Y pháp bất y nhân
Đây là một nguyên tắc đã được nêu ra khá sớm, ngay từ thời đức Phật còn
tại thế. Trong giai đoạn hiện nay, nguyên tắc này càng có ý nghĩa quan
trọng hơn trong việc xác lập niềm tin vào Tam bảo.
Thế nào là y pháp bất y nhân? Nói một cách đơn giản, đó là chúng ta đặt
niềm tin và làm theo chánh pháp và không tin theo bất cứ ai nói hoặc làm
sai chánh pháp.
Chánh pháp do đức Phật truyền dạy, trước hết là những chân lý giúp ta
nhận thức đúng về mọi sự việc, hiện tượng trong đời sống, và những
nguyên tắc hay phương thức sống thiết thực, có thể vận dụng vào cuộc
sống hằng ngày để đạt được những kết quả cụ thể trong việc hoàn thiện
cuộc sống, làm giảm nhẹ và triệt tiêu những khổ đau vốn có trong đời
sống. Những chân lý và nguyên tắc hay phương thức ấy được ghi chép trong
kinh điển và được chư tăng giảng giải, lưu truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác.
Nhưng một vấn đề không mong muốn có thể xảy ra, đó là có những người tự
nhận rằng mình truyền dạy chánh pháp của đức Phật, nhưng bản thân lại
không có sự thực hành đúng theo chánh pháp, và do đó cũng dẫn đến một hệ
quả tất yếu là thường giảng giải sai lệch về chánh pháp.
Trong trường hợp này, nguyên tắc y pháp bất y nhân có ý nghĩa giúp ta
giữ vững được niềm tin vào chánh pháp mà không để cho sự sai trái của
một vài cá nhân nào đó làm ảnh hưởng đến niềm tin của mình. Bởi vì,
những việc làm sai trái hoặc những lời giảng giải không đúng chánh pháp
của một cá nhân xét cho cùng chỉ là sự sai lầm của riêng cá nhân đó,
không liên quan gì đến chánh pháp do Phật truyền dạy.
Lấy một ví dụ đơn giản, như có người khuyên ta không nên uống rượu,
nhưng bản thân người ấy lại sáng say chiều xỉn, không có được một cuộc
sống nghiêm túc. Trong trường hợp này, chúng ta cần phân biệt hai khía
cạnh tách biệt của vấn đề. Trước hết, lời khuyên do người ấy đưa ra là
một lời khuyên tốt, đáng để chúng ta nghe theo. Thứ hai, mặc dù tư cách
của người ấy không xứng đáng chút nào với lời khuyên tốt đẹp mà ông ta
đưa ra cho người khác, nhưng điều đó hoàn toàn không làm mất đi tính
chất tốt đẹp của lời khuyên. Vì vậy, trong trường hợp này, nghe theo lời
khuyên của ông ta là y pháp, và không noi theo việc làm của ông ta là
bất y nhân. Mặt khác, vì xét thấy lời khuyên của ông ta là đúng đắn, tốt
đẹp nên chúng ta tin theo, như vậy là y pháp; dù tư cách của ông ta
không xứng đáng với lời khuyên, nhưng chúng ta vẫn không để điều đó làm
ảnh hưởng đến niềm tin của ta vào lời khuyên tốt đẹp ấy, như vậy là bất
y nhân.
Trong môi trường sống khá phức tạp ngày nay, chúng ta không phải lúc nào
cũng được tiếp xúc với những con người tốt đẹp, hướng thượng, mà còn có
cả những con người nhỏ nhen, ích kỷ và nhận thức cũng như hành động đều
sai lầm. Một đôi khi, những người này cũng đứng trong hàng ngũ truyền
dạy giáo pháp của đức Phật. Chúng ta không nên ghét bỏ, mà trái lại cần
phải thương xót những con người tội nghiệp này, vì họ không thực hành
theo đúng chánh pháp của đức Phật nên chắc chắn là họ không thể có được
một đời sống an lạc và hạnh phúc chân thật. Tuy nhiên, chúng ta cần tỉnh
táo nhận biết để không đặt niềm tin và làm theo những người như thế. Mặt
khác, ta cũng không thể vì sự sai trái của những cá nhân ấy mà đánh mất
niềm tin vào chánh pháp, hay nói chung là vào Tam bảo.
Tất nhiên, một câu hỏi có thể được nêu ra ở đây là: làm thế nào để xác
định được đâu là chánh pháp do Phật truyền dạy và đâu là sự giảng giải
sai lệch của một cá nhân? Trong vấn đề này, những sự sai lệch lớn lao về
mặt giáo lý thường có thể dễ dàng nhận ra nhờ vào một phần giáo lý gọi
là Tam pháp ấn. Giáo lý này được Phật thuyết dạy nhằm giúp chúng ta dựa
vào đó mà phân biệt được những kinh điển nào là thực sự do Phật thuyết,
và những kinh điển nào có thể là sai lệch, không phải do Phật thuyết.
