Phẩm tựa
chia làm 2 là Thông tự và Biệt tự.
Trong
phần Thông tự là nêu lên pháp hội, thời kỳ, xứ sở, và đại cúng, nững ai được
nghe pháp tu Tịnh Độ này.
I – THÔNG TỰ
Kinh
văn:
Như thị ngã văn, nhất
thời Phật tại Xá Vệ quốc, kỳ thụ, Cấp Cô Động viên.
Nghĩa:
Đúng
thực như thế, chính tôi được nghe: Một thời bấy giờ, tại nước Xá Vệ, Phật ở
trong vườn ông Cấp Cô Độc, có những cây của Thải tử Kỳ Đà.
Đoạn này
mở hội nói pháp tu Tịnh Độ. Đây là lời của ngài Anan, người chép kinh này nói
ra.
Ngài nói: “đúng thực như thế ” là
Ngài nêu lên tấm lòng tín thuận của ngài. Ngài nói “chính tôi được nghe “ là ngài muốn nói rằng:chính tôi được nghe,
thầy tôi nói như thế. (Hai câu này nguyên văn chữ Hán là: Như thị ngã văn)
“Một thời bấy giờ “ là thời kỳ ấy, căn
cơ của chúng sinh đã cảm động đến tâm Phật (vị giáo chủ).
“Nước Xá Vệ, vườn Cấp Cô Độc “ là
nơi Phật nói pháp tu Tịnh Độ này.
Chân lý
màu nhiệm của Thực Tướng (Thực Tướng là tâm tính của con người) Thực tướng ấy
từ xưa đến nay chẳng hề biến đổi, nó vẫn như như cho nên gọi là “ Như “. Người
ta y vào Lý-Thực-Tướng mà niệm Phật, cầu sinh Tịnh Độ, là một pháp nó tạo ra
quyết định không sai, cho nên nói là “Thị“.
Thực
Tướng là cái ta chân thực, sống lâu mãi mãi, không giống cái thân người biến
diệt đây, mà người đời nhận lầm nó là thân ta. Nó chỉ là cái ta giả tạm. Ngài
Anan không bỏ cái ta giả tạm ấy cho nên ngài vẫn xưng là “Ta”. Căn tai của ngài
phát ra cái biết nghe ở tai, cjinhs ngìa được nghe tiếng Phật. Cái nghe của
ngài với cái tiếng của Phật giống như hai cái hư không in vào nhau, thì gọi là
nghe. Ý nói cái nghe với cái tiếng đều do Thực tướng tạo ra, cùng ở trong Thực
tướng, giống như hai ư không in vào nhau thành một.
(Đoạn
này thích nghĩa 4 chữ “Như thị ngã văn”. Trên đầu các kinh Phật nói bao giờ
cũng có 4 chữ này, là một sự tối quan trọng. Khi Phật sắp nhập Niết Bàn, Anan
hỏi “Sau này con chép kinh Phật thì phải chép như thế nào? “ Phật dạy “ Bao giờ
cũng phải viết một câu Như Thị Ngã Văn lên trên hết.
GHI CHÚ:
Theo nghĩa thế gian thì như thị có nghiã là như thế này hay như thế kia mà
thôi. Như theo nghĩa huyền vi của nhà Phật thì mọi pháp thế gian đều có mười
cái như thị như trong kinh Pháp Hoa đã nói, đó là: Tính như thị, tướng như thị,
thể như thị, lực như thị, tác như thị, nhân như thị, duyên như thị, quả như
thị, báo như thị, và cứu cánh như thị. Mỗi khi Phật muốn ấn chứng một pháp nào
là chánh pháp, Phật thường nhắc đi nhác lại hai chữ “Như Thị”
Chữ “NHẤT THỜI” là một thời gian, không phải pháp thực có, chỉ là lúc thầy trò
đàm đạo, thầy nói trò nghe, xong rroif thì gọi là Một Thời
Chữ PHẬT
nghĩa là tự mình đã giác ngộ, rồi đi giác ngộ cho người khác, mình và người đều
giác ngộ đến cực điểm, làm thầy cả cõi người và cõi trời thì gọi là Phật.
