Hỏi: Ðã thành lập Duy thức tướng và Duy thức
tánh rồi.
- Tiến
trình tu tập của hành giả tu Duy thức có bao nhiêu giai đoạn và địa vị?
- Sự
chứng ngộ Duy thức dùng phương tiện gì làm tiêu chuẩn để nhận biết?
Bài Tụng Duy Thức Ðáp:
Từ khi:
* Khởi Tâm Tu Duy
Thức
Cầu Trụ Duy Thức Tánh
Hai Thủ Ngủ Im Lìm
Chưa
Diệt Trừ Chinh Phục
* Ðược Phần Ít Nhẹ Nhàng
Cho Là
Chứng Duy Thức
Vì Còn Thấy Có Ðược
Chưa Thực Trụ Duy
Thức
* Chừng Nào Cảnh Sở Duyên
Tâm Không Hề Sở Ðắc
Trụ Duy Thức Lả Ðây
Bởi Hai Thủ Xa Rời
* Thanh
Thoát Vượt Nghĩ Bàn
Ðấy! Trí Xuất Thế Gian!
Viễn Ly
Hai Thô Trọng
Thọ Dụng Quả Chuyển Y
* Ðây Cảnh Giới Vô
Lậu
Bất Tư Nghì, Thiện, Thường
An Lạc, Giải Thoát
Thân
Cõi: Pháp Thân, Tịch Mặc
Giải Thích Thuật Ngữ:
* Duy thức tánh: Thực tánh của Duy thức. Ðây là cảnh giới của con
người xa lìa "biến kế sở chấp", xa lìa "năng thủ" "sở thủ", xa lìa tính
"sở đắc" và quả "sở chứng". Nói cách khác, an trụ duy thức tính, tức là
thể nhập cảnh giới "tịch diệt Niết-bàn"
* Nhị thủ: Hai món thủ:
1. Năng thủ: Chấp ngã bên con người.
2. Sở thủ: Chấp ngã
bên hiện tượng vạn pháp.
* Hai thô trọng:
1. Sở tri
chướng: Sở tri chướng cũng gọi "trí chướng": Một thứ tri thức hữu hạn;
thứ trí này chỉ có khả năng hiểu biết "tục đế" những gì thuộc về "thế
gian pháp". Nó trở ngại con đường tiến triễn đến: nhất thiết trí, tự
nhiên trí, vô sư trí và nhất thiết chủng trí của quả vô thượng bồ đề.
2. Phiền não chướng: Căn bản phiền não, chi mạt phiền não... những
thứ phiền não ấy che chướng làm trở ngại sự thể nhập Niết bàn mà đáng
lý mọi người ai cũng có phần được thể nhập.
* Chuyển y: Dựa
trên hai thứ chướng mà chuyển hóa.
1. Phiền não chướng, chuyển
thành Niết bàn.
2. Sở tri chướng, chuyển thành Bồ đề.
Yếu
Luận
Ðứng bên mặt chân đế Pháp tánh không tuệ học, mà đề cập
vấn đề chứng đắc tức thì bị quở trách ngay: Rằng "chưa được vào nhà!".
Bên mặt tục đế, phương tiện, vận dụng văn tự ngôn thuyết, hướng dẫn hành
giả phát tâm tu Duy thức quán theo một tiến trình tạm chia năm giai
đoạn với năm địa vị:
1. Tư lương vị.
2. Gia hạnh vị.
3. Thông đạt vị.
4. Tu tập vị.
5. Cứu cánh vị.
Từ bài tụng thứ nhất cho đến bài tụng thứ hai mươi lăm, trình bày
về lý do có mặt của Duy Thức Học, yếu tố hình thành của Duy Thức Học,
đối tượng nghiên cứu của Duy Thức Học và hướng dẫn cách nhận thức để
giải quyết những mắc mướu của con ngưởi theo quan điểm lập trường của
Duy Thức Học.
