu của đạo cốt ở sự tự chứng và
nội chứng, và coi nhẹ hẳn phần giáo huấn của kinh và luận. Ở điểm này,
Thiền nhất quyết không cùng; nhưng không vì tinh thần phê phán và độc
lập ấy mà Thiền không cần biết đến uy tín của Phật giáo lịch sử và mong
tìm ra một sự tích khả dĩ chứng thực Phật phó chúc Thiền cho Đại Ca
Diếp, và từ Ca Diếp tâm ấn Phật được tiếp tục truyền thừa đến tổ thứ hăm
tám là Bồ Đề Đạt Ma, sơ tổ Thiền Trung Hoa. Ấy thế là các sử gia Thiền
lập lên hăm tám dòng Tổ Thiên Trúc, trong khi, theo các tông phái khác,
chỉ có hăm ba hoặc hăm bốn vị Tổ kể từ vị khai tông. Đã có sự truyền
thừa giữa Phật và Ca Diếp, các sử gia còn cần phải lấp đầy khoảng trống
giữa tổ thứ hăm ba hoặc hăm bốn và cả Bồ Đề Đạt Ma nữa được tôn là tổ
thứ hăm tám.
Theo
quan niệm phê bình hiện đại, Thiền phát xuất từ Bồ Đề Đạt Ma ở Trung Hoa
hay từ Phật ở Ấn Độ, điều ấy không mấy quan trọng, nhất là vì Thiền nắm
một chân lý và có một giá trị lâu đời. Cũng vậy, theo quan điểm của các
sử gia từng dõi ngược trong tinh thần khoa học đến đầu nguồn của trào
lưu tư tưởng rốt cùng đưa đến đạo Thiền, họ thấy không gì cần hơn là tìm
ra mối dây hợp lý xâu liền lý Giác Ngộ của Đại Thừa Ấn Độ với sự ứng
dụng của người Trung Hoa trong đạo sống thiết thực hằng ngày; còn dòng
tổ truyền thừa Thiên Trúc trước Bồ Đề Đạt Ma do các người tu Thiền dựng
lên như thế nào, họ không quan tâm, vả chăng có gì hệ trọng. Tuy nhiên,
hễ đã khai tông thành một pháp môn độc lập, không những bằng một bản
lĩnh đặc thù mà còn bằng những sự kiện có bằng chứng, có lịch sử, tự
nhiên các sử gia cần vạch ra một tông chi truyền thừa liên tục, không
đứt đoạn trong Thiền, như ta sẽ thấy sau, không gì thiết yếu bằng sự ấn
chứng của sư đối với đệ xác nhận sự chân truyền . Bởi vậy tôi thiết
tưởng hễ coi Thiền như một sản phẩm vun trồng lên trên đất Trung Hoa từ
những hột giống Giác Ngộ Ấn Độ, thì khỏi lập nên một pháp hệ truyền thừa
Ấn Độ, trừ phi ta muốn lập lên một cách đại khái và hợp lý phần nào mà
thôi như tôi đã làm ở nhưng bài luận trước.
Hai
mươi tám dòng tổ Thiền Thiên Trúc được coi như thuộc hệ thống truyền
pháp chánh tông là các vị tổ này:[3]
1.
Thích Ca Mâu Ni: Sakyamuni
2. Tôn
giả Ca Diếp: Mahakasyapa
3. A
Nan Đà: Ananda
4.
Thương Na Hòa Tu: Sanavasa
5. Ưu
Ba Cúc Đa: Upagupla
6. Đề
Ca Đa: Dhritaka
7. Di
Giá Ca: Micchaka
8.
Phật Đà Nan Đề: Buddhanandi
9.
Phật Đà Mật Đa: Buddhamitra
10.
Hiếp Tôn Giả: Bhikshu Parsva
11.
Phú Na Dạ Sa: Punyayasas
12. Mã
Minh: Asvaghosha
13. Ca
Tỳ Ma La: Bhikshu Kapimala
14.
Long Thọ: Nagarjuna
15. Ca
Na Đề Bà: Kanadeva
16. La
Hầu La Đa ; Arya Rahulata
17.
Tăng Già Nan Đề: Samghanndi
18.
Già Da Đa Xá: Samghayasas
19.
Cưu Ma La Đa: Kumarata
20. Xà
Dạ Đa: Jayata
21. Bà
Tu Bàn Đầu: Vasubandhu
22. Ma
Noa La: Manura
23.
Hạc Lặc Na: Haklenayasas
24. Sư
Tử Tỹ Khưu: Bhikshu Simha
25. Bà
Xá Tư Đa: Vasasita
26.
Bất Như Mật Đa: Punyamitra
27.
Bát Nhã Đa La: Prajnatara
28. Bồ
Đề Đạt Ma: Bodhidharma.
Để phù
hợp với quan điểm Thiền “được Phật truyền riêng tâm ấn ngoài giáo lý
văn tự” các sử gia Thiền còn đẩy lui cuộc truyền thừa trước cả Thích
Ca Mâu Ni; vì theo truyền thuyết lưu hành giữa hàng Phật tử ban sơ thì
ít nhất có đến sáu cổ Phật ra đời trước Phật của kiếp hiện tại là vị Mâu
Ni dòng họ Thích; và mỗi vị cổ Phật ấy đều có lưu lại một bài kệ
phó pháp được khăng khăng lưu giữ trong Thiền sử. Mà nếu sáu vị
quá khứ Phật có kệ thì tại sao chư tổ sau, tất cả, từ Thích Ca
đến Đạt Ma, lại không có kệ được? Hoặc giả nếu đôi vị nào đó có
kệ, tại sao những vị khác lại không có? Nên tất cả đều có lưu lại
kệ phó pháp, trước có lời mở đầu như vầy «Nay ta trao lại ngươi
kho tàng con mắt của chánh pháp, ngươi khá giữ lấy, và ghi nhớ
luôn luôn”. Chắc hẳn đó toàn là sáng tạo lông bông của những sử
gia Thiền đầu tiên, hẳn vì khích lệ bởi lòng tin quá nhiệt thành
đối với mối đạo chánh thống nên đã cực luyện ngọn bút tưởng tượng đến
cao độ như vậy.
Theo
tác giả bộ Truyền pháp chánh tông ký thì người
dịch
những bài kệ của chư tổ ấy là Chi Cương Lương Lâu ở đời Tiền
Ngụy, và Na Liên Da Xá ở đời Đông Ngụy, người đầu gốc ở Trung bộ
Ấn Độ và người sau ở Kaboul. Tác phẩm của hai Ngài là bộ Tục pháp ký
đã bị thất lạc sau những vụ pháp nạn liên miên trong các triều đại đương
thời, nhưng sự tích chư tổ còn dẫn lại ít ra trong hai bộ, Bửu Lâm
Truyện và Thánh Trụ Chí, cả hai ra đời trước bộ Truyền
Đăng Lục có dẫn chiếu lại, và cả hai lại cũng thất lạc nốt một thời
gian sau Khế Tung, ở đời nhà Tống. Nên hiện nay, Truyền Đăng lục
là bộ Thiền sử cổ nhất có ghi chép rành rẽ hăm tám vị tổ sư
Thiên Trúc cùng những bài kệ phó pháp.
Xin cử
làm thí dụ hai trong số sáu bài kệ của sáu vị Tổ Sư phật; vị Phật đầu
tiên là Tì Bà Thi nói kệ rằng:
Từ
trong vô tướng người thọ sanh
Tự hơi
huyễn sanh ra hình tượng
Người
huyễn, tâm thức bổn lai không
Tội
phước đều không chẳng chỗ trụ
Bài kệ
của vị cổ Phật thứ sáu là Phật Ca Diếp tiền bối của Thích Ca Mâu Ni, là
như vầy:
Tánh
của chúng sanh thân thanh tịnh
Xưa đã
không sanh nay chẳng diệt
Chỉ
thân tâm này mới huyễn sanh
Trong
huyễn hóa vẫn không tội phước
Khi
Phật của kiếp hiện đại của chúng ta là Thích Ca truyền chánh pháp cho
tôn giả Ca Diếp, Ngài nói kệ vầy:
Pháp
vốn là pháp chẳng pháp
Chẳng
pháp pháp cũng là pháp
Nay ta
trao cái chẳng pháp
Pháp
có bao giờ là pháp?
Tổ thứ
sáu là Đề Ca Đa phó kệ rằng:
Thông
đạt bản thể tâm
Không
pháp không chẳng pháp
Ngộ
rồi như chưa ngộ
Không
tâm cũng không pháp
Tổ thứ
hăm hai là Ma Noa La phát biểu:
Tâm
theo muốn cảnh chuyển
Chuyển
đâu cũng chẳng mờ
Theo
dòng nhận được tánh
Không
mừng cũng chẳng lo
Ta
nhận lại, ở những bài kệ trên, dòng tư tưởng khu biệt của Đại Thừa giáo
đúng như trào lưu thạnh hành ở Ấn Độ như đã nói trước, một khi đặt nặng
vấn đề giáo lý thì Thiền quả không có gì gọi là đặc biệt, là độc đáo,
đáng được đề ra; vì lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải
ở triết luận có hệ thống, hoặc giáo điều tinh chế thành khái niệm. Thiền
chỉ có một khi mọi suy luận của Đại Thừa giáo được nghiền nát thành sự
kiện sống hằng ngày, và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con
người. Điều ấy chỉ có được sau khi Phật giáo được chuyển sang màu đất
Trung Hoa, được dân tộc chất phác này vun trồng lại theo bẩm tánh riêng,
không nhận nuốt trộng thứ truyền thống Ấn Độ khó tiêu. Lối cảm nghĩ
thông dụng trong những bản văn gọi là kệ phó chúc của chư tổ trên không
cảm nổi tâm hồn Trung Hoa, nên một khi thâm ngộ rồi, họ muốn diễn lại
theo ý riêng, muốn sống lại theo tình lý tự nhiên của họ, thay vì giữ
nguyên như một món hàng nhập cảng không nằm trong tâm khảm dân tộc.
Khi
Bồ Đề Đạt Ma trao thông điệp cho môn đồ, tương truyền Tổ có bài kệ
như vầy:
Ta vốn
qua Trung thổ
Trao
pháp cứu mê tình
Một
hoa năm cánh trổ
Trái
kết tự nhiên thành
Phải
chăng, ở hai chữ “trái kết”, Đạt Ma báo trước hậu vận cực thạnh của
Thiền ở Trung Hoa? Còn “năm cánh” chừng như chỉ vào năm vị tổ sư Trung
Hoa sau Đạt Ma khi thiền được thừa nhận như một pháp môn chân truyền
mang nặng một sứ mạng thù thắng. Hoặc bài kệ ấy là một sấm ngữ thật sự
của chính Đạt Ma, hay do một sử gia Thiền nào đó ngụy tạo ra sau đời Lục
Tổ Huệ Năng, ta không tiện quyết định. Có điều chắc chắn được xác nhận
trong lịch sử là tông chỉ Đạt Ma bắt từ đó nhập tịch Trung Hoa, và gần
hai trăm năm sau ngày tổ viên tịch được dân tộc này đồng hóa một cách
tốt đẹp nhất theo tình ý riêng của họ. Thiền, dưới hình thức hiện có,
không thể chín mùi ở đâu khác ngoài đất Trung Hoa. Đất Ấn Độ quá siêu
hình, dễ buông trôi theo tưởng tượng thần bí. Đó là đất dụng võ của Duy
Thức, của Chân Ngôn, của Hoa Nghiêm, hoặc của Không luận. Còn Thiền phải
cần đến một tâm hồn từng thấm nhuần trong tư tưởng Lão Trang, mà vẫn
không thể tách ngoài những tình tiết của cuộc sống thường ngày. Điềm
đạm, hào sảng, chân chất phần nào, và còn bình thản mẫn tiệp và quân
bình đúng mức nữa, đó là những đức tánh cần phải có để đưa Thiền đến
hiện trạng. Nghĩa là nếu Phật giáo Đại Thừa theo kiểu của Long Thọ và Mã
Minh, và các bộ kinh Duy Ma, Bát Nhã v.v.. nhất là bộ Lăng Già, không
được thiên tài Trung Hoa luyện chế lại thì chắc chắn thiền không bao giờ
xuất hiện như vậy được.
Ở đây
tôi tưởng nhằm lúc đề lên bằng đôi thí dụ cụ thể phương pháp dạy đạo của
Ấn Độ khác như thế nào với phương pháp “đặc biệt Tàu” của thiền Tông
trong việc chứng minh chân lý Thiền. Như tôi từng lưu ý, Phật giáo, dầu
nguyên thủy hay cấp tiến, là đạo tự do và giải thoát, và mục đích tối
hậu hướng đến là cởi mở tâm trí tất cả buộc ràng để nó có thể động dụng
dọc ngang theo thể tánh tự nhiên. Đó
gọi là
tâm vô trụ[4].
Khái niệm ấy quả có tiêu cực phần nào, vì chỉ nhằm mở trói cho trí và
tình, nhưng cảm giác bao hàm trong đó lại tích cực, và mục đích cuối
cùng chỉ đạt tới khi tâm trí được phục hoàn trong thế hoạt dụng bổn lai.
Tâm trí ta, tự nó, nó biết phải làm như thế nào, nên những gì ta phải
làm chỉ là xóa bỏ tất cả chướng ngại mà vì vô minh ta đem chồng chất
trên nó. “Buông xuống đi”, đó là điệp khúc muôn đời rền vang
trong giáo lý Phật giáo.
Sau
đây là kỹ thuật Phật giáo Ấn Độ gây ấn tượng ấy trong ta:
Một
thầy bà la môn tên là Móng Tay Đen mang đến cúng Phật hai cây bông
nguyên cành rễ khổng lồ, thầy dùng phép thần thông nắm chặt mỗi tay một
cây. Phật gọi tên, thầy dạ, Phật liền bảo: “buông xuống đi!”. Thầy bà la
môn bỏ cây hoa tay trái xuống trước mặt Phật. Phật lại bảo buông xuống
nữa. Thầy bà la môn bạch: “Tôi có gì đâu nữa mà buông bỏ. Phật muốn dạy
gì?” Phật đáp: “tôi không hề bảo thầy buông hết mấy cây hoa, tôi bảo
thầy bỏ là bỏ sáu căn sáu trần sáu thức. Khi thầy bỏ được hết đến không
có gì nữa để bỏ, đó là lúc thầy thoát ly tất cả ràng buộc của sanh tử
luân hồi.”
Khác
với lối nói rõ, quá khúc chiết của Phật, câu chuyện sau đây của Triệu
Châu[5],
thẳng và gọn, giải quyết vấn đề một cách dứt khoát nhất:
Có
ông tăng đến hỏi Triệu Châu lão nhân: “Không mang gì hết đến đây thì thế
nào?”
Châu đáp: “Buông xuống đi”.
Ông
tăng bạch lại: một vật chẳng mang theo thì buông xuống cái gì?”
Châu nói: “Buông chẳng xuống thì dỡ lên đi».
Các
Thiền sư khoái nói nghịch. Lời đáp của Triệu Châu ở đây một nghịch lý
điển hình.
Vấn đề
giải thoát đành là hệ trọng, nhưng có cái hệ trọng hơn, đó là câu hỏi
này: “Phật là gì?”. Một khi nắm
vững được vấn đề ấy là Phật giáo hoàn tất Phật sự. Các đạo sư Ấn Độ nghĩ
gì về Phật? Đây:
Xưa có
một bà lão sống đồng thời với Phật. Bà sanh ra đồng thời với Phật, và
ngụ ở khu đông thành phố. Bà tị hiềm Phật thế nào không biết mà không
bao giờ muốn gặp mặt
Phật.
Hễ thấy Phật đi qua đâu là bà ta lánh trốn chỗ khác. Nhưng dầu trốn đâu,
đông hay tây, bà vẫn phải gặp Phật luôn luôn. Bà lấy tay che mặt, và
này! bà thấy Phật qua kẻ tay.Thật là đẹp, và chói lọi làm sao? Và, cùng
đề tài ấy, đây là phép giải của Thiền:
Một
ông tăng đến tham vấn sư Tế An, một cao đệ của hòa thượng Mã
Tổ,
và hỏi:
“Thế nào là bổn thân của Lô Xá Na Phật?».
Sư
bảo: “Ông đưa giùm cái bình nước kia cho tôi».
Ông
tăng liền mang cái tịnh bình dâng lên. Sư bảo:
“Ông đem lại để yên chỗ cũ». Ông tăng mang trả chỗ cũ xong, đặt
lại câu hỏi như trước. Sư đáp:
“Cổ
Phật ấy đi mất lâu rồi mà!”
