4.1 Pháp Thoại
Ngày 06 tháng 10 năm 1994
Thưa
đại chúng hôm nay là ngày mồng 06 tháng 10 năm 1994, chúng ta đang ở xóm Thượng,
trong Khóa Tu Mùa Thu.
Phần
đầu của buổi pháp thoại hôm nay, tôi dành để kết thúc Kinh Samiddhi, sau đó
chúng ta sẽ bắt đầu học về Tứ Vô Lượng Tâm (3).
(3) Những
giảng dạy về Tứ Vô Lượng Tâm đã được phiên tả và in lại trong cuốn “Thương Yêu
theo phương pháp Bụt dạy”, Nhất Hạnh, Lá Bối xuất bản, 1995.
Kinh
Samiddhi có nhiều chủ đề rất quan trọng. Chủ đề thứ nhất là Ý Niệm
Về Hạnh Phúc. Ta đã thấy rằng những ý niệm về hạnh phúc có thể là những bẫy
sập, giam hãm chúng ta trong vòng khổ đau. Vì vậy mà ý niệm về hạnh phúc nó liên
hệ tới ý niệm về những bẫy sập của ngũ dục. Cách đây chừng một tháng, có một đạo
hữu từ Hòa Lan sang Làng tu học. Các vị ở xóm Hạ hỏi thăm tại sao các cháu không
cùng sang, đạo hữu ấy nói: “Dạ vì các cháu đang vướng vào bẫy ngũ dục”. Đạo hữu
đó thấy các con mình đang vướng vào những nỗi khổ của ngũ dục, rất khó thoát ra
mà ông không làm gì được hết! Đối với không biết giáo pháp đạo Bụt, ngũ dục là
con đường của hạnh phúc, là con đường đưa đến hạnh phúc. Ngược lại Kinh Samiddhi
nói rằng đó là những nẻo đường tăm tối, khổ đau. Chúng ta phải có lòng thương,
sự hiểu biết, và đạo lực khá thâm hậu thì mới giúp họ thoát khỏi những bẫy sập
của ngũ dục được, nếu không thì chúng ta chỉ đứng ngoài mà thương hại thôi. Nói
rõ ra, không tu học thì không có khả năng giúp người thoát khỏi những bẫy sập
ngũ dục.
Chủ
đề thứ hai của Kinh Tam Di Đề là Hiện Pháp Lạc Trú. Khi vị Thiên nữ hỏi
tại sao thầy lại bỏ lạc thú trong hiện tại để đi tìm lạc thú hứa hẹn trong tương
lai, tìm cái lạc thú phi thời? Thì thầy Samiddhi nói rằng: Tôi đâu có bỏ hạnh
phúc trong hiện tại để đi tìm một hạnh phúc hứa hẹn hão huyền ở tương lai đâu?
Chính tôi đã bỏ cái hạnh phúc hão huyền kia để đi tìm một cái hạnh phúc có sẵn
trong giây phút hiện tại đấy chứ! Thầy Samiddhi cũng nói thêm với vị Thiên nữ
rằng ngũ dục đem lại cho chúng ta những cơn sốt, những nỗi khổ đau, trong khi đó
thì pháp hiện pháp lạc trú đem lại hạnh phúc cho chúng ta ngay bây giờ và ở đây,
không phải tìm đâu xa. Vì vậy trong kinh có danh từ vượt thoát thời gian
(akalika), nghĩa là không có thời gian tính. Đây cũng là một chủ đề rất lớn
trong toàn bộ giáo lý của đạo Bụt, và thường được xem là kim chỉ đạo của sự tu
học Hiện Pháp Lạc Trú. Tiếc rằng có rất ít Thiền viện và Trung tâm tu học đưa
chủ đề này ra để khai triển!
Chủ
đề thứ ba là Nương Tựa. Nương tựa ở đây là nương tựa vào Pháp, vào một
cái gì không phải là ý niệm. Khi sống với Chánh Pháp chúng ta đạt được sự an
lạc, sự vững chãi, sự thảnh thơi. Nương tựa vào Pháp còn được gọi là nương tựa
vào hải đảo tự thân.
