Cuộc tranh luận về mối quan hệ giữa tâm và thân, như thế,
đã kéo dài từ bao thế kỷ qua. Sam Parnia, Bác sĩ chuyên khoa hồi sinh, Giám đốc
Dự án “Human Consciousness Project” và là tác giả cuốn “Chuyện Gí Xảy Ra Khi
Chúng Ta Chết,” đang cố gắng để giải quyết cuộc tranh luận này. Trong một cuộc
phỏng vấn hồi đầu tháng 10/08 dành cho AOL, Bác sĩ Parnia đã cho chúng ta một ý
niệm căn bản về trường hợp cận tử cũng như phương pháp khoa học thực nghiệm
được áp dụng hiện nay trong việc khảo cứu về tâm. Ông đã chứng minh cho ta thấy
một điều: Tâm có mặt, hiện hữu như một thực thể độc lập đối với não bộ. Kết quả
này vô hình chung đã hoàn toàn phù hợp với những gì được mô tả trong “Tử Thư”
của Phật giáo Tây Tạng về việc thần thức lìa bỏ xác thân trong giờ lâm tử. Đây
là một bước tiến quan trọng của khoa học trong nỗ lực nghiên cứu về tâm. Từ
viên gạch lót đường này, khoa học đang bắt đầu có những bước đi mới vào ngưởng
cửa bí mật này.
Tốt nghiệp Đại Học Y Khoa St. Thomas,
Luân Đôn, BS Parnia là người sáng lập Consciousness Research Group tại Đại học Southampton, Anh quốc. Cùng với Tiến sĩ Peter Fenwick,
những công trình nghiên cứu của ông về Kinh Nghiệm Cận Tử (NDE - near-death
experiences) đã gây được sự chú ý của dư luận, không phải chỉ riêng ở Anh quốc
mà trên toàn thế giới. Công trình ngiên cứu này đã được trình bày trong một tác
phẩm xuất bản mơi đây: “What Happens When We Die: A Groundbreaking Study into
the Nature of Life and Death.” LCĐ.
Làm sao bác sĩ có thể giải thích được trường hợp cận tử?
Cho đến nay, bằng chứng cho thấy là khi trái tim ngừng
đập, máu sẽ không còn luân lưu trong cơ thể, tất cả đều đi vào trạng thái bất
động. Não bộ chấm dứt hoạt động trong vòng 10 giây sau đó. Một điều khá thích
thú là –khi chúng tôi, những bác sĩ điều trị, cố gắng tìm cách can thiệp vào
bằng cách xoa bóp ngực, cho thuốc, kích thích trái tim- mặc cho tất cả những nỗ
lực này có thể kéo dài hàng chục phút hay cả giờ, các cuộc nghiên cứu đều cho
thấy là chúng ta vẫn không thể nào bơm đủ liều lượng máu cần thiết vào não bộ
để cho nó hoạt động trở lại.
Vậy thì điều gì đã xảy ra cho tâm ở giây phút này? Cụ thể
hơn, trong trường hợp của tôi, điều gì đã xảy ra cho bệnh nhân mà tôi đang điều
trị? Cái tâm của y có còn ở đó hay không? Chúng ta nghĩ rằng tâm cũng sẽ chấm
dứt hoạt động chỉ trong vòng vài giây đồng hồ. tuy nhiên một điều thích thú là,
trong 5 cuộc nghiên cứu độc lập khác nhau -một là của tôi- có từ 10 đến 20 phần
trăm những người đã được công nhận chết lâm sàng, người ta vẫn ghi nhận được có
những dấu hiệu về một số hoạt động của tâm. Nó cho thấy một điều rằng, ở trong
con người có một số loại hình ý thức nào đó vẫn còn hiện diện cho dù não bộ đã
không còn hoạt động nữa.
