Những trường hợp về các vị chân sư đã chứng ngộ và thực hiện các phép
thần thông được ghi nhận lại trong lịch sử rất nhiều, nhưng thường không
phải là đề tài được các bậc thầy đời sau nhắc đến. Các ngài vẫn sợ rằng
những người mới học đạo nếu không đủ hiểu biết có thể sẽ rất dễ bị cuốn
hút bởi các phép lạ thay vì là những đạo lý chân chính đưa đến sự giải
thoát.
Khi một vị chân sư đã thực sự chứng ngộ, người tự nhiên có được những
năng lực mầu nhiệm như biết được quá khứ, nhìn thấy trước tương lai,
chữa khỏi bệnh tật cho người khác, hoặc có thể thực hiện những điều mà
người đời tưởng như không thể nào làm được.
Một vị chân sư cũng có thể biết trước được những gì sắp xảy đến cho
mình, kể cả việc mình sẽ chết lúc nào. Hơn thế nữa, nếu vì một lý do cần
thiết chính đáng nào đó, một vị chân sư có thể tùy ý thay đổi ngày giờ
ra đi của mình một cách dễ dàng.
Tuy nhiên, biểu hiện quan trọng hơn cả việc chủ động về ngày giờ chết
của một vị chân sư là việc vị ấy không hề có sự lo lắng hay buồn khổ về
việc phải chấm dứt mạng sống ở thế gian. Điều đó cho thấy các ngài đã
cảm nhận trước một cảnh giới tốt đẹp hơn sau khi từ bỏ cõi trần tục này.
Một vị chân sư cũng vui lòng nhận lấy những bệnh khổ, sự đau đớn hay bất
hạnh, mặc dù vị ấy đã biết trước và có thể tránh né. Sở dĩ các vị làm
như vậy, là vì các vị đã hiểu thấu luật nhân quả và không muốn tạo tác
ra những nghiệp mới bằng vào những năng lực siêu nhiên mà mình có được.
Ngay cả việc sử dụng thần thông hay phép lạ để cứu giúp người khác cũng
được một vị chân sư cân nhắc rất kỹ lưỡng trước khi thực hiện. Vì các vị
biết rằng, cách cứu giúp một người tốt nhất là phải chuyển hóa con người
họ trở nên hiền thiện, thay vì là giúp họ thoát khỏi những khổ đau bất
hạnh do chính họ đã gây ra bằng những hành vi bất thiện trong quá khứ.
Tuy nhiên, hành trạng của một vị chân sư đã chứng ngộ không dễ dàng có
thể hiểu thấu bằng những nguyên tắc này hay nguyên tắc khác, theo cách
mà người thế tục vẫn thường suy diễn. Điều đó là do nơi sự hiểu biết bao
quát của các ngài. Trong một sự việc mà người thường cho là không nên
làm, các ngài lại nhận thấy có một khía cạnh nào đó cần thực hiện. Ngược
lại, trong những sự việc mà người thường cho là tốt đẹp, các ngài lại có
thể nhìn ra yếu tố không nên làm. Nói chung, hành động của các ngài xuất
phát từ tấm lòng từ bi muốn đem lại lợi lạc cho tất cả chúng sanh với
một trí tuệ hiểu biết sâu xa bao trùm cả quá khứ, hiện tại và tương lai.
Những yếu tố ấy làm cho người thế gian không thể nào đủ sức hiểu thấu
hoặc đánh giá đúng về hành trạng của các ngài.
Một số vị đã thị hiện trong những hình tướng xấu xí, bẩn thỉu. Các vị
làm như vậy để phá tan đi những định kiến của người đời luôn phán đoán
con người theo dáng vẻ bên ngoài. Bởi vì, hình tướng bên ngoài không thể
nói lên giá trị chân thật hay sự giác ngộ về tâm linh của một con người.
Lại có những vị xuất hiện trong cuộc sống phàm tục của thế gian. Các vị
cũng có vợ con, làm những công việc rất bình thường như người thế tục,
thậm chí đôi khi còn chịu đựng những khổ đau, hoạn nạn không khác gì với
một người phàm tục. Các vị làm như vậy là để giáo hóa những người thế
gian được dễ dàng hơn, bởi các vị đã tạo cho họ một sự gần gũi không
ngăn cách trong cuộc sống. Từ cuộc sống thế tục, một vị chân sư vươn lên
và thể hiện sự giải thoát của mình, như một tấm gương sáng để những
người khác noi theo. Thầy Lahiri Mahsaya là một trong những tấm gương
như thế.