Hại
thí dụ trên đủ nêu rõ chỗ sai khác giữa tâm Thiền Trung Hoa và tinh thần
Ấn Độ
II. SƠ TỔ ĐẠT MA
(
-528)
Cuốn
sử Thiền mở đầu với Bồ Đề Đạt Ma sang Trung Quốc vào năm 520 sau
TL, mang theo một thông điệp thù thắng. Thông điệp ấy được tóm tắt bằng
mười sáu chữ này:
Chẳng
lập văn tự
Truyền
riêng ngoài giáo
Trỏ
thẳng tâm người
Thấy
tánh thành Phật[6]
Nêu
lên cơ bản lập giáo của đạo Thiền khác hẳn với các môn phái Phật giáo
khác đương thời có ở Trung Hoa, bốn câu ấy không phải của Đạt Ma mà do
đời sau đề ra. Thiếu tài liệu xác đáng, ta không thể quyết đoán tác giả
là ai. Theo sử gia Tông Giám (?) tác giả bộ “Pháp chánh truyền của Phật
Thích Ca”, soạn năm 1257, và soạn theo quan điểm Thiên Thai Tông, đó là
sáng kiến của Nam Tuyền Phổ nguyện; chắc rằng công thức ấy ra đời khi
Thiền đang hồi cực thạnh ở Giang Tây và Hồ Nam với các đại sư Mã Tổ,
Bách Trượng, Huỳnh Bá, Thạch Đầu và Dược Sơn; và từ đó thông điệp ấy
được coi là đặc trưng Thiền, mà chính Đạt Ma là người chủ xướng đả phá
tinh thần ấy cho Phật tử Trung Hoa. Nhưng những người này thường chỉ một
mặt học kinh, một mặt hành Thiền. Họ không am tường phép “trực chỉ” của
Thiền là phương pháp nhắm thẳng vào trung tâm Giác Ngộ, và chứng đến
Phật tánh không qua quá nhiều cấp bực chuẩn bị như các tông phái khác.
Về sự
tích của Bồ Đề Đạt Ma, ta được biết qua hai nguồn tài liệu. Trước
hết là tài liệu của luật sư Nam Sơn Đạo Tuyên trong Cao
Tăng Truyện, soạn vào năm 645, đầu đời nhà Đường và được coi là
tài liệu cổ nhất hiện có. Tác giả là tổ sư khai sáng Luật Tông ở Trung
Hoa, và là một học giả uyên bác; tuy nhiên, ông sống ở thời Thiền chưa
lập tông, Thiền Tông mới được xây dựng lên sau này với lục tổ Huệ Năng
thuở ấy mới lên chín tuổi khi Đạo Tuyên soạn bộ “truyện”. Nguồn tài liệu
thứ nhì là Truyền Đăng Lục do Đạo Nguyên soạn năm 1004,
đầu đời nhà Tống. Sách do một Thiền sư viết ra khi Thiền đã được đồng
thanh thừa nhận như một pháp môn riêng, và chuyên ghi chép những câu nói
và việc làm của các Thiền sư. Trong bộ “lục” , tác giả thường dẫn chiếu
để thêm uy tín những bộ sách Thiền cổ hiện nay đã thất lạc hết chỉ còn
lại tên sách.
Dĩ nhiên là hai bộ sử ấy
chép sai khác hẳn nhau ở nhiều điểm về tiểu sử Bồ Đề Đạt Ma. Bộ
đầu (truyện) được soạn ra khi Thiền chưa định xong cơ bản lập tông, còn
bộ sau (lục) là của một Thiền sư. Trong bộ “truyện”, Đạt Ma, tổ khai
sáng thiền, chỉ được trình bày như những tu sĩ Phật giáo khác lỗi lạc ở
nhiều mặt, như phiên dịch, luận sư, luật sư, du già sư, có nhiều phép
thần thông, v.v. . . và như vậy là Đạt Ma không thể chiếm được trong
lịch sử một địa vị bạt tụy nào khác hơn hàng “cao tăng” khác. Ông chỉ
được mô tả như một pháp sư chuyên thiền định, mà thiền định ở đây chẳng
qua chỉ là phép hành thiền cổ truyền của môn đồ Tiểu thừa giáo[7]
Đạo Tuyên không nắm được yếu chỉ
của thông điệp Đạt Ma, dầu rằng ông có thể nhận ra trong ấy có cái gì
hoàn toàn khác hơn cái thường gọi là “bốn thiền tám định”. Nên vịn vào
đó nhiều nhà chú giải cho rằng trong sự tích Đạt Ma của Đạo Tuyên ít có
gì gọi được là Thiền xứng đáng với vị tổ khai tông Thiền Đông Độ, rằng
Đạt Ma không thể được trọng vọng vậy, như đồ chúng từng rao truyền. Nói
thế e oan cho Thiền mà oan cho cả Đạo Tuyên luật sư, vì luật sư đâu có ý
định viết trước cho Thiền một cuốn sử khi Thiền chưa công nhiên khai
tông lập giáo dưới danh hiệu ấy. Luật sư không phải là một sử gia tiên
tri. Dầu sao, nếu sự tích của Đạo Nguyên có nhiều tình tiết khó tin,
nhất là về đoạn đời của Tổ trước ngày Đông Độ, ta có lý do tin được rằng
hầu hết sự tích Đạt Ma của Đạo Nguyên sau ngày Đông Độ đáng có giá trị
lịch sử. Xét như vậy tức đem Đạo Tuyên bổ khuyết cho Đạo Nguyên. Bằng
không, không gì phản tinh phần phê phán vô tư hơn là thiên bên này bỏ
bên kia, không cân nhắc đúng mức tất cả những điều kiện lịch sử khác
nhau góp phần vào việc cấu tạo mỗi sự tích ấy.
Theo Đạo Tuyên, Bồ Đề Đạt Ma có lưu
lại nhiều bút tích hoặc danh ngôn chắc còn lưu hành trong thời đạ của
tác giả Cao Tăng truyện, nhưng bản văn đáng tin nhất của
vị tổ sư Thiền hiện còn lưu giữ là một văn kiện rất ngắn được chép lại
cả ở Cao Tăng truyện chừng như Truyền Đăng lục Có nhiều bài luận khác
được gán cho Đạt Ma[8]
nhưng mặc dầu thấm nhuần Thiền vị, hầu hết là giả tạo, ngoại trừ một bài
tôi nghĩ rằng có thể là chánh hiệu: đó là bài “luận về phép an
tâm” . Cùng với văn kiện nói trên, thường gọi là
“bốn quán hạnh”, chúng ta chỉ có hai bản văn coi như do
Đạt Ma truyền lại vậy. Nhưng tôi không tin rằng “bốn quán hạnh” là
ngón tuyệt kỹ của Thiền Đạt Ma có quyền lực đưa thẳng ta vào trung tâm
Thiền pháp; dầu vậy tôi xin đưa ra đây một bản dịch, vì đó là một bài
luận đáng tin nhất của Đạt Ma, sơ tổ Thiền Trung Hoa.
Như đã
nói trước, có hai dị bản “bốn quán hạnh”[9]
mộtbản trong Truyện của Đạo Tuyên và một bản trong lục của
Đạo Nguyên không hợp nhau ở đôi điểm. Cái cốt thì vẫn vậy nhưng chi tiết
chẳng đồng. Vậy thử hỏi: bản nào là thứ thiệt? Tính theo tuổi tác thì
Truyện ra đời trước Lục, nhưng Lục vẫn phải “sao lục” những tài liệu nào
có trước nó. Ta không có cách nào quyết định mức độ đáng tin của những
tài liệu tham cứu, nên tín lực của Truyện chưa hẳn là tuyệt đối. Vậy, để
xét giá trị tương đối của hai dị bản trên, ta chỉ có cách đắc sách nhất
là thử so sánh phần văn chương của hai bản ấy để mỗi bản có thể phô rõ
chân tướng trong ánh sáng. Kết quả tôi đạt đến là tác giả Cao Tăng
Truyện đã dùng tài liệu y như trong Truyền Đăng Lục, nhưng tài liệu
trong Lục gần với nguyên tác hơn, trừ phi có bản nào khác
hơn mà
tôi không biết. Sở dĩ tôi quyết định vậy vì bản văn
của
Đạt Ma dường như đã được tự ý “nhuận sắc” nhiều lắm
trong
ấn bản của Đạo Tuyên, lời văn đẹp hơn, cô đọng hơn, sắc bén hơn, và chải
chuốt hơn. Nên tôi đưa ra bản dịch sau đây theo tài liệu của Đạo Nguyên
trong Truyền Đăng Lục, nghĩ rằng tác giả có nhiều lý do
sao đúng theo bản chánh:
Pháp Sư (Bồ đề Đạt Ma) là con thứ ba của một vị đại vương bà la môn ở
Nam Thiên Trúc thuộc Tây Vức. Thần huệ sáng thông, nghe đâu ngộ đó, ông
nuôi chí cầu pháp Đại Thừa, trút lớp áo trắng cư sĩ, khoác lên mảnh nâu
sồng, quyết làm hưng thạnh hột giống thánh. Thoải mái trong lòng, thông
suốt thế sự, trong ngoài sáng rỡ, đức hạnh vượt ngoài khuôn mẫu thế
gian, ông đau lòng trước cảnh suy vi của thánh giáo ở các nước ngoài,
bèn băng núi vượt biển qua du hóa ở Trung Hoa nước Ngụy. Kẻ hằng tâm ai
cũng tin theo, còn người thiển cận sanh lòng chê trách.
Thời ấy có hai ông Đạo Dục và Huệ Khả tuy thuộc hàng hậu sanh tuổi nhỏ
mà tuấn tú, chí lại cao xa, duyên may gặp được Pháp Sư bèn ở đó phụng sự
nhiều năm, hết lòng tu học chỉ mong Sư chỉ bảo. Pháp Sư thương họ tinh
thành bèn chỉ cho chân đạo?
Đây
là phép an tâm
Đây
là phép phát hạnh
Dây
là phép thuận vật
Đây
là phương tiện.
Đó
là phép an tâm của Đại Thừa giáo, cẩn thận chớ hiểu lầm.
An
tâm đó, đó là BÍCH QUÁN[10]
Phát hạnh đó, đó là tứ hạnh
Thuận vật đó, đó là phòng ngừa sự chê gièm
Phương tiện đó, đó là khiến mình đừng chấp trước.
Đó
là sở do lược thuật lại như vậy.[11]
Phàm vào đạo có nhiều đường, nhưng nói cho cùng không ngoài hai đường
này, là LÝ NHẬP và HẠNH NHẬP
I. LÝ NHẬP
là nương theo giáo (kinh điển) để ngộ vào tông (yếu chỉ) tin sâu rằng
tất cả sanh linh đều chung đồng một chân tánh, chỉ vì khách trần bên
ngoài và vọng tưởng bên trong che lấp nên chân tánh không hiển lộ được.
Nếu bỏ vọng theo chân, tinh thần ngưng trụ trong cái đinh BÍCH QUÁN thì
không thấy có ta có người, thánh phàm một bực như nhau ; nếu một mực
kiên cố không lay chuyển, rốt ráo không lệ thuộc vào vào giáo, đó tức là
ngầm hợp với lý hết tâm tưởng phân biệt.
Tịch nhiên vô vi gọi là lý nhập,
II. HẠNH
NHẬP
là nói về bốn hạnh,
ngoài
ra các hạnh
khác
đều bao gồm trong ấy. Bốn hạnh là gì?
-
một là
báo oán
hạnh
-
hai là
tùy duyên hạnh
-
ba là vô sở cầu hạnh
-
bốn là xứng pháp hạnh.
1. Sao gọi là BÁO OÁN HẠNH?-
Người tu hành khi gặp cảnh khổ nên tự nghĩ như vầy: Ta từ bao kiếp trước
buông lung không học, bỏ gốc theo ngọn, trôi giạt theo vật
chất, nặng lòng thương ghét, gây hại không cùng. Đờn này tuy ta không
phạm lỗi, nhưng nghiệp dù gieo từ trước nay kết trái chín, điều ấy nào
phải do trời hoặc người tạo ra đâu, vậy ta đành nhẫn nhục chịu khổ, đừng
nên oán trách.
Kinh nói: gặp khổ không buồn.
Vì
sao vậy? Vì thấu suốt (luật nhân quả) vậy. Khi tâm niệm ấy phát ra ấy là
ứng hợp với lý. Mượn oán mà hành đạo nên nói là hạnh trả oán.
2.
Hai là TÙY DUYÊN HẠNH.
Chúng sanh đều do duyên nghiệp mà chuyển thành, chẳng có cái tôi. Mọi
nỗi khổ vui đều do nhân duyên sanh. Nếu nay được quả báo tốt hưởng đủ
vinh dự, ấy là do nhân
lành thuở truốc cảm nên, nay mới được vậy. Hễ duyên hết thì lại hoàn
không, mừng vui nỗi gì? Được mất gì đều tùy theo duyên, nhưng tâm người
không vì vậy mà được thêm hoặc bớt mất gì.
Nếu
thấu đáo được vậy thì gió vui chẳng động, lặng lẽ mà thuận đạo, nên nói
là hạnh tùy thuận theo duyên nghiệp vậy
3.
Ba là VÔ SỞ CẦU HẠNH.
Người đời mãi đắm mê, việc gì cũng tham trước, thế gọi là cầu
Bậc
trí ngộ lẽ chân, chuyển ngược thế tục, nên an tâm trụ ở vô vi, thân hình
tùy nghi mà vận chuyển. Muôn vật đều là không có gì vui mà cầu được.
Hễ
có công đức thì liền có hắc ám đuổi theo. Ở lâu trong
ba
cõi khác nào như trong nhà lửa. Có thân có khổ, được gìmà vui? Thông
suốt được vậy ắt buông hết sự vật, dứt tướng, chẳng cầu.
Kinh nói: “Còn cầu còn khổ. Hết cầu mới được vui” .
Xét
biết không cầu mới thực là đạo hạnh nên nói là hạnh không cầu mong
4.
Bốn là XỨNG PHÁP HẠNH.
Cái
lý thanh tịnh của tự tánh gọi là pháp. (Tánh tịnh chi lý, mục chi vi
pháp).
Tin
hiểu lý ấy thì mọi hình tướng hóa thành không, không nhiễm không trước,
không bi không thử
Kinh nói: Pháp không có chúng sanh, hãy lìa chúng sanh cấu. Pháp không
có tướng ngã, hãy lìa ngã cấu.
Bậc
trí vì tin hiểu được vậy thì tùy xứng theo pháp mà hành
Bổn
thể của pháp vốn không tham lận cho nên dầu đem thân mạng và của cải ra
mà bố thí vẫn không hối tiếc. Thấu rõ ba cái không thì không còn ỷ lại
và chấp trước. Chỉ cần gạn trần cấu, tùy nghi mà giáo hóa chúng sanh,
nhưng không mắc phải hình tướng, thế tức là tự hành, đã lợi nguời lại
thêm trang nghiêm đạo bồ đề. Bố thí đã vậy thì năm độ (Bát Nhã) khác
cũng thế. Vì dứt trừ vọng tưởng mà hành pháp tu sáu độ, nhưng thật không
gì gọi là hành cả, nên nói là hạnh tùy xứng theo pháp.
(Truyền đăng lục, quyển 30)
Giáo
lý nhị nhập nói trên chắc đã phỏng theo kinh Kim Cương Định[12],
còn
tứ quán hạnh là phần diễn rộng đoạn “hạnh nhập” của bộ kinh.
So sánh lời kinh sau đây ta sẽ
thấy rõ.
“Phật
bảo: Hai đường vào đạo là lý nhập và hạnh nhập
“Lý
nhập là tin sâu rằng tất
cả
chúng
sanh đều đồng nhau một chân tánh, chẳng phải một chẳng phải tất cả, khác
nhau chỉ ở
chỗ
bị che lấp bởi ngoại trần. Chân tánh xưa nay vốn chẳng lại chẳng qua.
Hành giả trong một niệm ngưng tụ TỈNH QUÁN sẽ kiến chiếu vào tánh Phật
chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải ta chẳng phải người, chung
đồng với vật vô giác cũng như giống hàm linh, cùng một thể. Bấy giờ hành
giả sẽ kiên trì nơi tâm địa kim cương, rốt chẳng xa lìa, được tịch nhiên
vô vi, hết tâm tưởng phân biệt Đó là lý nhập.
“Hạnh
nhập là đừng để tâm bồn chồn, u trệ, đừng đắm theo bóng dáng trôi lăn
như đợt sóng. Bất cứ đâu cũng giữ tinh thần ngươi trong lặng, đừng đuổi
theo gì hết. Hãy như đại địa dầu bão tố vẫn bất động. Hãy gột sạch hết
tư tưởng vị ngã trong tâm, cứu độ tất cả chúng sanh đưa qua bờ giác.
Không sanh tử, không hình tướng, không thủ không xả, không gì đến gì đi
trong tâm bồ tát. Khi tâm không có gì đến gì đi là tâm nhập trong cái
bổn lai không có nhập. Bồ tát nhập pháp là như vậy đó. Pháp chẳng phải
là không, và cái pháp “chẳng không” không thể gạt bỏ coi như không thực.
Tại sao? Cái pháp không chẳng thực có tất cả công năng. Đó chẳng phải
tâm, chẳng phải bóng dáng, đó thuần túy là “như”
So
sánh hai bản văn, bạn đọc không tránh khỏi ấn tượng mạnh trước sự thay
đổi quan trọng nhất, nổi bật nhất, trong bản văn của Đạt Ma: đổi hai chữ
tỉnh quán bằng bích quán.
