Tôi đi chùa, không hiểu sao rất thích hai chữ Bồ Tát. Trong chùa, tượng
Phật quá chừng nhiều, mà tượng Bồ Tát rất ít, hầu như chỉ có Quán Thế Âm
cầm cành dương liễu đứng giữa ao sen. Lâu lâu mới gặp một chùa có tượng
Đại Thế Chí, Văn Thù Sư Lợi, Đại Hạnh Phổ Hiền. Tôi không thoả mãn,
muốn biết thiệt nhiều Bồ Tát nữa kìa.
Tối đó, tôi nằm mơ, thấy Đức Phật cười thật tươi. “Sáng mai con sẽ được
gặp Bồ Tát.” Tôi chắp tay xá lia lịa. “Dạ, dạ, con đội ơn Đức Phật.”
Cả buổi sáng hôm sau, tôi chẳng dám đi đâu cả, cứ ngồi nhà thắp hương
đợi Bồ Tát. Chờ hoài không thấy. Đồng hồ chỉ 11g. Trời đã sang trưa. Tôi
thở dài, “Chiêm bao không lẽ có thiệt!” Thế là tôi đứng dậy đi ăn cơm
bụi, vì bữa nay mắc chờ Bồ Tát nên không đi chợ nấu cơm gì ráo.
Ăn xong, tôi ngẫu hứng chạy luôn tới nhà nhỏ bạn mà khá lâu không thăm viếng. Hôm nay chúa nhật chắc nó được nghỉ làm.
Cảnh nhà hiện ra khiến tôi bàng hoàng. Trời, sao mà xuống cấp dữ vậy?
Hình như mới một năm không gặp... Đời sống đô thị vậy đó, có khi quận
này cách quận kia không bao xa nhưng người ta vẫn không đi thăm nhau
được. Vì công việc bề bộn, làm trong giờ, làm ngoài giờ, học thêm buổi
tối, về nhà lo vợ chồng, con cái... Đến chúa nhật cũng chưa chắc rảnh,
nào đưa con đi học võ, học bơi, nào đi siêu thị mua thức ăn cho cả tuần,
nào dọn dẹp nhà cửa, ủi quần áo cho sáu ngày còn lại, rồi đám giỗ, đám
cưới, thôi nôi, đầy tháng bây giờ cũng “đè” chúa nhật ra mà mời... Cho
nên, bạn bè rốt cuộc chỉ còn quanh quẩn những người trong cơ quan là
chính, chứ bạn cũ, bạn hồi phổ thông như nhỏ Thảo này thì đâu còn dành
bao nhiêu cơ hội.
Tôi đến, đúng lúc Thảo đang dỗ dành người cha say xỉn lè nhè chịu nằm
xuống ngủ yên. Ông gầy nhom, nhưng bụng trướng to vì bệnh gan, Thảo nói
đã trị cả năm nay chưa bớt. Bác sĩ không cho uống rượu, nhưng ông thèm,
lâu lâu lén tợp vài ly. Thế là vừa lên cơn đau, vừa kích thích thần
kinh, nói năng um sùm. Mẹ Thảo bực dọc, rầy mắng om lên nữa, hoặc ca cẩm
suốt ngày bên tai Thảo. Tôi nhìn vào góc nhà, nơi có một căn phòng nhỏ
mờ tối, cánh cửa phòng là những song sắt rất to được khoá chặt, trong
nhốt cậu em trai của Thảo bị bệnh tâm thần. Cậu ta đã hơn 30 tuổi, chưa
vợ, ăn học đàng hoàng, tự nhiên phát bệnh, đập phá, chạy rong ngoài
đường. Điều trị ở bệnh viện hơi bớt một chút thì phải lãnh về nhà, vì
bệnh viện quá đông bệnh nhân. Cậu ta trông thấy tôi liền cười ré lên và
dộng cửa đòi ra. Tiếng khoá va đập loảng xoảng. Thảo chạy đến dỗ em.
“Nè, ăn kẹo đi, rồi ngồi xuống chơi, đừng la nữa nghen, chị thương.” Cậu
ta dịu lại. Thảo cười, “Nó chỉ nghe lời mình thôi.”