XÁ VỆ là
tiếng Ấn Độ, dịch ra chữ Hán là “văn vật”, là tên một nước lớn ở Trung Ấn, là
kinh đô của vua Ba Tư Nặc.
KỲ ĐÀ là
tiếng Ấn Độ, dịch nghĩa ra là “chiến thắng”, là tên Thái tử, con vua Ba Tư Nặc.
Một quan
đại thần ở nước ấy tên là Tu Đạt Đa, dịch ra chữ Hán là “Cấp Cô Độc” vì ông này
giàu lắm, hay giúp đỡ, cấp phát cho người cô độc. Ông đem vàng trải khắp vườn
của Thái tử Kỳ Đà, mua lấy được để cúng Phật và tăng. Thái tử cảm động quá, còn
một ít đất chưa kịp lót vàng. Thía tử bảo thôi, xin đem đất ấy cùng với cây cối
trong vườn cúng Phật, cúng tăng. Vì thế chỗ Phật nói pháp được gọi là “ Vườn
của ông Cấp Cô Độc, cây của thái tử Kỳ Đà”
ĐẠI CHÚNG
Đoạn
dưới nói về đại chúng, có những ai cùng dự nghe pháp tu Tịnh Độ này. Đại chúng
chia làm 3 chúng:
1) Thanh văn chúng đứng đầu vì các
ngài là hình tướng xuất thế gian, vì các ngài thường theo Phật, vì các ngài là
Tăng, mà Phật, Pháp nhờ có Tăng mới lưu truyền được.
2) Các vị Bồ Tát ở giữa vì các
ngài là hìn tướng bất định, (vừa xuất thế, vừa tại thế), vì các ngài chẳng
thường theo Phật, vì các ngài là tiêu biểu của nghĩa Trung đạo.
3) Các vị Thiên và nhân ở sau cùng,
vì các ngài là hình tướng thế gian, vì trong các ngài có cả phàm và thánh, vì
các ngài là chưc ngoại hộ (đứng ở ngoài bảo vệ Phật pháp).
I – THANH VĂN CHÚNG:
Dữ đại
tỳ khưu tăng, thiên nhị bá ngũ thập nhân câu
(Cùng
với chúng tỳ kheo, một ngàn hai trăm năm mươi vị)
Đại tỳ
kheo: là người tu xuất gia, đã giữ được cụ túc giới,
Tỳ Kheo
là tiếng Ấn Độ, (đọc là Bhiksu), gồm 3 nghĩa:
1) Khất sĩ: chỉ giữ một chiếc bát
để xin cơm nuôi thân, không giữ của cải, tiền bạc. Chuyên cầu xin lấy pháp xuất
thế gian. Khất sĩ là kẻ đi xin ăn, xin đạo.
2) Phá ác: dùng trí tuệ chân chính
để quan sát và phá trừ mọi tật ác, phiền não, chẳng sa đọa vào vòng ái kiến.
3) Bố Ma: Đã thụ giới, phép yết ma
đã thành tựu, tức thời loài ma trông thấy phải sợ hãi.
Tăng:
nguyên chữ là tăng già (tiếng Ấn Độ đọc là sangha), nghĩa là “hòa hợp chúng”:
gồm 6 thứ hòa hợp gọi là lục hòa
1) Cùng chứng lý giải thoát, gọi
là LÝ HÒA
2) Cùng chung ở với nhau là THÂN
HÒA
3) Không cãi cọ là KHẨU HÒA
4) Đẹp lòng nhau là Ý HÒA
5) Cùng nhau tìm hiểu là KIẾN HÒA
6) Cùng chia sẻ với nhau là LỢI
HÒA
Trong số
1250 vị ấy thì 3 anh em ông Ca Diếp và đồ chúng 1000 vị
Ông Xá
Lợi Phất và Ông Mục Kiều Liên và các đồ đệ 200 vị
Bọn ông
Xá Gia Tử 50 vị
Đều là
những người, khi Phật mới thành đạo, được độ thoát trước tiên. Vì cảm thâm ân
của
Phật nên
thường theo Phật.