Sự có mặt của Duy Thức Học, nhằm chỉ rõ tính vô
ngã của con người và tính vô ngã của hiện tượng vạn pháp, xác định chân
lý "Duyên sinh" và chân lý "Vô ngã" trong Phật giáo.
Yếu tố
hình thành Duy Thức Học là chỉ rõ sự nhận thức phi chân lý, sự "ức
thuyết" của ai đó hay nói rõ hơn là sự ảo tưởng hoang đường, phát xuất
từ những bộ óc non nớt yếu mềm, mê tín dị đoan; những nhận thức đó tác
động tâm tưởng con người thông qua Bát thức tâm vương và biểu hiện hoặc
trừu tượng ở tư duy hoặc cụ thể ở hành động như: thờ phượng, cúng lạy,
van xin... với những chức danh, địa vị không bao giờ có trong sự thực.
Ðối tượng nghiên cứu của Duy Thức Học là hiện tượng vạn pháp, nên
nhớ mỗi con người nói riêng, mỗi động vật nói chung, cũng là một pháp
trong hiện tượng vạn pháp. Duy Thức Học chỉ rõ: Rằng Vạn pháp vô ngã.
Duy Thức Học giải quyết những thắc mắc, đau khổ ngàn đời của con
người. Duy Thức Học đã vạch ra rằng:
- Hiện tượng vạn pháp
"Duyên sinh" tồn tại khách quan.
- Vạn pháp Vô thường và Vô
ngã.
- Sinh, lão, bệnh, tử là việc bình thường.
-
Sinh, trụ, dị, diệt là việc bình thường.
- Thành, trụ, hoại,
không cũng là việc bình thường.
Người muốn có an lạc, tránh lo
âu sợ hãi phi ly cần tu học Duy Thức, đi sâu vào Duy Thức Quán ngõ hầu
thấy rõ chân lý Vạn pháp duy thức.
Trong quá trình triển khai
diệu lý để thành lập duy thức, người ta gọi đó là Duy thức cảnh. Tức là
dựa trên bối cảnh thực tiễn của con người và sự vật hiện hữu để thành
lập Diệu lý Duy thức.
Từ bài tụng thứ hai mươi lăm đến bài
tụng thứ ba mươi, trình bày năm địa vị trên con đưởng tiến tu Duy thức
quán. Năm địa vị đó là:
Một, Tư lương vị, Tư lương có nghĩa
chuẩn bị lương phạn, sắp xếp hành lý cho một cuộc hành trình tiến tu Duy
thức quán:
"Khởi Tâm Tu Duy Thức"
"Cầu Trụ Duy Thức
Tánh"
"Hai Thủ Ngủ Im Lìm"
"Chưa Diệt Trừ Chinh Phục"
Trụ Duy Thức Tánh là mục đích đến. Trụ Duy Thức Tánh là khi nào
tâm của hành giả chế ngự và diệt trừ hoàn toàn hai món thủ. Hai món thủ
là đối tượng sở quán, nó luôn luôn là đối thủ đương đầu của người tu Duy
Thức Quán. Thế lực của hai đối thủ còn mạnh mẽ chứng tỏ cái Ngã tướng
trong con người chưa chiết phục mà chỉ ngừng sinh hoạt như một giấc ngủ
im sau đó nó sẽ "thức dậy".
Ðịa vị Tư lương, kinh điển Phật,
thường chia thành ba bậc: Trụ, Hạnh và Hướng.
Trụ: là địa vị
chỉ những người đã từng gieo trồng hạt giống Phật, có khả năng trụ nơi
đất Phật để sinh trưởng phước đức trí tuệ của mình.
Trụ có mười
địa vị mà một hành giả lần lượt phải trải qua:
1. Phát tâm
trụ: Phát tâm khởi tu.
2. Trị địa trụ: Sửa trị tâm địa trong
sạch, bằng thẳng như trang đất gieo mạ.