Chủ
đề thứ tư của Kinh Samiddhi là Mặc Cảm, hay là Mạn. Ba cái mặc cảm hơn
người, thua người, và bằng người đều do ý niệm gọi là ngã chấp mà sinh ra. Khi
quán chiếu để thấy được sự tương quan, tương liên hay tương tức của vạn pháp,
chúng ta thấy được mọi sự sống là một, ta với người, ta với cây cỏ là một. Cũng
vậy, sự bình an, niềm hạnh phúc không phải là vấn đề cá nhân, không thể nào có
vấn đề hạnh phúc cá nhân. Khi chúng ta vượt thoát được ý niệm về ngã, thì tất cả
những sợ hãi, lo lắng, giận hờn, buồn phiền, sẽ tan biến và hạnh phúc có thể có
mặt thật sự. Khi niềm vui được xây dựng trên ý niệm về ngã thì niềm vui đó tính
cách mong manh, không vững chãi, không đích thực. Chỉ khi nào sự sợ hãi vắng
mặt, nỗi lo lắng giận hờn tan biến, thì niềm vui đó mới là niềm vui đích thực mà
thôi.
Giảng dạy ý niệm về hạnh phúc, Bụt đưa ra ví dụ của một người bị án
tử hình. Người tử tội biết rằng trong vòng bảy ngày nữa thì mình sẽ bị đem ra
chém đầu. May có sự can thiệp của người thân, án được giảm xuống còn khổ sai
chung thân. Khi nghe tuyên án lại ông ta rất đỗi vui mừng, nhảy nhót sung sướng
! Bụt kết luận cái sung sướng vì bản án khổ sai chung thân, đâu phải là cái sung
sướng thật? Chỉ vì đem so sánh với bản án tử hình, thì khổ sai chung thân mới
được xem là một niềm vui. Thật ra nó có hạnh phúc gì đâu?
Biết
bao nhiêu người trẻ trên thế giới, vì có những niềm đau mà họ đi tìm hạnh phúc
trong năm thứ dục lạc. Khi sống trong năm thú dục lạc, họ không tìm được hạnh
phúc chân thật, mà họ chỉ tìm được “niềm vui của ban án khổ sai chung thân”, để
vùi lấp niềm đau của bản án tử hình mà thôi. Đó là một tấm bi kịch rất lớn của
loài người. Với ma túy cũng vậy, ma túy làm cho con người rất khổ đau, nhưng vì
“cái niềm đau kia” nó lớn quá, nên mình phải đi tìm ma túy để khỏa lấp. Thật ra
ma túy là một bản án khổ sai chung thân để che lấp cái bản án tử hình mà mình
đang mang! Thấy được vậy chúng ta sẽ thương, mà thương thì chúng ta phải tu học
để có khả năng cứu độ và đưa những người trẻ đó ra khỏi vũng lầy của cuộc
đời.
Thực
tập hiện pháp lạc trú, thực tập nương tựa, thực tập quán chiếu về vô ngã, càng
lúc chúng ta càng đạt được sự vững chãi và thanh thơi, hai đặc tính của Niết
Bàn. Khi đó, cái hiện pháp Niết Bàn sẽ từ từ hiển lộ ra cho chúng ta tiếp xúc.
Tiếp xúc được với Niết Bàn một cách sâu sắc, thì sự vững chãi thảnh thơi của
mình sẽ trở thành lớn lao và vững mạnh, lúc đó hạnh phúc mới là hạnh phúc chân
thật, mới là hạnh phúc hoàn toàn. Như vậy, từ cái Tích Môn, chúng ta tiếp xúc
được với cái Bản Môn.
PHỤ LỤC
Góp nhặt những đoạn Pháp Thoại Thiền Sư Nhất Hạnh đã nói trong cùng
khóa tu về các vấn đề có liên quan đến việc tu tập hàng ngày của Tăng chúng Làng
mai.