KINH VĂN
Giai thị
đại A La Hán, chúng sở tri thức
NGHĨA
Đều là những bậc Đại A La Hán, chúng đều quen biết
Đại A La
Hán, tiếng Ấn đọc là Arhan, có 3 nghĩa:1) “Ứng
cúng”: người được cúng dường, đó là quả khất sĩ.
2) “Sát tặc”: diệt hết giặc phiền
não, đó là quả Phá ác.3) “Vô
sinh”: không còn sinh tử nữa, đó là quả Bố ma.
Lại có 3
bậc A La Hán khác nhau:
1- Tuệ giải thoát.
2- Câu giải thoát.
3- Vô nghi giải thoát
Các vị A
La Hán ở đây là vô nghi giải thoát cho nên gọi là Đại A La Hán.
Lại vì
các vị đều là Pháp thân Đại sĩ (Bồ Tát đã chứng được pháp thân) thị hiện ra làm
Thanh văn để chứng thực pháp tu Tịnh Độ là một phép bất khả tư nghị, cho nên
gọi là Đại A La Hán.
Các vị theo Phật đi thuyết pháp, gọi là chuyển pháp luân (lăn bánh xe pháp).
Làm lợi ích cho khắp cõi nhân, thiên cho nên được chúng đều quen biết.
KINH VĂN
Trưởng
lão Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiều Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha
Câu Hi La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, Anan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm
Ba Đề, Tân Đầu Lư Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, A Nâu Lâu Đà,
như thị đẳng chư đại đệ tử.
NGHĨA
Trưởng lão Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiều Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên
Diên, Ma Ha Câu Hi La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, Anan Đà, La Hầu
La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lư Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, A
Nâu Lâu Đà, và các đại đệ thử khác cũng như thế nữa.
Tuổi
cao, đức trọng đều tôn quí thì gọi là Trưởng lão. Cũng gọi là Tôn giả là người
đáng tôn quí.
- Ngài Xá
Lợi Phất (tiếng Ấn đọc Sariputra) trong hàng Thanh văn, ngài là người trí tuệ
đệ nhất.
- Ngài Ma Ha Mục Kiều Liên (tiếng
Ấn: Mahamoggallana) ngài là bậc: Thần thông đệ nhất.
- Ngài Ma Ha Ca Diếp (tiếng Ấn:
Maha Kasyapa) thân ngài có ánh sáng vàng, được Phật truyền tâm ấn làm tổ Thiền
tông thứ nhất. Ngài là bậc trì hạnh đầu đà đệ nhất.
- Ngài Ma Ha Ca Chiên Diên (tiếng
Ấn: Maha Katyana) giòng dõi Bà La Môn, là bậc có tài nghị luận đệ nhất.
- Ngài Ma Ha Câu Hi La (tiếng Ấn:
Maha Kansthila) là bậc có tài trả lời hay đệ nhất.
- Ngài Ly Bà Đa (tiếng Ấn:
Revata)là bậc thiền định đệ nhất.
- Ngài Chu Lợi Bàn Đà Già
(Ksudra- Panthaka) là người đần độn, chỉ nhớ nghĩa một bài kệ mà thành Alahan.
Ngài là người nhớ nghĩa hay đệ nhất.
- Ngài Nan Đà (Nanda) em ruột của
Phật, là người có dung mạo uy nghi đệ nhất.
- Ngài A
Nan Đà (Ananda) em họ của Phật, là thị giả hầu Phật, ngài là bậc đa văn (nghe
nhiều) đệ nhất
- Ngài La Hầu La (Rahula) là Thái
tử của Phật, ngài là người có mật hạnh đệ nhất.
- Ngài Kiều Phạm Ba Đề
(Gavampati) mồm nhai như con bò, vì tội ác khẩu kiếp trước còn sót lại, ngài là
người được chư Thiên cúng dường đệ nhất.
- Ngài Tân Đầu Lư Phả La Đọa
(Pindola Bharadvaja) Ngài ở lại thế gian rất lâu để hưởng cúng dường đời mạt
pháp, giống như một thửa ruộng tốt để người đời trồng cây phúc. Ngài là bậc
phúc điền đệ nhất.
