Luận
tám
MƯỜI BỨC
TRANH CHĂN TRÂU
Trong bài luận nay, tương đối rất
ngắn, xếp vào loại phụ lục, tác giả giới thiệu qua ý nghĩa của đề tài,
rồi dịch mười bài thơ chăn trâu thuộc loại Thiền Tông.
Dịch giả chưa tìm được nguyên bản
chữ Hán của mười bài thơ ấy. Không thể tắc trách dịch qua một bản dịch,
vậy trong khi chờ đợi, hoặc giả duyên may sẽ được một độc giả cao minh
nào giúp cho tài liệu ấy, tôi xin thay thế bằng một bài thơ của chính
dịch giả.
T.T
Phước Châu Đại An hỏi:
- Tôi khao khát hiểu pháp Phật, đó
như cái gì?
Bách Trượng đáp: Hệt như cưỡi trâu
tìm trâu.
Hỏi: Hiểu rồi thì như thế nào?
Đáp: Như người cưỡi trâu về nhà.
Hỏi: Rồi làm sao giữ cho trước sau
khế hợp?
Đáp: Như người chăn trâu cầm roi
giữ trâu mình đừng phạm đến lúa mạ của người.
(Truyền Đăng Lục, quyển 9)
THẬP MỤC NGƯU ĐỒ
là mười bức tranh chăn trâu. Tranh ra đời từ triều đại nào, dưới ngọn
bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được. Điều chắc chắn là tranh
có từ xa xưa lắm, ban đầu chỉ có sáu bức, sau thất lạc luôn. Mãi đến từ
đời nhà Tống, thế kỷ XII, nhiều bộ tranh mới bắt đầu xuất hiện tự các
tòng lâm, thiền viện, phản ảnh nhiều khuynh hướng khác nhau trong sự tu
tập. Như vậy là không phải chỉ có một bộ, mà nhiều bộ “mục ngưu đồ” khác
nhau, tất cả đều đượm nhuần tinh thần Phật giáo Bắc Tông. Trong số ấy
hiện nay được truyền tụng nhất là tranh của hai họa sĩ áo nâu THANH CƯ
và QUÁCH AM.
Tuy có nhiều bộ tranh. nhưng bộ nào
cũng như bộ nào, đều có 10 bức, mỗi bức có một bài tụng bằng thơ tứ
tuyệt, và một bài chú giải bằng văn xuôi. Đó là về hình thức. Còn về
tinh thần thì tranh tuy có nhiều, nhưng có thể xếp thành hai loại: loại
tranh Đại Thừa và loại tranh theo khuynh hướng Thiền Tông . Trong mỗi
loại, tranh vẽ sai khác hết nhau, nhưng bài tụng và bài chú riêng cho
mỗi loại vẫn không thay đổi.
A. TRANH ĐẠI THỪA
I.TRANH
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần
lượt qua từng bức họa, trâu đen trổ trắng lần lần. trắng từ trên đỉnh
đầu, lần lân quanh mình, rồi chót đuôi.
Đó là tượng trưng cho phép tu tiệm.
