- Dĩ tâm ấn tâm hay dĩ tâm truyền tâm. Ðem tâm truyền đạt
tâm
- Khai thị ngộ nhập Phật tri kiến. Mở bày ngộ tri kiến Phật
_Ðạt Phật thâm lý, ngộ vô vi pháp.
Ðạt lý mầu Phật dạy, mới ngộ pháp vô vi.
_Nhứt thiết pháp giai thị Phật pháp. Hết thảy các pháp đều là Phật pháp.
_Bất sanh bất diệt.
Không sanh không
diệt
_Phàm hữu ngôn thuyết, đô vô thật nghĩa.
Phàm hễ nói bàn, đều không thật nghĩa
_Trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành
Phật. Chỉ thẳng tâm người, thấy tánh
thành Phật.
_Minh tâm kiến tánh. Thấy tâm tỏ tánh
_Ðộng tịnh nhị tướng, liễu nhiên bất sanh.
Hai tướng động
tĩnh hoàn toàn chẳng sanh
-Vô
sở tùng lai, diệc vô sở khứ.
Không từ đâu đến,
cũng không đi dâu
_Nội vô sở đắc, ngoại vô sở cầu. Trong không sở đắc, ngoài không chỗ
cầu
-Tức
tâm đạt bổn, vi Bồ Ðề đạo.
Dứt tâm đạt bổn là
đạo Bồ Ðề
_Nhứt tâm bất loạn.
Nhứt tâm chẳng loạn
_Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.
Nên vô sở trụ mà sanh tâm ấy
_Chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện.
Chế tâm một chỗ, không việc gì chẳng xong
Dĩ tâm ấn tâm hay dĩ tâm truyền tâm.
Ðem tâm truyền đạt
tâm
Ðây là câu thiền ngữ có từ thời đức Phật Thích Ca còn tại thế. Giữa hội
chúng với đủ mọi thành phần, Phật thuyết pháp tại hội Linh Sơn (núi
Linh) tức là núi Linh Thứu và là đạo tràng Ngài lưu lại lâu nhất.
Một hôm giữa đại chúng nghe Pháp, Phật cầm cành hoa sen giơ lên xem có
ai hiểu ý chỉ là gì. Tất cả thính chúng đều ngơ ngác lặng thinh không ai
nói năng gì cả. Trong giây lát, ngài Ma Ha Ca Diếp chợt mỉm cười, vì ngộ
được tâm ý Phật muốn nhắm tới, được Phật truyền trao tâm ấn kế truyền
ngôi pháp, làm sơ tổ Thiền tông kế thừa pháp mạch qua bài kệ sau:
"Ngô hữu chánh pháp
nhãn tạng
Niết Bàn diệu tâm,
Thật tướng vô tướng
Pháp môn vi diệu,
Bất lập văn tự,
Giáo ngoại biệt truyền,
Trực chỉ nhơn tâm,
Kiến tánh thành Phật,
Kim phó chúc ư nhữ..."
(Ta có chánh pháp nhãn tạng
Niết bàn diệu tâm
Thật tướng vô tướng
Là pháp vi diệu
Chẳng lập văn tự
Truyền dạy riêng biệt,
Chỉ thẳng tâm người,
Thấy tánh thành Phật
Nay phó chúc cho ngươi...)
Cứ theo hệ phó pháp truyền tâm ấn ấy, tổ Ca Diếp truyền pháp xuống tổ
thứ hai là Anan, tổ Anan truyền xuống tổ thứ ba là Thương Na Hòa Tu, và
liên tục truyền xuống tới đời tổ thứ 27 là Bát Nhã Ða La và tổ thứ 28 là
Bồ Ðề Ðạt Ma. Bồ Ðề Ðạt Ma là tổ cuối cùng của Thiền Tông Aán Ðộ và là
sơ tổ Thiền tông Trung Hoa.