3. Tu hành trụ: Do sửa
trị tâm thanh tịnh mà du hành tự tại, không bị chướng ngại.
4.
Sinh quý trụ: Trụ đất Phật, được thọ dụng phần khinh an giải thoát.
5. Phương tiện cụ túc trụ: Tự lợi, tha lợi đủ duyên, thực hiện tốt
không gì trở ngại, tướng mạo khởi sắc quang minh.
6. Chính tâm
trụ: Tướng mạo quang minh rồi, nội tâm chân chính gần đồng như Phật.
7. Bất thối trụ: Thân tâm tương hợp, ngày ngày chỉ có tăng tiến đi
sâu vào chánh quán Duy thức.
8. Ðồng chân trụ: Có được những
đức tướng tốt của Phật có.
9. Pháp vương tử trụ: Ðến đây được
xem như con đấng Pháp vương.
Xuất thai, một hoàng tử chào đời
(từ sơ phát tâm đến sinh quí, đệ tứ trụ gọi là nhập thánh thai. Từ đệ
ngũ đến bát trụ gọi "trưởng dưỡng thánh thai". Pháp vương tử trụ là xuất
thai vậy).
10. Quán đỉnh trụ: Con vua trưởng thành được làm
lễ: Lấy nước bốn biển mà gọi đầu (quán đỉnh). Bồ tát có khả năng thừa
hành Phật sự được Phật rưới nước trí tuệ lên đầu...
Hạnh có
mười địa vị:
1. Hoan hỉ hạnh: Là Bồ tát, đệ tử Phật, phải học
hạnh Phật hoan hỉ tùy thuận khắp nơi nơi.
2. Nhiêu ích hạnh:
Luôn luôn làm lợi ích chúng sanh.
3. Vô sân hận hạnh: Thực hiện
đức tính tự giác, giác tha, không còn trở ngại bất như ý.
4.
Vô tận hạnh: Thực hiện hạnh lợi tha bình đẳng khắp nơi và mọi lúc không
hề nhàm mỏi.
5. Ly si loạn hạnh: Pháp môn tu học vô lượng, có
trí tuệ tổng hợp mà sự nhận thức không hề nhầm lẫn.
6. Thiện
hiện hạnh: Vì được vô si loạn cho nên ở đồng hiện dị, ở dị hiện đồng.
Ðồng dị viên dung không trở ngại.
7. Vô trước hạnh: Mười phương
hư không có bao nhiêu vi trần, mỗi vi trần hiện mười phương thế giới,
vậy mà vi trần và thế giới không trở ngại gì nhau.
8. Tôn trọng
hạnh: Pháp lực tu hành thâm chứng chân lý từ địa vị thứ nhất đến đây do
sức quán chiếu Bát nhã mà được, cho nên địa vị này đặc biệt tôn trọng
Bát nhã độ trong lục độ.
9. Thiện pháp hạnh: Công đức viên
dung, có thể thành tựu khuôn pháp mẫu mực như chư Phật mười phương.
10. Chân thực hạnh: Do quá trình vượt qua chín giai đoạn, đức tướng
trí tuệ viên dung, mỗi mỗi đều thanh tịnh vô lậu, bấy giở trở thành
tánh Nhất chân hằng hữu.
Hồi Hướng: Ðem tâm đại bi cứu hộ tất
cả chúng sinh. Hồi hướng có mười địa vị:
1. Cứu hộ nhất thiết
chúng sinh, ly chúng sinh tướng: Cứu hộ tất cả chúng sinh mà không thấy
có tướng chúng sinh.
2. Bất hoại hồi hướng: Tâm vì chúng sinh,
cứu hộ kiên cố không thối thất.
3. Ðẳng nhất thiết vật hồi
hướng: Nhìn tất cả mọi người không phân biệt màu da, chủng tộc và ngôn
ngữ đều bình đẳng.
4. Chí nhất thiết xứ hồi hướng: Tùy theo căn
cơ, cứu hộ cho ai thì đưa họ đến nơi đến chốn.