- Ngài Ca Lưu Đà Di (Kalodayin)
ngài là sứ giả của Phật, ngài giáo hóa được nhiều người đệ nhất.
- Ngài Ma
Ha Kiếp Tân Na (Maha Kapphina) là bậc xem sao đệ nhất.
- Ngài Bạc Câu La (Vakkula) ngài
là bậc sống lâu, thọ mệnh đệ nhất.
- Ngài A Nâu Lâu Đà (Anirudha) em
họ Phật, ngài có thiên nhãn trông xa đệ nhất.
Các ngài
thường theo Phật luôn luôn nên gọi là Thường tùy chúng. Các ngài vốn là bậc
Pháp thân đại sĩ, là bâc Bồ Tát đã chứng được Pháp thân, mà thị hiện ra làm
Thanh văn, cho nên gọi các ngài là Ảnh hưởng chúng, là các vị tăng có ảnh hưởng
đến đạo Phật.
Nay các ngài được nghe pháp tu
Tịnh Độ là phép tu thu nhận được vô lượng công đức. Các ngài được lợi ích là:
Phật đã bố thí cho các ngài hiểu được đệ nhất nghĩa đế trong giáo lý của Phật. Các
ngài làm cho đường đạo tăng lên, đường đời giảm bớt, tự mình cải tạo cho đất
nước mình thanh tịnh, giác ngộ, cho nên các ngài còn gọi là Đương cơ chúng, là
các vị tăng có cơ đảm đương nổi việc Phật.
II – BỒ TÁT CHÚNG
KINH VĂN
Tinh chư
Bồ Tát Ma Ha tát: Văn Thù Sư Lợi Pháp vương tử, A Dật Đa Bồ Tát, Càn Đà Ha Đề
Bồ Tát, Thường Tinh Tiến Bồ Tát, dữ như thị đẳng chư đại Bồ Tát.
NGHĨA
Lại có các vị Bồ Tát là: Văn Thù Sư Lợi Pháp vương tử, A Dật Đa Bồ Tát, Càn Đà
Ha Đề Bồ Tát, Thường Tinh Tiến Bồ Tát cùng nhiều vị Bồ Tát khác cũng như thế
nữa.
Chữ Bồ
Tát Ma Ha tát là tiếng Brahma ở Ấn Độ, (nguyên âm đọc là Boddhi Sattvaya Maha
Sattvaya, đọc là Bồ đề tát đỏa bà gia, ma ha tát đỏa bà gia) nghĩa là “Đại đạo
tâm thành tựu hữu tình” (Có tâm đạo lớn làm cho loài hữu tình được thành tựu).
Đó là danh hiệu của người đã vận dụng được cả hai tâm: Bi và Trí, làm lợi lạc
cho cả mình và người.
Phật là
Pháp vương, Ngài Văn Thù Sư Lợi (tiếng Ấn: Manju-Siri, nghĩa là Diệu Cát Tường)
Ngài nối nghiệp nhà của Phật nên được gọi là Pháp Vương Tử. Trong hàng Bồ Tát
tăng, ngài là người có trí tuệ đệ nhất. Nếu chẳng là bậc có trí tuệ, dũng mãnh
thì chẳng tài nào hiểu được và chứng được pháp môn Tịnh Độ này, cho nên ngài
đứng đầu.
Ngài A
Dật Đa (Ajita) nghĩa là Vô Năng Thắng. tên riêng của ngài Di Lạc Bồ Tát (Maitreya).
Ngài là bậc sẽ thành Phật sau đời Phật Thích Ca. Hiện bây giờ ngài ở ngôi Đẳng
Giác (Bồ Tát thập địa). Ngài lấy việc làm cho đất nước mình trở nên trong sạch,
trang nghiêm, giác ngộ làm việc thiết yếu, cho nên ngài đứng thứ nhì.
Ngài Càn
Đà Ha Đề (Gandhahastin) nghĩa là Bất Hưu Tức (Chẳng ngừng nghỉ) vì ngài là
người tu hành mãi mãi, chẳng ngừng nghỉ.
Ngài
Thường Tinh Tiến là một vị Bồ Tát thường làm lợi ích cả cho mình và người mà
không hề mệt mỏi.