Thảo quay sang thăm chừng siêu thuốc sắc cho ba uống. “Hết tiền uống
thuốc tây rồi, mà uống hoài thấy không kết quả lắm. Đổi sang thuốc nam,
coi bộ đỡ.” Tôi thở dài, “Một mình bạn với đồng lương y tá mà trang trải
hết cho gia đình, làm sao đủ...” “Không đủ cũng phải đủ.” “Rồi Thảo
không tính chuyện lập gia đình?” “Hì, ai dám nhào vô lãnh 3, 4 người
này? Có người đi hỏi, nhưng mình theo chồng thì ai chăm sóc ba má và
thằng út. Anh chị Hai ra riêng cũng đâu khá giả gì. Thôi từ từ tính.” Từ
từ là đến bao giờ? Thảo đã xấp xỉ 40, mái tóc chớm nhiều sợi bạc. Tôi
biết, Thảo đã chọn con đường cho mình.
Nhưng lạ, suốt đến chiều tôi không hề nghe Thảo than van một tiếng,
trong khi tôi quá mệt vì tiếng dộng cửa la hét của cậu em trai, tiếng
rên rỉ của ông bố và tiếng ca cẩm của bà mẹ. Thảo kể lại chuyện nhà cho
tôi nghe bằng một giọng đều đều, bình thản. Lâu lâu lại còn cười dỗ
người này người kia nữa chứ. Và cuối cùng Thảo tiễn tôi ra về với câu:
“Quen rồi, bạn đừng lo cho mình.” Tôi đưa Thảo số tiền giúp ông bố uống
thuốc, Thảo từ chối. “Chừng nào kẹt, mình sẽ nhờ đến bạn.”
Tối đó, tôi mệt nhoài, đi ngủ sớm. Trong giấc mơ tôi lại thấy Phật hiện
ra. Tôi khiếu nại liền: “Sao Phật hổng cho con gặp Bồ Tát? Con chờ hoài,
đi chơi, lại gặp cảnh khổ, mệt quá chừng. Con mà như nhỏ Thảo chắc
con... chết!” Phật cười: “Vậy sáng mai con sẽ gặp.”
Tôi lại trang hoàng nhà cửa để đợi Bồ Tát. Nhưng chợt thằng em họ của
tôi từ đâu ập vào. Tôi líu lưỡi: “Ơ... mi là...là...Bồ...” Chú em trố
mắt nhìn tôi: “Ủa, chị không nhận ra em hả? Ghé rủ chị đi chơi.” “Không,
ta đang chờ...” “Chờ ai? Đi làm giúp em cái này. Không có chị một mình
em xoay sở không kịp.” Nó cứ khẩn khoản mãi, tôi đành chịu. “Lạy Bồ Tát,
cho con khất bữa nay, chắc Bồ Tát không giận.” Thiệt tình, bởi tôi cũng
hơi... nản, vì nắng đã lên cao rồi mà cũng không thấy Bồ Tát, hổng
chừng đón hụt như hôm nọ nữa. Thôi, đi một chút xem sao.
Chú em họ chở tôi trên honda phóng vèo vèo. Xe ra khỏi ngoại thành, rồi
băng qua một cánh đồng, lọt thỏm vào một xã ấp nào đó có con đường gập
ghềnh đá sỏi, dằn xóc khiến bụng tôi ê ẩm. Chú em cười hề hề khi tôi
nhăn nhó. “Nói trước thì chị dễ gì chịu đi. Lừa bà như vầy mới được!”
Xe dừng trước một phòng học đơn sơ có tấm bảng ghi Lớp học tình thương.
Mấy chục cặp mắt trong lớp lố nhố nhìn ra. Hai phụ nữ đang đứng trên bục
giảng vội chạy ra đón chúng tôi. “Đây là cô giáo Xương và cô giáo Lãm,
đang phụ trách hai lớp sáng chiều. Em quen hai cô lúc đi công tác về xã
này. Còn đây là chị họ của em, thưa cô.” Hai cô giáo tươi cười: “Cả lớp
chờ cậu Minh từ sáng. Cậu hứa về thăm các em, dạy các em hát và sinh
hoạt tập thể.” Chú em lật đật vô lớp, bày trò liền với tụi nhỏ. Tôi ngồi
ngoài hàng hiên trò chuyện cùng hai cô giáo trước khi chú em nhờ tôi
tiếp giúp cái gì cũng chưa biết.
Cô Xương 65, cô Lãm 67 tuổi, người gầy, mặc áo bà ba, quần đen giản dị.