Bích
có nghĩa là tường vách như trong thành ngữ bích lũy nan xuyên là
tường thành khó qua, hoặc theo nghĩa bóng hình dung thái độ đứng
thẳng lên: acala vidyaraja. Vì lý do nào Đạt Ma đổi chữ
“tỉnh” là thức dậy, hoặc giác ngộ, ra chữ bích là
tường, xét ra không có chút liên hệ nào với chữ quán
là xem xét? Lối ghép chữ mới này thật vô cùng quan hệ vì nó
biến đổi toàn thể tinh thần bản văn.
Luật
sư Đạo Tuyên, tác giả Cao Tăng Truyện, trong lối bình giải
về Thiền, nêu pháp Đại thừa Bích quán làm sự nghiệp tuyệt
diệu của sư Đạt Ma ở Tàu. Vì thế nên Sư thường được gọi là Bích
quán Bà la môn, nghĩa là ông sư nhìn vách; và ở Nhật, môn đồ của
Thiền Tào Động dường như cũng noi gương vị tị tổ ấy trong khi họ ngồi
Thiền mặt xoay vào vách Tuy nhiên, chắc chắn đó là một lối giải thích
quá phiến diện hai chữ bích quán, vì nếu cứ ngồi nhìn vách suông như thế
làm sao phát động được một phong trào cách mạng sâu rộng như vậy giữa
đại chúng Phật tử như Đạo Tuyên đã ghi nhận trong sự tích Đạt Ma?[13]Làm
sao một lối hành đạo vô tội vạ như vậy lại dựng lên được một cuộc chống
đối khủng khiếp giữa các nhà học Phật đương thời? Theo thiển ý,
bích quán có một ý nghĩa thâm diệu hơn nhiều, và
phải hiểu theo tinh thần đoạn văn sau đây do bộ Truyền đăng lục trích
dẫn lại theo một tác phẩm gọi là Biệt ký, tên gọi chung
một số tài liệu riêng có từ trước.
“Sư
(Đạt Ma) ban đầu ở chùa Thiếu Lâm chín năm, vì nhị tổ (Huệ Khả) nói pháp
chỉ dạy rằng:
Ngoài
dứt chư duyên
Trong
không toan tính
Tâm
như tường vách .
Mới là
nhập đạo
“Huệ Khả trình bày đủ cách hiểu của ông về tánh lý (bổn thể) của tâm,
nhưng lần nào Sư cũng một mực báo “chẳng phải” , mà cũng không bảo nói
gì về tâm thể vô niệm.
Ngày kia Huệ Khả nói: “Ta đã dứt hết chư duyên rồi” .
Sư
hỏi: “Ngươi không biến thành đoạn diệt (hư vô) chớ?”.
Khả
đáp: “Chẳng thành đoạn diệt” .
Sư
hỏi lại: “Lấy gì làm tin chẳng phải là đoạn diệt?”
Khả
đáp: “ Do cái biết tự nhiên vậy, còn nói thì chăng được”
Sư
đáp: “Đó là chỗ bí quyết tâm truyền của chư Phật, ngươi chớ ngờ gì hết”
.
Đoạn
văn thực đã đúc kết thông điệp đặc biệt hàm ẩn trong giáo lý Đạt Ma, nhờ
đó ta có thể tìm ra một lời đáp thỏa đáng phần nào về tinh nghĩa hai chữ
bích quán:
Tự
nhiên đó phải là một chữ mới tung ra đương thời, và tất cả cái thần toàn
nằm ở chữ BÍCH - một chữ cụ thể làm sao như vẽ lên trước mắt
tuyệt không có gì là trừu tượng, là khái niệm hết. Do đó mà Đạo Tuyên
cực tả giáo lý Đạt Ma bằng bốn chữ Đại Thừa Bích Quán nghĩa là
phép nhìn vách của Đại Thừa giáo. Xét cho cùng chẳng có gì đặc biệt là
Thiền trong giáo lý nhị nhập và tứ quán hạnh của Đạt Ma,
mà chính bài học bích quán mới đưa Đạt Ma lên ngôi Tổ Sư Thiền
Đông Độ.
Tác
giả bộ “Pháp chánh truyền của Phật Thích Ca” thích nghĩa bích quán
là cảnh giới tuyệt đối của tâm, tuyệt không mảy bụi bợn nhơ. Có lẽ
đúng vậy, nhưng không biết tác giả dựa vào uy tín nào để giải thích như
vậy, hoặc giả tác giả đã nằm lòng nhận xét trên của Đạt Ma đối với Huệ
Khả trong đoạn văn Biệt ký? Dầu hiểu bằng cách nào, tinh nghĩa
của bích quán vẫn phải tìm trong thái độ chủ quan
của Thiền sư, một thái độ đại định thâm hậu, quyết liệt loại trừ tất cả
tưởng niệm và hình tướng của giác quan. Thật không gì vô nghĩa hơn chỉ
hiểu bích quán trên mặt chữ nghĩa là ngó vách. Nếu
phải tìm hiểu thông điệp kỳ đặc của Tổ sư Thiền tông độ Đạt Ma qua những
di bút hiện còn của Tổ, tôi thiết tưởng phải tìm trong bốn chữ ấy.
Ngoài
di bút ấy, là tài liệu duy nhất của Đạt Ma còn lại, ta còn có các bộ
kinh Lăng Già, Kim Cương, Kim Cương lịch đại khái có thể giúp ta có một
ý niệm về chỗ tâm yếu của pháp thiền Đạt Ma. Khác với các tông phái
khác, Thiền không riêng có bộ kinh nào được coi là căn bản dựa vào đó ta
thể dựng tông mở giáo. Nhưng tổ Đạt Ma trao bốn quyển Lăng Già
cho người đệ tử đầu tiên là Huệ Khả coi như ký thác tâm ấn Phật khế hợp
với đạo Thiền; và sau ngày Tổ viên tịch, kinh trên được chư Thiền sư đặc
biệt tham cứu[14]
Còn kinh Kim Cương Định, quan trọng như thế nào đối với
triết giáo Thiền, ta dễ thấy rõ qua chính lời Đạt Ma dẫn chiếu lại trong
một bản văn của Tổ đã được đề cập trước.
Riêng
về bộ Kim Cương, thường người ta nghĩ rằng từ Ngũ Tổ Hoằng
Nhẫn trở về trước kinh ấy không liên quan gì đến Thiền , và chính Nhẫn
là người đầu tiên đưa bộ kinh ấy vào Thiền giới trong khi Đạt Ma không
hề ám chỉ đến, dầu rằng đó là một trong số những bản văn Phật giáo phổ
thông nhất ở Trung Hoa. Nhưng theo lời tựa của Huệ Năng viết cho bộ Kim
Cương, hiện còn giữ, “Đạt Ma từ lúc qua Tàu luôn luôn phát tâm
xiển dương yếu chỉ Kim Cương để người học có thể đạt lý và ngộ
tánh.” Nếu quả vậy thì ít ra Đạt Ma phải biết đến bộ kinh ấy từ lúc
mới mở đường hoằng pháp ở Trung Hoa, và ở phương diện ấy, mối duyên liên
hệ giữa Thiền và kinh Kim Cương chắc còn mật thiết hơn là kinh Lăng Già
với Thiền Tông. Vậy ta cần xét lại quan niệm thạnh hành từ trước cho
rằng kinh Kim Cương mới được khởi dùng từ đời tổ Hoẵng Nhẫn và Huệ Năng.
Dầu sao, kinh Lăng Già cũng khó tiêu hóa quá cho đại chúng, nên tự nhiên
lần hồi Lăng Già nhường bước cho Kim Cương theo nhịp phát huy của đạo
Thiền ngày càng thêm uy thế và ảnh hưởng. Là một bộ kinh thuộc hệ thống
Bát Nhã trong văn học Phật giáo giáo lý Kim Cương kể ra tương đối dễ mà
còn có phần tương ứng với tư tưởng Lão Tử về lẽ “không” và “vô vi”.
Người Trung Hoa trung bình không cảm thấy khó khăn lắm tham học triết lý
không vì triết lý ấy rất hợp với đôi khía cạnh của tư tưởng Trung Hoa[15]
Tuy
nhiên, theo các bậc Thiền đức, văn học chẳng qua chỉ là ngón tay chỉ mặt
trăng, không chứa đựng gì thiết thực khả dĩ đưa con người đến chỗ kiến
chiếu vào tự thể vì kiến chiếu tức tự chứng, thực hiện bằng tự lực,
ngoài tất cả lời giải của văn tự. Tất cả bộ kinh, kể cả Lăng Già, Kim
Cương Định và Kim Cương không giúp được gì nhiều cho người nhiệt thành
cầu đạo chí quyết tự mình nắm lấy cái thực trần truồng bằng đôi tay
trần, không bao tay. Điều ấy chỉ thành tựu được khi tâm trí mở rộng ra,
tự bên trong, bằng tất cả khí lực bình sanh. Còn văn chương chỉ là tấm
bản chỉ chân lý, nhưng tấm bản không phải là chân lý.
Phần
đầu tiểu sử của Bồ Đề Đạt Ma khi còn ở Thiên Trúc, theo như Truyền Đăng
Lục thuật lại, có vẻ quá hoang đường, khó tin trọn, nhưng về phần sau,
sau ngày Đông Độ, có thể tin được. Ở điểm này, Truyền Đăng Lục có thể bổ
khuyết cho Cao Tăng truyện một bộ “truyện” giá trị của Đạo Tuyên, một sử
gia tốt, soạn ra trong khi tác giả không biết gì hết về sự phát triển
sau này của đạo Thiền. Vậy, theo Truyền Đăng Lục, bậc quý nhân đầu tiên
Đạt Ma tiếp xúc khi ông vừa đến Trung Hoa là vua Lương Võ Đế,
bậc lãnh đạo tối cao của Phật giáo đương thời. Cuộc tiếp kiến
diễn ra như sau:
Lương Võ Đế hỏi: Từ ngày tức vị đến nay trẫm cất chùa chép kinh độ tăng
không biết bao nhiêu mà kể, có công đức gì không?
Sư
đáp: Đều không công đức.
Đế
nói: Sao không có công đức?
Sư nói: Đó
chỉ là nhân hữu lậu chỉ đem đến quả nhỏ
trong cõi trời
cõi người,
như bóng theo hình, tuy có nhưng không thực
Đế hỏi: Vậy công đức chân thực là gì?
Sư
nói:
Trí
phải thanh tịnh, thế phải lắng
không,
đó
là chân công
đức, công đức ấy không thể lấy việc
thế gian
mà
cầu được.
Lương Võ Đế lại hỏi: Chân lý cùng tột của đạo thánh là gì?
Sư
đáp: Trống rỗng hồn nhiên không gì là thánh.
Đế
hỏi: Trước mặt trẫm là ai?
Sư
đáp: Không biết.
Lời
đáp kể cũng khá dễ, và cũng khá rõ nữa, nhưng vị hoàng đế mộ đạo và
thông thái không khế hợp được với tinh thần phát lộ ở từng cử chỉ của
Đạt Ma.
Thấy
không thể độ gì được cho nhà vua, Đạt Ma bỏ ra đi vào đất Ngụy, ẩn ở
chùa Thiếu Lâm, chín năm yên lặng diện bích[16],
nghĩa là ngồi xoay mặt vào vách, nên sau đó người ta gọi ông là thầy tu
ngó vách: bích quán bà la môn.
Ngày
kia, có ông tăng tên là Thần Quang đến viếng Sư, nhiệt thành cầu được
khai ngộ pháp Thiền, nhưng Đạt Ma lạnh lùng không nhìn tới. Thần Quang
không vì thế mà ngã lòng, nghĩ rằng những bậc chi thánh đại hiền ngày
xưa phải trải qua đủ thứ thiên ma bách chiết mới thành được bổn nguyện.
Đêm kia, ông đứng dầm mình trong tuyết chờ Đạt Ma để ý đến cho đến khi
tuyết rơi đầm đìa chôn vùi ông đến đầu gối.
"Bấy giờ sư mới quay đầu lại hỏi: Ông muốn cầu gì?
Quang bi khóc bạch: Ngưỡng mong Hòa Thượng từ bi mở cửa cam lộ, rộng độ
chúng sanh.
Sư
nói: Diệu đạo vô thượng của chư Phật phải nhiều kiếp tinh cần, khó làm
làm được, khó nhịn nhịn được, hàng đức nhỏ trí cùn, lòng đầy khinh mạn,
há có thế chịu nổi nhọc nhằn lao khổ cầu pháp chân thừa sao?
Quang nghe quở bèn rút dao bén[17]
đoạn lìa cánh tay trái đưa lên trước mặt Sư. Sư biết gặp được pháp khí,
bèn nói:
Chư
Phật lúc phát tâm cầu đạo vì pháp bó thân, nay ông chặt tay trước mặt
tôi, vậy muốn cầu gì?
Nói
xong, Sư bèn đổi tên Thần Quang ra Huệ Khả.
Khả
bạch: Pháp ấn của chư Phật, có thể nghe chăng?
Sư
nói: Pháp ấn của chư Phật không thể nhờ vào người khác.
Khả
bạch: Nhưng tâm con
không
an, thỉnh Sư làm cho tâm con an.
Sư
nói: Đưa tâm ngươi đây ta an cho.
Khả
bạch: Con kiếm mãi mà chăng thấy tâm ở đâu cả.
Sư
nói: Thế là ta đã an cái tâm ngồi rồi đó[18]
Thấm thoát
chín năm qua, Sư muốn trở về Thiên Trúc,
bèn gọi môn nhân
đến bảo:
Ngày ta lên đường sắp đến, các người thử trình xem chỗ sở đắc của mỗi
người về đạo Thiền.
“Bấy giờ ông Đạo Phó bạch: Theo chỗ thấy của tôi, chẳng chấp văn tự,
chẳng lìa văn tự, đó là chỗ sở dụng của Đạo.
Tổ
nói: Ông được phần da của tôi.
“Ni
Tổng Trì bạch: Chỗ thấy của tôi nay như Khánh Hỹ (A Nan) nhìn vào nước
Phật A Súc (Bất Động), thấy một lần không thấy lại được.
Tổ
nói: Bà được phần thịt của tôi.
“Đạo Dục bạch: Bốn đại vốn không, năm ấm chẳng thật, chỗ thấy của tôi là
không có gì sở đắc hết.
Tổ
nói: Ông được phần xương của tôi.
“Rốt hết đến Huệ Khả. Khả đảnh lễ Sư, rồi cứ thế mà đứng thẳng, không
nói gì. Tổ nói: Ông được phần tủy của tôi[19]
Những
ngày cuối cùng của Đạt Ma ở Trung Hoa bao trùm trong bí mật ; ta không
biết bằng cách nào, lúc nào, tại đâu Sư lìa cõi thế tục này. Có người
nói Sư bị đối phương đầu độc, người nói Sư băng sa mạc về Ấn, mà cũng có
người nói Sư qua Nhật. Nhưng mọi người đều đồng ý ở chỗ Sư sống rất lâu,
hợp với lời Đạo Tuyên, thọ trên một trăm năm mươi tuổi
III. NHỊ TỔ
(486-593)
Sau Bồ
đề Đạt Ma, Huệ Khả là pháp từ[20]
chánh thống của Đạo Thiền. Trước khi đến thọ Pháp với sơ tổ, Sư là một
học giả uyên bác, không những tinh thông Phật giáo mà cả Khổng Lão giáo
nữa, nhưng không cái học nào thỏa mãn được Sư; dường như Sư có chứng
được gì riêng, và mong được tổ Đạt Ma trắc nghiệm lại. Sau ngày từ giã
Tổ cất bước du phương, Sư không hoằng hóa ngay, tạm lánh ẩn giữa lớp hạ
lưu cùng khổ, không để lộ chân tướng một cao tăng trang nghiêm trí huệ[21].
Dầu vậy, Sư vẫn tùy duyên hoằng hóa. Sư luôn giữ vẻ điềm đạm khiêm cung,
không phô trương ra ngoài. Ngày kia, trong khi Sư đang nói pháp ngoài
cửa tam quan chùa Khuông Cứu thì trong chùa vị trụ trì học cao danh vọng
là pháp sư Biện Hòa giảng kinh Niết Bàn. Bổn đạo ùn ùn bỏ vị pháp sư
đứng giảng một mình ra bu quanh ông thầy giảng giữa trời, chắc là lúc ấy
quần áo của Sư bê bối lắm, tuyệt không có gì tỏ ra thuộc hàng giáo phẩm.
Pháp sư thấy vậy nổi giận, đến đầu cáo với quan trên ông đạo ăn mày kia
truyền tà giáo, do đó Huệ Khả bị bắt, và bị xử giảo. Khả không hề kêu
oan, một mực bình thản thuận theo, cho rằng đúng với luật nhân quả Sư có
một món nợ cũ phải trả. Nội vụ xảy ra trong năm 593, Sư thọ một trăm
linh bảy tuổi.