A1. Giới Luật Trong Đạo Bụt
(Trong Pháp Thoại ngày
04-9-1994)
Những vị Sư cô nào đã thọ giới lớn trong Đại
Giới Đàn Hương Tích vừa qua thì nên nhớ theo học lớp của Sư Cô Chân Đức và tìm
cách tự mình học thêm về giới luật. Trước thời gian Đại Giới Đàn, Sư Cô Chân Đức
có mở một lớp dạy về giới lớn cho các vị giới tử Tỳ Kheo Ni. Rất tiếc là những
bài giảng trong suốt hai tuần lễ đó đã không được thâu băng đầy đủ. Tôi hy vọng
trong khóa tu này Sư Cô Chân Đức có thể dạy lại những điều mà Sư Cô đã dạy trong
mùa hè vừa qua. Ngoài ra, trong khóa Đại Tạng Nam truyền trước đây tôi cũng có
giảng một số bài về Ba la đề mộc xoa. Các vị đã thọ giới lớn có thể học lại
những bài giảng đó. Cuối năm 1994, tôi sẽ có dịp kiểm điểm lại cách học hỏi và
hành trì giới lớn của quí vị. Còn các vị đã thọ giới Sa di và Sa di ni trong
giới đàn vừa qua cũng vậy. Vì mới thọ giới nên mình chưa biết nhiều về giới, cho
nên quí vị phải bắt đầu học cho thấu đáo giới Sa di và Sa di ni.
Như quí vị đã biết, theo truyền thống thiền,
chúng ta phải học bốn phần của giới luật Sa di và Sa di ni. Phần đầu tiên là
Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu. Phần này gồm những bài thi kệ để thực tập
chánh niệm. Ngày xưa khi mới đi tu, tôi đã học những bài thi kệ này bằng chữ
Nho, nhưng bây giờ chúng ta đã có sách tiếng Việt, những bài thi kệ này đã được
chú giải và in thành sách. Đó là cuốn Từng Bước Nở Hoa Sen. Có khoảng 50 bài thi
kệ để chúng ta thực tập chánh niệm trong đời sống hàng ngày. Ví dụ trước khi rồ
máy xe hơi chúng ta có một bài kệ để thực tập:
Trước khi cho máy nổ,
Tôi biết tôi đi đâu,
Xe với tôi là một,
Xe mau tôi cũng mau.
Lấy nước vào ấm nấu nước hay chậu rửa chén
cũng vậy. Khi tay chạm vào vòi nước thì ta phải thở và thực tập bài kệ vặn
nước:
Nước từ nguồn suối cao,
Nước từ lòng đất
sâu,
Nước mầu nhiệm tuôn
chảy,
Ơn nước luôn tràn
đầy.
Lúc mở đèn, ta nhiếp niệm để đọc bài kệ mở
đèn:
Thất niệm là bóng đêm,
Chánh niệm là ánh sáng,
Đưa tỉnh thức trở
về,
Cho thế gian tỏ
rạng.
Tất cả các vị đã thọ giới Sa di và Sa di ni
đều phải học thuộc lòng những bài kệ đó để thực tập theo. Sư cô Bích Nghiêm mỗi
khi lái xe, trước khi mở máy, đều thực tập bài kệ rồ máy xe rất đàng hoàng. Có
thực tập những bài kệ đó, ta mới thật sự tu học theo truyền thống
thiền.
Trong thiền tông, thi ca đóng một vai trò rất
quan trọng trong sự thực tập. Thuộc lòng những bài thi kệ trong cuốn Từng Bước
Nở Hoa Sen, mình mới thực tập được. Nói như vậy không có nghĩa là chỉ những
người thọ giới Sa di và Sa di ni mới phải học những bài kệ đó, còn những người
đã thọ giới lớn thì không phải học. Những người đã thọ giới lớn nếu chưa học
thuộc những bài đó hay nếu chưa thực tập nghiêm chỉnh thì cũng phải học lại.
Không lý các Sư em của mình học và thực tập giỏi mà mình là không làm được như
vậy hay sao. Mình có thể học và thực tập bằng tiếng mẹ đẻ. Nếu là người Anh thì
ta đọc thi kệ bằng tiếng Anh, là người Thái ta đọc bằng tiếng Thái Lan, người
Việt, ta thực tập theo tiếng Việt. Không những các vị đã thọ giới rồi mới thực
tập theo phương pháp này, mà những người Tiếp Hiện, sắp thọ giới Tiếp Hiện hay
chưa thọ giới Tiếp Hiện cũng phải thực tập những bài thi kệ này. Nếu không thì
ta không có cách gì để thực tập chánh niệm trong đời sống hàng ngày cả. Ta phải
phối hợp hơi thở với những bài thi kệ để thực tập. Rửa tay thì biết là mình rửa
tay, giặt áo thì biết là mình giặt áo, qua cầu thì biết là mình qua cầu
...