Cô nói cô dạy tiểu học mấy chục năm, đã về hưu, nhưng thấy trong xã ấp
còn nhiều em quá nghèo không đi học được, suốt ngày đi bán vé số, móc
bọc ni-lông, mò cua bắt cá, nên hai cô lại đứng ra mở lớp học tình
thương này. Có lương bổng gì đâu, còn trích lương hưu ra mua tập vở cho
các em nữa. Hai chiếc xe đạp dựng ở bờ tường loang lổ là của hai cô,
vượt gần 5 cây số từ nhà đến lớp, mà buổi sáng chỉ dám ăn điểm tâm bằng
một củ khoai. Tôi nhìn con đường dằn xóc mà ngán ngược trong bụng.
Cô Xương cười: “Mệt đâu có bằng đến từng nhà năn nỉ ba má mấy em chịu
cho con tới lớp. Vì đứa nào cũng có thể làm kiếm tiền phụ giúp gia đình,
nên cha mẹ không muốn con đi học, sợ mất thu nhập. Cô phải năn nỉ gãy
lưỡi. Có người còn nói sao cô làm chuyện bao đồng, già rồi thì nghỉ cho
khoẻ, hổng có lương dạy chi mà ham dữ vậy.” Kể xong, cô cười rung cả mái
tóc bạc. Cô Lãm tiếp lời: “Nói vậy chớ sau này họ đã hiểu ra. Gần 10
năm rồi, cũng đủ sức thuyết phục.”
Một nhóm học trò buổi chiều nghe có khách nên chạy tới lớp sớm để xem.
Các em nói chuyện một hồi bèn gây lộn, chửi thề. Cô Xương kêu các em
lại: “Nè, cô dạy đừng có chửi thề, quên rồi phải hôn?” Em học trò thanh
minh: “Dạ, tại nó chọc em đó cô.” Đứa bạn kia sừng sộ: “Ai biểu mầy kêu
tên má tao.” Cô Xương nghiêm mặt: “Em nào cũng lỗi. Kêu tên người lớn là
bậy. Chửi thề cũng bậy. Tính sao với cô đây?” Hai đứa học trò cùng
khoanh tay xin lỗi cô.
Tôi nhìn hai đứa trẻ gầy nhom, đen thui, vẻ mặt sớm nhuộm nét phong
trần. Bộ quần áo chúng mặc rất cũ, và dưới chân là đôi dép đứt quai gần
phân nửa. Tập vở bút mực bỏ vào cái bọc ni-lông được gọi là “cặp.” Tôi
nén một tiếng thở dài.
Cô Xương hiểu ý: “Học trò của cô là như vậy đó. Dạy mệt lắm, uốn từng
chút như uốn cái cây, phải kiên nhẫn. Nhưng lâu ngày các em cũng ngoan
dần dần. Và nhiều em đã học xong lớp 5, cô xin cho ra trường phổ thông
học lớp 6, giỏi không thua gì con nhà tử tế.” “Vậy cô tính dạy tới chừng
nào mới nghỉ dưỡng già?” “Bao giờ hết trẻ em nghèo thì cô nghỉ chớ.” Cô
cười thật tươi. Tôi giả bộ xin đi ra chợ, lén mua mấy hộp sữa bỏ vào
giỏ của cô trước khi ra về. Mong cô có sức khoẻ để mỗi sáng đạp xe 5 cây
số cô nhé!
Thế là giấc mơ hội ngộ Bồ Tát của tôi phải dời thêm một lần nữa. Ôi
chao, cảnh đời sao quá xá mệt! Bồ Tát ơi, mau cứu giúp chúng sanh! Tôi
thiếp đi trong ý nghĩ ấy.
Phật chẳng còn hiện ra trong giấc chiêm bao của tôi nữa, chỉ nghe hình
như văng vẳng một câu: “Ngày nào con cũng sẽ được gặp Bồ Tát. Khỏi chờ
đợi, khi gặp thì tự nhiên gặp mà thôi.” Tôi choàng tỉnh dậy.
Tôi trở lại với nếp sinh hoạt cũ. Đi làm, đi học, về nhà, đi chùa, đi
chơi... Nhưng ở đâu tôi cũng chú tâm tìm kiếm, mong ngóng Bồ Tát. Giữa
đám đông, thấy một bóng áo lấp lánh, tôi ba chân bốn cẳng chạy tới. Thì
ra chỉ là cái áo thêu kim tuyến của một cô gái. Nhưng dù không tin vào
chuyện thần bí tôi vẫn chắc chắn rằng hễ Bồ Tát xuất hiện thì sẽ phải
khác người, sẽ lộng lẫy hơn, đặc biệt hơn chứ. Tôi không thể bỏ cuộc.