Dấu ấn đem tâm truyền tâm có một lịch sử
lâu dài thuộc hệ truyền thừa Thiền Tông Phật Giáo. Sơ tổ Ðạt Ma truyền
xuống 5 đời tới lục tổ Huệ Năng (638-713) là chấm dứt không truyền y bát
nữa. Từ đó đến nay hơn 1400 năm chỉ truyền pháp thôi để tránh tranh chấp
không cần thiết giữa Thầy trò và trong hàng môn đệ.
Khai thị ngộ nhập Phật tri kiến
Mở bày ngộ tri kiến Phật
Câu lấy trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện thứ hai, đoạn nói về chư
Phật do một đại sự nhân duyên mà hiện ra nơi đời. Ðó là chư Phật Thế Tôn
vì muốn cho chúng sanh khai tri kiến Phật thanh tịnh mà hiện ra nơi đời,
vì muốn chỉ tri kiến Phật cho chúng sanh mà hiện ra nơi đời, vì muốn cho
chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời, vì muốn cho chúng
sanh chứng vào đạo tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời. Nói ngắn gọn là chỉ
bày cho chúng sanh biết làm thế nào để giác ngộ Phật tánh nơi tâm mình.
Có bốn tiến trình mà hành giả phải trải qua để ngộ được tri kiến Phật,
theo kinh Pháp Hoa chỉ bày:
1)
Tâm thanh tịnh
mới ngộ được tri kiến Phật
2)
Vì muốn chỉ rõ
tri kiến Phật cho chúng sanh
3)
Muốn chúng sanh
tỏ ngộ tri kiến Phật
4)
Chứng vào tri
kiến Phật là đạt đến cứu cánh giải thoát.
Câu trên nói đủ là: "Khai thị chúng sanh
ngộ nhập Phật tri kiến"; còn nói tắt là: Khai – thị – ngộ – nhập (Mở –
bày – ngộ (giác) – thâm nhập) ứng hợp qua bốn tiến trình nói trên để trở
thành một vị Phật. Có 4 duyên do Phật xuất thế theo như "Pháp Hoa Kinh
luận" quyển hạ như sau:
1/ Vì Như Lai đầy đủ nhứt thiết trí, có
thể hiểu tới nơi, tới chốn, thâm nghĩa của vạn pháp và muốn lấy tri kiến
của mình khai ngộ chúng sanh, để họ tự mình liễu tri thâm nghĩa của các
pháp, nên xuất hiện ở thế gian.
2/ Nhị thừa và pháp thân Phật bình đẳng
không sai biệt. Như Lai vì muốn thị hiện ý nghĩa đó nên mới xuất hiện ở
thế gian.
3/ Các quan điểm Nhị thừa không thể liễu
ngộ chân thật xứ của nhất Phật thừa. Như Lai vì muốn họ ngộ tri nên mới
xuất hiện ở thế gian.
4/ Vì muốn Nhị thừa chứng nhập bất thoái
chuyển địa, hầu đắc vô lượng trí nghiệp mà Như Lai xuất hiện ở thế gian.
Ý chỉ mục đích duy nhất mà đức Phật xuất
hiện ở thế gian là để khai tỏ chân thật tướng của chúng sanh, và đó là
một đại sự nhân duyên.
Ðạt Phật thâm lý, ngộ vô vi pháp
Ðạt lý mầu Phật dạy, mới ngộ pháp vô vi.
Ðiều
kiện ắt có của hành giả là phải thấu rõ, thông đạt được Phật lý, tức lý
vi diệu nhiệm mầu của vạn pháp.