Phần thứ hai của giới luật Sa Di Luật Nghi
Yếu Lược tức là phần nói về giới tướng của mười giới. Chúng ta nên tham khảo
giới Tiếp Hiện và Năm Giới để có thể hiểu thêm được nội dung của 10 giới. Nội
dung của 10 giới rất giàu có. Vì vậy cho nên 10 giới phải được thực hiện trong
tinh thần của Năm Giới và trong tinh thần giới Tiếp Hiện. Sau này sẽ có một cuốn
sách nói về 10 giới của người Sa di và Sa di ni (4).
(4) Hồi này
(1994) cuốn “Bước tới thảnh thơi” dành cho các vị Sa di và Sa di ni chưa ra
đời.
Phần thứ ba của giới luật Sa di và Sa di ni
là Uy Nghi mà ta dịch là “Mindful Manners” hay là “Fine Manners”. Có 24
thiên nói về uy nghi, nghĩa là có 24 chương nói về sự thực tập chánh niệm của
một Sa di hay Sa di ni. Ví dụ khi vào Chánh điện thì ta phải có tác phong như
thế nào, đi chợ thì trong thời gian đi phải có tác phong ra sao v.v... Tại Làng
Mai ta đã từng học theo bản văn cổ điển, nhưng bản này đã được ta nghiên cứu và
gia giảm. Các vị đã thọ giới Sa di và Sa di ni phải học và phải thực tập cho
nghiêm chỉnh. Có một chương dạy về cách làm thị giả, một chương dạy về cách cư
xử với những người đã thọ giới lớn, trong đó dạy rất rõ bổn phận của mình đối
với những Sư anh hay Sư chị đã thọ giới lớn như thế nào. Tất cả những nghi thức
đó mình phải hiểu. Mặc dù mình mới thọ giới Sa di hay Sa di ni và có thể mình
chưa biết gì nhiều về nội dung và bản chất của một người Sa di hay Sa di ni. Thọ
giới là chuyện dễ nhưng trì giới không phải là chuyện dễ. Mình cần phải học hỏi
và hành trì lâu ngày mới được. Cuối năm 1994 ta sẽ có cơ hội kiểm điểm lại cái
học và hành của quí vị về giới Sa di, Sa di ni và giới lớn. Tuy phần thứ ba của
giới luật có 24 chương, nhưng trong những bài giảng trước tôi có đề nghị thêm
vào một số chương khác. Vì sống trong một hoàn cảnh xã hội khác xưa cho nên
chúng ta phải có những chương mới.
Phần thứ tư là Cảnh Sách. Đây là một
bài văn của Thiền Sư Qui Sơn viết bằng thể văn biền ngẫu. Hồi làm Sa di, sau lễ
tụng giới tôi hay ra ngoài với các vị Sa di khác để cùng đọc và cùng nghe với
nhau 24 chương uy nghi. Đọc xong 24 chương uy nghi rồi thì đọc bài Qui Sơn Cảnh
Sách. Trong khi đó thì các Thầy ở lại Chánh điện để tụng giới lớn và giới Bồ
Tát.
Ngày Bồ Tát tụng giới mình có thể tổ chức
thành một ngày rất vui. Ngày đó chỉ có tụng giới và sống chung với nhau trong
tinh thần gia đình. Có những giới mình tụng chung được, như Năm giới và giới
Tiếp Hiện, nhưng giới lớn thì phải tụng riêng.
Việc hành trì các bài thi kệ nhật dụng, tôi
muốn quí vị bắt đầu ngay. Bắt đầu học năm bảy bài mà mình thấy thiết dụng nhất
trong đời sống hàng ngày và thực tập liền. Ví dụ các bài kệ bật đèn, mở nước,
nghe điện thoại v.v... sau đó từ từ học cho hết những bài thi kệ ở trong cuốn
Từng Bước Nở Hoa Sen. Phải học thuộc lòng mới thực tập được. Trong khi thực tập,
nếu sáng tác thêm được những bài mới thì phải ghi lại để đóng góp cho những bản
in sau này của cuốn Từng Bước Nở Hoa Sen. Trong vòng mười hôm nữa tôi sẽ yêu cầu
quí vị báo cáo cho biết sự thực tập thi kệ nhật dụng chánh niệm như thế nào.