Theo phép tu tiệm thì phải rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc
thang ngộ; nhờ công phu, ái tâm vọng lần hồi gạn lọc được trần cấu mà
sáng lần lên, cũng như nhờ được dìu dắt mà con trâu hoang lâu ngày chầy
tháng thuần thục lần, và trắng lần lớp da đen dơ dáy:
Nhựt cửu công thâm thỉ chuyển đầu
Điên cuồng tâm lực TIỆM điều nhu
(Công phu chầy tháng mới quay đầu
Tâm loạn lần hồi chịu thuận nhu)
Còn về thứ lớp thì bộ tranh Đại
Thưa nào cũng mở đầu bằng bức học vị mục (chưa chăn) vẽ con trâu
hoang và khép lại: bức họa song dẫn, vẽ một vòng tròn tượng trưng
cho Viên Giác. “Song dẫn” là dứt được hết là cả hai: trâu và mục đồng,
tâm và cảnh, dứt được hết là hiển hiện ánh Chơn Như lung linh trong màu
cỏ nội hoa ngàn:
Nhơn ngưu bật kiến yểu vô tung
Minh nguyệt quang hàn vạn tượng
không
Nhược vấn kỳ trung đoan đích ý
Dã hoa phương thảo tự tùng tùng
nghĩa :
Người trâu chẵng thấy biệt mù tăm
Trăng sáng soi trùm muôn tượng
không
Ví hỏi vì sao đoan đích ấy
Um tùm cỏ nội với hoa đồng
Chúng ta có thể thưởng thức vài bộ
tranh chăn trâu loại Đại Thừa này trong cuốn Judo lnternational của Liên
đoàn Nhu Đạo Pháp quốc, do Jagarin sao lục lại và có dịch luôn cả bài
tụng và chú; trong Phật Học Tinh Hoa của giáo sư Nguyên Duy Cẩn (phần
phụ lục) trong pho sách cổ “Mục ngưu đồ” bằng chữ Hán tại thư viện chùa
Xá Lợi; trong tập “Học làm Phật” của thầy Trương Lạc (chùa Linh Chưởng
ấn hành, 1964), trong ấy có đủ mười bài thơ chăn trâu Đại Thừa, vừa
nguyên tác vừa bản dịch của Tuệ Nhuận.
II. NỘI DUNG
Đề tài chung của các loại tranh
chăn trâu là đường lối tu tập. Đường lối tuy nhiều, song không ngoài
việc bắt tâm. Nên tập mục ngưu đồ có thể coi như là lời giải đáp cho câu
hỏi trong kinh Kim Cương:
“Vân hà hàng phục kỳ tâm?”
(làm sao làm chủ được cái tâm?)
Tâm ở đây là con trâu. Vì có trâu
nên có mục đồng. Vì có tâm nên có cảnh. Tất cả cố gắng của Đại thừa đều
nhằm vào sự “cột” trâu, tức là “điều tâm” vậy. Tâm là con trâu hoang.
Muốn trị nó phải dùng những biện pháp mạnh, như đánh bằng roi, xỏ mũi
bằng giây lòi tói v.v... cũng vậy, muốn trị tâm, cần quy y, giữ giới
cấm, phát tâm bồ đề v.v.... Lâu ngày chầy tháng, trâu trở nên thuần
thục, tâm trở nên điều hòa. Đó là bước đầu, diễn tả bằng năm bức họa
đầu: “vị mục, sơ điêu, thọ chế , hồi thủ và tuần phục”. Đó là giai đoạn
của GIỚI vậy, mở đường cho ĐỊNH phát sanh trong giai đoạn kế.
Trong giai đoạn này, tâm đã tuần
phục, khỏi phải chăn giữ. Tâm đã định, không gặp gì chướng ngại.
Tâm định là ngã chấp hết, song vẫn
còn pháp chấp.
Đó là bước tu chứng của hàng tiểu
Thừa (thanh văn và duyên giác) diễn đạt bằng hai bức họa “vô ngại” và
“nhiệm vận”.
Cần đi thêm bức nữa. khai thác HUỆ
giác đến chỗ TÂM vô TÂM:
“Nhơn vô tâm, ngưu diệc vô tâm”.
Đến đây mới phá được pháp chấp:
pháp cũng không, mà ngã cũng không, trâu cũng mất mà người cũng mất,
cảnh cũng quên mà tâm cũng quên. Trước hết trâu mất còn người. Rồi người
cũng mất luôn. Đó là cảnh giới của Bồ tát: diễn tả bằng hai bức họa
“tương vong” và “độc chiếu”.
“Tâm cảnh song vong nãi thị chơn
pháp”
Từ đó, đi thêm bước nữa vào cảnh
giới Như Lai, không nói được nên lời, mà chỉ có thể hình dung bằng một
vòng tròn: Viên Giác. Đó là ý nghĩa của bức tranh chót (song dẫn) khép
lại quá trình tu chứng theo TIỆM GIÁO, đi từ giới đến định và huệ, từ
thanh văn, duyên giác đến bồ tát, Phật, từ hữu tâm đến tâm và vô tâm, từ
chỗ tất cả đều có đến nhân pháp đều không .v.v... Đó là vô dư Niết
Bàn.