Theo
Đạo Tuyên, biệt tài của Huệ Khả do tự tâm phát ra, tuyệt không dấu vết
tầm chương trích cú. Ngày kia Sư giảng về pháp Thiền ở một đô thị lớn,
có một số người nặng chấp văn tự cho là Sư nói pháp tà ma ngoại đạo.
Nhất là trong số ấy có ông Đạo Hoằng (?), một tăng sĩ chuyên về tĩnh tọa
cầm đầu đồ chúng ngàn người, liền có thái độ chống báng với Huệ Khả. Ông
sai một chú tiểu đến với Huệ Khả, có lẽ dụng ý do coi chân tướng của đối
phương, nhưng chú này vừa nghe Sư giảng cái gọi là tà đạo thì bỗng chốc
chấn động tinh thần và cải hối xin học Thiền. Đạo Hoẵng lại sai một chú
tiểu khác đi gọi chú trước về, như chú sau lại cũng theo gót luôn chú
trước. Nhiều chú tiểu khác được sai đi, nhưng kết quả vẫn là không. Sau
này Đạo Hoằng tình cờ gặp lại chú tiểu đầu tiên, quở: “Sao chú để ta kêu
gọi nhiều lần vậy? Ta chẳng tốn bao con khó mở mắt cho chú sao?” Chú
tiểu đáp một cách bí hiểm: “Mắt tôi từ bao giờ vẫn thẳng, vì ông nên nó
đâm ra lé”. Câu nói xúc phạm mạnh khiến Đạo Hoằng căm giận vô cùng, và
theo Đạo Tuyên, vì những thủ đoạn của vị Sư này mà Huệ Khả bị quan trên
xử giáo.
Sự
tích trên thuật lại theo Đạo Tuyên trong Cao Tăng
truyện
khác
với Sự tích của Đạo Nguyên chép lại trong
Truyền
Đăng lục,
nhưng cả hai đều đồng ý cho
Huệ
Khả là
một
thánh tử đạo chết trong tay địch thủ. Chắc chắn trong lối dạy
Thiền của Đạt Ma cũng như của người đệ tử Trung Hoa đầu tiên là
Huệ Khả có cái gì khó hiểu đối với hầu hết Phật tử đương thời
mảng lo hoặc đàm huyền luận diệu, hoặc tu tập thiền quán, hoặc thuần tu
giới hạnh. Nên những người xiển đương đạo thiền phải nhấn mạnh vào chân
lý đánh thức dậy tự thâm tâm, dầu phải vì thế mà gây xáo trộn cho tinh
thần thánh giáo của kinh và luận mà nhiều bản dịch đã đượclưu hành. Điều
ấy ắt gây công phẩn cho hàng thủ cựu và “trước văn”.
Cũng
như Đạt Ma, Huệ Khả không lưu lại bút tích nào mặc dầu trong tiểu sử có
ghi rằng những bài pháp của hai ngài đều được sưu tập lại, và riêng của
Huệ Khả còn được xếp loại nữa. Dầu vậy, đoạn trích văn sau đây còn giữ
lại có thể rọi vài tia sáng vào Thiền pháp của Nhị Tổ Huệ Khả.
Có
người tên là Hướng cư sĩ nghe tin Huệ Khả thạnh hóa bèn viết thơ
gởi đến, lời lẽ như sau:
“Bóng
do hình mà dậy,
Vang theo tiếng mà lên.
“Nhọc hình đùa với bóng, nào hay gốc bóng là hình,
Cao
tiếng lấp âm vang, chẳng biết nguồn vang là tiếng.
“Đoạn phiền não hướng đến Niết Bàn, nào khác bỏ hình kiếm bóng,
Lìa
chúng sanh mong cầu Phật quả, chẳng qua dứt tiếng tìm vang.
Mới
biết: mê ngộ một đường, trí ngu chẳng khác.
“Không tên đặt thành tên, bởi có tên nên phải trái lắm đường.
Chẳng lý bày ra lý, vì có lý nên cãi bàn đủ vẻ.
“Huyễn hóa chẳng chân, sao rằng phải trái,
Hư
vọng không thực, lấy gì có không
“Thế nên: được không chỗ được, mất không chỗ mất.
“Y
mọn trình lên, ngưỡng mong Hòa Thượng chỉ giáo”.
Nhị Tổ
phúc thư rằng:
Xem
qua ý ấy đều như thực
Cái
lý chân u chẳng biệt thù
Mê
nói ma ni là ngói gạch
Hốt
nhiên tỉnh dậy rõ là châu
Vô
minh trí huệ nguyên không khác
Muôn pháp đều “như” lọ phải cầu
Thương kẻ chấp thường và chấp đoạn
Mấy
lời gói ghém thảo tờ thư
Quán thân cùng Phật nào sai biệt
Hà
tất Niết Bàn kiếm mãi ru![22]
TAM TỔ TĂNG XÁN
(-606)
Tiếp
theo Huệ Khả là Tăng Xán thừa tiếp ngôi Tổ vị thứ ba. Cuộc đối
thoại giữa sư và đệ diễn ra như sau, theo Truyền Đăng Lục:
Một
cư sĩ tuổi ngoài bốn mươi đến đảnh lễ Huệ Khả bạch:
“Đệ
tử mắc chứng phong dạng[23]
,thỉnh Hòa Thượng từ bi sám hối tội giùm!
Sư
nói: “Đưa cái tội ra đây ta sám cho.”
Cư
sĩ hồi lâu bạch: “Đệ tử kiếm tội mãi mà chẳng thấy đâu cả.
Sư
nói: “Thế là ta đã sám xong tội của ngươi rồi đó. Từ nay, ngươi khá y
nơi Phật Pháp Tăng mà an trụ.”
Cư
sĩ bạch: Nay tôi thấy Hòa Thượng thì biết đó là Tăng, nhưng chưa rõ thế
nào là Phật và Pháp.”
Sư
nói: “Là
tâm
là phật, là tâm là Pháp, pháp và Phật chẳng hai, Tăng bửu cung y nhiên
là vậy.”
Cư
sĩ bạch: “Nay tôi mới biết tội tánh chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng
ở giữa[24]
cung như tâm, Phật là vậy, pháp là vậy, chẳng phải hai vậy".
Cư sĩ
được Huệ Khả thế phát, sau đó biệt dạng mất trong đời ít ai rõ được hành
tung. Một phần là do nạn ngược đãi Phật giáo ở đời Bắc Châu, do vua Võ
Đế chủ xướng. Đến năm thứ mười hai đời Khai Hoàng, nhà Tùy, Tăng Xán tìm
được bậc pháp khí để truyền lại ngôi Tổ vị, đó là Đạo Tín.
Đạo
Tín bạch: Cúi xin Hòa Thượng từ bi chỉ cho đệ tử con đường giải thoát.
Sư
(Tăng Xán) hỏi: Ai trói ngươi?
Tín
bạch: Không ai trói hết?
Sư
nói: Vậy sao còn cầu giải thoát?
Tín
phát đại ngộ ngay” dưới lời nói” , bỏ công chín năm khổ cầu.
Tăng
Xán biết cơ duyên đã đến bèn trao cho Đạo Tín làm tín vật cái áo pháp
truyền lại từ sơ tổ: Đạt Ma, rồi thu thần tịch diệt vào năm 606[25]
.
Tổ
Tăng Xán hầu như sống ẩn dật suốt đời,
nhưng ta có thể nhận ra tư tưởng của Tổ qua một thi phẩm luận về lòng
tin có tên là Tín Tâm Minh, là một trong những bút tích của
các
Thiền sư góp phần xứng đáng nhất vào sự luận giải tông chỉ Thiền. Sau
đây là nguyên văn và bản dịch:
Chí đạo vô nan Đạo
duy
hiềm giản trạch
đản mạc tắng ái
đỗng nhiên minh bạch
Hào li hữu sai
thiên
địa huyền cách
dục
đắc
hiện
tiền
mạc
tổn thuận nghịch
Vi
thuận tương tranh
thị
vi tâm bịnh
bất
thức huyền chỉ
đồ
lao
niệm
tịnh
Viên
đồng thái hư
vô
khiếm vô dư
lương
do hủ xa
sở
dĩ bất như
Mạc trục hữu duyên
vật
trụ không nhân
nhứt
chủng bình hoài
dẫn
nhiên tự tận
Chí động qui chỉ
chỉ cánh di động
duy trệ lưỡng biên
ninh tri nhứt chủng
Nhứt chủng bất thông
Lưỡng xứ
thất công
khiển hữu
một hữu
tòng không
bối không
Đa ngôn đa
lự
chuyển bất
tương ưng
tuyệt ngôn
tuyệt lự
vô xứ bất
thông
Quy căn đắc
chỉ
tùy chiếu
thất tông
tu du phản
chiếu
thắng khước
tiền không
Tiền không
chuyển biến
giai do vọng
kiến
bất dụng cầu
chơn
duy tu tức
kiến
Nhị kiến bất trụ
thận vật truy tầm
tả
hữu thị phi
phấn nhiên thất tâm
Nhị do nhứt hữu
nhứt diệc mạc thủ
nhứt tâm bất sanh
vạn pháp vô cữu
Vô
cữu vô pháp
bất sanh bất tâm
năng tùy cảnh diệt
cảnh trục năng trầm
Cảnh do năng cảnh
năng do cảnh năng
dục tri lưỡng đoạn
nguyên thị nhứt không
Nhứt không đồng lưỡng
tề
hàm vạn tượng
bất kiến tinh thô
ninh hữu thiên đảng
Đại đạo thể khoan
vô
dị vô nan
tiểu kiến hồ nghi
chuyển cấp chuyển tri
Chấp chi thất độ
tâm nhập tà lộ
phóng chi tự nhiên
thể vô khứ trụ
Nhiệm tánh hiệp đạo
tiêu dao tuyệt não
hệ
niệm quai nhơn
trầm hôn bất hảo
Bất hảo lao thần
hà
dụng sơ thân
dục thú nhứt thặng
vật ố
lục trần
Lục trần bất ác
hoàn đồng chánh giác
trí giả vô vi
ngu nhơn tự phược
Pháp vô dị pháp
vọng tự ái trước
tương tâm dụng tâm
khởi phi đại thác
Mê
sanh tịch loạn
ngộ vô hảo ác
nhứt thiết nhị biên
vọng tự châm chước
Mộng huyễn không hoa
hà
lao bá tróc
đắc thất thị phi
nhứt thời phóng khước
Nhãn nhược bất thụy
chư mộng tự trừ
tâm nhược bất dị
vạn pháp nhứt như
Nhứt như thể huyền
ngột nhĩ vong duyên
vạn pháp tề quán
quy phục tự nhiên
Dẫn kì sở dĩ
bất khả phương tỉ
chỉ động vô động
động chỉ vô chỉ
lưỡng
ký bất thành
nhứt hà hữu nhĩ
Cứu cánh cùng cực
Bất tổn quỹ tắc
khế tâm bình đẳng
sở
tác câu tức
Hồ
nghi tận tịnh
chánh tín điều trực
nhứt thiết bất lưu
vô
khả ký ức
hư
minh tự nhiên
bất lao tâm lực
Phi tư lượng xứ
thức tình nan trắc
chơn
như pháp giới
vô
tha vô tự
Yếu cấp tương ưng
duy
ngôn bất nhị
bất nhị giai đồng
vô
bất bao
dong
thập phương trí giả
giai nhập thử tông
Tông phi xúc diên
nhứt niệm vạn niên
vô
tại bất tại
thập phương mục tiền
Cực tiểu đồng đại
vong tuyệt cảnh giới
Cực đại đồng tiểu
bất kiến biên biểu
Hữu tức thị vô
Vô tức thị hữu
Nhược bất như thị
Tất bất tu thủ
Nhứt tức nhứt thiết
Nhứt thiết tức nhứt
Đản năng như thị
Hà lự bất tất
Tín Tâm bất nhị
Bất nhị Tín Tâm
Ngôn ngữ đạo đoạn
Phi cổ lai câm |
Đạo lớn chẳng gì khó
cốt đừng chọn lựa thôi
quý hồ không thương ghét
thì tự nhiên sáng ngời
Sai lạc nửa đường tơ
đất trời liền phân cách
chớ nghĩ chuyện ngược xuôi
thì hiện liền trước mắt
Đem thuận nghịch chỏi nhau
đó
chính là tâm bịnh
chẳng nắm được mối huyền
hoài công lo niệm tịnh
Tròn đầy tợ thái hư
không thiếu cũng không dư
bới mảng lo giữ bỏ
nên chẳng được như như
Ngoài chớ đuổi duyên trần
trong đừng ghì không nhẫn
cứ
một mực bình tâm
thì tự nhiên dứt tận
Ngăn động mà cầu tịnh
hết ngăn lại động thêm
càng trệ ở hai bên
thà rõ đâu là mối
Đầu mối chẳng rõ thông
hai đầu luống uổng công
đuổi có liền mất có
theo không lại phụ không
Nói nhiều thêm lo quẩn
loanh quanh mãi chẳng xong
dứt lời dứt cho quẩn
đâu đâu chẳng suốt thông
Trở về nguồn nắm mối
dõi theo ngọn mất tông
phút giây soi ngược lại
trước mắt vượt cảnh không
Cảnh không trò thiên diễn
thảy đều do vọng kiến
cứ
gì phải cầu chơn
chỉ cần dứt sở kiến
Hai bên đừng ghé mắt
cẩn thận chớ đuổi tầm
phải trái vừa vướng mắc
là
nghiền đốt mất tâm
Hai do một mà có
một rồi cũng buông bỏ
một tâm ví chẳng sanh
muôn pháp tội gì đó
Không tội thì không pháp
chẳng sanh thì chẳng tâm
tâm theo cảnh mà bặt
cảnh theo tâm mà chìm
Tâm là tâm của cảnh
cảnh là cảnh của tâm
ví
biết hai đằng dứt
rốt cùng chỉ một không
Một không, hai mà một
bao gồm hết muôn sai
chẳng thấy trong thấy đục
lấy
gì mà lệch sai
Đạo lớn thể khoan dung
không dễ mà chẳng khó
kẻ
tiểu kiến lừng khừng
gấp theo và chậm bỏ
Chấp giữ là nghiêng lệch
dấn tâm vào nẻo tà
cứ
tự nhiên buông hết
bổn thể chẳng lại qua
Thuận tánh là hiệp đạo
tiêu dao dứt phiền não
càng nghĩ càng trói thêm
lẽ
đạo chìm mê ảo
Mê
ảo nhọc tinh thần
tính gì việc sơ thân
muốn thẳng đường nhứt thặng
đừng chán ghét sáu trần
Sáu trần có
xấu chi
vẫn chung về
giác đấy
bậc trí giữ vô vi
người ngu tự buộc lấy
pháp pháp chẳng khác pháp
do
ái trước sanh lầm
há
chẳng là quấy lắm
sai tâm đi bắt tâm
Mê
sanh động sanh yên
ngộ hết xấu hết tốt
nhứt thiết việc hai bên
đều do vọng châm chước
Mơ
mộng bão không hoa
khéo nhọc lòng đuổi bắt
chuyện thua được thi phi
một lần buông bỏ quách
Mắt ví không mê ngủ
mộng mộng đều tự trừ
tâm
tâm ví chẳng
khác
thì muôn pháp nhứt như
Nhứt như vốn thể huyền
bằn bặt không mảy duyên
cần quán chung như vậy
muôn
pháp về tự nhiên
Đừng hỏi vì sao cả
thì hết chuyện sai ngoa
ngăn động chưa là tịnh
động ngăn khác tịnh xa
cái hai đà chẳng được
cái một lấy chi mà...
Rốt ráo đến cùng cực
chẳng còn mảy quỹ tắc
bình đẳng hiệp đạo tâm
im
bặt niềm tạo
tác
Niềm
nghi hoặc lắng dứt
lòng tin hòa lẽ trực
mảy bụi cũng chẳng lưu
lấy gì mà ký ức
bổn thể vốn hư minh
tự
nhiên nào nhọc sức
Trí nào suy lượng được
thức nào cân nhắc ra
cảnh chân như pháp giới
không người cũng không ta
Cần nhất hãy tương ưng
cùng lẽ đạo bất nhị
bất nhị thì hòa đồng
không gì chẳng bao dong
mười phương hàng trí giả
đều chung nhập một tông
Tông này vốn tự tại
khoảng khắc là vạn niên
đều
có không không có
mười phương trước mắt liền
Cực nhỏ là cực lớn
đồng nhau, bặt cảnh duyên
Cực lớn là
cực nhỏ
đồng nhau, chẳng giới biên
Cái đó là cái
không
Cái không là cái có
Ví chửa được vậy chăng
Quyết đừng nên nấn ná
Một tức là tất cả
Tất cả tức là một
Quý hồ được vậy thôi
Lo gì chẳng xong tất
Tâm chẳng phải hai
Chẳng phải hai Tín Tâm
Lời nói làm đạo dứt
Chẳng kim cổ vị lai
|
TỨ TỔ ĐẠO TÍN
(580-651)
Dưới trào tứ tổ Đạo Tín, Thiền chia ra hai ngành. Ngành đầu gọi
là Ngưu Đầu Thiền, sớm mai một sau ngày viên tịch của vị tổ khai sáng là
Pháp Dung, ở núi Ngưu Đầu, vả không được coi như Thiền chánh tông. Ngành
sau do Hoẵng Nhẫn thống quản; đó là ngành Thiền còn tổn tại đến nay, và
Hoẵng Nhẫn đại sư được các sử gia coi là Thiền Tổ thứ năm.