Ðể
thỏa mãn được điều ấy cần đòi hỏi học nhân phải dày công phu tu tập, cần
khổ luyện tập trải qua nhiều năm tháng, không phải chỉ một sớm một chiều
mà được, như đức Phật Thích Ca Mâu Ni tu hành trải qua ba a tăng kiếp
mới chứng được pháp thậm thâm vi diệu. Pháp ấy chỉ ai tu nấy chứng, cũng
như ai ăn nấy no mà không thể no thế người khác được. Pháp có hai phạm
trù là pháp hữu vi và pháp vô vi. Pháp hữu vi là pháp còn bị phiền não
dục nhiễm chi phối, cũng tức là pháp thế gian. Pháp vô vi là pháp giải
thoát an lạc hoàn toàn hay cũng còn gọi pháp xuất thế gian. Pháp xuất
thế gian cho người tu chứng đạt ngộ, với tâm thanh tịnh trong thiền quán
mà được. Ðạt đến đó gọi là pháp vô vi. Ðạt pháp vô vi là thấu suốt nguồn
chơn tâm, rõ bản tánh thanh tịnh của vạn sự vạn vật, cũng chính là bản
lai diện mục là thức tâm đạt bổn. Người tu hành đạt đến chỗ rốt ráo tột
cùng là thấu triệt đạo lý thâm huyền Phật dạy. Ðó chính là pháp vô vi mà
khi xưa tổ Ca Diếp phó chúc cho đệ nhị Tổ A Nan qua bài kệ như vầy:
Pháp
pháp bổn lai pháp
Vô
pháp vô phi pháp
Hà ư
nhứt pháp trung
Hữu
pháp hữu bất pháp
(Pháp
ấy là pháp bản lai
Nói không pháp, không phải pháp hẳn sai
Tại sao một pháp phân hai
Là
pháp là chẳng pháp mắc quai đó rồi)
Nhứt thiết pháp giai thị Phật pháp
Hết thảy các pháp đều là Phật pháp.
Câu
thiền ngữ có thể gây hiểu lầm cho một số người. Lý luận rằng: tại sao
hết thảy vạn pháp đều là Phật Pháp? Có phải Phật giáo muốn chủ trương
độc thần chăng?
Phật
pháp nằm trong vạn pháp. Phật pháp là lời của đức Phật tuyên thuyết, bao
gồm tất cả các giáo nghĩa cùng với chân lý của Phật giáo mà các giáo
nghĩa biểu đạt.
Nói
cách khác, pháp mà đức Phật sở đắc tức là đạo lý duyên khởi, cùng chân
lý của tất cả pháp giới. Pháp mà đức Phật sở tri tức tất cả mọi pháp,
cho đến hết thảy mọi công đức mà Phật đầy đủ đều gọi là Phật Pháp. Nói
rộng hơn, Phật Pháp là một từ ngữ bao hàm nghĩa thật bao la, xuyên suốt,
trải khắp trên vạn pháp, bao trùm thiện nghĩa vi diệu của hết thảy thế
gian, cũng như mọi sự lý chân thật, chính xác khác.
Phật
pháp là vô thượng thậm thâm, bao la vi diệu như thế, nên nói hết thảy
các pháp đều là Phật Pháp, như bài kệ khai mở kinh:
Vô
thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bách
thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã
kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện
giải Như Lai chơn thật nghĩa
(
Vòi vọi cao siêu pháp thẩm sâu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con
nay nghe thấy xin trì tụng
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu).
Bất sanh bất diệt
Không sanh không
diệt
Câu này nói đủ như sau:
Thị
chư pháp không tướng
Bất
sanh bất diệt
Bất
cấu bất tịnh
Bất
tăng bất giảm
trích trong bài Kinh Bát
Nhã:
Hết
thảy các pháp không tướng trạng
Không
sanh cũng không diệt
Không
dơ cũng không sạch
Không
tăng và không giảm...
Các
pháp nói chung hễ có sanh ắt hẳn có diệt. Pháp sanh diệt là pháp thế
gian hay hữu vi pháp. Còn pháp không sanh không diệt là pháp vô vi tức
pháp xuất thế gian. Pháp vô vi xuất thế gian đâu còn đối đãi dơ với sạch,
tăng và giảm nữa. Pháp còn đối đãi là còn hệ lụy, trầm luân, trôi lăn
trong vòng sắc tướng, tức là còn trong sanh tử luân hồi.