Không phải chỉ có quí vị thọ giới Sa di, và Sa di ni mà quí vị thọ giới khác như
giới Tiếp Hiện và giới lớn cũng phải báo cáo, vì thi kệ chánh niệm là những bảo
vật quí giá nhất của chúng ta, và thực tập những thi kệ này là một truyền thống
của Thiền. Cho nên nếu không thực tập thì không thể gọi là chúng ta đang theo
truyền thống Thiền được. Bất cứ một cô chú nào đã vào chùa là phải bắt đầu học
thuọc lòng những bài thi kệ và phải đem áp dụng những bài thi kệ đó. Áp dụng thi
kệ một thời gian thì con người của mình nó văn minh, tươi mát, đẹp hơn, sáng sủa
hơn lập tức.
Tôi còn nhớ hồi mới là chú điệu 16 tuổi, một
hôm mở cửa đi ra khỏi phòng và đóng cửa lại, tôi đã mở cửa không có chánh niệm,
và đóng lại cũng không có chánh niệm. Tuy không đóng một cái rầm như thỉnh
thoảng mình vẫn thấy, nhưng biết là tôi không có chánh niệm, nên Sư Ông gọi:
“Chú ơi”, tôi dạ kính cẩn tới gần để nhận lời chỉ giáo, thì Sư Ông nói:
“con đi ra lại, rồi con đóng cửa lại, kỳ này cho nó đàng hoàng hơn”. Tôi
hiểu và biết là kỳ này mình phải làm cho đàng hoàng. Sư Ông của tôi chỉ dạy có
một lần thôi mà từ đó trở đi không bao giờ tôi đóng cánh cửa đó mà không có
chánh niệm. Cố nhiên với những cửa khác tôi cũng có thực tập, nhưng với cánh cửa
đó, không bao giờ tôi dám mở ra và đóng lại không có chánh niệm. Sư Ông không
rầy rà gì hết, Ngài chỉ nói “Con đi ra lại đi, rồi con đóng cửa lại, kỳ này
cho nó đàng hoàng hơn”. Thành ra bây giờ tôi truyền trực tiếp cho quí vị lời
dạy từ Sư Ông của tôi.
Như tôi đã nói, khi chúng ta thực tập thi kệ
nhật dụng để giữ chánh niệm, thì con người của chúng ta sẽ trở thành văn minh
hơn, đẹp đẽ hơn, phong thái của chúng ta tự nhiên nho nhã, thanh tao hơn rất
nhiều, và đó là một cách trang điểm đẹp nhất của con người. Các bà mẹ Việt Nam
thường nói “là con gái thì phải đi đứng cho có ý tứ, nằm ngồi cho có ý tứ”, vì
khi người con gái đi đứng nằm ngồi có ý tứ thì người con gái đó đẹp hơn lên gấp
bội. Không hiểu tại sao các bà mẹ chỉ dạy con gái như vậy mà không dạy cho con
trai những điều tương tự, làm như con trai đi đứng có ý tứ nằm ngồi thì không
đẹp hơn. Họ cũng đẹp hơn lên giống như con gái vậy, có khi còn đẹp hơn là khác!
Vì vậy cho nên con trai hay con gái cũng đều phải đi đứng, nằm ngồi cho có ý tứ.
Các bà mẹ có thể không hiểu làm như vậy là thực tập chánh niệm, nhưng mà biết
rằng nếu con mình đi đứng, nằm ngồi có ý tứ thì sẽ đẹp hơn nhiều. Ý tứ là một
món trang sức tuy không tốn tiền mua nhưng rất quí giá, nó làm cho con người đẹp
hẳn hơn lên. Có ý tứ tức là có chánh niệm. Trong Kinh An Ban Thủ Ý tức là kinh
dạy về hơi thở có ý thức, có chữ thủ ý. Thủ ý tức là nắm lấy cái ý của
mình, duy trì cho cái ý của mình nó sống, đốt lên ngọn đèn chánh niệm ở trong
con người của mình để cho nó cháy thật. Nuôi dưỡng ánh sáng sáng của chánh niệm
bằng hơi thở, gọi là an ban thủ ý.