Ngoài ra, một vị chân sư cũng có thể viên tịch khi còn rất trẻ, hoặc có
thể sống lâu đến 100, thậm chí 200 tuổi nếu cần thiết. Các vị làm như
vậy không theo một nguyên tắc bó buộc nào, mà hoàn toàn dựa vào tâm niệm
hóa độ chúng sanh.
° ° °
Một trong các vị chân sư Ấn Độ được biết đến nhiều nhất là tổ Bồ-đề
Đạt-Ma.
[9] Tổ Bồ-đề Đạt-ma sinh vào thế kỷ 5, là
hoàng tử thứ ba của vua Hương Chí nước Ca-xí,
[10]
một vị vua ở miền Nam Ấn Độ. Ngài đã bỏ ngôi vua mà đi theo con đường tu
tập để đạt được sự giải thoát khỏi những hệ lụy của thế gian.
Ngài là đệ tử của Tổ sư Bát-nhã Đa-la, là vị tổ thứ 27 được truyền thừa
kể từ đức Phật Thích-ca. Theo lời dạy của thầy, ngài đã rời khỏi Ấn Độ
và đem pháp môn thiền định truyền sang Trung Hoa, trở thành vị Tổ sư
thiền đầu tiên ở xứ này.
Tổ Đạt-ma giáo hóa tại Ấn Độ trong vòng sáu mươi năm, truyền bá pháp môn
thiền định cho rất nhiều người. Đến khoảng năm 520 thì ngài sang Trung
Hoa.
Khi đến Trung Hoa, ngài đã gặp vua Lương Vũ Đế là một vị vua lúc ấy đang
rất sùng mộ đạo Phật. Nhưng sau khi trao đổi thấy vua không đủ sức hiểu
được đạo lý sâu xa mà ngài muốn truyền dạy, ngài liền qua sông mà tìm
đến vùng núi Tung Sơn. Tương truyền rằng khoảng sông rộng không có đò
ngang, ngài đã thả chiếc nón xuống làm thuyền vượt qua sông.
Đến Tung Sơn, ngài vào một hang động hoang vắng ngồi thiền tọa trong
suốt chín năm trời, quay mặt vào vách không giao tiếp với ai cả.
Sau ngài gặp được đại sư Thần Quang là người hết lòng cầu đạo, đã dám tự
chặt đứt cánh tay trái của mình để tỏ rõ quyết tâm, ngài liền đem những
yếu chỉ của pháp môn thiền định mà truyền dạy cho. Thần Quang được đổi
tên là Huệ Khả, trở thành Tổ sư thiền thứ hai, nối tiếp pháp môn này tại
Trung Hoa.
Tổ Đạt-ma bị nhiều người ghen ghét vì không hiểu được đạo lý sâu xa của
ngài, nên dùng thuốc độc lén bỏ vào thức ăn để đầu độc ngài. Tuy nhiều
lần như vậy nhưng Tổ sư vẫn không hề hấn gì.
Sau khi ngài đã viên tịch, vua truyền dựng tháp thờ. Được ba năm sau,
một viên quan tên là Châu Vân vâng lệnh triều đình đi sứ về, bỗng gặp tổ
Đạt-ma đi trên đường núi, trên vai quảy một cây gậy, nơi đầu gậy treo
đong đưa một chiếc dép. Châu Vân liền hỏi: “Bạch thầy, thầy đang đi về
nơi đâu?” Tổ sư đáp: “Ta về Tây Thiên.”[11]
Châu Vân lấy làm lạ lắm, liền trình sự việc lên vua Ngụy Đế. Vua ra lệnh
khai quật quan tài của Tổ sư lên để xem, thì thấy trong quan tài trống
trơn chỉ còn lại một chiếc dép mà thôi. Vua truyền mang chiếc dép ấy đặt
ở chùa Thiếu Lâm mà thờ phụng.
Vì thế, người đời sau thường vẽ tranh Tổ Đạt-ma quảy một cây gậy, trên
đầu gậy chỉ có một chiếc dép.
Pháp môn thiền định do Tổ Đạt-ma truyền sang Trung Hoa, tiếp tục truyền
nối đến tổ thứ sáu là Huệ Năng, tương truyền là người cũng đã nhiều lần
hiển thị thần thông để nhằm mục đích hoằng dương chánh pháp.