Muốn
đạt đến vô sanh, cũng tức là thể nghiệm pháp không sanh không diệt,
không dơ không sạch, không tăng không giảm, cho chí không sắc, thọ,
tưởng, hành, thức (năm uẩn). Không có nhãn giới cho chí không có ý thức
giới, không vô minh cho đến hết vô minh, khổ, tập, diệt, đạo cả trí đắc
cũng không. Soi kỹ nơi tánh không, chẳng thấy pháp nào hết. Ðó mới chính
là:
Ðạt
đến cứu cánh Niết Bàn tịch tĩnh hoàn toàn không còn hệ phược trong vòng
sắc tướng nữa.
Phàm hữu ngôn thuyết, đô vô thật nghĩa
Phàm hễ nói bàn, đều không thật nghĩa
Ở đời,
việc gì chúng ta càng bàn luận lý giải còn đi xa rời thực tế. Cũng như
có hai người tranh luận chắc chắn không đi tới đâu mà có thể đưa tới chỗ
xung đột nhau. Ðó là hệ luận muôn đời của con người trên thế gian, nên
chư Phật lưu ý ta rằng tám nạn dữ ở đời thì tài biện bác giỏi là một
trong số đó.
Trong
pháp tứ y (bốn việc y cứ) Phật dạy: y pháp bất y nhơn, y nghĩa bất y ngữ.
Ðây là pháp y cứ thứ hai, y nghĩa bất y ngữ để không rơi vào chỗ thế trí
biện thông, tức là dùng tài biện bác suông mà không chịu bắt tay thực
hành cũng chỉ vô ích mà thôi. Ðây cũng là một căn bịnh, căn bịnh khá
trầm kha mà không thuốc nào chữa khỏi cả. Ðã có lắm người trí thức,
nhưng chỉ trí thức bàn giấy, còn đi vào thực tế của đời sống tâm linh
cũng không khác anh học trò mới học A,B,C. Cho nên câu “năng thuyết bất
năng hành” của ta có thể ứng dụng trong trường hợp này cũng không xa mấy.
Thật vậy, người ưa ngôn thuyết (nói bàn suông) là người không bao giờ
chịu bắt tay vào việc làm cụ thể, tức là không thực tế mà không thực tế
là vô nghĩa hay cũng chính không thật nghĩa theo cái nhìn phổ thông của
nhiều người.
Ðiều
nhắc nhở ta rút tỉa bài học như sau:
Tu hành
quí ở chỗ thực hành chứ không chỉ nói bàn suông, vì càng nói bàn là
càng sai lầm và đi tới chỗ cục bộ, cố chấp không phương giải thoát được.
Vì đó chính là căn bịnh hay nói nôm na là căn bịnh trí thức. Những người
trí nên suy nghĩ kỹ để tránh sai lầm mà đáng ra không mắc phải mới xứng
danh kẻ sĩ qua không gian và thời gian làm biểu tượng cho đời.
Trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành
Phật
Chỉ thẳng tâm người, thấy tánh
thành Phật.
Ðây chỉ
hai câu trong bài kệ truyền pháp ấn thiền của Phật Thích Ca cho đệ nhất
Tổ Ca Diếp như thế này:
...