Ta biết rằng những bài thi kệ để thực tập
chánh niệm bắt nguồn từ Kinh Hoa Nghiêm. Rất nhiều bài ở trong sách Tỳ Ni Nhật
Dụng Thiết Yếu được lấy trực tiếp từ Kinh Hoa Nghiêm. Thêm vào đó, chúng ta cũng
đã dựa vào truyền thống Kinh Hoa Nghiêm để sáng tác thêm những bài khác, thành
ra thực tập thi kệ chánh niệm là một thực tập đã có lâu đời và rất truyền
thống.
A2. Cách Nghe Và Nói Pháp
Thoại
(Trong Pháp Thoại ngày
29-9-1994)
Xin nhắc lại vài điều để quí vị biết cách
nghe Pháp thoại. Theo phương pháp thực tập ở Làng Mai thì nghe Pháp thoại
không phải là học giáo lý để có những kiến thức về Đạo Bụt.
Trong các trường học ngoài đời, từ tiểu học
cho đến đại học, mình đã liên tục học theo phương pháp thu nhận kiến thức, cố
gắng “học năm, ba chữ để làm vốn liếng!”. Nghe Pháp thoại ở Làng Mai không có
mục đích đó. Khi nói Pháp thoại , cố nhiên tôi dùng ngôn ngữ và ý niệm để diễn
đạt, nhưng ngôn ngữ và ý niệm chỉ là những phương tiện để giúp cho quí vị thấy
được những điều vưọt khỏi tầm ngôn ngữ và ý niệm. Nếu quí vị chỉ tiếp nhận bài
pháp thoại như là những ý niệm, những danh từ thì chẳng ích lợi gì mà nhiều khi
quí vị còn bị kẹt nữa. Điều này Bụt dạy rất kỹ: Nhất thiết tu đa la giáo, như
tiêu nguyệt chỉ, có nghĩa là “Tất cả những kinh điển mà tôi dạy, nó như là
ngón tay để chỉ mặt trăng, quí vị đừng có lầm ngón tay của tôi là mặt trăng”.
Bụt đã cảnh cáo như vậy, thành ra những giáo lý về Vô Thường, Vô Ngã, Niết Bàn,
Tam Giải Thoát Môn v.v... ta phải nghe như thế nào để có thể trực tiếp kinh
nghiệm với những điều đó, sử dụng một cách thông minh những ngôn từ và ý
niệm mà Bụt sử dụng để đạt được kinh nghiệm trực tiếp. Nếu nghe điều gì mà nắm
lấy điều đó như một ý niệm, một sự thật, thì đó là một điều rất trái với tinh
thần Đạo Bụt, và nó sẽ không dẫn qúi vị đến sự chuyển hóa.
Ngay trong thời Đức Thế Tôn còn tại thế cũng
có nhiều thầy bị như vậy, vì thế mà Bụt đã dạy Kinh Người Bắt Rắn, Trong Kinh
này Bụt dạy rằng tiếp nhận giáo lý mà tiếp nhận như những ý niệm thì có thể nguy
hiểm cho mình và cho những người khác, phải thông minh như là người biết bắt
rắn, nếu không thì sẽ bị rắn cắn.
Cách nghe pháp thoại có lợi lạc nhất là nghe
pháp thoại để nương vào đó mà thực tập, đừng có bị kẹt vào danh từ và ý
niệm. Theo tâm lý học đạo
Bụt thì những điều Bụt dạy, những tuệ giác mà Bụt muốn trao truyền, đều đã có
sẵn dưới hình thức những hạt giống ở trong tâm ta. Hạt giống của tuệ giác, hạt
giống của thương yêu v.v... đều có sẵn trong đất tâm của ta. Những hạt giống quí
báu đó có thể bị chôn rất sâu ở trong tâm của mình. Bấy lâu nay, xã hội, cha mẹ,
bạn bè ít ai tưới tẩm được những hạt giống đó. Họ chỉ tưới tẩm những hạt giống
đau khổ, giận hờn, buồn bã, kiêu căng, lo lắng của chúng ta mà thôi, vì vậy khi
nghe giáo lý, ta nên mở lòng ra để cho giáo lý đó, cũng như một trận mưa pháp,
thấm tới những lớp đất dưới sâu để những hạt giống tốt của mình như hạt giống
tuệ giác, hạt giống từ bi v.v... nhờ cơn mưa pháp mà có cơ hội nảy mầm. Trong
thời Bụt tại thế, có nhiều người đã được giác ngộ trong khi nghe pháp thoại, là
vì những người đó đã không dùng ý niệm mà nghe, không dùng lý trí mà
nghe.