Tôi về quê công tác. UBND xã phải qua một bến đò, có ông lão gần 70 tuổi
chèo thoăn thoắt. Mà lạ, đò cập bến, hành khách bước lên bờ rồi... đi
luôn, không thấy ai trả tiền cho ông lão. Tôi rụt rè hỏi: “Ông ơi, bộ ở
đây người ta mua vé tháng hả ông?” Ông cười hềnh hệch: “Đâu có. Ông đưa
miễn phí không hà. Cháu chắc mới đi lần đầu?” “Dạ.” Ông gác mái chèo,
dẫn tôi vào căn nhà lá nhỏ ven bến sông. “Nhà của ông đây. Cháu không
gấp thì ngồi nghỉ chân, uống chén nước. Giờ này ít khách, mình nghỉ một
lát không sao.” Đã có sẵn bình trà đặt trong bộ vỏ dừa giữ ấm, ông rót
cho tôi một chén nhỏ. Tôi hỏi hoài, ông mới kể. Thì ra ông đã đưa đò
giúp bà con trong làng gần 30 năm rồi. Con sông khúc này không có cầu
qua lại, đi vòng thì rất xa, nên ông tự sắm chiếc đò nhỏ rồi ngày ngày
giúp các em học sinh tới trường, giúp mấy bà mấy cô tới chợ, hoặc mấy
anh chị công chức qua sông. Ai trả tiền ông cũng không lấy. Ông bà sống
bằng mấy công vườn tạp quanh nhà, trồng chuối mít sơ sài đủ mua gạo, mắm
muối. Bà con thương, lâu lâu tát mương biếu ông con cá, rổ tép. Còn
chiếc ghe lâu ngày mục nát, thì cả xóm xúm nhau lại đóng, người hạ cây,
người xẻ gỗ, người trét chai. Bến đò có duyên, UBND xã tặng ông và tặng
cả xóm cái bằng khen. Nhưng không có cái bằng khen nào bằng tình nghĩa
trong làng đối với nhau, cháu à!
Tôi vác ba lô lên đường, lòng bồi hồi nhớ chén trà ấm áp nơi bến sông nghèo.
Công tác xong, tôi tạt qua huyện bên, thăm lại ngôi chùa Kim Huê hồi nhỏ
có về dự lễ Vu Lan cùng bà ngoại. Chùa hướng mặt ra một con rạch nho
nhỏ, nước trong xanh soi rõ hàng bạch đàn phơ phất lá. Tôi qua cổng tam
quan, gõ chân xuống những viên gạch tàu màu đỏ nay đã nhuốm màu rêu
xanh. Sân chùa im ắng, nghe rõ tiếng con chim hót trên cây mận đang rải
những chùm hoa trắng muốt. Hình như có bóng người nơi góc sân. Tôi bước
đến. Thì ra là sư ông. Mô Phật! Tôi chắp tay xá sư ông mà nước mắt muốn
chảy ra.
Sư ông mặc chiếc áo vạt hò nâu cũ kỹ, cái quần vá chằng vá đụp xắn cao
lên một chút cho khỏi vướng. Sư ông đang cúi người cưa một khúc củi bằng
cây cưa nhỏ. Vóc dáng nhỏ bé, khuôn mặt gầy thanh thoát, nhẹ nhàng đưa
lưỡi cưa tạo thành những âm thanh đều đều bình tĩnh. Mạt cưa văng nhẹ
hai bên, vàng nhạt dịu dàng. Ai tin được đó là sư ông trụ trì đã hơn
“thất thập cổ lai hi”.
Tôi nhăn nhó: “Trời ơi, quý thầy trẻ đâu không cưa củi mà sư ông phải
làm?” Sư ông cười: “Quý thầy đi học hết rồi. Bài vở nhiều lắm con à. Quý
thầy cũng làm chớ, tại sư ông rảnh nên ra vườn cho mát vậy mà.” Tôi
biết sư ông chẳng lúc nào thích ngồi không, nhưng vừa làm lại vừa niệm
Phật, chuyên chú tu hành. Sư ông bảo, làm cho khoẻ người, “nhất nhật bất
tác, nhất nhật bất thực”. Tôi nghĩ thầm, sư ông ăn ngọ nên có thực bao
nhiêu mà tác dữ vậy!