Những điều mà họ mô tả được gọi là kinh nghiệm cận tử. Đây
là cảnh giới chủ quan, giống như ỏ trong giấc mơ. Thông thường, họ bảo rằng,
“Tôi đã thấy một cái đường hầm, Tôi đã thấy ánh sáng.” Chúng ta không thể nào
thẩm định được những điều này. Tôi không thể nào nói rằng giấc mơ của bạn là
thực hay không thực. Một số người sau khi được hồi sinh đã kể lại rằng họ đã
thấy quang cảnh bác sĩ và y tá đang làm việc với những chi tiết đặc thù. Thế
thì câu hỏi đặt ra là –nó có xảy ra đúng như vậy không? Có thực sự như vậy
không? Những Bác sĩ và y tá tại hiện trường đều xác nhận về những điều mà bệnh
nhân mô tả là đúng. Điều này có nghĩa là bệnh nhân khi sống lại đã nhớ lại tất
cả những gì đã xảy ra. Vậy thì họ đã thực sự trông thấy? Trông thấy bằng cách
nào? Hoặc giả lúc đó tâm của họ đang thực sự lơ lửng ở một nơi nào đó trên trần
nhà?
Điểm quan trọng ở đây là, không ai với đầu óc bình thường
lại có thể phủ nhân kinh nghiệm này đã xảy ra. Câu trả lời dễ dàng nhất thì cứ
cho rằng đây chỉ là một tró chơi của tâm, một cái ảo ảnh. Nhưng vấn nạn là, khi
sống lại họ đã nói cho chúng ta biết tất cả những gì đã thực sự xảy ra tại
phòng hồi sinh. Thế nên khó mà cho rằng đây chỉ là một ảo ảnh. Người ta chỉ có
thể giải thích rằng sự việc như thế xảy ra vào ngay thời điểm khi não bộ vừa
ngưng hoạt động hay là vừa mới phục hồi. Chẳng hạn như bạn nằm mơ thấy mình
đang sống ở một nơi nào đó cả hàng năm trời, nhưng nó chỉ có thể xảy ra trong
thời gian thực tế chưa tới một phần triệu giây đồng hồ. Cũng vậy, ngay lúc não
bộ bắt đầu ngưng hoạt động, bạn liền có ngay cái kinh nghiệm nhanh chóng tại
hiện trường và cảm tưởng như là mình đã có mặt ở đó trong suốt thời gian. Tuy
nhiên vấn đề ở đây là, hãy tạm gác qua một bên những chuyện đường hầm và ánh
sáng, những bệnh nhân sống lại đã kể cho chúng ta nghe những chi tiết rất đặc
thù, “Nó có thể đã xảy ra vào khoảng 9:15AM.” Và những sự kiện mô tả đã xảy ra
trong khoảng từ 10 đến 20 phút.
Một cách giải thích khác là họ thực sự trông thấy mọi
việc. Họ đã nhắm mắt và chuyện xảy ra là có thể họ mở mắt ra lại ở một lúc nào
đó và chúng bắt đầu tích lũy dữ kiện rồi não bộ thu lượm những dữ kiện này.
Điểm then chốt của cách lý giải này là bệnh nhân đã thực sự trông thấy mọi
chuyện đang xảy ra.
Tâm vẫn còn là một bí mật. Chúng ta không thể hiểu được.
Có thể tâm là phi-cục-bộ với não bộ. Nếu bạn đem vấn đề này hỏi những nhà vật
lý lượng tử thì có thể như vậy bởi vì chúng ta hiểu rằng ở mức độ này, mọi sự
vật có tính phi-cục-bộ. Chúng ứng xử trong một cách thế có vẻ không giống ai.
Bác sĩ hy vọng đạt được những gì thông qua công trình
nghiên cứu này?
Tiến bộ về y khoa? Một sự hiểu biết sâu sắc hơn về cái
chết?