Các vị
này đều là các vị Bồ Tát ở ngôi rất cao, các ngài đều quyết chí cầu sinh Tịnh
Độ. Vì các ngài mong được thấy Phật luôn luôn chẳng rời, mong được thân cận
cúng dường chúng tăng luôn luôn chẳng rời, có như thế mới mau chóng viên mãn
tâm Bồ Đề của mình.
(Pháp tu
Tịnh Độ, về phần sự là một nhân duyên lớn lao, về phần lý là một phép tu bí mật
tạng, chớ nên bỏ qua).
III – THIÊN NHÂN CHÚNG
KINH VĂN
Cập
Thích đề hoàn nhân đẳng, vô lượng chư thiên đại chúng câu.
Nghĩa:
Cả vua Đế Thích và các vua khác cùng với các đấng trên các cõi trời và các cõi
khác đông không xiết kể, cùng đến dự hội.
Thích đề
hoàn nhân: (tiếng Phạn: Sakra Devanm Indra) tức Thiên chúa, vua cõi trời Đao
Lợi, trên đỉnh núi Tu Di cao nhất thế giới.
Đẳng: là
gồm cả thượng đẳng và hạ đẳng. Tức các vị vua dưới cõi trời Đế Thích và các vị
vua trên cõi trời Đế Thích. Dưới vua Đế Thích có Tứ Thiên Vương, 4 cõi trời ở
lưng chừng núi Tu Di. Trên vua Đế Thích, trụ ở hư không, có 4 cõi trời dục giới
(Giạ Ma, Đâu Xuất, Hóa Lạc, Tha Hóa Tự Tại), 18 cõi Sắc giới, và 4 cõi Vô Sắc
giới. Tổng cộng 28 cõi trời.
Đại
chúng câu: là tóm tắt hết tất cả các giới ở khắp mười phương: tám bộ quỉ thần,
A Tu La, Nhân, Phi nhân v.v… không ai không đến dự hội nói pháp này. Không ai
không được thu hút vào pháp môn tu Tịnh Độ (Vì pháp môn này rất rộng lớn nên
mới màu nhiệm được như thế).
II – BIỆT TỰ
Từ đây là phần Biệt tự, hay phát khởi tự.
Phép tu
Tịnh Độ là pháp môn mầu nhiệm, chẳng thể nghĩ bàn cho nên không có ai biết mà
hỏi, tự Phật phải nói ra. Phật nói cho biết trên cái thế giới kia (Y báo) và
nhân vật ở thế giới kia (Chính báo) để phát khởi cái tâm tín nguyện của con
người. Lại nữa trí tuệ Phật soi thấy căn có chúng sinh không sai lầm. Phật thấy
rõ tất cả đại chúng đây, ai cũng có cơ được nghe phép tu Tịnh độ này, ít ra
cũng được 1 trong 4 lợi ích:
1) Nghe rồi toàn thân sung sướng,
vui mừng
2) Nghe rồi sinh tâm thích làm
thiện
3) Nghe rồi chừa bỏ hết tội ác,
tật xấu.
4) Nghe rồi hiểu thấu lý Thực
Tướng.
Vì lẽ ấy
mà Phật chẳng đợi ai hỏi mà Phật tự nói ra phép tu Tịnh Độ này. Cũng như trong
kinh Phạm Võng, nào ai biết vị hiệu của Phật là gì mà hỏi. cũng là tự Phật nói
ra rằng “Chính vị hiệu của ta là Lô Xá Na (Rocana)”.
Ngài Trí
Giả xếp đoạn kinh này vào phần Phát khởi tự.
KINH VĂN
Nhĩ thời
Phật cáo trưởng lão Xá Lợi Phất ! Tùng thị Tây phương quá thập vạn ức Phật độ,
hữu thế giới danh viết Cực Lạc, kỳ độ hữu Phật A Di Đà kim hiện tại thuyết
pháp.
NGHĨA
Bấy giờ Phật bảo ngài Trưởng lão Xá Lợi Phất rằng:” Từ đây đi về phía Tây, trải
qua mười muôn ức Phật độ có một thế giới gọi là Cực Lạc. Cõi ấy có Phật hiệu A
Di Đà hiện đang thuyết pháp.