Lý trí của mình nó chỉ là một phần nhỏ của
tâm mình mà thôi. So với tàng thức thì ý thức chỉ như là một hột bắp so với một
trái bí rợ. Vì vậy cho nên trong nghe Pháp thoại, đừng dùng ý thức nghĩa là đừng
suy nghĩ, đừng so sánh, đừng phê phán, đừng phản ứng. Đây là một điều rất quan
trọng. Nếu mình dùng trí năng của mình mà so sánh, mà suy nghĩ, mà phán đoán thì
mình làm mất cơ hội cho Pháp Vũ thấm sâu vào những lớp đất bên dưới tâm ta. Cũng
như trời mưa, thay vì để cho nước thấm vào đất thì mình lấy một tấm nylon để
hứng, kết quả là mình không cho những hạt giống dưới đất tâm có điều kiện nảy
mầm! Mình làm hại những hạt giống dưới đất, vì vậy mà mình không được hoa trái
từ đất tâm! Cho nên trong khi pháp thoại, dầu cho những điều mình đang nghe trái
chống với những điều mình đã hiểu, mình cũng đừng phê phán, đừng đối chất. Những
đìều mình đã hiểu có thể là sai lầm, và chính những ý niệm đó của mình về giáo
lý là bức tường ngăn cản, không cho lời Pháp thấm vào đất tâm, rất là uổng! Mình
phải tháo gỡ bức tường đó đi, thì lời pháp mới có thể rơi vào chiều sâu của tâm
thức được. Điều này mình phải tập mới làm được, tại vì mình đã quen cách học,
cách nghe đó ở trường rồi. Mình đã quen tiếp nhận bằng trí năng, quen so
sánh, phê phán, lý luận trong lúc nghe giảng. Vì vậy trong khi nghe pháp mình
phải cho anh chàng lý trí đi nghỉ mát, và mở lòng ra cho tâm địa của mình được
đón nhận những lời pháp. Phải cho những lời pháp đó, những cơn mưa pháp đó
một cơ hội để một lúc nào đó, có thể ngay tại chỗ, có thể năm bảy ngày sau, có
thể năm sáu tháng sau, khi cái hạt giống của tuệ giác, của thương yêu, của hiểu
biết trong tâm mình được thấm nhuần chất nước mát của pháp, được nảy mầm một
cách rất là mầu nhiệm. Vì vậy trong lúc nghe giảng Pháp, tôi thường nói rằng
quí vị đừng suy nghĩ, đừng so sánh, đừng phê phán. Thà quí vị vừa nghe vừa ngủ
gục còn hơn vừa nghe vừa suy nghĩ, vì trong khi mình ngủ gục anh chàng lý trí
vắng mặt, pháp vũ sẽ có một ít cơ hội đi vào tiềm thức của quí vị. Ngược lại,
khi tỉnh táo mà quí vị dùng lý trí để đón nhận lời Pháp thì giống như quí vị có
tấm nylon để ngăn nước mưa, có bức tường để dội trái banh ra ngoài, không thâu
nhập được gì cả, rất uổng.