Tất cả những gì mà chúng ta làm trong lãnh vực y khoa đều
mang đến phúc lợi cho xã hội. Nếu bạn bỗng dưng khám phá ra một phương thuốc
điều trị bệnh ung thư, đó là một bước tiến của y khoa nhưng chung cuộc vẫn là
một bước tiến của xã hội. Đây là một công trình nghiên cứu y khoa sẽ mang đến
phúc lợi cho toàn xã hội. Công việc này khá quan trọng bởi vì những hiểu biết
của chúng ta về tâm và não rất ít oi. Trong đa số trường hợp, chúng ta không
thể tách lìa chúng. Chỉ trong trường hợp chết lâm sàng hoặc bị đứng tim, tâm và
bão bộ mới có thể tách rời khỏi nhau. Và nếu như chúng có thể được tách rời ra
thì vấn đề này sẽ có những tác động đến khoa thần kinh học.
Phần lớn công việc mà chúng tôi đang làm là nghiên cứu
những gì xảy ra cho não bộ cùng phương thức mà chúng tôi có thể cải thiện vấn
đề hồi sinh đối với trường hợp đứng tim, cải thiện phương thức trông nom những
bệnh nhân tim vừa mới ngưng đập. Nếu chúng tôi mang được bệnh nhân trở lại với
đời sống kịp thời, sẽ tránh được cho họ những thiệt hại về hệ thần kinh, những
hư hỏng về trí não, và những bất bình thường khác.
Nó thực sự mở ra một viễn cảnh vô tận. Một đằng là chuyên
về tim và đằng khác là khoa thần kinh học. Một cách tổng quát, nó sẽ mang phúc
lợi đến cho mọi người.
Trường hợp cận tử (NDE)
Bằng cách nào bác sĩ có thể xác nghiệm tính cách đúng đắn
về những kinh nghiệm xảy ra mà bệnh nhân cận tử mô tả lại?
Chúng tôi cho thiết trí một bộ phận giống như cái kệ ở
ngay phía trên đầu giường của bệnh nhân. Phía bề mặt của cái kệ quay xuống dưới
-tức là phía mà bạn có thể trông thấy khi đang nằm ngữa ở trên giường quay mặt
nhìn lên- có một cái hình tam giác. Ở phía kia, tức là phía mà bạn chỉ có thể
trông thấy được khi ở trên trần nhà nhìn xuống (bệnh nhân không thể trông thấy
được), có vẽ một bức tranh tương đối phức tạp.
Hãy hình dung bạn đang nằm trên giường bệnh viện mà ở phía
trên mình là một cái kệ. Nếu người nào đó (tức là bệnh nhân kể lại về kinh
nghiệm cận tử) sau khi sống lại và mô tả là họ đã thấy một hình ảnh nào đó,
trường hợp này như đã nói ở trên là một trò chơi của tâm, một ảo ảnh. Nếu họ
bảo rằng họ trông thấy một cái hình tam giác, thì có thể là bởi vì họ đã mở mắt
ra. Còn nếu khi sống lại họ cho biết là đã nhìn thấy cái bức tranh phức tạp kia,
điều này có nghĩa là ý thức (tâm) của họ tiếp tục tồn tại.
Trong công trình nghiên cứu này chúng tôi muốn cho thiết
trí khoảng từ 50 đến 100 cái loại kệ này, tối thiểu ở khoảng 25 bệnh viện.
Chúng tôi đã thực hiện được khoảng một nữa -phần lớn là tại Anh quốc. Chúng tôi
cũng có 9 trung tâm tại Hoa Kỳ, và chúng tôi đã tiên phong thử nghiệm phương
pháp này tại Anh từ 18 tháng nay. Trong khi chúng tôi không thể nào tiên đoán
được lúc nào thì trường hợp đứng tim sẽ xảy ra, chúng tôi nghĩ rằng nơi có khả
năng xảy ra là phòng cấp cứu và phòng bệnh nhân nguy kịch. Một khi đã được
thiết bị xong, chúng tôi chỉ làm công việc theo dõi. Và rồi chúng tôi phỏng vấn
những người sống lại. Nếu chúng tôi có thể bắt gặp được trường hợp đứng tim
đúng lúc, chúng tôi có thể cho gắn máy theo dõi não bộ.