Vừa lúc đó, thầy tri sự về tới. Thầy mừng rỡ dẫn tôi vào phòng khách, và
thì thầm sợ sư ông nghe thấy. “Hồi trẻ sư ông một mình làm hết mấy mẫu
ruộng để nuôi chúng ăn học. Sư ông nói ai cũng đi học thì ai ở lại lo
việc chùa, nuôi huynh đệ, thôi sư ông chọn con đường này. Làm ruộng hồi
đó cực dữ lắm, đâu có máy móc như bây giờ, mà đồng lại rất xa, chèo ghe
đi mỏi cả tay. Sư ông không than thở một tiếng, chỉ mong huynh đệ thành
tài mà lo hóa độ chúng sanh. Cùng thế hệ với sư ông, quý Hòa Thượng đều
trở thành những vị giảng sư nổi tiếng, riêng sư ông cứ cây cày cây cuốc
hoài vậy. Bây giờ già rồi, làm trụ trì rồi, không cho sư ông ra đồng,
thì sư ông cũng kiếm việc làm quanh quẩn trong chùa như tất cả mọi người
trong chúng, ăn uống cũng ăn chung một mâm, một món với chúng. Chẳng
bao giờ thấy buồn phiền vì huynh đệ tài giỏi, nổi danh hơn mình, cũng
không so đo chùa lớn chùa nhỏ. Giáo lý không học nhiều thì sư ông chuyên
trì danh niệm Phật, lo về Tịnh Độ là xong.”
Tôi ngỡ ngàng. Tiếng guốc vông của sư ông đã lộc cộc bước vào. Tôi nghe
như hương hoa lài hoa sen từ sân chùa vương theo áo sư ông tỏa vào gian
phòng tĩnh lặng.
Tôi quay về thành phố. Công việc lại ngập đầu trong cái nhịp sôi động
quen thuộc. Cho đến khi tạm dứt ra được một chút, tôi quyết định thưởng
cho mình một buổi tối giải trí tại Nhà hát kịch, hơn là ngồi thu lu ở
nhà ôm cái tivi và đầu đĩa quanh năm. Vé mua rồi, ngồi căn-tin uống nước
lai rai chờ mở màn, ngắm thiên hạ đầm váy xinh đẹp đi xem hát và các
anh chị nghệ sĩ đi vòng ra cửa sau vào phòng hóa trang. Chợt nghĩ, “Có
khi nào Bồ Tát xuất hiện ở chốn vui chơi như vầy không?” Nghĩ rồi bật
cười một mình. Hóa ra cũng không quên ước mơ được gặp Bồ Tát.
Một người đàn ông trung niên đẩy xe honda vào khu dành cho diễn viên rồi
bước vào căn-tin mua chai nước suối. Tôi a lên một tiếng. Anh Lê Duy,
chồng của chị Hạnh bạn tôi. Anh cũng trông thấy tôi, mỉm cười tiến lại
bàn. “Ủa, anh đi đâu đây?” “Hôm nay khai trương vở mới, anh đi xem.” “À,
em quên mất anh là cán bộ của Hội Sân khấu.” “Cô cũng còn thời gian đi
xem kịch hả? Tưởng việc công ty bận ngập đầu chứ. Anh nói thiệt, làm
kinh doanh như cô thì anh chịu thua.” “Vậy làm nghệ thuật như anh, em
cũng chịu thua. Sao, lúc này có gì mới không? Nghệ thuật luôn luôn là
cái mới...” “Có. Lát nữa cô sẽ xem một loạt diễn viên trẻ măng mà Nhà
hát mới ‘trồng’ thay cho lứa cổ thụ cũ đã trưởng thành bay đi khắp nơi.
Có thể các em chưa tên tuổi lắm, nhưng đủ sức thu hút bởi chính sự nỗ
lực, sự chân thành.” “Thôi, điều đó thì em tin, nhưng cái xe anh đi vẫn
cũ sì, sao không chịu đổi mới dùm? Loại cúp 70 này cho vô viện bảo tàng
được rồi, chớ nó không phù hợp với cương vị của ông cán bộ lãnh đạo Hội
chút nào.”