Pháp môn vi diệu
Bất lập
văn tự
Giáo
ngoại biệt truyền
Trực
chỉ nhơn tâm
Kiến
tánh thành Phật
(Pháp
môn (thiền) vi diệu
Không lập văn tự
Truyền ngoài lời dạy
Chỉ
thẳng tâm người
Thấy
tánh thành Phật)
Trực
chỉ tức chỉ thẳng vào, chỉ đúng ngay tim phoong phóc mà không quanh co
gì. Ðể làm được vai trò này, tác nhân phải thông đạt, nói theo thuật ngữ
Phật học là “cảm ứng” nhau giữa hai tâm hồn. Như người mẹ hiểu con và
con hiểu mẹ có mối cảm thông sâu xa. Vì thế, con khát sữa mẹ cương bầu
sữa và biết rằng nó đang cần bú, cho dù mẹ ở xa con đi nữa. Cũng như thế,
Phật biết rõ tâm địa của đệ tử mới truyền tâm pháp cho người hữu duyên,
thay Phật hoằng truyền pháp mạch lợi lạc hữu tình.
Như vậy,
phải hiểu nhau và biết ý của nhau mới trao truyền được mật pháp. Cách
thức này theo thiền gia gọi là:
“Chỉ
thẳng tâm người
Thấy
tánh thành Phật”
Minh tâm kiến tánh
Thấy tâm tỏ tánh
Mục
đích cuối cùng của người tu hành là đạt được minh tâm kiến tánh. Ðạt đến
chỗ thấy tâm rõ tánh là thành Phật hay giác ngộ không còn bị phiền não
nhiễm ô chi phối.
Tâm
sạch làu như nước lắng trong không còn một chút bụi bẩn bám vào, như
kiếng soi đã được lau chùi sạch bụi để lộ hiện mặt kiếng sáng tỏ không
vật gì không soi suốt. Thử so sánh hai bài kệ ngộ pháp của Ngài Thần Tú
và Ngài Huệ Năng (638-713) xem giá trị khác nhau thế nào. Cả hai đều nói
về tuệ giác nhưng trình độ thấu đạt không đồng như sau:
Thân
thị Bồ Ðề thọ
Tâm
như minh cảnh đài
Thời
thời thường phất thức
Vật sử
nhạ trần ai
(Thần Tú)
Thân là cây Bồ Ðề
Tâm
như đài gương sáng
Luôn luôn năng lau chùi
Làm
gì có bụi bám
Bồ đề bổn vô thọ
Minh cảnh diệc phi đài
Bổn lai vô nhứt vật
Hà xứ nhạ trần ai
(Huệ
Năng)
Bồ đề vốn thật
chẳng cây
Kiếng soi đâu dể
vật dầy đài gương
Xưa nay mọi vật
tỏ tường
Bụi trần há dễ
bám nương được nào!
(T.Bảo
Lạc dịch)
Hành giả
tu hành hạnh xả, không bám chặc vướng mắc là thấy bản tâm thanh tịnh như
mặt hồ lặng trong không một gợn lăn tăn làm khuấy động trên mặt nước.
Ðộng tịnh nhị tướng, liễu nhiên bất
sanh
Hai tướng động
tĩnh hoàn toàn chẳng sanh
Còn thấy
có tướng đối đãi là còn tiếp tục đi vào sai lầm tai hại, vì con mắt phàm
phu chưa liễu đạt được tất cả vạn pháp.
Trong
Duy Thức dẫn câu chuyện có anh chàng ban đêm tối trời ra sân thấy dây
thừng nằm cuộn tròn tưởng con rắn bỏ chạy. Cũng như vậy, người chưa tu
giống anh chàng kia nhìn vào các pháp có chỗ lầm lớn mà không tự hay biết.
Ðến khi nhận chân ra được thực tướng các pháp, nhờ công phu tu tập mới tỏ
ngộ việc thấy sai nhìn lầm của mình từ trước. Hầu hết ở đời chúng ta đều
mang cặp kính màu không nhìn rõ thực tại vạn sự vạn vật, nên nhiều lúc mắc
vào sai lầm trầm trọng. Kinh Pháp Hoa phẩm Phương tiện thứ hai có nêu rõ
10 Như Thị để quán chiếu sự vật như sau:
Tướng
như vậy, tánh như vậy
Thể như
vậy, lực như vậy
Tác như
vậy, nhơn như vậy
Duyên
như vậy, quả như vậy
Báo như
vậy, trước sau rốt ráo như vậy.