Tương truyền ngày kia Tổ Đạo Tín qua huyện
Huỳnh Mai giữa đường gặp một đứa trẻ con cốt tướng kỳ tú, thần thái khác
thường.
Tổ hỏi: Danh tánh là chi?
Đứa bé đáp: Có tánh, nhưng chẳng phải tánh
thường.
Tổ: Là tánh gì?
Đáp: Tánh Phật.
Tổ: Con không có tánh sao?
Đáp: Nhưng tánh vốn là không.
Tổ thầm nhận biết đó là pháp khí.
Đó là thuật chơi chữ, vì nói về “tộc họ” (danh tánh) và “bổn thể” (tự
tánh) người Trung Hoa đều đọc chung là tánh. Đạo Tín hỏi là hỏi về danh
tánh, còn cậu bé đáp là đáp về tự tánh, mượn chữ đồng âm ấy cốt đưa ra
một kiến giải vậy.
Cuộc đối thoại giữa Đạo Tín và Pháp Dung (593-657), “nhất thế Ngưu Đầu
Thiền”, diễn ra sau đây đầy ý nghĩa, đi từ kiến giải khác nhau giữa hai
người đến diệu thủ của Đạo Tín chuyển hóa Pháp Dung đưa vào con đường
Thiền chánh thống.
Pháp Dung
mười chín tuổi làu thông kinh sử, học qua đại bộ Bát Nhã đạt lý chân
không. Ngày kia bỗng dưng ông than rằng: “Cái học Nho thuộc về thế điển,
không phải là pháp cứu cánh, chỉ có pháp chánh quán Bát Nhã mới là chiếc
thuyền xuất thế” Đoạn ông vào núi Ngưu Đầu, chùa U Thê, ẩn ở một am đá
bên sườn núi phía Bắc. Bấy giờ có điềm lạ là cả trăm thứ chim tha bông
đến dâng cúng ông.
“Bấy giờ nhằm đời Trinh Quán nhà Đường, tứ tổ Đạo Tín xa xem khí tượng
biết núi ấy có dị nhân bèn hỏi thăm tìm đến. Có người cho biết cách
chừng mười dặm, trong núi có một ông đạo thấy người chẳng đứng dậy, mà
cũng chẳng
chắp tay
chào ai bao giờ. Tổ
bèn tìm đến thấy sư Pháp Dung
đang
ngồi
cứng đờ chừng như chưa bao giờ ngoái cổ lại.
Tổ
hỏi:
“Ông làm
gì ở đây?”
Sư đáp:
Quán tâm.
Tổ:
Quán là người nào? Tâm là vật gì?
Sư
không đáp, đứng dậy đảnh lễ, hỏi:
“Chẳng
hay tôn xá của Đại Đức ở đâu?”
Tổ:
Bần đạo chẳng
định
trụ ở đâu, Đông cũng vậy mà
Tây
cũng vậy.
Sư:
Đại
đức có biết Thiền sư Đạo Tín không?
Tổ:
Hỏi ông ta làm gì?
Sư:
Vì ngưỡng
mộ cao đức đã lâu, những mong
được
chiêm
bái.
Tổ:
Đạo Tín là bần đạo đây.
Sư:
Nhân sao lên đây?
Tổ:
Cốt thăm ông. Có chỗ nào an nghỉ không?
Sư chỉ về
phía sau, nói:
“Có cái cốc riêng”
Bèn
dẫn Tổ đến am ấy. Nhìn quanh
am
thấy lẩn quất
loài
hổ lang. Tổ dang
đôi tay ra vẻ sợ hãi. Sư hỏi: “Còn
có
cái đó sao?”
Tổ:
Có thấy gì nữa không?
Sư
không đáp.
Chặp
sau, Tổ
bèn viết trên tảng đá sư Pháp Dung hằng
ngày
ngồi tịnh một chữ
“Phật”.
Sư nhìn thấy lộ vẻ khó chịu.
Tổ
hỏi:
“Còn có cái đó sao?”[26]
Sư
chưa hiểu
thâm ý của Tổ, bèn đảnh lễ xin nghe lời
tâm yếu. Tổ dạy:
Trăm ngàn pháp môn về trong gang tấc,
hà sa công đức toàn ở nguồn tâm;
tất cả giới môn, định
môn,
huệ môn, tất cả thần thông biến hóa đều tự sẵn đủ
chẳng
ngoài tâm ngươi. Tất cả phiền não nghiệp chướng bổn
lai
vẫn là không tịch. Tất cả nhân quả đều như mộng mị.
Không
có ba cõi nào phải thoát ra, mà cũng chẳng có bồ đề
nào
khá cầu được. Người với chẳng phải người, tánh tướng
đều
bình đẳng. Đạo lớn vốn hư huyền khoáng đạt, tuyệt
không có nghĩ không có lo. Cái pháp như vậy, nay ông đã
được,
rốt chẳng khiếm khuyết, đồng với chư Phật, ngoài ra
chẳng
Phật nào khác.
Ông
cứ tự tại mà nhiệm tâm, đừng
theo
quán hạnh, cũng chớ trừng tâm, chớ nổi tham sân, chớ
mang
sầu lự, cứ thản nhiên vô ngại, dọc ngang nhiệm ý,
chẳng
làm lành chẳng làm dữ, đi đứng nằm ngồi cứ tùy duyên
mà cảm
nghĩ, đó toàn là chỗ diệu dụng khoái lạc vô ưu của
Phật,
có
thế mới gọi là Phật.
“Pháp
Dung hỏi:
Tâm đã như vậy, cái nào là Phật?
cái
nào là tâm?
Tổ
nói: Nếu chẳng phải tâm thì không hỏi Phật, mà đã
hỏi
Phật thì chẳng phải là không tâm.
Pháp
Dung hỏi:
Đã bảo chẳng tu quán hạnh thì khi cảnh
khởi
lên, tâm làm sao đối trị?
Tổ
đáp: Cảnh duyên không tốt xấu, tốt xấu tại nơi tâm.
Tâm ví
chẳng đặt ra, vọng tình theo đâu dậy? Vọng tình đã
chẳng
dậy thì chân tâm cứ nhiệm vận mà tỏ tường. ông chỉ
nên tự
tại mà tùy tâm, chẳng cần phải đối trị. Đó tức là thường trụ pháp thân,
chẳng gì sai khác[27]
(Truyền đăng lục, quyển 4)
Sau
thời pháp ấy, Pháp Dung trở thành tị tổ pháp Ngưu
Đầu
Thiền.
NGŨ TỔ
HOÀNG NHẪN
(601-674)
Đạo
Tín tịch năm 651, thọ bảy mươi hai tuổi. Kế vị là
Ngũ Tổ
Hoằng
Nhẫn
(601-674), quê ở Kỳ Châu, đồng hương
với
Đạo Tín, nay là quận Fu Pei (?). Đạo trường của Tổ của
Hoàng
Mai Sơn, tại đây Tổ nói pháp và dạy Thiền cho đồ
chúng
năm trăm người. Nhiều người cho rằng Tổ là vị Thiền
Sư đầu
tiên có ý định giải thông điệp Thiền theo giáo lý
Kim
Cương. Nhưng tôi không đồng ý hẳn với quan điểm ấy
vì
những lý do đã trình bày trước. Ta có thể coi Ngũ Tổ như khởi đầu của
một khúc quanh quyết định trong Thiền
sử
để cho vị tổ thứ sáu sau này là Huệ Năng mở thông hết
Thiền
môn. Từ trước đến nay, các Thiền sư toàn hoẵng hóa
trong
im
lặng, ít khiến đại chúng chú ý;
các Ngài lánh ẩn
trên
núi cao, xa cảnh gió bụi của thế gian, nên không ai biết
việc
làm của các ngài phải trái thế nào mà
định luận. Nhưng
cơ
duyên đã đến để công khai cổ vô đạo Thiền, và Hoằng
Nhẫn
là người đầu tiên xuất hiện giữa đại chúng, dọn đường
cho
người kế vị là Huệ Năng vậy.
LINH TINH
Ngoài
dòng Tổ chánh truyền
ấy còn
có ở thế kỷ thứ VI
và VII
một số Thiền đức biệt lập, một ít người được ghi tên,
nhưng
nhiều người khác bị bỏ quên hoặc ít được ai biết. Hai
vị
được biết nhiều nhất là Bửu
Chí (tịch năm 514) và Phó
đại sĩ
(tịch năm
569); sự tích của
ngài
được chép trong Truyền
Đăng
lục dưới một mục riêng gọi là
“những
người đạt ngộ ở
cửa
Thiền tuy chẳng xuất thế nhưng eo danh tiếng đương
thời.
Thật là một câu nói kỳ cục, khó hiểu tác giả nói
“không
xuất
thế”
là nghĩa gì. Thường câu nói ấy ám chỉ những người
không
có một địa vị được thừa nhận trong một ngôi chùa
chính
thức được
“sắc
tứ”.
Theo nghĩa ấy thì ít nhất trong
mục ấy
cũng có một người lọt sổ là Trí Khải,
vì Trí Khải
là
một
cao tăng có một chức vị đạo đầy uy tín tại triều đình
nhà
Tùy. Dầu sao, những
người có tên trong mục ấy không
thuộc
dòng Thiền chánh thống.
Môn đồ
phái Thiên Thai phản đối tên hai vị giáo chủ
của
bổn phái, Huệ Tư và Trí Khải,
được gán làm Thiền sư
trong Truyền Đăng lục dưới danh mục
“Thiền
môn đạt giả
tuy
bất xuất thế, hữu danh ư thời giả”.
Họ cho rằng hai ngài
là hàng long tượng của tông Thiên Thai không thể xếp một
cách
nhẹ thể như vậy trong bộ lục của các sư Thiền. Nhưng
Thiền
quan niệm
đó là hợp lý, vì lẽ nếu từ bỏ phần đàm
luận
huyền diệu thì tông Thiên Thai là một dòng khác của
đạo
Thiền, một dòng phát triển độc lập với Thiền Đạt Ma,
nhưng
nếu khéo phát huy một cách thực tiễn hơn chắc chắn
sẽ quy
thúc ở Thiền như dưới hình thức hiện có. Rất tiếc
khía
cạnh huyền học ấy được khai thác quá đáng lấn qua
phần
thực tiễn nên các đạo sĩ Thiên Thai luôn luôn gây chiến
với
Thiền, nhất là với cánh Thiền cực tả thường cương quyết
tố cáo
cố tật của các ngài thích biện lý, luận từ chương, khảo
kinh
điển. Theo thiển ý, Thiên Thai là một biến thể của
Thiền,
và như tổ khai tông ấy có thể xứng đáng xếp vào
hàng
Thiền sư, mặc dầu các ngài không cùng pháp hệ với
Thạch
Đầu, Dược Sơn, Mã Tổ, Lâm Tế, v.v... .
Trong
khi vài ngành Thiền khác[28]
chớm dậy ở thế kỷ
thứ VI
và VII, ngành Thiền phát xuất từ Bồ Đề Đạt Ma cứ
tiếp
tục tiến triển không gián đoạn với các sư Huệ Khả,
Tăng
Xán, Đạo Tín và Hoẵng Nhẫn, điều ấy minh chứng đó
là
dòng Thiền thích hợp nhất để phát huy với tất cả kết quả
bảo
đảm nhất. Sự phân hóa dưới đời Ngũ Tổ thành hai tông phái của Huệ Năng
và Thần Tú giúp cơ duyên cho Thiền
phát
triển thuần túy hơn bằng cách tước bỏ những yếu tố
không
cần thiết, hoặc nói đúng hơn, những yếu tố không tiêu
hóa được. Rốt cùng phái Huệ
Năng tồn tại vượt qua
phái
Thần Tú chứng tỏ Thiền Đốn ứng hợp với cách tuyệt
hảo
nhất với nếp tâm lý và cảm nghĩ của người.Trung Hoa.
Tất cả
nhưng yếu tố ấn Độ còn vướng mắc trong Thiền Đạt
Ma và
chư tổ kế tiếp cho đến Huệ Năng đểu là những thứ
cưỡng
ghép vào, không phải bẩm sanh từ thiên tài Trung
Hoa.
Nên khi Huệ Năng và mồn đệ của Ngài cổ võ lập địa
hành
Thiền thì không còn một chướng ngại nào trên đường
hoằng
dương chánh pháp cho đến khi Thiền trở thành một uy thế hầu như độc nhất
trong thế giới Phật giáo Trung
Hoa.
Ta cần xét kỹ Huệ Năng thừa kế Hoẵng Nhẫn bằng
cách nào, và do đâu có bất đồng với đối phương là Thần Tú.
IV. LỤC TỔ HUỆ NĂNG
(638-713)
Huệ
Năng
là người ở Tân Châu xừ
Lãnh
Nam
mồ
côi
cha từ
thuở nhỏ, Năng
bán
củi nuôi mẹ. Ngay kia
sau khi
gánh củi bán tại
một
tiệm khách, ông ra về thì
nghe có
người
tụng
kinh Phật. Lời kinh chấn động mạnh tinh thần ông.
Ông
bèn hỏi khách tụng kinh gì
và
thỉnh ở đâu, và
sau khi
biết
rõ đem lòng khát khao muốn học kinh
ấy
với
vị thầy
ấy.
Kinh ấy là kinh Kim Cương,
và thầy ấy là
Ngũ Tổ Hoằng
Nhẫn ở núi Hoàng Mai trại Kỳ
Châu.
Huệ Năng
bèn lo liệu
tiền
bạc để lại cho mẹ
già,
và lên đường cầu pháp.
Phải
gần một tháng ông mới đến núi Hoàng
Mai xen lẫn
với đồ chúng năm trăm người, (có nơi
nói bảy trăm hoặc cả
ngàn) và làm lễ Ngũ
Tổ.
Ngũ
Tổ
hỏi:
Ông
từ
đâu đến?
Huệ Năng đáp:
Lãnh Nam.
Tổ hỏi: Ông muốn cầu gì?
Đáp:
Chỉ cầu làm Phật.
Tổ nói: Người Lãnh Nam không có tánh
Phật sao làm Phật được?
Dù
vậy, đã quyết tâm cầu đạo nên không ngã lòng, Huệ
Năng bèn đáp ngay:
“Người
đành có
Nam Bắc, tánh Phật há vậy sao?”.
Lời
đáp đẹp lòng Tổ lắm lắm. Thế
rồi Huệ Năng được
giao
cho công việc giã gạo cho nhà chùa. Truyện chép đã
tám
tháng ngoài Năng chỉ biết có công việc hạ
bạc ấy cho đến khi Ngũ Tổ định
chọn người
kế ngôi Tổ
giữa
đám môn
nhân.
Ngày kia,
Tổ
báo
cáo vị nào có thể tỏ
ra đạt lý
đạo, Tổ
sẽ
truyền
áo
pháp cho mà làm Tổ thứ
sáu. Thần Tú
(tịch
năm 706)
là
người học cao
nhất trong bọn,
và
nhuần nhã
nhất về
việc đạo, và cố
nhiên được
đồ
chúng coi như xứng
đáng
nhất hưởng
vinh dự
ấy
bèn làm
một bài kệ trình
chỗ hiểu biết, và biên nơi vách
bên chái
nhà chùa.
Kệ rằng:[29]
Thân là bồ đề cội
Tâm
như gương sáng đài
Giờ
giờ siêng phủi quét
Chớ
để nhuộm trần ai
Ai đọc
qua cũng khoái trá, và thầm nghĩ thế nào tác giả
cũng
lãnh được phần thưởng xứng đáng. Nhưng sáng hôm
sau
vừa thức giấc,
đồ
chúng rất đỗi ngạc nhiên thấy một bài kệ
khác viết bên cạnh, như sau:
Bồ
đề vốn không cội
Gương sáng cũng không đài
Nguyên chẳng có một vật
Sao
gọi phủi trần ai
Tác giả
mười sáu chứ trên là một
cư
sĩ
quèn lo tạp dịch dưới bếp, suốt ngày chỉ biết
bửa củi, giã gạo cho chùa.