5. Vô tận công
đức tạng hồi hướng: Kho tàng công đức vô tận, đem hết ra, tùy cơ cứu hộ
chúng sinh.
6. Tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng: Tùy
thuận thiện căn của chúng sinh, giáo hóa cứu hộ bình đẳng.
7.
Tùy thuận đẳng quán nhất thiết chúng sinh hồi hướng: Quán chúng sinh
bình đẳng, tùy thuận căn tánh cứu hộ bình đẳng.
8. Chân như
tướng hồi hướng: Nhìn tất cả vạn pháp hữu tình vô tình, cùng một bản thể
chân như, dẫn dắt cho mọi người trở về bản thể chân như ấy.
9.
Vô phược giải thoát hồi hướng: Chỉ dạy cho chúng sinh biết, mọi người
không có ai bị trói cũng chẳng có ai được mở trói, trói hay mở do chính
mình.
10. Pháp giới vô lượng hồi hướng: Dạy cho mọi người biết,
pháp giới vô lượng thì chúng sinh cũng vô lượng như vậy. Chư Phật cũng
vô lượng.
Ba mươi địa vị tư lương gọi chung: Tam tư lương. Kinh
điển thường gọi: Bồ tát địa tiền. Sở dĩ có cái từ ấy, vì kinh điển lấy
địa vị thập địa làm chuẩn để ấn định phước đức, trí tuệ trên bước đường
tu tập. Do đó, Thập địa Bồ tát, được cho cái tên: Tu tập vị.
"Ðược
Phần Ít Nhẹ Nhàng
Cho Là Chứng Duy Thức
Vì Còn Thấy
Có Ðược
Chưa Thực Trụ Duy Thức"
Ðó là bài tụng nói về
thành quả của địa vị Gia hạnh. Ðược cái tên Gia hạnh vị, đã nói lên địa
vị này có gia công tu hành và có kết quả an lạc. Dù có tu hành tốt, dù
có an lạc mà còn "chấp": Năng hành, sở hành, năng chứng, sở chứng, thì
đạo hạnh chưa "siêu". Cho nên chỉ là Gia hạnh vị mà thôi!
Gia
hạnh vị thường lấy bốn pháp ám dụ để nhận xét theo dõi bước tiến tu hành
của mình:
1.Noãn: Sự tu hành phải liên tục như gà ấp trứng,
không được bỏ ổ.
2. Ðảnh: Trí tuệ mỗi ngày phải được sáng tỏ thêm mãi, như người
leo núi nhìn cảnh vật xung quanh.
3. Nhẫn: Ðích thực thâm ngộ
chân lý: Vô ngã, vô thường, khổ, không, bất tịnh của hiện tượng vạn
pháp.
4. Thế đệ nhất: Do đích thực thấy chân lý, Kiến Tư hoặc
không còn nhiễu loạn tâm tính.
Quá trình tu tập từ sơ phát tâm
đến thành tựu Vô thượng Bồ đề, trải qua ba A tăng kỳ kiếp. Năm địa vị tu
Duy thức quán, "Tam tư lương", ‘Tứ gia hạnh" là những người thành tựu
công quả trong Ðệ nhất A tăng kỳ.
"Chừng Nào Cảnh Sở Duyên
Tâm Không Hề Sở Ðắc
Trụ Duy Thức Là Ðây!
Bởi Hai
Thứ Xa Rời"
Bài tụng này là tiêu chuẩn của hạng người Thông đạt
vị. "Thông đạt" có nghĩa là nhận hiểu chân lý không còn khó khăn nữa.
Ðối cảnh "sở duyên" tâm không "sở đắc" đã biểu hiện tính "năng, sở song
vong" của con người thông đạt chân lý.
"Trần chẳng tương quan
biển rộng non cao tùy thay đổi"
"Tâm không sở đắc tùng xanh mây
trắng tự vui nhàn"
"Thanh Thoát Vượt Nghĩ Bàn
Ðây!