Các pháp
phải được nhìn dưới lăng kính 10 cái đúng Như Thị mà chỉ có Phật với Phật
mới có thể thấu tột tướng chơn thật của vạn sự vạn vật mà thôi. Khi đã
nhìn thấu thị mọi pháp như thế, hẳn không còn nhận giặc làm con nữa mà
biết phân biệt: chánh – tà, chân – ngụy, pháp – phi pháp v.v...
Do vậy,
không còn niệm phân biệt hai tướng động tịnh mà muôn pháp hoàn toàn chẳng
sanh, cũng chẳng diệt hiểu theo tinh thần kinh Bát Nhã.
Vô
sở tùng lai, diệc vô sở khứ
Không từ đâu đến,
cũng không đi dâu
Kinh
Kim Cang xác định rõ từ Như Lai cho ta hiểu như thế này:
Như Lai
giả, vô sở tùng lai
Diệc vô
sở khứ, cố danh Như Lai
(Như
Lai ấy, không từ đâu đến
Cũng
không đi đâu, nên gọi Như Lai).
Mọi sự
tới – lui, qua – lại, phải – trái... đều là tướng phàm phu, còn bị mắc kẹt
trong vòng sắc tướng, chưa thể thoát ra ngoài vòng đối đãi của nhị nguyên
được. Pháp còn trong vòng đối đãi là pháp chấp thế gian hay cũng gọi là
pháp nhiễm. Pháp lìa tướng siêu xuất thế gian hay còn gọi là pháp tịnh.
Phật – Như Lai – bậc đại giác tu hành trong vô lượng kiếp dày công khổ
luyện tinh cần thành tựu viên mãn. Nên chứng pháp nhãn tịnh. Pháp nhãn
tịnh chỉ có Phật có được còn hàng Bồ tát trở xuống chưa ai đạt được. Ðiều
ấy cũng có nghĩa là những ai chưa thành là bậc Như Lai hãy tinh tấn dũng
mãnh, hẳn một ngày không xa cũng sẽ đạt được quả vị Phật, như lời Phật
tuyên bố:
"Ta là
Phật đã thành
Chúng
sanh là Phật sẽ thành'
Lời
tuyên bố hết sức bình đẳng, dân chủ và tự do như thế chỉ có đức giáo chủ
của đạo Phật mới đủ tâm lượng từ bi bao dung như đại hải.
Vậy thì:
hãy sớm từ bỏ thế giới ảo vọng, lên đường học làm Phật, làm Như Lai để
theo dấu chân bậc Vô Thượng Giác Thế Tôn.
Nội vô sở đắc, ngoại vô sở cầu
Trong không sở đắc, ngoài không chỗ
cầu
Chúng
sanh tham vọng mong cầu trong sự chấp vướng về hình danh sắc tướng và muốn
thủ đắc hết mọi thứ, mới bị khổ lụy triền miên hết đời này qua kiếp khác,
khó mong thoát khỏi.
Chi
bằng theo đuổi con đường hành đạo: 'Trong không sở đắc, ngoài không chỗ
cầu" là trừ bỏ tham chấp, dứt hết khổ đau được an nhiên tự tại mà không
phải lo lắng bất an như bao nhiêu người khác. Ở đời, con người lòng tham
vô đáy, nhận mấy cũng chưa đầy, càng nhận vào càng thấy thiếu và chắc một
điều là không bao giờ mình thấy đủ cả. Kinh 42 chương, đức Phật dạy rằng:
"Người
không biết đủ, dù sống trên thiên đường cũng không vừa ý; còn người biết
đủ sống trên mặt đất cũng cảm nhận thấy có sự an lạc. Người học Phật không
nên phí sức tham cầu quá nhiều mà không dành thì giờ vào việc tu niệm là
uổng một đời lo "thả mồi bắt bóng" chứ thật sự không đạt được mục đích
mong muốn. Người nào có nhu cầu càng cao, lại càng muốn chiếm hữu thủ đắc
càng nhiều, không khỏi gây ra những phiền não khổ đau cho chính mình và
người thân thuộc ở hiện tại và tương lai.