Pháp tu Tịnh độ là pháp môn thu nhiếp cả ba hạng người:thượng căn, trung căn,
hạ căn, là một pháp môn viên dung tuyệt đối, bất khả tư nghị. Pháp môn này thu
được tất cả, vượt được tất cả các pháp môn khác, xưa nay chưa thấy nói rõ được
như thế. Một pháp môn rất sâu, rất khó tin cho nên đặc biệt bảo cho người đại
trí tuệ. Vì chẳng phải người trí tuệ nhất thì chẳng tài nào hiểu ngay được, mà
không nghi ngờ. (Đủ thấy người trí tuệ mới tu được, người ngu hèn cũng tu được,
thực là hai việc lạ bất khả tư nghị)
Hai chữ
Tây Phương, Phật bảo đi tắt ngang thẳng về phía Tây, là chỗ hiện đương có cõi
Tịnh độ ngay lúc ấy.
Chữ ức ở
đây là một vạn. Vậy 10 vạn ức là một ngàn triệu (tức một tỷ)
Chữ Phật
độ là khu vực của một vị Phật hóa độ, có một tỷ thái dương hệ. trong kinh Phật
gọi là tam thiên đại thiên thế giới. Nay hãy nói thế nào là một Phật độ (hay
một tam thiên đại thiên thế giới). Ta lấy thí dụ quả đất ta đang ở đây. Ta nói
quả đất có một núi tu di cao nhất, 4 bên Đông, Tây, Nam, Bắc mỗi bên là một châu,
chung quanh có thiết vi bao bọc. Châu nào cũng ở dưới một mặt trời, một mặt
trăng soi vào. Mỗi châu là một thiên hạ. Quả đất có 4 thiên hạ. cho nên gọi là
quả “tứ thiên hạ”. Một nghìn quả tứ thiên hạ gọi là một “tiểu thiên thế giới”, Một
nghìn “tiểu thiên thế giới” gọi là một “ trung thiên thế giới”, Một nghìn
“trung thiên thế giới” gọi là một “Đại thiên thế giới “. Vậy chữ “Tam thiên” ở
đây có nghĩa là nhân ba lần một nghìn chứ không phải là ba nghìn. Nay Phật lại
bảo phải đi qua 10 vạn ức Phật độ như thế về phía Tây, đến đấy là Thế giới Cực
Lạc.
Hoặc có
người hỏi: - Cớ gì Cực Lạc ở phương Tây? Xin thưa: Câu hỏi ấy không có ý nghĩa.
Giả sử nó ở phương Đông, ngài lại hỏi “ cớ gì nó ở phương Đông?” Câu hỏi ấy
chẳng phải là hý luận (đùa chơi) là gì? Huống chi ngài đi quá ra đến 11 vạn
Phật độ thì nó ở đàng Đông rồi. Ngài còn nghi ngờ gì nữa?
Câu “Hữu
thế giới danh viết Cực Lạc” (Có thế giới gọi là Cực Lạc) là nói cái tên cõi đất
kia, là nói phần Y báo của Phật và nhân dân ở đấy. (Y báo là quả báo do nghiệp
của con người tạo ra, để cho con người phải y vào đó mà sinh sống).
Cõi đất
ấy vận chuyển luôn luôn, lúc này qua lúc khác, thành ra nó có 3 đời: đời trước,
đời này, đời sau, cho nên gọi là thế (thời).
Cõi đất
ấy ở trong hư không, chung quanh nó là 10 phương: 4 phương chính, 4 phương phụ
và 2 phương thượng, hạ. Nó cũng có giới hạn ở các phương ấy, cho nên gọi nó là
giới.
Vì nó
vận chuyển trong tam thế và nó có giới hạn khắp thập phương cho nên gọi nó là “
Thế giới“.
Nước Cực
Lạc (tiếng Ấn Tu Ma Đề nghĩa là an lạc, diệu ý, thanh thái v.v…) nghĩa là một
đất nước an vui, an ổn đệ nhất, vĩnh viễn thoát ly hết mọi khổ.