Tóm lại, “Thập mục ngưu đồ” vẽ lại
quá trình công phu của người học đạo, trước hết tự thắng bản năng mình,
sau đến tự tri, cuối cùng chi để tự tại thôi (être simplement).
Cái vòng tròn cuối cùng (tranh 10 :
song dẫn) tượng trưng sự đoạn tuyệt với tất cả những nếp suy tư của
chúng ta, cắt đứt một trạng thái ý thức và hiện hữu mà thường chúng ta
không được biết”.
(J.L.Jagarin : Le Judo
Internationnal)
B. TRANH THIỀN TÔNG
I .TRANH
Tranh Thiền Tông có loại vẽ con
trâu đen, có loại vẽ con tràu trắng. Trâu trắng là ý nói “bạch ngưu xa”,
xe trâu trắng, tức là Phật thừa. Đạo Phật có ba thừa - ba cổ xe - là xe
dê, xe nai va xe trâu (thường) chở các hàng thanh văn, duyên giác và bồ
tát ra khỏi nhà lửa mà thành đạo. Tuy nhiên, ba thừa chỉ là phương tiện
giả lập lên, những hóa thành, những pháp môn tiếp dẫn dùng cho người kém
khí lực. Đối với hạng thượng căn chỉ một thừa thôi - Phật thừa - trực
tiếp đưa người vào cảnh giới Phật thừa là “bạch ngưu xa”. Bạch ngưu xa,
chính là cái tâm đại giác viên mãn của Phật Thiền Tông chủ trượng trực
tiếp thành Phật là vậy.
Tuy nhiên, lý thuyết là lý thuyết,
loại tranh vẽ trâu trắng vẫn hiếm hoi, ít được thưởng thức bằng loại
tranh vẽ trâu đen, rắn rỏi, mộc mạc, gần cuộc sống hơn.
Dầu trắng hay đen, con trâu Thiền
đều giữ nguyên vẹn một màu lông qua các giai đoạn biến chuyển. Đó là
phép tu ĐỐN. Đốn giáo dạy rằng người ta thành Phật là thành ở nội tâm,
“hoát nhiên” mà thành, không phải thành lần hồi, theo cấp bực; xưa nay
chưa hề có Phật cấp bực bao giờ[1]nên
người ta hoặc là Phật, hoặc không là Phật, chớ không thể suýt thành
Phật, Phật chút chút, lai rai được.
Còn về thứ lời thì tranh Thiền Tông
nào cũng mở đầu bằng bức họa tầm ngưu vẽ một chú mục đồng đi tìm
trâu (trâu không có trong hình) là khép lại bằng bức họa nhập
triền thùy thủ (buông tay vào chợ) vẽ một nhà sư trộn lẫn cùng thế
tục.
Riềng về cái vòng tròn Viên Giác
nằm ở bức họa thứ 10 của Đại Thừa, qua bên thiền Tông lại thụt lùi về
hàng thứ 8, mà đề là nhơn ngưu câu vong, nghĩa là trâu và người
đều quên. Bảng đối chiếu sau đây cho ta thấy sự sai khác nhau giữa hai loại tranh, về hình thức
cũng như về nội dung :
TRANH ĐẠI THỪA
-
Vị mục: chưa chăn
-
Sơ điều: mới chăn
-
Thọ chế: chịu phép
-
Hồi thủ: quay đầu
-
Tuần phục: vâng chịu
-
Vô ngại: không ngại
-
Nhiệm vận: tha hồ
-
Tương vong: cùng
quên
-
Độc chiếu: soi riêng
-
Song dẫn: dứt cả
hai (vẽ vòng tròn)
|
TRANH THIỀN TÔNG
-
Tầm ngưu: tìm trâu
-
Kiến tích: thấy dấu,
kiến
-
Kiến ngưu: thấy trâu
-
Đắc ngưu: được trâu
-
Mục ngưu: chăn trâu
-
Kỵ ngưu quy gia: cởi
trâu về nhà
-
Vong ngưu tồn nhơn:
quên trâu còn người
-
Nhơn ngưu câu vong:
người trâu đều quên (vẽ vòng tròn)
-
Phản bổn hoàn nguyên:
trở về nguồn cội
-
Nhập triền thùy thủ:
thỏng tay vào chợ
|
Chúng ta có thể thưởng thức loại
tranh này tại trụ sở Tam Tông Miếu, đường Cao Thắng, Sài gòn, tranh vẽ
lớn trên tường bằng sơn dầu, tại chánh điện; tuy nét bút thiếu cổ kính,
tranh cũng phản ánh phần nào cái thiền phong ngày trước.