Trí Xuất Thế Gian
Viễn Ly Hai Thô Trọng
Thọ Dụng Quả
Chuyển Y"
Ðó là trạng thái của người thực học và thực tu. Người
thực học, thực tu họ thọ dụng sự an lành, thanh thoát, tự tại, thong
dong ngay trên cõi đời mà mọi người thấy là Ngũ trược. Ðấy là kết quả
của địa vị có cái tên nghe "nhẹ hều": Tu tập.
Trọng tâm then
chốt của địa vị tu tập là "vô đắc". Ðây là một tinh thần rỗng rang bằng
bặc, một ý niệm buông xả hoàn toàn, một hành trạng tâm cảnh như như và
năng sở tịch diệt. Nếu không phải trí xuất thế gian hẳn không làm được
những điều "Vô đắc" siêu phàm như vậy.
Ðến địa vị tu tập, xả bỏ
hết hai món thô trọng: chuyển sở tri chướng thành vô thượng bồ đề;
chuyển phiền não chướng thành Vô thượng Niết bàn.
Làm được việc
đó một Bồ tát phải trải qua mười giai đoạn, được gọi là mười địa vị nhu
sau:
1. Hoan hỉ địa
2. Ly cấu địa
3. Diệm
huệ địa
4. Phát quang địa
5. Nan thắng địa
6.
Hiện tiền địa
7. Viễn hành địa
8. Bất động địa
9.
Thiện huệ địa
10. Pháp vân địa
Nhập tâm của Hoan hỉ
địa, vị thông đạt ở vào giai đoạn này. Từ trụ tâm của Hoan hỉ địa cho
đến xuất tâm của Pháp vân địa, gọi là Tu tập vị.
Từ Hoan hỉ địa
thứ nhất đến Viễn hành địa thứ bảy gọi là Bồ tát tu tập ở vào đệ nhị A
tăng kỳ kiếp. Từ Bất động địa thứ tám đến xuất tâm của Pháp vân địa thứ
mười, gọi là Bồ tát ở vào đệ tam A tăng kỳ kiếp. Nên nhớ: Tam tư lương,
Tứ gia hạnh, Thập địa Bồ tát, mỗi mỗi vị đều phân ba giai đoạn cho sự
phát tâm tu là: nhập tâm, trụ tâm và xuất tâm. Ví như đầu niên học, giữa
niên học và cuối niên học.
Ba A tăng kỳ kiếp tu tập công viên
quả mãn đến địa vị cao tột: Cứu cánh vô thượng bồ đề.
"Ðây Cảnh
Giới Vô Lậu
Bất Tư Nghì Thiện Thường
An Lạc Giải
Thoát Thân
Cảnh Giới Pháp Thân, Tịch Mặc"
Ðây là thành
quả tu tập trải tam A tăng kỳ kiếp: Cứu kính vị, tức quả Vô thượng bồ
đề. Ðến địa vị này là đạt đến cảnh giới "vô lậu" không lọt rớt trong
phiền não khổ đau nữa, cảnh giới vượt ngoài suy nghĩ luận bàn, cảnh giới
thánh thiện, chân thường, cảnh giới hoàn toàn an lạc, thọ dụng "giải
thoát thân thanh tịnh", cảnh giới Ðại tịch diệt của pháp thân Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Ðấy là kết quả cuối cùng của quá trình
tu tập Duy thức, một trong những hệ tư tưởng có tính triết học của Ðại
thừa Phật giáo.
Quả tu tập Duy thức quán, trải qua tam A tăng
kỳ kiếp của năm địa vị được ước định so sánh như đồ biểu sau
Phụ chú: Thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng cho đến
thập địa Bồ tát, mỗi Ðịa đều có ba giai đoạn: nhập tâm, trụ tâm và xuất
tâm giống nhau tất cả