[01]
A.
Khổ
Ðức-Phật sanh ra là
Thái-tử Siddhattha (Sĩ-Ðạt-Ta hay Tất-Ðạt-Ða), một người
như tất cả mọi người. Vào năm 35 tuổi, Ngài khước từ
cuộc sống trên nhung lụa của cung vàng điện ngọc và
trở thành Ðạo-sĩ Gotama (Cồ-Ðàm). Sau sáu năm theo
học với các vị đạo-sư trứ danh thời bấy giờ và
thực hành các pháp khổ hạnh đến mức cùng cực mà không
thâu đạt được kết quả mong muốn, Ðạo-sĩ Gotama tìm đến
một nơi vắng vẻ tại Uruvela (Ưu Lâu Tần Loa), giữa
khu rừng tươi tốt, bên cạnh một giòng sông ngoạn mục,
rồi ngày đêm trầm tư mặc niệm, gom tâm quan sát từng
yếu tố vật chất và tinh thần của chính bản thân mình
Ngài tìm ra Ánh sáng Chân-Lý, trở thành Phật, bậc Chánh Ðẳng
Chánh Giác. Từ đó, trong 45 năm trường Ðức-Phật Gotama
đi cùng khắp miền Bắc xứ Ấn-Ðộ, từ làng này đến làng
khác, từ tỉnh nọ đến tỉnh kia, đi trên các con đường
lớn và các nẻo nhỏ, để mang lại cho nhân loại bức thông
điệp hòa bình và an tịnh, bủa rộng vòng hào quang từ-bi
và trí tuệ vô-lượng vô-biên của Ngài bao trùm tất cả
sanh linh. Tôn giáo do Ngài sáng lập được gọi là Phật-Giáo.
Như vậy, Phật-Giáo
xuất phát từ nhân sinh, hướng về nhân sinh, nhằm phục
vụ nhân sinh.
Ðức-Phật không đặt
nền tảng giáo lý trên sự sợ sệt một oai lực huyền bí
siêu thế nào, cũng không dạy hàng tín đồ phải mong nhờ
sự giúp đỡ nào từ bên ngoài, hay trông cậy nơi sự cứu
rỗi nào từ trên ban xuống. Ngài dạy chẳng nên vội tin
chắc một điều gì là chân lý chỉ vì điều ấy đã được
ghi chép trong kinh sách, hay vì điều ấy do một nhân vật
quan trọng hoặc có uy quyền truyền dạy, chí đến lời
của chính Ngài, cũng không nên vội vã tin càng mà phải luôn
luôn dùng lý trí phân tách, quan sát, xét đoán tỷ mỷ,
tận tường, phân biệt đâu là lẽ phải rồi mới quyết
định tin cùng không. (xem kinh Kalãma Sutta, Anguttara Nikãya,
Tăng Nhứt A Hàm, quyển I, trang 189)
Ngài dạy muốn tìm
chân
lý hãy hướng vào bên trong bản thân mình, bởi vì:
"Trong tấm thân
nhỏ bé (nguyên văn: Tấm thân dài một sải) này, cùng
với những tri giác và những tư tưởng, Như-Lai tuyên bố
thế-gian, nguồn gốc của thế-gian, sự chấm dứt
thế-gian và con đường dẫn đến chấm dứt
thế-gian". (Kinh Rohitassa Sutta)
Danh từ Loka
mà
ở đây được phiên dịch là thế-gian hàm xúc ý nghĩa
thế-gian đau khổ và đau khổ là kinh nghiệm của thế-gian
bên trong ta.