Người
sống đời giản dị, ít nhu cầu lại biết tu tập thiện pháp, là người hạnh
phúc an lạc nhất trần gian.
Tức
tâm đạt bổn, vi Bồ Ðề đạo
Dứt tâm đạt bổn là
đạo Bồ Ðề
Dòng
tâm thức con người duyên theo nhiều ngã, nói chung theo hai chiều hướng:
hướng động tâm phan duyên theo cảnh trần và hướng tịnh trong trạng thái
tâm tĩnh thức và điều hướng theo chiều hướng thượng. Phần nhiều chúng ta
lao theo dòng tâm lý trước và để ngoại cảnh chi phối kéo lôi sai sử mà khi
đã lún sâu rồi không còn kịp sửa đổi được nữa.
Người
tu hành tập quán chiếu dứt tâm phan duyên, tức là trừ những tạp loạn lăn
xăn không cho dấy khởi, mới đạt được bổn tâm thanh tịnh xưa nay vốn sẵn
nơi mình. Dứt tâm tạp loạn là tánh giác hiển lộ, tức Bồ Ðề đạo phát sanh
mà không phải vất vả tìm cầu ở đâu xa nữa. Thế mà xưa nay chúng ta không
biết, cứ mãi dong ruỗi tìm kiếm bên ngoài nhọc xác, hoài công như gã cùng
tử mà kinh Pháp Hoa nêu làm thí dụ. Gã cứ rong chạy hết đầu làng này đến
xóm nọ lo tìm kiếm việc làm vì nhu cầu ăn mặc cho cuộc sống. Gã đâu có
biết nơi bâu áo có viên bảo châu mà không đem bán để tiêu xài, cứ phải vất
vả đi làm thuê mướn. Một hôm, ông trưởng giả thấy con làm việc vất vả mới
kêu lại nhận gã làm con. Mới đầu gã sợ bị bắt bớ tìm cách tháo chạy trốn
thoát, nhưng ông trưởng giả có thuật chiêu dụ khéo đã thuyết phục được gã
cho vào nhà làm công hèn, rồi dần dần chỉ cho tất cả kho tàng của báu. Về
sau ông trưởng giả giao phó sản nghiệp lại cho con trước khi lìa đời.
Ðức
Phật như ông trưởng giả, còn chúng ta chính là gã cùng tử tìm cầu ăn mặc
khắp bốn phương, nay được Phật chỉ cho dứt tâm phan duyên là đạt đạo Bồ Ðề
vậy.
Nhứt tâm bất loạn
Nhứt tâm chẳng loạn
Ðây là
câu trong kinh A Di Ðà đức Phật Thích Ca đạy người niệm Phật tâm phải
chuyên nhất, từ một ngày đến 7 ngày, hẳn được đức Phật A Di Ðà và chư vị
Thánh chúng hiện ra trước người lâm chung tiếp dẫn thần thức thẳng sanh về
cõi Cực Lạc.
... Nhứt
tâm bất loạn
Kỳ nhơn
lâm mạng chung thời
Dữ chư
Thánh chúng hiện tại kỳ tiền
Thị nhơn
chung thời tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di Ðà Phật Cực Lạc quốc
độ.
Và câu
thiền ngữ tương đương cùng ý nghĩa như:
Nhứt tâm
bất sanh
Vạn pháp
câu tức
(Một
khi tâm phan duyên không khởi
Muôn
pháp hoàn toàn đều bặt dứt).
Cho dù
tu thiền hay tu Tịnh Ðộ cũng phải cho được nhứt tâm mới đạt hiệu quả tốt.