Chúng tôi cũng đang sử dụng một phương tiện kỹ thuật tối tân hiện nay trong
việc khảo sát não bộ gọi là INVOS [in-vivo optical spectroscopy] dùng để đo
lượng oxy trong não. Tất cả những cuộc nghiên cứu trước đây đều cho biết là dù
cố gắng cách nào chúng ta cũng không thể đưa đủ lượng máu cần thiết vào não.
Làm sao để bạn biết được chuyện này? Biết đâu có thể đã có đủ máu ở trong não
nhưng tại vì bạn không biết mà thôi. Với INVOS, chúng ta sẽ biết một cách chính
xác bao nhiêu máu đã được bơm vào não và như thế chúng ta có thể ghi nhận được
mối liên hệ tương quan với trường hợp cận tử. Đây là điều chưa từng được thực
hiện trước đây.
Cho đến nay loại dữ kiện nào mà bác sĩ đã thu lượm được?
Chỉ là những dữ kiện rất mực tiên khởi. Chúng tôi chỉ mới
bước vào giai đoạn điều chỉnh một cách tốt đẹp phương pháp nghiên cứu này.
Chúng tôi mới có một số nhỏ đối tượng nghiên cứu và muốn nâng con số này lên
1,500 người. Lý do là tỷ lệ những người có kinh nghiệm cận tử, sống sót qua cơn
đứng tim, rất là ít oi, chỉ khoảng 2%. Đó là lý do tại sao chúng tôi phải có
rất nhiều bệnh nhân và bệnh viện để công trình nghiên cứu này có thể đạt được
kết quả. Không những người sống sót đã hiếm mà trong số những người này, kinh
nghiệm về cận tử lại càng hiếm hơn.
Tâm vẫn là một bí mật hàng đầu.
Hồi nào thì bác sĩ quan tâm đến chuyện có sự phân cách
giữa tâm và não bộ?
Tôi bắt đầu quan tâm đến vấn đề này khi còn là một sinh
viên y khoa, mười lăm năm trước đây. Khi mà bạn -những y tá, bác sĩ- phải đối
diện và có những quyết định liên quan đến những vấn đề sống chết (cụ thể như có
nên thực hiện việc hồi sinh cho bệnh nhân này không?), tất cả đều chỉ đơn thuần
dựa trên những ý kiến chủ quan, và dĩ nhiên là có một sự mù mờ trong đó.
Trong năm cuối cùng trước khi tốt nghiệp, tôi đã chứng
kiến một số lượng bệnh nhân bị đột tử vì đứng tim. Trong đó có một trưởng hợp
đặc biệt, đó là một bệnh nhân mà tôi đã từng quen biết trước đây. Một hôm, tôi
vừa mới rời phòng anh ta chừng 30 phút vì anh ta trông có vẻ khỏe khoắn thì nhận
được cấp báo là có một trường hợp đứng tim xảy ra. Bất hạnh thay, trường hợp đó
lại chính là anh ta.
Bây giờ nhớ lại, khi thấy anh ta nằm bất động ở trên
giường tôi không khỏi khởi lên suy nghĩ: “Chuyện gì đang xảy ra cho cái tâm và
ý thức của anh ta? Anh ta có thể nghe hay nhìn thấy chúng tôi không?” Tôi đã
từng nghe những mẩu chuyện như vậy về những người có kinh nghiệm cận tử, thế
nhưng vẫn chưa có câu trả lời chính thức của khoa học. Tôi nghĩ đó là giây phút
quyết định của đời tôi.