Ngoài ra, chúng ta có thể tìm xem
nhiều loạt khác trong các tác phẩm sau đây của hội Phật học Luân Đôn do
giáo sư Thiền học Suzuki biên soạn :
- The Ten Oxherding Pictures,
- Manual of Zen Buddhism,
- Essays in Zen Buddhism, First
Series.
Còn một loạt tranh khác, rất cổ
kính, in bằng một bản, do Paul Reps sưu tập trong tác phẩm Zennesh Zen
bones (Thiền cốt Thiền nhục), xuất bản tại Nhật (Ed. Charles E. Tuttle
co – Rutland Vermont – Tokyo Japan - 1957). Chính từ tác phẩm này chúng
tôi trích in lại mười bức họa sau đây
II. NỘI DUNG
Cũng như ở hầu hết các pháp môn
khác, vấn đề đặt ra cho Thiên vẫn là sự “hàng phục kỳ tâm”. Tâm của Đại
Thừa là ngã tướng. Đến Thiền thì cái ngã được thâu hẹp thành cái niệm.
“Tôi tư duy, tức có tôi”. Niệm là ý nghĩ, tư duy, là intellect, được coi
là phần tử cốt cán của cái “tôi”. Nên Thiền dạy vô niệm, dạy cắt đứt suy
tư, bất cứ suy tư gì.
Vô niệm: niệm tức chánh
Hữu niệm: niệm thành tà
(Pháp bữu đàn kinh)
Do đó Thiền kỵ lý luận, không giảng
dạy, thường chỉ ngậm miệng quên lời, thảng có nói thì thường chỉ nói
bằng lối phi lý luận. Trong quá trình phân phái của đạo Phật, Thiền quả
là nhát búa cuối cùng của Đại Thừa đập vào óc thông minh mà loài người
chúng ta hằng tự phụ.
Trong hệ thống các pháp môn, Thiền
là đốn giáo, chủ trương thấy được tánh là tức khắc thành Phật, tại đây
và ngay ở phút giây này.
Tuy nhiên, pháp môn nào cũng có tu
và có chứng. Chứng là một biến cố đột ngột, ngoài thời gian. Đó là một
sự thật quá ư thật, như tiểu sử nhiều thiền tổ đã chứng rõ. Tuy nhiên,
cũng cần những tiểu sử ấy còn cho ta thấy trước khi được đốn ngộ, hầu
hết các tổ, và trước hết là Phật Tổ, đều trải qua nhiều đoạn đường dọ
dẫm rất gay go. Như vậy là sự tu tập vẫn phải đặt trong chiều thời gian
mà đi đến lần hồi vậy, hay nói một cách khác: tu thì tiệm mà
chứng thì đốn.
THẬP MỤC NGƯU ĐỒ của Thiền tông
cũng ghi lại bước tiến từng bực ấy trong thời gian và không gian.
Chúng tôi xin trình bày bước tiến
ấy theo ba đoạn đường: sai tâm bắt tâm - tâm vô tâm - bình thường tâm.
1. SAI TÂM BẮT TÂM
Chú mục đồng đi tìm trâu (tranh 1
). Tìm ở đâu ? Đâu cũng là hoang vu, là rừng rậm, là nẻo dọc đường
ngang, chỉ có tiếng ve kêu rộn rã đầu cành.
Rồi chú thấy dấu chân trâu (tranh
2), thấy thân trâu (tranh 3). Thì ra trâu có trốn đâu, tại chú không
thấy đó thôi. Trâu vẫn đứng đó một mình, tự thuở nào, đôi sừng lẫm liệt,
mũi đụng mây xanh.