Tam pháp ấn có thể được hiểu một cách đơn giản là 3 yếu tố, 3 ý nghĩa
xuyên suốt có khả năng giúp ta xác định, tin chắc được một phần giáo lý
nào đó là do chính đức Phật thuyết dạy. Theo đó thì tất cả kinh điển do
Phật thuyết dạy đều phải có sự hiện diện của 3 ý nghĩa gọi là Tam pháp
ấn này, và cũng không thể có những ý nghĩa đi ngược lại, mâu thuẫn với
Tam pháp ấn. Ba ý nghĩa này được kể ra cụ thể là: chư hành vô thường,
chư pháp vô ngã và Niết-bàn tịch tĩnh. Tuy nhiên, sự phân biệt theo Tam
pháp ấn là thuộc về phần giáo lý bậc cao và có thể là khá phức tạp, khó
hiểu đối với nhiều người trong chúng ta. Mặt khác, những sai lệch thường
gặp trong thực tế có thể dựa vào một số yếu tố để nhận ra mà chưa cần
thiết phải dùng đến Tam pháp ấn.
Trước hết, chúng ta có thể dựa vào một nguyên tắc chung gọi là “ngôn
hành hợp nhất” để đánh giá về sự thuyết dạy của một người nào đó. Nguyên
tắc này nói lên rằng, nếu một người thuyết giảng chánh pháp, thì lời nói
và việc làm của người đó phải đi đôi với nhau. Chẳng hạn, nếu một người
thuyết dạy về những nguyên tắc sống đơn giản, thì điều tất yếu là bản
thân người đó không thể sống một cuộc sống xa hoa với tất cả những tiện
nghi mà nền văn minh hiện đại này có được. Nguyên tắc này xuất phát từ
một phương thức thuyết dạy trong Phật giáo được gọi là “thân giáo”,
nghĩa là dùng đời sống của chính bản thân mình để nêu gương thuyết dạy
người khác. Khi một người luôn nói ra những điều tốt đẹp nhưng bản thân
lại không thực hiện đúng theo những điều tốt đẹp ấy, xem như nguyên tắc
này không được đáp ứng, và chúng ta có thể bước đầu đặt ra sự hoài nghi,
cảnh giác đối với sự thuyết giảng của người ấy.
Nguyên tắc thứ hai là nguyên tắc “nhất quán”. Nguyên tắc này nói lên
rằng, khi một người thuyết giảng chánh pháp thì tất cả những gì người ấy
đã nói ra trước đây, đang nói ra vào lúc này và sẽ nói ra trong tương
lai, tại nơi này hoặc nơi khác, hết thảy đều phải luôn luôn phù hợp,
nhất quán với nhau, không thể có sự mâu thuẫn, trái ngược. Chẳng hạn,
khi một người thuyết dạy về đời sống chân thật, khen ngợi sự chân thật
trong cuộc sống, thì vào một lúc khác, tại một nơi khác, người ấy không
thể nói ra những điều trái ngược lại với ý nghĩa đó. Nếu nguyên tắc này
không được đáp ứng, chúng ta có thể đặt vấn đề hoài nghi, cảnh giác đối
với sự thuyết giảng của người ấy.
Nguyên tắc thứ ba được gọi là nguyên tắc “chiêm nghiệm và so sánh”.
Nguyên tắc này vận dụng các phần giáo lý căn bản đã được học hiểu và
thực hành ngay trong cuộc sống của chúng ta để so sánh với những gì được
nghe thuyết giảng. Tùy theo trình độ của mỗi chúng ta, các phần giáo lý
căn bản đó có thể là Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Bát chánh đạo, Lục
Ba-la-mật... nhưng nói chung, khi chúng ta đã được học hiểu và có sự
thực hành, vận dụng một trong các phần giáo lý này vào cuộc sống hằng
ngày, chúng ta sẽ tự có được sự chiêm nghiệm của bản thân, sẽ tự rút ra
được ý nghĩa đích thực của phần giáo lý đó. Vì vậy, khi một người thuyết
giảng chánh pháp mà nói ra những điều không phù hợp với những gì chúng
ta đã học, đã hiểu, đã hành trì, thì chúng ta có thể cần phải đặt ra sự
hoài nghi cảnh giác đối với sự thuyết giảng của người ấy.
Trên cương vị của một người học Phật, chúng ta chỉ nên vận dụng 3 nguyên
tắc trên để đặt ra sự hoài nghi và cảnh giác đối với sự thuyết giảng của
một cá nhân, mà không nên tiến đến chỗ tranh biện đúng sai với cá nhân
ấy. Đó là vì những sự tranh biện như thế không thực sự giúp ích được gì
cho đời sống tinh thần của chúng ta. Chúng ta chỉ cần tuân theo nguyên
tắc “y pháp bất y nhân” do Phật truyền dạy, tự mình tránh xa những gì
nghi ngờ là không đúng chánh pháp mà thôi. Còn việc xác định chắc chắn
sự thuyết giảng của một cá nhân có phải là sai lệch chánh pháp hay
không, chúng ta nên dành lại cho các vị luận sư uyên bác, những người có
thể vận dụng phần giáo lý về Tam pháp ấn như đã nói trên để bảo vệ chánh
pháp.