Diện
mạo
ông ta quá tầm
thường
đến không mấy ai để
ý
nên bấy
giờ
toàn
thể
đồ
chúng rất đỗi sửng sốt
chứng kiến cuộc
thách
đố ấy
nhắm vào một
uy quyền
đã
được thừa nhận. Nhưng
Ngũ
Tổ thấy ở ông tăng[30]
không tham vọng ấy một
pháp
khí có
thể thống lãnh tăng chúng
sau này, và nhất định truyền áo pháp cho ông. Nhưng Tổ có ý lo, vì hầu
hết môn
đồ của
Tổ đều chưa đủ huệ nhãn để nhận ra ánh trực giác
thâm
diệu trong những hàng chữ trên của người bừa củi giã gạo là Huệ Năng,
nên nếu công
bố
vinh dự đắc pháp ấy lên
e nguy hại đến tánh mạng người thọ pháp.
Do đó
Tổ ngầm
bảo Huệ Năng đúng canh ba
khi đồ
chúng ngủ yên, vào tịnh thất dạy việc.
Thế
rồi Tổ trao lại áo pháp cho Huệ Năng làm tín vật
chứng
tỏ cái bằng cớ đắc pháp
vô thượng, và báo trước hậu
vận
của đạo Thiền sẽ rực rỡ hơn bao giờ hết. Tổ còn dặn
Huệ Năng chớ vội nói pháp
hãy tạm mai danh ẩn tích nơi
rừng
núi chờ đến thời sẽ công khai xuất hiện và hoằng
dương; Tổ còn nói cái áo pháp truyền lại từ tổ Đạt Ma làm tín vật
sau
này đừng truyền xuống nữa, vì từ đó Thiền sẽ
được thế
gian
công nhận, không cần phải dùng áo tiêu biểu cho tín
tâm.
Ngay trong đêm ấy Huệ Năng từ giã Tổ.
Sự
tích trên, do môn đệ của Lục Tổ chép lại[31],
e có
thiên vị phần nào. Nếu ta có được những tài liệu khác của Thần Tú và môn
đệ của ông, chắc chắn câu chuyện phải khác hơn nhiều. Đáng tiếc hiện ta
chỉ có một tài liệu duy nhất liên quan đến Thần Tú và Hoằng Nhẫn. Đó là
một văn bia của Chang Shuo (?), một cư sĩ đệ tử của Thần Tú. Bia chép
Thần Tú là người được phó pháp tự tay Hoằng Nhẫn. Xét theo đó thì ngôi
Tổ của Huệ Năng đương thời cũng bị tranh giành dữ lắm, hoặc ngôi thứ
chánh thống cũng dằng dai khó định lắm cho đến khi Thiền Huệ Năng được
xác định hẳn với tất cả uy thế vượt qua bất cứ phái Thiền nào có thể có
đương thời. Rất tiếc bài văn bia trên không cho biết thêm gì về sự liên
hệ giữa Huệ Năng và Thần Tú, nhưng trong sự tích vừa kể cũng đủ cho ta
thu thập vài yếu tố soi sáng được lịch sử đạo Thiền.
Trước hết
thử hỏi: vì nhu cầu nào tổ Huệ Năng được trình bày như một anh nhà quê
thất học chỏi lại cái học uyên bác gán cho Thần Tú? Tổ Huệ năng có thật
dốt không, dốt đến đỗi chữ nhất là một cũng không biết? Nhưng bộ Pháp
Bửu Đàn Kinh chép lại những bài pháp của Tổ có những đoạn dẫn kinh,
như kinh Niết Bàn, Kim Cương, Lăng Già, Pháp Hoa, Duy Ma, Di Đà và Bồ
Tát Giới. Điều ấy há chẳng đủ chứng rằng tác giả những bài pháp ấy phải
đâu hoàn toàn không biết gì đến văn học Đại Thừa? Đành rằng Tổ không
biết gì đến văn học Đại Thừa? Đành rằng Tổ không phải là một học giả
uyên bác so với Thần Tú, nhưng trong sự tích của Tổ ta thấy người viết
cố làm cho Tổ dốt hơn sự thực. Thử hỏi người viết có dụng ý gì? Theo
thiển ý, nhấn mạnh đến sự chỏi ngược giữa hai cao đệ ưu tú nhất của Ngũ
Tổ tức đồng thời nhấn mạnh đến thực chất của Thiền, độc lập ngoài học
hỏi và kiến thức. Nếu Thiền, như chủ trương của các bậc Thiền đức, là
“giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự” thì sự hiểu Thiền
chẳng dành riêng cho ai, dầu là người dốt và người không học đạo giáo.
Cái cao của Huệ Năng, nhân đó, càng cao thêm trên ngôi vị Thiền Tổ. Chắc
chắn vì lý do ấy người ta đã làm Lục Tổ Huệ Năng thành một người dốt, mà
đôi khi còn dốt một cách bi tráng nữa.
Thứ nhì,
tại sao Huệ Năng áo pháp không nên truyền nữa? Nếu Hoằng Nhẫn dạy Năng
giữ lấy cái áo ấy, lời khuyên ấy thật sự ngụ ý gì? Nói rằng mạng sống
của người được áo sẽ bị hăm dọa, điều ấy chứng tỏ giữa môn nhân của
Hoằng Nhẫn có nạn tranh giành. Họ coi áo là tiêu biểu cho tổ vị chăng?
Nhưng được áo thì được gì, về đời và về đạo? Giáo lý Đạt Ma nay đã được
coi là chánh pháp thừa truyền từ Phật chăng? Và nếu thế thì áo không còn
ý nghĩ tương đối nào hết đối với đạo lý Thiền sao? Nếu vậy thì khi lần
đầu tiên Bồ Đề Đạt Ma tuyên bố sứ mạng đặc biệt của ông là Thiền Sư
truyền.tâm ấm Phật, ông có bị coi như ngoại đạo, và bị ngược đãi không?
Truyền thuyết ông bị các đối phương người Ấn đầu độc hầu như cốt làm cho
ông cao lớn thêm. Dầu sau, vấn đề áo vẫn liên quan mật thiết với quy chế
truyền thừa Thiền pháp của các trường phái Phật giáo đương thời cũng như
với uy tín của Thiền đạo vững chắc hơn lúc nào hết trong tinh thần đại
chúng.
Thứ ba là
sự mật truyền y pháp trong đêm giữa Hoằng Nhẫn và Huệ Năng khiến ta phải
đặc biệt chú ý. Nâng một chú nhà quê chuyên bửa củi giã gạo trong chùa,
một chú nhà quê chưa quy y thọ giới nữa, lên ngôi vị tổ, dầu chỉ mới là
tên gọi thôi, để kế vị một đại sư thống lãnh năm bảy trăm đồ chúng, hẳn
phải gây mầm ganh tị, và thù oán là khác. Nhưng thực sự nếu đó là người
đủ thực ngộ để đảm nhận trọng trách tống lãnh tăng đoàn thì sự phối hợp
chung của thầy và trò há không thắng qua mọi sự chống đối sao? Có lẽ dầu
ngộ đạo vẫn không thắng nổi dục vọng của thế gian, phi lý quá, trẻ con
quá. Dầu vậy, tôi vẫn không thể không nghĩ rằng nhà chép sử Huệ Năng có
ý bi kịch hóa tấn kịch. Có lẽ tôi nghĩ lầm thật đấy, vì có lẻ tựu trung
còn nhiều tình tiết eo le khác mà nay ta không biết vì thiếu tài liệu
lịch sử.
Ba ngày
sau khi Huệ Năng đi khỏi Hoàng Mai Sơn thì tin mật truyền y bát tràn lan
khắp chốn già lam, một số tăng phẫn uất do Huệ Minh cầm đầu đuổi theo
Huệ Năng. Qua một hẻm núi cách chùa khá xa, thấy nhiều người đuổi theo
kịp, Năng bèn ném cái áo pháp trên tảng đá gần đó, và nói với Huệ Minh:
“Áo này là vật làm tin của chư tổ, há dùng sức mà tranh được
sao? Muốn lấy thật cứ lấy đi!” Huệ Minh nắm áo cố dở lên, nhưng áo
nặng như núi. Ông ngừng tay, bối rối, rồi run sợ.
Tổ hỏi: Ông đến đây cầu gì? Cầu áo hay cầu Pháp? Huệ Minh
thưa: Chẳng đến vì áo, chính vì Pháp đó.
Tổ nói: Vậy nên tạm dứt tưởng niệm, lành dữ thảy đừng
nghĩ tới.
Huệ Minh vâng nhận.
Giây lâu, Tổ nói: Đừng nghĩ lành, đừng nghĩ dữ, ngay
trong lúc ấy đưa tôi xem cái bổn lai diện mục của ông trước khi cha mẹ
chưa sanh ra ông.
Thoạt
nghe, Huệ Minh bỗng sáng rõ ngay các pháp(chân lý) căn bản bấy lâu tìm
kiếm khắp bên ngoài ở muôn vật. Cái hiểu của ông bây giờ là cái hiểu của
người uống nước nóng lạnh tự biết. Ông cảm động quá đỗi đến toát mồ hôi,
trào nước mắt, rồi cung kính đến gần Tổ chắp tay làm lễ bạch:
Ngoài lời mật ý mật như trên còn có ý mật nào nữa không?
Huệ Năng nói: Điều tôi nói với ông tức chẳng phải là mật.
Nếu ông tự soi trở lại sẽ thấy cái mật là ở nơi ông.
Dầu những
hoàn cảnh lịch sử bao quanh Huệ Năng trong những ngày xa xôi ấy diễn ra
thế nào, điều chắc chắn là câu: “thấy cái bổn lai diện mục trước khi cha
mẹ sanh ra”[32]
đúng là một thông điệp mới, mới được công bố lần đầu, để
khai diễn ra dòng sử Thiền vô tận, và nâng Huệ Năng lên hàng Tổ xứng với
cái áo pháp. Đó là một chân trời mới Huệ Năng mở ra cho Thiền cổ truyền
Ấn Độ. Ở cách nơi ấy, ta không thấy có gì là Phật giáo hết, thế nghĩa là
Huệ Năng tự vạch ra một con đường riêng để diễn đạt chân lý Thiền theo
kinh nghiệm riêng, đọc đáo, và đầy tinh thần sáng tạo. Trước Huệ Năng,
để biểu thị kinh nghiệm ấy, người ta vay mượn đó đây mượn chữ cũng như
mượn phương pháp. Nói rằng “Ông là Phật” hoặc “Ông và Phật vốn là một”
hoặc “Phật ở trong ông” thật quá sáo, quá chìm, vì quá trừu tượng, quá
khái niệm. Những câu ấy đành là có chứa đựng một chân lý thâm diệu nào
đó, nhưng thiếu cụ thể, không đủ sanh khí lay hồn ta dậy trong giấc ngủ
ngầy ngật và vô tri - những câu nói bác học chìm lỉm giữa trừu tượng là
từ chương vậy. Huệ Năng, chất phát ở tâm, mộc mạc ở trí, không nhiễm
phải cái học của đời và đạo, Huệ Năng có thể nắm lấy chân lý nóng hổi
trong tay. Và đó là chỗ tươi mát khác thường của tâm trí trong khi tiếp
xử với đời. Chúng ta có thể trở lại điểm ấy sau này.
NAM ĐỐN BẮC TIỆM
Hoằng
Nhẫn tịch năm 675, bốn năm sau[33]sau
đêm mật phó ân pháp cho Huệ Năng, Sư thọ bảy mươi bốn tuổi. Nhưng Tổ Huệ
Năng, theo lời thầy dạy, chưa mở ngay pháp đàn, mà ẩn nhẫn lánh mình
trong núi. Ngày kia, Tổ nhập thế, nghĩ rằng đã đến thời kết duyên hóa
độ. Thuở ấy Tổ được ba mươi chín tuổi, nhằm năm đầu niên hiệu Nghi Phụng
đời Đường (676). Tổ tìm đến thành Quảng Châu, chùa Pháp Tánh, tại đây
một pháp sư uyên bác là Ấn Tông đang giảng kinh Niết Bàn.
Nhân lúc ấy có hai ông tăng tranh luận về câu chuyện gió
phướn, một ông nói “gió động, một ông nói “phướn động” , cãi mãi không
thôi. Huệ Năng bước tới mà rằng:
Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, chính tâm ông
động[34]
Câu nói
chấm dứt tức thì cuộc cãi vã. Nhà sư thông thái Ấn Tông kinh ngạc quá
đổi trước câu nói bất thần như vậy của Huệ Năng, dứt khoát, đầy uy lực.
Vừa gạn biết tông tích của Huệ Năng, Ấn Tông bèn thỉnh Tổ cho nghe giáo
pháp Huỳnh Mai. Sau đây là lời đáp của Huệ Năng:[35]
Trong lời phó chúc, Huỳnh Mai không truyền gì riêng, Ngài
chí luận về pháp thấy tánh, thiết yếu nhất của đạo Thiền, không luận về
thiền định và giải thoát. Tại sao vậy? Vì thiền định giải thoát, bởi lẽ
“có hai” (dualistic), chẳng phải là pháp Phật. Pháp Phật là pháp “bất
nhị” (non- duality) Chẳng hạn như kinh Niết Bàn luận về Pháp tánh: Pháp
tánh là pháp bất nhị, chẳng vì thiện căn hay ác căn mà Phật tánh có thế
thường còn hay dứt mất. Vả lại, thiện căn cũng có hai, hoặc thường hoặc
vô thường, còn Phật tánh thì chẳng thường chẳng vô thường vậy nên chẳng
dứt, ấy gọi là bất nhị. Phàm cái gì “có hai” chẳng phải là Thiền; hai là
thiện hoặc bất thiện, còn Phật tánh thì chẳng phải thiện chẳng phải bất
thiện, thế gọi là bất nhị. Mọi vật trong đời người mê đều thấy có hai,
chỉ bậc trí mới thông đạt cái thực tại tuyệt đối ấy của muôn vật, tức là
cái tánh vô nhị, mà đó cũng tức là Phật tánh.
(Đàn
kinh, phẩm tựa)
Đó là
bước mở đầu đạo nghiệp hoằng pháp của Huệ Năng. Ảnh hưởng của Tổ dường
như cấp thời, tràn lan sâu và mạnh. Người ta đổ dồn đến học pháp hằng
ngàn. Nhưng Tổ không hành cước xa trong xứ mạng hoằng dương và khuyên
giáo. Hoạt động của Tổ toàn thu hẹp ở bốn tỉnh miền Nam, và chùa Bửu Lâm
ở Tào Khê là đạo trường của Tổ. Vua Trung Tông hay tin Huệ Năng thừa
tiếp Hoằng Nhẫn thọ tâm ấn pháp Đạt Ma, sai một sứ giả mang sắc chỉ đến
nghinh thỉnh, song Tổ không nhận về kinh, chỉ thích ở chốn lâm tuyền.
Nhân sứ
giả muốn biết chỗ tâm yếu Thiền đề về kinh tâu lại vua, Huệ Năng nêu ý
chỉ đại khái như sau:
Đạo do tâm ngộ, há ớ việc ngồi (thiền) sao? Kinh nói:
Kẻ nào chỉ thấy Như Lai ở hình tướng hoặc ngồi hoặc nằm ắt
hành tà đạo. Vi sao vậy? Vì Như Lai không từ đâu đến cũng chẳng
đi về đâu, không sanh không diệt. Nhận ra cái thế không đến không đi đó
là Như Lai thanh tịnh Thiền. Nhận ra cái lẽ muôn vật đều không tịch đó
là Như Lai thanh tịnh tọa.
Đạo không có sáng tối. Nói sáng tối là nêu cao cái nghĩa
đắp đổi lại qua. Sáng sáng không cùng rồi cũng phải cùng.
(Cũng vậy, đạo không có phiền não với bồ đề đối đãi
nhau. Vi sao) Vì phiền não tức bồ đề, chẳng phải hai chẳng phải hhác.
Nếu lấy trí huệ chiếu phá phiền não, đó là kiến giải của hàng Thanh văn,
Duyên giác cởi xe nai dê; hàng trí cao căn lớn quyết không như vậy.
Sáng với không sáng, kẻ phàm thấy “có hai”, bậc trí thấu
rõ tánh nó “vô nhị”. Cái tánh vô nhị ấy là chân như thực tánh. Tánh ấy
bình đẳng muôn vật, ở phàm ngu chẳng bớt, hiền thánh chẳng thêm, ở
phiền não chẳng loạn, ở thiền định chẳng tịch; cái thấy có nhị tuyệt đối
ấy, thấy chẳng đoạn cương thường, chẳng đến chẳng đi, chẳng ở giữa chẳng
trong ngoài, chẳng sanh chẳng diệt, tánh tướng như như, thương trụ chẳng
dời, đó gọi là Đạo.
Nếu ông muốn biết chỗ tâm yếu của Thiền thì lành dữ tất
tất chớ nghĩ đến thì tự nhiên ngộ nhập trong thể tánh thanh tịnh của
tâm, tuy vắng lặng linh minh mà diệu dụng thì vô tận đáp ứng với thế sự
vô cùng.
(Đàn
kinh, phẩm hộ pháp).
Trong khi
Huệ Năng hành Thiền ở phương Nam thì Thần Tú, cầm đầu một trường
phái khác, hoạt động ở phương Bắc.