Rồi chú chụp lấy trâu (tranh 4),
rồi xỏ mũi, cột cổ, đập đánh, canh chừng không rời mắt, quyết dõng mãnh
để mà chiến thắng. Lần lần trâu thuần tánh ngoan ngoãn theo chú như bóng
theo hình (tranh 5). Rồi chú cưỡi trâu về nhà, miệng thổi sáo, hát líu
lo, lòng vui không nói được (tranh 6: kỵ ngưu quy gia).
Cưỡi trâu về nhà là cưỡi tâm về chỗ
ban sơ.
Người ta đi tìm tâm vì trong đôi
giây phút khác thường nào đó, người ta đâm ngờ bản thân mình, cũng như
ngờ những điều mắt thấy tai nghe. Có nghi mới có tìm. Có tìm ắt gặp dấu.
Gặp dấu trong kinh sách, và nhất là trong những phút trống trải, cảnh
vắng, đêm tàn, tri óc nhẹ suy tư, con người bỗng dưng như đối diện với
chính mình trong một niềm đau thương và kỳ thú khó nói.
Thế là bắt được dấu, con người
phăng mối đi tình tâm.
Đó là giai đoạn cầu. Ngoại cầu là
“khiến Phật đi tìm Phật, tâm đi bắt tâm” (Hy Vận). Tâm ở đâu mà bắt ?
Thử coi: lần lượt qua sáu bức họa, ta thấy khoảng cách giữa trâu và
người chăn trâu cứ thâu ngắn lại mãi cho đến rốt cuộc người chăn trâu
ngồi hẳn trên lưng trâu, trâu với người nhập làm một. Vậy nên hỏi rằng
tâm ở đâu chẳng khác nào hỏi trâu ở đâu trong khi chính ta đang cưỡi
trên lưng trâu. Ta đã đuổi bắt tâm khắp đó đây, rốt cuộc mới nhật ra
rằng târn ở nơi ta; ta chỉ cần dừng bước lại là nó hiện liền trước mắt,
và sự vật hiện nguyên hình trong ánh sáng mới lạ.
Dừng bước lại: ai ngờ đâu cái việc
làm hết sức là vô vi ấy lại có một thần lực nhiệm màu có thể thay đổi cả
cục diện của một kiếp người, cả một lớp người. Nếu thỉnh thoảng loài
người chúng ta biết dừng chân lại vài phút, ngồi im một chỗ vài phút -
vài phút thôi - thì khuôn mặt của thế gian này chắc không đến đỗi quá
nhăn nhíu như ngày nay.
2. TÂM VÔ TÂM
Tuy nhiên, còn tâm là còn cảnh. Còn
cảnh thì còn “xúc cảnh sanh tình”. “Tình sanh thì trí cách”. Tâm, cảnh,
tình kết dính vào nhau trong cái thế liên hoàn, cái vòng nhơn duyên gây
ray rứt, mâu thuẫn.
Đạo không mâu thuẫn. Thiền là “bất
nhị pháp môn”, không hai mà cũng không một
Mâu thuẫn là do tâm, do niệm.
Ta niệm vì ta tưởng rằng mình thiếu
một cái gì, nên đi tìm ở ngoài mình để đắp vào. Thiền dạy rằng ta không
thiếu gì hết tự đời thuở nào ta vốn là tròn đầy, ngàn trước, ngàn sau.
Ta không thiếu. Trái lại ta có dư: cái hại là ở đó. Ta dư đủ thứ do niệm
bày ra, do suy tư vẽ vời thêm, đủ thứ. Những cái dư ấy, gọi chúng là vô
minh. Vô minh vốn không thật, nên không ai hoài công mà trừ nó bao giờ,
mà chỉ cần tự tri tự giác thôi. Tự biết được “con ngươi thật”của mình
thì vô minh tan mất, như bóng tối tan trước vừng dương. Phật dạy trong
kinh Viên Giác:
tri huyễn tức ly
ly huyễn tức giác
là vậy
Cũng vậy, khi sư Huệ Khả ra mắt tổ
Đạt Ma xin pháp an tâm? Tổ dạy: Ngươi đem “tâm” lại đây ta “an” cho. Sư
lýnh quýnh hồi lâu, sau đành thú thiệt: Con tìm mãi mà không thấy được
tâm. Tổ dạy: Thầy đã “an” rồi cái “tâm” của con đó.