Nhưng
Phật độ nào cũng có 4 cõi, cõi nào cũng chia làm 2 là Tịnh độ và uế độ.
1) Cõi Phàm Thánh đồng cư: chỗ nào
ngũ trược nặng là Uế độ, chỗ nào ngũ trược nhẹ là Tịnh độ. (Nhưng ở Cực Lạc thì
cõi đồng cư là Tịnh độ, vì phàm với thánh ở đấy cùng một lệ).
2) Cõi
Phương tiện hữu dư: Chỗ nào người tu phép “Tích không chuyết độ”chứng vào ở đấy
là Uế độ, chỗ nào người tu phép “Thể không xảo độ” chứng vào, ở đấy là Tịnh độ.
(Nhưng ở Cực Lạc thì cõi Phương tiện là Tịnh độ, vì người tu tiểu thừa ở đấy đã
hồi tâm).
3) Cõi Thực báo vô chướng ngại:
chỗ nào người tu pháp “ Thứ đệ tam quán” chứng vào, ở đấy là Uế độ, chỗ nào
người tu pháp “Nhất tâm tam quán” chứng vào, ở đấy là Tịnh độ. (Ở Cực Lạc thì
cõi Thực báo là Tịnh độ, vì là chỗ ở của người tu pháp “Viên đốn”).
4) Cõi
Thường Tịch Quang: Chỗ nào người tu “Phần chứng” ở là Uế độ, chỗ nào của người
tu “Cứu cánh viên mãn” ở là Tịnh độ (như ở Cực Lạc thì cõi Thường Tịch Quang là
Tịnh độ, vì có Phật A Di Đà ở đấy)
Cái thế
giới Cực Lạc nói trong kinh này, chính là cõi Đồng cư Tịnh độ, mà ba cõi Tịnh
độ trên cũng có đủ cả, ở ngang ngay đấy. (Đây là bàn về tu đức. Đức tu của mình
lên cao nên chỉ có Tịnh độ thôi. Còn bàn về tính đức, thì trong tính đức, thì
dù một hạt bụi nhỏ li ty cũng đầy đủ cả 4 Phật độ, Tịnh và Uế). Nay rút vào
phép tu chỉ có 3 món: Tín, Nguyện, Hạnh với danh hiệu đức Phật A Di Đà bất khả
tư nghị, mà khiến người phàm phu cảm ứng hiện ra ở thế giới Cực Lạc một cõi
Đồng cư cực kỳ thanh tịnh, mà ở trong những Phật độ khác ở khắp mười phương đều
không thể có được. Chỉ riêng Cực Lạc mới có một cõi đồng cư như thế mà thôi. Có
thế mới là tôn chỉ phép tu Tịnh độ ở Cực Lạc.
Câu “Hữu
Phật hiệu A Di Đà” (có Phật hiệu là A Di Đà) là nói cái tên của đức Giáo Chủ
kia, Là phần Chính Báo của vị Phật ở đấy. (Chính báo là quả báo do nghiệp con
người tạo ra, nó chính là cái thân người ta). Phật có 3 thân là Pháp thân, Báo
thân, Ứng thân (Hóa thân). Thân nào cũng có thân đơn và thân kép.
Pháp
thân đơn là cái Tính Lý của người tu chứng nhận được. Báo thân đơn là công đức
và trí tuệ của người tu đã tạo ra. Hóa thân (Ứng thân) đơn là hình tướng, màu
sắc 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của người tu hiện ra.
Pháp
thân kép là cái pháp thân tự tính thanh tịnh. Cái pháp thân rất mầu nhiệm, lìa
thoát hết trần cấu
Báo thân
kép là cái báo thân mình tạo ra để thụ dụng, hay cái báo thân mình tạo ra cho
người khác thụ dụng
Hóa thân
kép là cái thân mình thị hiện giáng sinh vào cõi nào đó, hay cái hóa thân mình
ứng hiện ra. Có 2 loại hóa thân: Hóa thân ở cõi Phật, hóa thân ở mỗi loại chúng
sinh.