Trước khi
đến với Phật giáo, Thần Tú đã là người thâm Nho, cái cốt ban đầu ấy hầu
như đúc sẵn cho ông sau này một khuôn mặt khác hẳn với Huệ Năng, người
bạn đồng môn thất học. Vua Võ nhà Đường là đệ tử của Ngài, và dĩ nhiên
nhiều quan cận thân, đại phu nữa quy y với Ngài. Khi vua Trung Tôn tức
vị, năm 685, Thần Tú còn được trọng vọng hơn nhiều, và chính một vi quan
đại phu thời ấy là Chang Shuo viết tiểu sử và tụng văn khắc làm mộ bia
cho Ngài, trong ấy có bài pháp kệ này:
Lời dạy
của chư Phật
Trong tâm
bổn lai đủ.
Cầu tâm
mà bỏ tánh
Khác nào
lạc mất cha.
Thần Tú
tịch năm 706, trước Huệ Năng bảy năm. Trường phái của sư gọi là Bắc
Tông, đối với Nam Tông của Huệ Năng, rất hưng thịnh ở phương
Bắc hơn Huệ Năng ở phương Nam nhiều lắm. Nhưng từ khi Mã Tổ (? - 788) và
Thạch Đầu (700-790) tích cực phát huy đạo Thiền ở phương Nam, và đặt
xong tại đó cơ sở Thiền pháp thì Bắc Tông không tìm ra người thừa tiếp
đành mai một hẳn đến đỗi những gì nay ta biết được về Thần Tú đều do tài
liệu của phái đối lập và Nam Tông. Thế là chính Huệ Năng, chớ không phải
Thần Tú, được hậu thế thừa nhận la Tổ thứ sáu của đạo Phật Thiền Trung
Hoa.
Sự bất
đồng giữa Nam Tông và Bắc Tông là sự bất đồng cố hữu nằm trong lòng
người; nếu ta gọi Tông này là trí thức thì tông kia phải coi là chủ
nghiệm. Nam Tông xứng là đốn, đối với Bắc Tông gọi là tiệm, là do Nam
Tông chủ trương ngộ là ngộ tức thì, không tuần tự, vì không có một quá
trình tiến bộ nào hết; còn Bắc Tông, trái lại, nêu cao phương thức cần
phải theo để đạt ngộ, nghĩa là ngộ lần hồi, đòi hỏi nhiều thời gian,
nhiều công phu tinh quán vậy. Huệ Năng là một cao thủ cực đoan của duy
tâm luận, còn Thần Tú là một người biết thực không dám không biết đến
thế giới hiện tượng ở đó thời gian ngự trị trên mỗi hành động của chúng
ta. Người duy tâm không phải không cần biết đến khía cạnh khách quan của
thực tại, nhưng mắt họ luôn luôn đặt ở một điểm tự lập tự tại ngoài tất
cả, và nhỡn quang họ phóng ra từ tuyệt đối điểm ấy. Đốn giáo là nhỡn
quang ấy phóng vào cái nhiều của muôn vật trong trạng thái một tuyệt
đối. Tất cả các nhà huyền học đều thuộc Đốn giáo. Bay lướt từ cái thuần
nhất đến cái thuần nhất không phải, mà cũng không thể là một diễn trình
tuần tự. Pháp môn Thần Tú cần được chủ ý nhiều như một lời khuyên thiết
thực cho những người tinh nghiêm hành Thiền, trì giới, thực tu, nhưng
bất lực để mô tả thực chất của cái thân chứng gọi là thấy tánh lồng
trong thông điệp đặc thù của Huệ Năng biệt lập với mọi trường phái Phật
giáo khác. Thiền Bắc Tông không tồn tại được là việc khá dĩ nhiên, vì
Thiền không thể khác hơn là một hành vi trực giác tức thì, đột ngột.
Chớp nhoáng mở ra cả một thế giới chưa bao giờ ai dám mơ đến, Thiền là
một bước nhảy bất thần và thần bí vậy, nhảy từ một bình diện sang một
bình diện khác của tư tưởng. Nêu lên những đoạn đường nhằm đạt cứu cánh,
Thần Tú đánh mất mục tiêu tối hậu của Thiền. Tuy nhiên, về mặt thiết
thực, Sư vẫn là một cố vấn xứng đáng, có nhiều ưu điểm.
Khái niệm
đốn ngộ và tiệm ngộ trong Thiền học phát xuất từ bộ kinh
Lăng Già, sự phân biệt được đề ra ở đoạn kinh luận về phép tịnh tâm, gạn
lọc hết dòng tưởng niệm và hình tướng. Theo kinh, sự gạn lọc ấy tùy chỗ
mà gọi tên, khi thì tiệm, khi thì đốn. Nếu ví đó như sự chín mùi của
trái cây, hoặc công việc nắn đồ gốm, hoặc sức nảy nở của cỏ cây, hoặc sự
điêu luyện một nghệ thuật thì phải tuần tự tiến dần trong thời gian; đó
là một hành vi thuộc diễn trình tiệm tiến vây; nhưng nếu ví đó như một
tấm gương phản chiếu ngoại vật, hoặc như thức A lại gia truyền lại tất
cả tâm ảnh thì sự tinh lọc ấy diễn ra tức khắc. Vậy là kinh ấy nhận có
hai loại căn trí: có thứ tâm phải tinh lọc lần hồi mới đạt ngộ sau nhiều
năm tu tập thiền định, và có lẽ nhiều kiếp nữa; có những tâm khác chứng
ngay đến đó, bất thình lình, hầu như không cần có trước một cố gắng có ý
thức nào hết.
Ngoài
phần kinh trên, sự phân chia hai tông Thiền, về phía đốn giáo, còn dựa
vào những sự kiện tâm lý chung quyết hơn. Điểm tranh luận không phải là
vấn đề thời gian dầu ngộ chớp nhoáng hay không chớp nhoáng, điều ấy
không làm bận tâm các Thiền sư, vì các ngài cho rằng sở dĩ có bất đồng
là bất đồng giữa một thái độ triết lý chung và một nhỡn quang phóng
thẳng vào sự kiện giác ngộ. Như vậy là vấn đề thời gian vật lý giờ đây
chuyển thành vấn đề tâm lý với tất cả ý nghĩa thâm điệu hơn vậy.
Phàm nêu
lên con đường đi (phương tiện) ắt đánh mất chỗ đến (cứu cánh ), rốt rồi
phương tiện được đồng hóa với cứu cánh. Như câu chuyện sau đây:
Khi thầy
Chí Thành, học trò của Tông chủ Thần Tú, đến tham vấn Huệ Năng,
Năng hỏi thầy ông dạy tăng chúng thế nào, Thành đáp: “Thầy tôi dạy phải
chận đứng tất cả tư tưởng trong tâm (trụ tâm) và ngồi im quán tưởng
(quán tịnh), ngồi hoài không nằm”. Huệ Năng nói .
"Trụ tâm quán tịnh là bịnh, chẳng phải Thiền.
Ngồi hoài thì thân thể bị gò bó chớ có ích gì. Nghe kệ ta
đây:
Sanh ra
ngồi chẳng nằm
Chết đi
nằm chẳng ngồi
Một bộ
xương thúi nát
Có gì đâu
công phu
Đó, tỏ
rõ, là thái độ của Huệ Năng đối với phép hành thiền của Thần Tú nặng về
hình tướng. Hai bài kệ trước biên trên vách chùa ở Hoàng Mai Sơn khi cả
hai vị tông chủ còn ở với Hoẵng Nhẫn kể cũng đủ hùng biện nói lên được
tất cả sự bất đồng căn bản giữa hai tông phái.[36]
Sau đó
Huệ Năng còn hỏi ông tăng Chí Thành, thuộc Bắc Tông, phép dạy Giới Định
Huệ của Thần Tú, Thành thưa:
Đại sư Thần Tú dạy chúng tôi:
các điều dữ chớ phạm, đó gọi là giới
các điều lành vâng làm, đó gọi là huệ,
giữ ý mình trong sạch, đó là định.
Huệ Năng nói: Ý kiến của ta về giới định huệ lại khác.
Giới đinh huệ của thầy ông dùng để tiếp độ người Đại
Thừa; giới định huệ của tôi tiếp độ hàng Tối Thượng Thừa. Mọi pháp tôi
nói ra đều ra từ tự tánh, không bao giờ lìa tự tánh.
Lìa bổn thế mà nói có pháp này pháp nọ ngoài tự tánh là
nói mê, chưa tỏ được tánh. Muôn vật, cả giới định huệ, đều do tự tánh
ứng dụng ra, có hiểu thế mới thực là hiệu pháp giới định huệ. Nghe kệ ta
đây:
Tự tâm vốn không bao giờ quấy, đó là tự tánh giới,
Tự tâm vốn không bao giờ si, đó là tự tánh huệ,
Tự tâm vốn không bao giờ loạn, đó là tự tánh định.
Nếu ông tỏ sáng tự tánh thì không thấy có gì là đối đãi
hai bên nên chăng cần lập bồ đề niết bàn đối lập với phiền não, hoặc
giải thoát tri kiến (giới đinh huệ) đối lập với triền phược. Không có gì
là sở đắc hết trong tự tánh, tự nó vốn hư linh, tuy hư linh nhưng từ đó
ứng dụng lên tất cả. Cho nên người thấy tánh thì lui tới tự do, không
đường không mắc, tùy thế mà làm, tùy cơ mà nói, hiện khắp hóa thân mà
chẳng lìa tự tánh, tức được tự tại thần thông, du hí tam muội vậy.
“Tự tánh vốn không quấy, không si, không loạn, lúc nào
trí huệ cũng chiếu soi, tự do tự tại, dọc ngang đều ứng đối đặng cả. Tự
tánh tự áng tự tỏ (tự ngộ) thoáng tu thoáng ngộ, không thứ lớp gì hết.
Muôn vật đều “không tịch” thì có gì là thứ lớp?
(Đàn
kinh, phẩm đốn tiệm)
THIỀN HUỆ NĂNG
Một số
bài pháp của Lục Tổ được chép giữ trong một bộ sách gọi là Pháp Bửu Đàn
Kinh. Chữ “kinh” thường dùng cho những bút liệu được coi là của Phật,
hoặc của những người có liên hệ mật thiết với Phật; ở đây một bộ sách
gồm lại những bài pháp của Huệ Năng lại được tôn xưng là kinh, điều ấy
đủ chứng tỏ địa vị ưu đẳng của tác phẩm ấy trong lịch sử Phật giáo Trung
Hoa. Còn “đàn”, giới đàn, là ám chỉ cái đàn tràng dùng làm lễ thế phát
quy y cho Huệ Năng, cái đàn tên tuổi này do Cầu na Bạt đà la,
người đầu tiên dịch bộ kinh Lăng Già, dựng lên từ triều Lưu Tống
(420-479). Từ ngày dựng đàn cho đến suốt đời nhà Lương, và sau nữa, luôn
luôn truyền tụng lời sấm của pháp sư Trí Dược (có người nói là
của Chân Đế) báo trước sẽ có một vị Bồ Tát trong xác phàm thọ giới ở
đây, và khai thị tâm ấn Phật. Vậy “Đàn Kinh” có nghĩa là pháp
Thiền chánh tông nói lên ở giới đàn ấy vậy.
Những bài
pháp còn ghi giữ chỉ là những đoạn văn còn rơi rớt lại của Huệ Năng suốt
ba mươi bảy năm tích cực hoằng hóa. Cả ở những đoạn còn lại ấy, phần nào
đủ uy tín, đáng tin, trong hiện tình ta không thể trả lời dứt khoát, vì
bộ sách dường như đã trải qua nhiều số kiếp thăng trầm, điều ấy đủ chứng
tỏ thông điệp Thiền của Huệ Năng quả phi thường quá ở nhiều phương diện
đến đỗi gây nên nhiều mâu thuẫn và ngộ nhận giữa hàng Phật tử. Sau nầy,
khi khí thế mâu thuẫn lên đến cao độ, tương truyền bộ Đàn Kinh bị hỏa
thiêu, coi như nghịch với Phật giáo chánh truyền.Tuy nhiên, trừ vài câu,
vài đoạn đáng ngờ, đại khái bộ kinh có thể tin như thể hiện đúng tinh
thần và Thiền pháp của Lục Tổ Huệ Năng.
Tư tưởng
căn bản của Huệ Năng xứng đáng nâng Sư lên hàng Sư tổ khai sáng đạo
Thiền Trung Hoa có thể tóm tắt như sau:
1. Ta có
thể nói rằng do Huệ Năng Thiền được nhập diệu. Trước, khi Đạt Ma đem cây
Thiền Ấn Độ trồng sang Trung Quốc, dầu thành công, đương thời Đạt Ma
chưa viên thành được thông điệp Thiền trong tất cả ý nghĩa kỳ đặc. Phải
chờ trên hai năm sau Thiền mới nhập tâm ở Trung Hoa, và nói lên được
tiếng nói của tâm hồn Trung Hoa, cách phô diễn Ấn Độ từ ban sơ cho đến
Đạt Ma và như Tổ kế tiếp lần lần mất thế và chuyển sang lối nói hoàn
toàn Trung Hoa. Cuộc lột xác ấy vừa hoàn tất giữa đôi tay Huệ Năng là
môn đệ Ngài tức tốc giải quyết ngay tất cả nhưng điều nan giải. Kết quả
là ta có cái nay gọi là Thiền Tông. Vậy Huệ Năng hiểu Thiền như thế nào
Theo Huệ
Năng, Thiền là thấy tánh. Đó là hai chữ tinh yếu nhất chưa bao
giừ được đúc kết đầy thần lực hơn trong dòng khai diễn của đạo Thiền.
Quanh hai chữ ấy, Thiền kết tinh lại từ đó, và nhờ đó ta biết những cố
gắng của ta phải hướng đến đâu, và bằng cách nào ta có thể hình dung nó
trong tâm thức. Sau đó, Thiền tiến lên như vũ bão. Thật ra hai chữ ấy có
trong đời tổ Đạt Ma, nhưng Truyền Đăng lục lồng khuôn nó trong
một đoạn đời của Tổ có nhiều nghi vấn. Dầu rằng chính Đạt Ma có
dùng hai chữ ấy, nhưng không thế tất Ngài coi đó là yếu lý Thiền biệt
lập với các pháp môn khác. Phải đến Huệ Năng mới nắm trọn tinh nghĩa, và
in mạnh diệu lý ấy vào tâm thức người nghe một cách dứt khoát nhất không
sao nhầm lẫn được. Lần đầu tiên khi Ngài tuyên xướng yếu chỉ Thiền cho
pháp sư Ấn Tông, câu nói của Ngài đích thực không chỗ nào ngộ nhận được:
“chỉ luận thấy tánh, chẳng luận thiền định hoặc giải
thoát”.
Đó là
điểm chủ yếu của Thiền Huệ Năng, nhưng bài nói pháp sau nầy chỉ
nhằm khai triển khái niệm ấy thôi.
“Tánh”, theo Huệ Năng, là Phật tánh, hoặc nói riêng về mặt trí,
đó là bát nhã. Sư dạy rằng bát nhã ấy vốn sẵn đủ ở bất cứ người nào, chỉ
vì ta mê loạn trong tư tưởng nên không hiện thực được ánh sáng ấy ở
trong ta. Vậy ta cần có sự hướng dẫn và khai ngộ của một bậc Thiền đức
cho đến khi con mắt huệ mở ra trong ta, và tự ta có thể kiến chiếu vào
tự tánh. Tánh ấy chẳng phải là cái nhiều, mà chính là cái một tuyệt đối,
thuần nhất và bình đẳng như nhau ở người trí cũng như kẻ ngu. Cái nhiều
là cái phân hóa ra từ điên đảo và vô minh của tâm thức ta. Nhiều người
mãi nói đến bát nhã, nghĩ về bát nhã, nhưng hoàn toàn không thực hiện
nổi ánh bát nhã ở tự tâm, thật chẳng khác nào ngày ngày nói đến đủ thứ
đồ ăn, không thiếu một món, mà rốt cuộc vẫn đói. Ông có thể giảng về
triết lý “không” ngàn vạn năm, nhưng hễ chưa thấy tánh thì chỉ uổng công
phí sức vô lối. Có nhiều người khác coi Thiền là tĩnh tọa, giữ tâm lắng
im tất cả cảm nghĩ, như thế thật không biết bát nhã là gì, và tâm là gì.
Tự tánh bao hàm toàn thể vũ trụ, không bao giờ ngưng ứng dụng trong thế
gian Nó vốn tự do tự tại, đầy sinh lực sáng tạo, mà đồng thời cùng tự
tri tự giác. Nó biết “tất cả tức một, một tức tất cả”. Diệu dụng ấy
của trí bát nhã là do tánh ứng ra. Ông chớ tùy thuộc theo chữ nghĩa,
hãy để yên cho huệ giác quán chiếu trong ông.