Như vậy, cái việc mà ta quen gọi là
phá vọng không còn là một việc làm nữa - nếu không nói là một việc làm
VÔ VI - mà xét cùng ra chỉ là một sự nhận thức thôi, một prise de
conscience - nhận thực tánh Phật bổn lai ở trong ta.
Vậy sau giai đoạn ngoại cầu, tiếp
theo là giai đoạn tự tri giác. Tự tri không phải bằng suy niệm mà bằng
dứt niệm; dứt niệm bằng những phép tu tập rất vô vi, như tịnh quán chẳng
hạn. Bằng tịnh quán, con người thấy, - xin nói rõ là thấy,
là kiến, là tri kiến, chớ không phải là học, là nghĩ, hay nghe nói. (tất
cả bí quyết của sự chứng ngộ đều nằm ở chữ thấy đó) - thấy
tâm không thật, thấy người không thật.
Thấy tâm không thật thì tâm dứt:
trâu quên (tranh 7: vong ngưu tồn nhơn)
Thấy người không thật thì ngươi
quên nốt (tranh 8: nhơn ngưu cứu vong).
Người và trâu đều quên, thì tự lòng
đất dõng mãnh vọt lên mặt trời huệ: tượng trưng bằng cái vòng tròn Viên
Giác (tranh 8). Đó là Tâm vô Tâm. “Biết cái tâm là không tâm, ấy là hiểu
suốt đạo Phật”.
Sau đây, chúng tôi xin mượn lời
giáo sư Thiền học Suzuki đóng lại đoạn này :
“Đứng về mặt tâm lý, giác là vuợt
ra ngoài vòng ràng buộc của bản ngã”.
“Về mặt lý luận, giác là viên dung
có và không”
"Về mặt siêu hình, giác là trực ngộ
được cái lẽ tự tại là luân hồi, luân hồi là tự tại” .
3. BÌNH THƯỜNG TÂM
Thiền cho rằng vô tâm chưa phải là
đạo, mà còn phải qua một quan ải nữa:
Mạc vị vô tâm vân thị đạo
Vô tâm do cách nhứt trùng quan.
(Trần Thái Tôn)
Thật vậy, trong đêm cuối cùng khi
đức Phật ngồi ở cội bồ đề, Ngài lần lượt xuất và nhập ba từng cảnh giới
tâm linh (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) tức là ngài còn phải thức
tỉnh dậy nữa, nhờ ánh sao mai, để mà trở về với ý thức bình thường. Từ
trạng thái “nhơn cảnh câu bất đoạt”, Ngài phải trở về trạng thái “nhơn
cảnh cân bất đoạt”[2]để
trả lại tất cả cho cuộc sống thường nhiên.
Trở về là trở về với trời đất, với
muôn sinh, với nguồn sống vô tận ở trong ta và ở ngoài ta, trở về để như
mọi người, “thấy núi chỉ là núi, thấy nước chỉ là nước”.
* Trở về với trời đất - Trở
về với trời đất với Pháp giới: đó là ý nghĩa của bức họa số 9, đề “Phản
bổn hoàn nguyên”, và vẽ cảnh lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
Từ thuở nào, con người vốn là thanh
tịnh, vốn là không, nên Thiền khỏi phải làm gì hết, chỉ cần thấy tánh là
được trở về để mà nhập cuộc.
Nhập cuộc là nhập vào cái trật tự
tự nhiên không thỉ không chung của trời đất.
Trong trật tự ấy, chúng sanh là một
pháp vô tâm nên vô sự. Viên sỏi bên đường là một pháp vô sự nên vô vi.
Muôn pháp đều vô vi mà bình đẳng nhau trong Pháp giới vô ngại: nước
chảy, hoa trôi, trăng lên, gió mát. Muôn vật đều vô ngại nên tự tại,
không phải tự tại ở Niết Bàn, không phải tự tại trong phiền não mà tự
tại trong KHÔNG: Niết Bàn và phiền não chỉ là trò ảo thuật của tâm.