Trong Thiền môn có loại ngôn ngữ nhằm phá vỡ
cách nghe, cách nhận của thiền sinh. Ví dụ có một thiền sinh sau khi nghe giảng
về Phật Tánh ở các loài, một hôm lên hỏi vị Thiền Sư: “Bạch Thầy, con chó có
Phật tánh hay không?” Thầy trả lời “Không”. Câu trả lời làm cho thiền sinh hoang
mang tột độ vì trước đó chàng đã nắm chắc ý niệm muôn loài đều có Phật tánh! Sở
dĩ vị thiền sư trả lời như vậy là vì chàng thiền sinh đó học theo kiểu giáo
điều. Chàng đã tiếp nhận câu “Tất cả mọi loài đều có Phật tánh” như là một ý
niệm, và ý niệm đó có ích lợi gì đâu? Điều quan trọng là mình có tiếp xúc
được với Phật tánh đó ở trong mình hay không. Cũng như chánh niệm, điều quan
trọng là mình có tiếp xúc được với năng lượng chánh niệm ở trong mình hay không,
còn mình biết và hiểu chánh niệm như là một ý niệm thì giống như mình nắm lấy
ngón tay chỉ mặt trăng, đâu còn thấy mặt trăng nữa! Dầu cho chàng thiền sinh kia
học thuộc lòng được cả ngàn điều như là “tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”,
“tất cả đều là vô thường; tất cả đều là vô ngã”, “tam giải thoát môn là Không,
Vô tướng, Vô tác” v.v... rồi cứ lập đi lập lại các câu đó mỗi ngày vài ngàn lần
thì ích lợi gì cho đời sống của ai đâu? Điều cần thiết là mình thực tập, mình
trực tiếp chứng nhập vào những chân lý đó.
Trong thời gian vận động ngừng bỏ bom tại
Việt Nam, một hôm tôi dẫn đầu một đoàn diễn hành chừng vài ngàn người tại thành
phố Philadelphia thì có một nhà báo tới hỏi: “Thầy từ miền Bắc tới hay từ miền
Nam tới?” Lúc đó tôi biết ý của ông nhà báo này, từ miền Bắc tới là Cộng sản, mà
tới từ miền Nam là chống Cộng. Do đó tôi đã nói “Tôi từ miền Trung tới”. Câu trả
lời làm cho ông mất khí giới! Ông ta chỉ có hai cái hộp: miền Nam và miền Bắc,
và ông muốn bỏ mình vào một trong hai hộp đó. Ông không có cái hộp thứ ba, cho
nên ông lúng túng. Đó là ngôn ngữ của Thiền, hay Thiền Ngữ. Tôi không muốn làm
ông nhà báo cụt hứng, nhưng vì đã được huấn luyện lâu ngày trong thiền môn, cho
nên trong những trường hợp dó tôi phải dùng thiền ngữ để cho người đối thoại với
mình có một cơ hội. Chính nhờ cái sự hoang mang đó, ông nhà báo mới xét lại việc
bỏ người Việt vào một trong hai cái hộp là không đúng. Phải tạo ra cái hộp thứ
ba hay cái hộp thứ tư. Tuy vậy không có cái hộp nào có thể chứa đựng được thực
tại hết! những cái phạm trù tư tưởng, người ta nghĩ là có thể chứa được thực
tại, nhưng trong đạo Bụt chúng ta đã học rằng các phạm trù sanh, diệt; một,
nhiều; tới, lui; có, không; đều là những phạm trù không thể chứa đựng được thực
tại! Cho nên ngôn ngữ của Thiền có mục đích đập vỡ cái khái niệm của mình, đập
vỡ những cái hộp, cái bình chứa ý niệm của mình để cho mình có cơ hội tiếp xúc
với thực tại thênh thang, không bao giờ bị gò bó trong vùng ý niệm.
Nói Pháp thoại cũng vậy, phải giảng cho thật
khôn khéo để những ngôn từ mình dùng, những ý niệm mình diễn tả không bị người
nghe nắm lấy. Mình phải làm thế nào để người nghe nương vào những ngôn từ và ý
niệm mình đưa ra để người ta kinh nghiệm được cái mà mình muốn chỉ cho họ
thấy, điều đó rất là quan trọng. Tôi rất thận trọng trong khi giảng Pháp. Lúc
lên bảng, viết chữ hạnh phúc bên này và chữ đau khổ bên kia, tôi đã thấy nguy
hiểm cho quí vị rồi. Vì vậy tôi đã lưu ý quí vị rằng “Vạch đường phân chia giữa
hạnh phúc và khổ đau là có thể làm hại biết bao nhiêu người! Quí vị phải biết
rằng cái này được làm bằng cái kia, và cái kia được làm bằng cái này. Dầu mình
có gạch đường phân chia này đi nữa, mình phải thấy có tính cách tương tức, tương
nhập của vạn pháp thì mình mới có cảm giác an ninh”.
---o0o---