Lê Duy cười khà: “Lãnh đạo gì cô ơi. Mà phụ nữ mấy cô sao hay để ý
chuyện vặt vãnh, mấy đứa diễn viên trẻ cũng tối ngày theo chọc anh về
cái xe. Anh thấy nó còn tốt, tự nhiên đem đổi làm chi. Mà nó có một kỷ
niệm sâu sắc, nên anh giữ lại vậy mà.” “Chà, em phải méc chị Hạnh...
Chuyện bây giờ mới kể à nha!”
Lê Duy tủm tỉm: “Vui miệng nói cô nghe chơi. Anh đã từng đem nó ra tiệm
cầm đồ. Hồi 1989, trong nhà chỉ có nó là tài sản đáng giá duy nhất, mà
đang lúc cần tiền tổ chức Liên hoan Sân khấu nhỏ, không ai tài trợ hết,
anh liều mạng cầm chiếc xe được 3 triệu đồng. Hẹn một tháng tới chuộc,
nhưng cũng không biết có chuộc nổi không, thây kệ. May sao, Liên hoan
được nửa chừng thì mạnh thường quân tới tấp gởi tiền ủng hộ. Nếu không,
anh gút-bai nó luôn rồi. Hì hì...” “Sao anh không xin kinh phí của Nhà
nước?” “Chẳng ai tin mình sẽ làm được việc cả. Vì hồi đó anh thấy lớp
trẻ vừa tốt nghiệp trường Sân khấu ra không đoàn nào nhận về, các em
phải trôi dạt chờ thời tại các nhà văn hóa quận huyện. Anh tổ chức Liên
hoan để các em có cơ hội thể hiện mình, để mọi người thấy năng lực lớp
trẻ mà sử dụng. Nhờ vậy mà có một thế hệ trẻ trưởng thành. Nhưng lúc đó
đâu dám nói là cầm xe, sợ tụi nhỏ nản lòng, phải giả bộ nói các ban
ngành ủng hộ dữ lắm. Mà thiệt, khi xem các em diễn một số vở, mọi người
mới hoan nghênh và giúp đỡ, anh lấy tiền đem chuộc ngay chiếc xe.”
Tôi xuýt xoa vì cái máu liều của anh. Bởi tôi hiểu, thời điểm ấy có được
chiếc cúp đã là khó, nhất là với đồng lương công chức, nghệ sĩ như anh.
Dù số tiền cầm xe chỉ đủ chi cho mỗi diễn viên trẻ vài tô phở cầm hơi,
nhưng đã là một lực đẩy rất mạnh ở những bước chân đầu tiên vô nghề, mở
ra niềm tin và hy vọng. Vậy, không phải anh liều, đó là tâm huyết của
một nghệ sĩ, muốn vun trồng cho người khác, cho cái đẹp nghệ thuật.
Tôi trở về nhà với dư âm nhân hậu của vở kịch. Sàn diễn không khác cuộc đời, vẫn đau đáu thông điệp của cái thiện và sự hy sinh.
Đêm ấy, Phật lại hiện ra trong giấc mơ tôi. Tôi giận lẫy: “Thôi, con
không thèm nghe Phật hứa nữa đâu.” Phật cười: “Con đã gặp Bồ Tát rồi
mà.” “Ủa, con gặp hồi nào?” “Vậy con quan niệm Bồ Tát là như thế nào?”
“Dạ, con nghĩ Bồ Tát là vị luôn cứu giúp chúng sanh vượt qua những khó
khăn, đau khổ. Không nề hà vất vả, hiểm nguy, không phân biệt sang hèn,
không kể công kể sức. Lòng thương yêu chúng sanh vô bờ bến nên mới có đủ
năng lực chịu đựng như thế.” “Đúng rồi. Vậy những người con đã gặp vừa
qua họ có lòng thương yêu người khác, chấp nhận hy sinh để cho người
khác hạnh phúc, vượt qua đau khổ hay không?”
“Dạ... có ạ.” Những gương mặt lướt qua trong trí nhớ tôi, và tôi đành
công nhận. Nhưng còn thắc mắc: “Nhưng Bồ Tát phải có thần thông chứ ạ?
Không lẽ Bồ Tát gì quá bình thường, không khác người, không đặc biệt gì
hết trơn? Phải có thần thông, hóa phép gì đó con mới tin...”