Trong trạng thái KHÔNG ấy, những danh từ thánh phàm phải trái, tỉnh mê,
đều mất nghĩa: tất cả đều là đại đồng, ứng hóa từ một giác tánh, nên
Nhứt thiết không Niết Bàn
Không có Niết Bàn Phật
Không có Phật Niết Bàn
(Lăng già)
TẤT CẢ là MỘT. MỘT là TẤT CẢ.
Một hột bụi chứa đủ ba ngàn thế
giới. Ba ngàn thế giới là một hột bụi: đều là KHÔNG.
“Có thì có tự mảy may,
"Không thì cả thế gian này cũng
không.
“Nhìn xem bóng nguyệt giòng sông
"Ai hay không có có không là vầy.
( Huyền quang tôn giả )
Đó là cái thấy của hàng bồ tát
“quán tự tại”, nghĩa là quán đến chỗ cùng tột và tuyệt đối của sự vật.
*Trở về với thế tục
- Dưới lớp áo của thế tục, đạo sĩ trộn lẫn vào cát bụi của tình đời. Vả,
cát bụi không thấy là bợn dơ nữa, mà chỉ còn là một diệu dụng, như hằng
sa diệu dụng khác, của Giác Tánh Bồ Đề. Đạo sĩ không phải là Phật, là
Bồ Tát, mà chỉ là một người thường, rất thường, một người vô tâm vô sự,
vô tích sự, một người không là gì hết, một “vô vị chơn nhơn”
“vào rừng không khua lá
“vào nước không quậy sóng
(nhập lâm bất động thảo
nhập thủy bất lập ba )
Trở về với thế tục là trở về với
cái tâm bình thường. Thiền dạy: “Bình thường tâm thị đạo”.
Quốc sư Phù Vân đời nhà Trần
nói :
“Lấy cái muốn của thiên hạ làm cái
muốn của mình.
“Lấy cái tâm của thiên hạ làm cái
tâm của mình.
Cái muốn ấy chính là cái muốn mà
đức Khổng Tử phải chờ đến bảy mươi tuổi mới dám muốn, sau khi chứng lý
vô ngã” :
“Thất thập tòng tâm chi sở dục”.
Chứng được đạo lý ấy thì là gì cũng
hiệp đạo, “không theo không lìa, không dừng không dính, tung hoành tự
tại, đâu cũng là đạo tràng” pháp nào cũng là Phật pháp, đi đứng nằm ngồi
cũng là Phật pháp, chém rắn giết mèo cũng là Phật pháp, đói ăn khát uống
cũng là Phật pháp.
Cho nên Tổ Huệ Trung Trần Quốc Tảng
mới ung dung ngồi ăn thịt cá, khiến bà em là hoàng hậu Khâm Tư lấy làm
lạ hỏi :
- Anh đi tu mà lại ăn cá thịt sao
thành Phật được?
Ngài cười đáp :
Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng
cần làm ra Phật, cũng như Phật chăng cần làm ra anh. Hoàng hậu chẳng
nghe Cổ Đức nói: “Văn Thù là Văn Thù, mà giải thoát là giải thoát” đó ư?
Cho nên vị sư trong THẬP MỤC NGƯU
ĐỒ thỏng tay đi vào chợ, tay ôm bầu nước, tay chống gậy tre, đánh bạn
với bợm nhậu và phường thọc huyết heo – “tụi nó và thầy đều là Phật cả
mà” (tranh 10). Đó là vô trụ Niết Bàn.
KẾT LUẬN
Để gom hết yếu lý chung của mười
bức tranh chăn trâu, chúng tôi xin chép lại bài kệ sau đây thay lời kết
luận :
Tầm ngưu tu phóng tích
Học đạo quý vô tâm
Tích tại, ngưu hoàn tại
Vô tâm đạo dị tầm
Nghĩa:
Tìm trâu cần phăng dấu
Học đạo cốt vô tâm
Dấu đâu thì trâu đó
Vô tâm đạo dễ tầm
(Chân thành cảm ơn Thiền Viện Viên Chiếu
cung cấp 10 bức tranh này)
[1]
Bổn lai vô thứ đệ Phật. (Hy Vận)
[2]
Cảnh và người đều giữ nguyên. Chữ của Thiền Lâm Tế trong pháp
“tứ liệu giản”
----o0o---