Tuy là
phân tách thân đơn, thân kép của 3 thân như thế. Nưng thực ra thì thân của Phật
chẳng phải 1, chẳng phải 3, mà là 3, mà là 1. chẳng cùng, chẳng khác, chẳng
dọc, chẳng ngang. (Nói sao cũng không đúng) Thân của Phật chẳng thể nghĩ bàn
vậy.
Nay
trong kinh này nói là “Phật A Di Đà “ thì chính là Hóa thân trong cõi Đồng cư
Tịnh độ, mà cũng tức là Báo thân, mà cũng tức là Pháp thân, vì ở trong cả 4 cõi
Tịnh độ đều có cả.
Nói rằng
“có thế giới” “có Phật”, là vì đức Thích Ca muốn nêu lên một cảnh một cảnh
tượng chân thực, khiến cho người ta vui cầu. Vì ngài đem lời thành thực chỉ bảo
cho, khiến cho người tu phải chuyên chú, nhất tâm. Thế giới Cực Lạc nói ở đây
chẳng phải cảnh tượng “Càn thành, Dương diệm…” (cảnh ma), chẳng phải là cảnh
tượng “Quyền hiện khúc thị” (cảnh quyền giáo), chẳng phải là cảnh tượng “Duyên
ảnh hư vọng” (cảnh tà), chẳng phải là cảnh tượng “Bảo chân thiên đản” (cảnh
Tiểu thừa). Nêu ra cảnh chân thật này là vì ngài muốn phá mọi cảnh: Ma, Quyền,
Tà, Tiểu.
Phá
Quyền là muốn phá cái ngụy biện trong sách “Hoa Nghiêm hợp luận”
Phá Tà
là phá cái tập quán của người đời mạt thế ngu mê.
Lại vì
ngài muốn người tu Tịnh Độ chứng sâu vào thực tướng, là tâm tánh của con người,
trong “có đủ cả”, có thế giới Cực Lạc thực, có thân Phật A Di Đà thực, chỉ cần
mình tu niệm là tự khắc hiện ra đầy đủ, rõ rệt.
Câu “Kim
hiện tại thuyết pháp” (nay hiện đang thuyết pháp) đối với hai cảnh tượng trên:
cảnh Y bào là thế giới Cực Lạc, cảnh chính báo là Thân Phật A Di Đà, thì câu
“kim hiện tại thuyết pháp” nói rằng đây chẳng phải cảnh quá khứ đã diệt, cũng
chẳng phải cảnh vị lai chưa thành. (giống như cảnh Phật Thích Ca đã nhập Niết
Bàn, và cảnh Phật Di Lạc chưa giáng sanh, đây là thời gian không có Phật cho
mình nương tựa) thì cảnh “Kim hiện tại thuyết pháp” đây chính là một cảnh để
cho mình nên phát nguyện vãng sanh, để được thân cận Phật, được nghe pháp, được
chóng thành chính giác.
Chữ HỮU
và chữ HIỆN TẠI để khuyên người tu mở lòng tin.
Chữ THẾ
GIỚI CỰC LẠC khuyên người tu nên phát nguyện.
Chữ Phật
hiệu A DI ĐÀ khuyên người tu thực hành hạnh trì danh.
Lại nữa:
Chữ A DI
ĐÀ là lời tựa về Phật
Chữ
THUYẾT là lời tựa về pháp
Chữ HIỆN
TẠI, trong đó có hải hội chúng là lời tựa về tăng.
Phật,
pháp, tăng cùng ở trong một thực tướng là lời tựa về Tâm thể (nhất thể Tam Bảo)
Y theo
Tâm thể ấy mà khởi ra Tín, Nguyện, Hạnh là lời tựa về Tôn chỉ.
Tín,
nguyên, hạnh đã thành rồi là được thấy Phật, được nghe pháp là lời tựa về phần
Lực dụng
Chỉ có cảnh giới Phật làm cảnh giới cho tâm mình chăm chú vào, chẳng cho một sự
tướng nào khác xen lẫn vào tâm mình, đó là lời tựa về Giáo tướng.
Lời nói
sơ lược mà ý nghĩa rất chu đáo.