Đức Phật lắc đầu: “Mèn ơi, con nhỏ này coi phim riết rồi lậm! Chắc con
tưởng Bồ Tát giống trong phim Tây Du Ký, tỏa tỏa hào quang, bay cái vèo,
hô biến ì đùng đó hả? Hổng phải đâu con. Bồ Tát mà hiện ra kiểu đó thì
thiên hạ xúm lại coi như gánh xiếc, rồi cầu xin tùm lum, Bồ Tát chịu đời
gì thấu. Muốn thực hành hạnh nguyện lợi tha một cách trọn vẹn, Bồ Tát
phải hòa mình cùng chúng sanh, chịu đựng đau khổ, khó khăn như chúng
sanh, để rồi từ đó nâng đỡ chúng sanh một cách âm thầm, kiên nhẫn. Phải
giấu mình đi con ạ, thậm chí quên mình là Bồ Tát. Còn thần thông ư? Con
tưởng tượng đi, nếu là con, con có gánh nổi cả gia đình nào cha mẹ, em
út như cô Thảo, với đồng lương nhỏ bé và thời gian khắc nghiệt đó
không?” Tôi trả lời cái rụp: “Dạ, chắc con chết ngắc!” “Ừ. Thế con có
gánh nổi lũ học trò nghịch phá bụi đời như cô Xương, cô Lãm không?” “Dạ,
con nổi nóng chắc đánh nó quá.” “Ừm ừm, con nhỏ này sân si ghê chưa!
Rồi con có sức để chèo qua chèo lại con sông đó mỗi ngày 20 lần không?”
“Hu hu, chắc con gãy tay Phật ơi!” “Nè, nè, chưa chi đã khóc, con có dám
cầm chiếc xe Dream mới cáu của con để lấy tiền cho lớp sinh viên trẻ
không?” “Ái chà, con... con... Thôi, con mệt quá, vô chùa tu cho rồi!”
“Vô chùa, con có cáng đáng nổi cả chục mẫu ruộng để nuôi huynh đệ ăn học
không?” “Ý trời, Phật hổng thấy con ốm nhom ốm nhách sao? Khiêng bao
lúa hổng nổi mà biểu con làm ruộng...” “Đó, sư ông cũng ốm nhom ốm nhách
vậy mà sao sư ông làm nổi, chẳng phải thần thông là gì? Ông lão chèo
qua sông mấy chục lần cũng gọi là có thần thông đó con. Và cô Thảo có
năng lực gì mà dỗ dành được ông bố, bà mẹ, cậu em trai quậy phá? Con
hiểu thần thông chưa con?” “Dạ... hiểu. Ý mà Phật ơi, nếu Bồ Tát là như
vậy thì trên đời này có nhiều Bồ Tát lắm. Đi đâu con cũng gặp người tốt
cả.” “Ừ, và chính con cũng có thể mang hạnh nguyện Bồ Tát đấy.” “Mô
Phật, con hổng dám đâu. Con yếu đuối, lười biếng, sân si quá chừng...”
“Ấy, sao con lại tự kỷ ám thị một cách tiêu cực vậy. Phải đánh thức cái
tốt trong mình chứ. Hạt giống thương yêu có sẵn trong con rồi, chỉ cần
con tưới cho nó chút nước là nó nảy mầm thôi. Có tình thương với chúng
sanh thì trước sau gì con cũng sẽ tìm cách cứu giúp chúng sanh, vậy là
thành Bồ Tát đó. Thí dụ mấy hộp sữa mà con lén biếu hai cô giáo...” “Ủa,
chỉ có hai hộp sữa mà con thành Bồ Tát hở Phật? Sung sướng quá!” “Tất
nhiên là Bồ Tát nhí, Bồ Tát ốc tiêu thôi nghen con. Muốn làm Đại Bồ Tát
thì phải hy sinh nhiều lắm.” “Dạ, từ từ tính Phật ơi. Cho con lên lớp
dần dần chứ bắt con thi liền chương trình cao cấp làm sao con thi nổi!”
“Biết rồi! Tùy căn cơ chứ ai mà ép con. Thôi ta đi nghen. Chúc con thành
Bồ Tát Ma Ha Tát.”
Tôi chưa kịp chào thì Phật đã biến mất. Giấc mơ chỉ còn lại một vầng mây
xanh thắm lơ lửng giữa trời, và trong đó có cánh diều của tôi bay lượn
vẽ nên những vần thơ hạnh phúc...