Nói nhứt tâm nghe quá dễ, nhưng bắt tay vào thực hành thật quả là một trời
công phu chứ không có đơn giản như ta nghĩ. Nói vậy, nhưng với sự cố gắng
cũng đạt được viên mãn như chư Tổ, các vị Bồ Tát, A La Hán đã thành tựu.
Ta cũng có khả năng như vậy để dõi theo dấu chân chư Tổ, các vị Bồ Tát
trên con đường giác ngộ.
Vậy: nhứt tâm bất loạn là điều kiện ắt có và đủ để người tu hành đạt quả
vô sanh giải thoát.
Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm
Nên vô sở trụ mà sanh tâm ấy
Hai câu
này trong kinh Kim Cang đức Phật trả lời câu nghi vấn của Tu Bồ Ðề về hai
vấn đề an trụ tâm và hàng phục tâm, thật vô cùng rõ ràng khúc chiết, phân
minh.
-
Nên trụ tâm vào vô sở trụ và
-
Phải hàng phục tâm bằng chính cái tâm ấy.
Phật chỉ thuật dùng gậy ông đập lưng ông để mới phá trừ được mê lầm, điên
đảo vọng tưởng mà chúng sanh muôn đời chấp vướng chưa hề rời bỏ. Trong
kinh Kim Cang cũng còn nêu thêm ví dụ: như ta sử dụng chiếc bè(raft) để
qua sông, khi qua được bờ bên kia rồi, phải bỏ bè đừng mang theo bên mình
chi nữa cho thêm cồng kềnh bất tiện. Cũng như thế ấy, hành giả tu tập đạt
tới bờ bến giác (giác ngạn hay bỉ ngạn) phải nên buông bỏ hết những pháp
chấp, vì đó là phương tiện ban đầu như ngón tay chỉ mặt trăng, thấy trăng
rồi ngón tay đâu còn cần thiết nữa.
Nên trụ tâm như lời Phật dạy và phải hàng phục tâm đúng pháp mới đạt được
công năng tu tập để xứng đáng là người Phật tử chân chánh phụng sự và
tuyên dương chánh pháp.
Chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện
Chế tâm một chỗ, không việc gì chẳng xong
Cái tâm ta là tâm viên, ý mã, cứ lanh chanh rong ruỗi như con vượn chuyền
cành, chuyền hết cành này sang cành khác không dừng nghỉ, như con ngựa sổ
cương bươn bả giẫm đạp lên lúa mạ, hoa màu của người không hề thương tiếc.
Tâm chúng sanh đa thù diệu viễn như thế, nên Phật dạy trong Kinh Lời Vàng
như thế này:
Tâm phàm hay dao động
Khó chế, khó nhiếp phục
Kẻ trí khiến tâm chánh
Như thợ khéo nắn tên
Hay:
Tâm tinh vi khó thấy
Aùi dục thường chi phối
Kẻ trí hộ trì tâm
Tâm hộ, hưởng an lạc.
(Hòa Thượng Minh Châu dịch,
chùa Giác Hoàng - Hoa Kỳ tái bản không đề năm)
Khiến tâm chánh hay hộ trì tâm đó chính là chế tâm hay cột tâm lại bằng
móc câu trì giới thì chắc chắn mọi sai lầm, ô nhiễm không còn vấp phải,
vướng mắc nữa. Người điều được tâm như anh nài giỏi điều khiển được con
ngựa chứng biết nghe theo vâng hành những mệnh lệnh không chạy rong hung
hăng lung lạc nữa. Một khi tâm dừng lại là mọi sai quấy lỗi lầm không phạm
phải, hẳn sẽ làm được những việc tốt lợi ích, cao thượng hơn, cũng có
nghĩa là làm thăng hoa cuộc sống.
Người thấm nhuần chánh pháp
Sống hạnh phúc an lạc
Với tâm niệm thuần tịnh
Người trí thuờng hoan hỷ
Nghe thánh nhân thuyết pháp
---o0o---