Một người dân bình thường ở nước ta trong cuộc sống hằng ngày đều rất
trọng tội, phước; cho nên tự họ không muốn gây ra những tội ác bằng tay
chân, bằng lời nói, bằng tâm ý, mà lại còn khuyên can mỗi khi thấy người
khác sắp phạm sai lầm, và rất buồn mà thấy những ai làm đau khổ kẻ chung
quanh. Cái lòng trắc ẩn ấy phổ cập đến hạng cầm thú và cả loài thảo mộc
nữa.
Không nói đến người đã từng thọ giới nhà Phật thì giữ thân, lời nói, tâm
ý đều dè dặt và thanh cao đã đành, mà một người tầm thường ăn buổi mai
lo buổi chiều, không biết chữ mà xem kinh kệ, không mấy khi rỗi rãnh mà
đến lạy Phật, lạy thầy, người ấy cũng vẫn thâm nhiễm sự từ bi, hỷ xả tự
lâu đời của dân tộc, cũng biết thương người như thương thân vậy.
Nhờ thấm nhuần những lý tội, phước, luân hồi, nghiệp báo từ khi còn nhỏ,
người Việt Nam ta không dám ăn ở sai lạc đối với những lý công bằng,
tinh vi ấy. Cái lòng hiền hậu đó thường phát lộ ra lời ăn tiếng nói.
Chính họ chịu lấy ảnh hưởng thâm trầm của đạo Phật mà không hay biết. Họ
thường dùng những danh từ trong văn chương, trong kinh điển đạo Phật,
thế mà họ vẫn cho là những danh từ thông dụng xưa nay. Lắm lúc họ dùng
có sai lạc, nhưng sự đó càng tỏ ra rằng ảnh hưởng ngôi Tam Bảo thấm
nhuần vào tâm trí của họ tự lúc bé thơ!
Mỗi khi thấy ai ăn ở nhân đức, hay cứu giúp người trong cơn hoạn nạn,
tật bệnh, người bình dân thường hay bảo rằng: “Tội nghiệp, ông ấy hiền
từ hết sức!” Mỗi khi lâm cơn nguy biến mà cầu cứu ai thì họ nói: “Tội
nghiệp, ông ra ơn giúp tôi một lần. Ông làm sự ấy bằng cất năm bảy cảnh
chùa.” Tỏ lòng biết ơn với ai thì họ thốt lên rằng: “Kiếp sau, nguyện
làm thân trâu ngựa mà trả nghĩa sâu.”
Mong ai mở lòng quảng đại thì họ van rằng: “Xin mở lòng Bồ Tát, tỏ đức
hiếu sanh, ra tay tế độ.”
Mỗi khi thấy ai ở ác, họ cũng dùng nhiều danh từ về đạo Phật mà họ cho
là rất thấm thía, xác đáng. “Anh ấy làm chuyện ác đó bằng phá chùa phá
miếu. Tội ấy dù tu mấy kiếp cũng chẳng đền bù. Chừng thác, đố chạy đâu
cho khỏi Địa ngục.” Thấy ai nới láo nói xược, họ trách rằng: “không sợ
quỷ sứ cắt lưỡi.”
Thấy ai ăn nói ngang tàng, hay gây gổ thì họ bảo: “hay sân si”. Thấy
những con gái trắc nết, họ than rằng: “Không sợ vào địa ngục.” Hoặc họ
đọc lên câu tục ngữ này: “Có chồng mà lại lấy trai, thác xuống âm phủ,
cưa hai nấu dù.”
Thấy những kẻ nói năng êm dịu mà lòng độc dữ, họ bảo rằng: “Thật là khẩu
Phật tâm xà.”
Thấy ai ăn ở hiền đức hưởng sự giàu sang, họ nói rằng: “Có phước, tu
nhân tích đức.” Thấy ai tướng tốt, uy nghi, thuần hậu, họ khen rằng:
“tiên giáng thế”.
Về đường tình ái, họ cũng dùng lắm danh từ trong văn chương nhà Phật:
“Có duyên ngàn dặm cũng gần, vô duyên dù gặp mấy lần cũng xa.” “Nhân
duyên tiền định, duyên nợ ba sanh...”
Thấy ai có tài mà sa sút, lâm cơn hoạn nạn, thì họ thương mà than rằng:
“Tài mạng tương đố, bạc mạng, nghiệp chướng”. Hoặc họ an ủi rằng: “Tại
phần số, gặp bước phong trần, song cũng có ngày vinh hiển, thôi đừng
phiền não, phiền muộn.”
Trong sự buồn về gia thế, về nỗi phu thê, tình phụ tử, người bình dân ta
hay than trách rằng: “Tội báo oan gia, tiền căn hậu báo, rõ ràng là cảnh
Địa ngục.”
Than phiền những cảnh dời đổi trong đời, những sự thành bại quá mau, họ
gọi rằng: “Cơn dâu bể, tuồng ảo hóa, bể khổ bến mê, bể trần, bể trầm
luân.”
Sống trong cuộc đời bình dị, họ cho là: “muối dưa đắp đổi tháng ngày.”
Có ăn năn sự lỗi, họ đổ cho là: “Ma dắt lối, quỷ đưa đường.”
Buồn rầu mãi không khuây, họ than rằng: “lửa phiền càng dập càng khêu
mối phiền.”
Thấy những đám đông đảo, họ bảo: “đông như La-hán, hằng hà sa số...”
Muốn biện minh lòng ngay thật của mình cho khỏi người ta nghi oan, họ
kêu lên: “Chín phương trời, mười phương Phật...”
Thấy ai ngồi im lìm chẳng cử động, họ bảo là “ngồi từ bi”.
Uống nước gì ngon mà họ khoái chí, thì họ cho là: “nước cam lồ”.
Ai cầu nguyện sự chi rất khó, thì họ khuyên nên “ăn chay, nằm đất”. Có
khi họ dùng tiếng ấy một cách mỉa mai đối với hàng phong lưu trong cơn
rủi bước, lạc đường.
Cũng có lúc họ nói cợt mà chỉ ra sắc đẹp lộng lẫy của hàng phụ nữ: “Dù
cho Phật Bồ Tát cũng phải sa!”
Tóm lại, dù vui, dù buồn, dù sướng, dù khổ; ở trong cảnh thường, hay
cảnh biến, dù ăn nói nghiêm trang hay giễu cợt, dù khen tặng hay than
van, người bình dân ta thường dùng một cách vô tâm những danh từ nhà
Phật mà họ từng quen thuộc từ lúc lên ba!
Cái ảnh hưởng thuần lương, thâm thúy ấy lại càng tỏ ra trong những khi
họ hừng chí, xúc cảm đối với nước non, đối với ái tình, thương cha nhớ
mẹ mà ngâm bắt vần thành những bài ca dao chất phác, ngộ nghĩnh, êm đềm.