Ngay cả lúc còn là một sinh viên y khoa tôi đã rất thích
thú trong việc tìm hiểu tâm là gì, và mối liên hệ của nó với não bộ ra sao. Tại
sao chúng ta là một nhất thể toàn vẹn như là những cá nhân với những nhân cách,
cảm xúc, tình cảm? Trước đây tôi tin rằng tất cả đều bị cắt đứt, khô kiệt (khi
một người chết) cho đến khi tôi bắt đầu nhìn sâu chi tiết vào vấn đề này. Có
thể nói đây là lãnh vực cuối cùng của khoa học hoàn toàn chưa được khám phá.
Thế thì, trên quan điểm cá nhân, bác sĩ tin rằng tâm là
cái gì?
Ngay bây giờ, dĩ nhiên, tôi không có câu trả lời cho bạn.
Tâm vẫn là một bí ần hàng đầu. Mặc dầu đa phần mỗi con người chúng ta không
ngừng phóng thích những hoạt động điện tử, nhưng không ai đưa ra được một thí
nghiệm hay là một bằng chứng khả tín nào về cơ chế vận hành sinh học.
Nếu tôi bảo bạn nhìn vào một cái tế bào não ở trong kính
hiển vi và bảo rằng, “Cái tế bào não này đang suy nghĩ hay đang mệt mỏi,” chắc
bạn sẽ tự bảo mình, “Cái ông này ăn nói ba trợn. Làm sao mà nó có thể sản xuất
ra một tư tưởng, ý nghĩ được.” Chuyện gì xảy ra khi bạn nối kết, 2 hay 100, hay
1,000 hoặc 1 triệu tế bào não lại với nhau? Những tư tưởng phát xuất từ đâu?
Không ai biết. Không ai có thể giải thích. Điều này đưa ta đến vấn nạn trong
việc tìm hiểu về ý thức.
Hiện đang có hai khuynh hướng liên quan đến vấn đề này.
Một phe thuộc khuynh hướng cổ điển, quy ước hơn, cho rằng có những hoạt động
điện-hoá xảy ra trong não bộ, nhưng họ không thể giải thích được như thế nào.
Còn phe kia thì thú nhận rằng đó là một thực thể mà khoa học chưa khám phá được
cho nên không thể giải thích tiến trình được biết của não bộ. Cũng chẳng khác
gì toán học và trọng lực. Bạn không thể phân chia trọng lực ra thành những mảnh
nhỏ. Trọng lực là trọng lực.
Có thể nói có đến khoảng chín mươi chín phần trăm thời
gian của đời sống, bạn không thể nào tách rời tâm và não ra khỏi nhau. Tuy
nhiên trong một số trường hợp hiếm hoi, bạn có thể làm được việc này bởi vì não
hoàn toàn ngưng hoạt động và bạn có thể quan sát được những gì xảy ra đối với
tâm. Nếu quan điểm của phe thứ nhất là đúng -rằng đó là những hoạt động của tế
bào não - thế thì khi bạn cho não ngừng hoạt động, cái tâm cũng sẽ phải biến
mất theo. Cũng giống như ánh sáng, khi bạn tắt điện, ánh sáng tắt theo, khi bạn
mở điện, ánh sáng trở lại. Và như vậy, một khi bạn tắt điện mà ánh sánh vẫn còn
–có nghĩa rằng nó không phải là nguồn của ánh sáng. Đây là một thực thể khoa
học hoàn toàn mới mẻ. Nghiên cứu vấn đề này rất mực thú vị bởi vì đây có thể là
lần duy nhất chúng ta có mọi câu trả lời dứt điểm cho một câu hỏi đã từng được
nêu lên từ thời Hy Lạp cổ. Người ta đã không ngừng tranh luận nhau về vấn đề
này qua mọi nền văn minh trên thế giới. Và bây giờ họ vẫn tiếp tục tranh luận,
cũng cùng một vấn đề đó, và cũng cùng hai phe đó.