2. Kết
quả không tránh được là tự nhiên Đốn giáo được nêu lên trong Nam
Tông. Cái thấy ấy là thấy tức thì, con mắt huệ nắm lấy toàn thể sự thực
qua một cái nhìn – cái thực siêu việt tất cả kiến giải nhị nguyên, dưới
tất cả hình thức. Đốn là vậy, không tuần tự, không diễn ra lần hồi và
liên tục. Ta hãy đọc đoạn văn sau đây trong Đàn Kinh đúc kết tất cả giáo
lý đốn ngộ:
“Nếu ngộ được phép đốn giáo ắt ngươi khỏi chấp theo ngoại
cảnh để sửa mình, chỉ cần nơi tự tâm khởi lên cái thấy chân thực là
không phiền não trần lao nào nhiễm được vào ngươi. Đó là thấy tánh.
"Thiện tri thức! Đừng trụ[37]bất
cứ đâu, ở trong ở ngoài, thì lui tới được tự do. Đừng để tâm chấp trước
thì suốt không hết, không gì vướng mắc... Kẻ ngu nếu bỗng chốc trí sáng,
tâm mở thì với người trí chẳng sai khác gì.
“Thiện tri thức, khi chưa ngộ Phật là chúng sanh như ta;
phút chốc ngộ rồi thì ta, chúng sanh, tức là Phật. Thế mới biết tất cả
đều ở nơi tâm. Vậy sao ta không biết ở nơi tâm thoắt thấy (đốn kiến)
ngay cái bổn tánh của Chân như? Kinh Bồ Tát giới nói: “Từ ban sơ, cái
tánh của chúng ta vốn là thanh tịnh, nên nếu ta biết tự tâm thấy tánh là
thành Phật đạo”. Kinh Tịnh Danh nói: “Tức thì mở thông là được lại bổn
tâm”
“Thiện tri thức, khi ta còn ở với hòa thượng Hoằng Nhẫn,
ta vừa nghe là ngộ ngay “dưới lời nói” , thoắt thấy liền (đốn kiếp) bổn
tánh của Chân Như. Nên nay ta cho lưu hành giáo pháp ấy khiến kẻ học đạo
sớm đốn ngộ bồ đề. Các người tự mình quán tâm mình thì sẽ tự mình thấy
bổn tánh mình.
“Nếu tự mình mình ngộ được thì khỏi cầu ngoài. Bằng cứ
một mực chấp trước, nhờ vào người khác để được giải thoát, điều ấy không
đâu có được. Tại sao? Trong tự tâm có ông thầy lành nên có thể tự ngộ.
Bằng cứ mê muội rối ren, niệm tưởng lầm lạc thì không một ông thầy lành
nào bên ngoài, dầu khéo dạy dỗ, cứu chữa nổi. Còn nếu trí bát nhã quán
chiếu lên thì trong khoảnh khắc tất cả vọng niệm đều tiêu tan hết. Nếu
biết tự tánh thì vừa thoáng ngộ đã vào ngay đất Phật.
3. Một
khi đề cao sự thấy tánh, cổ võ sự trực ngộ, thay vì khảo sát và triết
luận, thì hậu quả dĩ nhiên là quan niệm thiền định cổ truyền chỉ còn coi
như một kỹ thuật trấn định tinh thần thường. Đó chính là trường hợp xảy
ra trong đời Lục Tổ. Từ thuở khởi nguyên của Phật giáo đã có hai luồng
tư tưởng liên quan đến ý nghĩa tham thiền: luồng tư tưởng đầu theo chủ
trương của hai đạo sư đầu tiên của Phật là Uất đa la và A ra la, là chặt
đứt tất cả hoạt động tinh thần, hoặc quét sạch trong tâm tất cả tư
tưởng: luồng tư tưởng sau chỉ coi tham thiền như một phương tiện hữu
hiệu nhất để tiếp xúc với thực tại tối thượng. Sự bất đồng căn bản ấy là
nguyên nhân Bồ Đề Đạt Ma không được đãi ngộ giữa những người học
Phật ở Trung Hoa và các thầy thiền học đương thời: Đó cũng là yếu tố
phân hóa giữa ngành Thiền Ngưu Đầu của Pháp Dung và dòng Thiền chánh
thống của tứ tổ Đạo Tín, cũng như giữa hai dòng Thiền Nam Tông và Bắc
Tông, sau khi sư Huệ Năng, cao thủ của pháp môn trực giác, không khứng
luận giải Thiền - dhyana - theo nghĩa tiêu cực thông thường. Theo Sư,
tâm, ở tầng đại định, không phải chỉ là một thể tánh ngoan không, hư
tưởng, không chứa đựng gì mà cũng không tác dụng gì. Sư muốn nắm lấy cái
gì đó ngay ở cùng đáy của tất cả hoạt động vật chất và tinh thần, một
cái gì chẳng phải chỉ là một điểm hình học suông, mà phải là nguồn phát
huy tất cả tinh lực và tri giác. Huệ Năng không quên rằng ý chí rốt cùng
là thực tại tối thượng, và sự ngộ đạo ấy phải là cái gì cao hơn kiến
thức, cao hơn sự ngồi im quan sát chân lý. Tâm hoặc tánh cần được nhận
ra ngay giữa dòng lưu chuyển. Vậy, mục đích của dhyana không phải là
chân đứng hoạt động của tự tánh, mà chính là lặn sâu giữa dòng lưu
chuyển ấy của tự tánh, và nắm lấy ngay giữa cuộc vận hành. Đó là một
quan niệm trực giác ấy chủ động vậy. Trong cuộc đối thoại sau đây, Huệ
Năng và môn đồ vẫn dùng những thuật ngữ cũ, nhưng tầm quan trọng của câu
chuyện đủ hiển thị chủ điểm tôi muôn nêu lên.
Huyền Giác (665-713), trước học phép chỉ quán của tông Thiên
Thai, sau nhân đọc kinh Duy Ma mà tâm địa phát sáng. Có người khuyên
Giác nên đến Lục Tổ cầu ấn chứng, Giác bèn đến Tào Khê.
Giác đi quanh Tổ ba vòng, xong chống tích trượng đứng
thẳng.
Tổ nói: Phàm là người tu hành phải đủ ba ngàn uy nghi,
tám muôn tế hạnh, Đại đức từ đâu đến mà quá đỗi cao ngạo?
Giác nói: Việc sanh tử vô thường mới là đại sự, thời
gian chẳng chờ ai hết, qua mau lắm.
Tổ: Sao ông không nắm lấy cái không sanh không tử, thấu
rõ cái chẳng thời gian, không mau chậm.
Giác: Cái nắm lấy tức là cái vô sanh, cái thấu rõ vốn là
cái không mau chậm.
Tổ: Đúng vậy! Đúng vậy!
Huyền Giác kính cẩn làm lễ ra mắt Tổ, giây lâu xin cáo
về.
Tổ nói: Về sớm thế sao?
Giác: Bổn lai chẳng có cái động, há nói sớm muộn được
sao?
Tổ: Ai biết chẳng có cái động?
Giác: Đó là tại ông khởi tâm phân biệt.
Tổ: Ngươi thực đã rõ cái ý vô sanh.
Giác: Đã vô sanh sao rằng có ý?
Tổ: Nếu không ý thì ai phân biệt đây?
Giác: Phân biệt vẫn có, nhưng chẳng phải là ý[38]
Tổ tán
thành kiến giải của Huyền Giác bằng câu nói: “lành thay?”
Trí Hoàng chuyên học ngồi Thiền dưới đời Ngũ Tổ. Sau hai mươi
năm ngồi tịnh trong am, ông tự coi như được chánh thọ (thiền định). Học
trò của Huệ Năng là Huyền Sách nhân du phương đến Hà Sóc nghe tiếng đồn
tìm đến thảo am, hỏi:
- Ông ngồi làm gì đây?
- Nhập định.
- Ông nói nhập định, vậy ông hữu tâm[39]mà
nhập hay vô tâm mà nhập? Nếu là vô tâm thì tất cả thế giới vô tình như
có cây ngói gạch đều có thể nhập định hết. Bằng hữu tâm mà nhập thì mọi
giống hữu tình, hàm linh có ý thức, đều cũng định được.
- Trong khi tôi nhập đinh thì không biết là hữu tâm hoặc
vô tâm.
- Nếu ông không biết là hữu tâm hoặc vô tâm thì lúc nào
cũng là định, sao còn nói “xuất nhập”. Nếu có xuất nhập thì chẳng phải
là đại định.
Trí Hoàng không đáp, giây lâu hỏi:
- Thầy của ông là ai?
- Thầy
tôi là Lục Tổ ở Tào Khê.
- Lục Tổ dạy thế nào về thiền định?
- Thầy tôi nói rằng Thiền vốn lặng im mà huyền diệu (diệu
trạm), vắng lặng mà tròn đầy (viên tịch), thể và dụng đều như như, chẳng
xuất chẳng nhập, chẳng định chẳng loạn. Thiền tánh không có chỗ trụ, chớ
trụ ở chỗ vắng lặng của Thiền. Thiền tánh chẳng sanh, chớ đâm nghĩ về sự
sanh (diệt) của Thiền. Tâm như hư không, nhưng đừng có suy tưởng về hư
không.
Hoàng nghe vậy bèn đến yết kiến sư Huệ Năng. Sư hỏi: “ông
là ai?”
Hoàng trình rõ mọi việc. Sư nói:
Đúng như lời Huyền Sách nói, ông cứ đế tâm ông tự nhiên
như hư không, mà vẫn không một kiến giải nàovề cái không ấy thì tâm sẽ
ứng dụng tự do, không vướng mắc, dầu làm gì động hay tịnh, vốn là vô
tâm, và đó là lúc phàm hay thánh đều quên hết, năng (chú) và sở (khách)
đều dứt trọn, tánh và tướng đều như như, tức là không lúc nào chẳng là
định vậy
Để rõ
thêm, một cách dứt khoát hơn, lập trường của Huệ Năng trong vấn đề ngồi
Thiền, tôi xin cử ra đây một trường hợp khác trong bộ Đàn kinh. Có một
ông đạo đọc bài kệ Ngọa Luân như sau:
Ngọa luân
thật giỏi giắn
Tư tưởng
thảy dứt lặng
Đối cảnh
tâm chẳng sanh
Bồ đề
ngày lớn mạnh
Sư nghe
đọc, nhận xét như vầy: Bài kệ ấy chưa sáng được tâm địa, theo đó mà hành
chỉ thêm trói buộc. Nghe kệ ta đây:
Huệ Năng
chẳng giỏi giắn
Tư tưởng
chẳng dứt lặng
Đối cảnh
tâm cứ sanh
Bồ đề nào
lớn mạnh[40]
Bấy nhiêu
đủ rõ Lục Tổ Huệ Năng không phải thuộc hàng hư tĩnh (quietist), chủ
trương ngoan không (nihilist), mà cũng không phải là người duy tâm
chuyên phủ nhận thế giới khách quan. Thiền của ông là Thiền chủ động,
nhưng vẫn ở trên thế giới sai biệt một khi thế giới ấy chưa được thâu
nhiếp trong thiền.
4. Phương
pháp hiển thị chân lý Thiền của Huệ Năng là phương pháp thuần túy Trung
Hoa, không phải Ấn Độ. Sư không viện đến những ngôn từ trừu tượng hoặc
cảnh giới thần bí hoang đường. Đó là phương pháp trực chỉ vậy, giản dị,
cụ thể, và thực tế không gì hơn Như khi thượng tọa Huệ Minh xin nghe
pháp, Sư nói: “Đưa tôi coi cái bổn lai diện mục của ông trước
khi cha mẹ sinh ra ông”.
Câu nói
há chẳng nhắm ngay vào tròng sao? Không có gì là triết luận, là biện
giải tinh tế, là hình ảnh hư huyền hết, mà chỉ là nói thẳng, dứt khoát,
không lẽo lự quanh co. Ởđịa hạt này, chính Huệ Năng tiên phong mở đường,
và môn đệ Sư nối gót theo, liền bước và hữu hiệu. Ta đã thấy qua tổ
Lâm Tế áp dụng phương pháp ấy độc đáo như thế nào trong bài pháp của
Tổ về “vô vị chân nhân”
[41]
Xin thêm
vài ví dụ. Huệ Năng vừa thấy mặt Nam Nhạc Hoài Nhượng (677
-744) liền hỏi ngay: “ở đâu đến?” rồi bồi tiếp theo ngay câu hỏi thứ
nhì: “Mà cái gì đến?” Hoài Nhượng phải mất tám năm trường mới đáp được
thỏa đáng câu hỏi sau của tổ.
Sau đó,
lối hỏi đột ngột như trên hầu như là ngón sở trường của chư sư chào hỏi
khách. Chẳng hạn như Nam Viện hỏi một tân tăng:
- Ở đâu
đến?
- Hán
thành.
Chú cũng
lầm như tôi.
Hương Nghiêm hỏi Tam Thánh Huệ Nhiên:
- Ở đâu
đến?
- Lâm Tế.
- Có gươm
Lâm Tế đó không?
Huệ Nhiên
cầm tấm tọa cụ đánh vào miệng Hương Nghiêm, rồi phất tay áo ra đi.
Trần tôn
giả hỏi một ông tăng:
- Ởđâu
đến?
- Kinh
Sơn.
“Ông nói
láo” đó là lời phán của tôn giả.
Lần khác
Trần tôn giả hỏi một ông tăng khác:
- Ở đâu
đến?
- Giang
Tây.
Đi đường
mòn hết mấy đôi giày cỏ?
ông tăng
này được đối xử ngọt dịu hơn vậy.
Sự bất
đồng ấy giữa hai phương pháp khai thị Ấn Độ và Trung Hoa đặt lên vấn đề
bất đồng, nếu có, giữa Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền. Như
trường hợp Hương Nghiêm trình lên Ngưỡng Sơn Huệ Tịch bài
kệ nghèo,[42]
Tịch nói:
“Sư đệ
chỉ được Như Lai Thiền, chưa được Tổ Sư Thiền”.
Có người
hỏi Mục Châu “Thiền Như Lai với Thiền Tổ Sư khác nhau, giống nhau, thế
nào?” Châu đáp:
Núi xanh
là núi xanh
Tuyết
trắng là tuyết trắng
SAU HUỆ
NĂNG
Huệ Năng
tịch năm 713, thọ bảy mươi sáu tuổi, nhằm thời Thịnh Đường, thiên hạ vui
cảnh thái hòa, và văn hóa Trung Quốc vút đến tuyệt đỉnh vinh quang trong
lịch sử.
Trên trăm
năm sau, quan thứ sử Liễu Tôn Nguyên, thuộc hàng thi bá của văn
học sử Trung Hoa, soạn bài văn bia trên tháp Tổ như sau khi Tổ được vua
Hiến Tông ban thụy hiệu là Thiền Sư Đại Giám:
“… Từ sư
Đạt Ma truyền sáu đời đến Đại Giám. Đại Giám bấy lâu chuyên phục dịch
nhọc nhằn, vừa nghe kinh đã thấu lẽ cùng. Ngũ Tổ cảm động trao tín cụ
cho Sư. Sau Sư ẩn ở Nam Hải, không ai hay biết, đến mười sáu năm xét
thấy thời kỳ hóa độ đã đến bèn đến Tào Khê khai diễn chánh pháp, làm
thầy thiên hạ. Học giả đến với Sư tính đến hằng ngàn. Đạo của Sư cốt lấy
“vô vi” làm cái có, lấy “không đỗng” làm cái thực, lấy cái rừng lớn bao
la làm chỗ về. Còn về giáo, Sư dạy tánh thiện là gốc, xưa nay vẫn thế,
khỏi phải giả tạo xới vun, bổn thể vốn là tinh anh vậy.
“Vua
Trung Tôn nghe danh hai lần sai sứ đến thỉnh, nhưng Sư chối từ, chỉ
trình lại tâm thuật, lời lời bày đủ, nay bố cáo cho thiên hạ biết.
“Phàm nói
Thiền trong thiên hạ tất phải lấy Đại Giám Tào Khê làm gốc, tịch đến nay
đã trám linh sáu năm.”
(Tứ thụy
Đại Giám thiền sư bi)
Sau Huệ Năng, Thiền phân hóa thành nhiều dòng,[43]
trong số đó hai dòng nay còn tồn tại ở Trung Hoa cũng như ở Nhật Bản.
Một dòng xuất phát từ Hành Tư ở Thanh Nguyên (tịch năm 740) nay
tiếp tục dưới danh hiệu Tào Động Tông; còn dòng kia, thuộc pháp
từ của Hoài Nhượng ở Nam Nhạc (677-744) nay có Lâm Tế Tông là đại
diện. Dầu trải qua nhiều biến đổi quyết liệt ở nhiều phương diện, nhưng
nguyên lý và chân phong Thiền vẫn sinh động như ngày nào, dưới thời Lục
Tổ, và đó là một trong những di sản tinh thần vô giá của Đông phương nay
ảnh hưởng còn thấm nhuần sâu đậm trong văn hóa, nhất là giữa giới thức
giả Nhật Bản.
PHÁP HỆ THIỀN
I. DÒNG NAM NHẠC HOÀI NHƯỢNG
II. DÒNG THANH NGUYÊN HÀNH TU
VI. THIỀN LÂM TẾ