Dukkha
là danh từ Pãli mà Ðức-Phật đã dùng để chỉ cái thường
được phiên dịch là đau khổ. Vậy, để được rõ ràng hơn
ta hãy tìm hiểu ý nghĩa bao hàm trong chữ Dukkha. Trong
quyển "The Buddha and His Teachings", Ðại-Ðức Nãrada
giải thích:
"Ðứng về phương
diện cảm giác Dukkha là cái gì làm cho ta khó chịu
đựng ("Du" là khó, "Kha" là
chịu đựng). Nếu xem như một chân-lý trừu tượng, Dukkha
hàm xúc ý nghĩa khinh miệt "Du", và trống
rỗng "Kha". Thế-gian nằm trong sự đau khổ
và như vậy là đáng khinh miệt, không đáng cho ta bám níu
vào. Thế-gian là một ảo ảnh, không có thực chất. Do đó,
thế-gian là rỗng không, hư vô. Vậy, Dukkha có nghĩa
là một hư vô đáng khinh miệt, không đáng cho ta luyến ái
và bám níu vào".
Trong bài thuyết
trình
vế Tứ-Diệu-Ðế (The Significance of The Four Noble Truths; Wheel
Publication No. 123), đạo hữu cư sĩ Gunaratna giải thích
danh từ Dukkha như sau:
"Danh từ Dukkha
gồm hai thành phần: "Du " và "Kha".
"Du" là một tiếp đầu ngữ hàm xúc ý nghĩa
xấu, thấp kém, đê tiện, hèn hạ hay tầm thường. "Kha"
là trống rỗng, hay nông cạn. Hai thành phần này hợp
chung lại ám chỉ một cái gì xấu, không đáng được ưa
thích, bởi vì nó trống rỗng, không có thực chất,
huyền ảo, không làm thỏa mãn và thường được phiên
dịch là "Ðau Khổ" hay "Khổ-Não". Tuy nhiên,
hai chữ đau khổ và khổ-não chỉ bao hàm những ý niệm
về một trạng thái khó chịu, tinh thần hay vật chất, mà
không diễn đạt trạng thái rỗng không, huyền ảo và không
thực của phạn ngữ Dukkha.
Dukkha
không những phải khiêu gợi trong tâm ta những ý niệm không
làm thỏa mãn của sự vật trên thế-gian, trạng thái không
thực và dĩ nhiên, đưa đến tuyệt vọng, phiền muộn và
bất ổn của tất cả những gì tạo nên khung cảnh sống
của chúng ta. Dukkha bao gồm trạng thái chênh lệch,
chao động và xáo trộn triền miên nối tiếp mà tất cả
chúng sanh phải chịu vì không tìm được trong thế gian này
sự bền vững, ổn định và thường còn. Tất cả sự
vật bên trong và bên ngoài ta đều ở trong trạng thái luôn
luôn sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, vô cùng tận, tạo nên
cảnh "bất toại nguyện" và "bất ổn định"
của toàn thể vũ trụ".
Trong bài Pháp đầu
tiên,
gọi là Kinh Chuyển Pháp Luân, Ðức-Phật mô tả cái khổ
như sau:
"Hởi này các
Tỳ-Khưu, bây giờ, đây là chân-lý cao thượng về sự
khổ. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là
khổ, sống chung với người mình không ưa thích là khổ,
xa lìa người thân yêu là khổ, mong muốn mà không được
là khổ. Tóm lại, bám níu vào thân ngũ-uẩn là
khổ".
Một câu chuyện
thuật
lại như sau:
"Người kia đi
quanh quẩn giữa một khu rừng mênh mông, đầy chông gai và
đá nhọn. Trong khi lang thang bất định, anh sực nhìn lại
phía sau và thấy một thớt voi đang rượt theo. Giựt mình,
anh vụt chạy. Voi đuổi theo. Chạy đến một cái giếng
cạn anh định nhảy xuống để tránh voi. Nhưng dưới đáy
giếng có một con rắn độc. Thớt voi vẫn lù lù trờ
tới. Hoảng hốt, anh chụp lấy một dây rừng từ cây cao
lòng thòng trên miệng giếng và vội vã leo phăng lên,
bất chấp gai nhọn đầy trên sợi dây quàu trầy cả mình
mẩy và tay chân. Lúc ấy anh chàng ngước mặt nhìn lên,
thấy một ổ ong. Bầy ong bay tủa ra vây đánh anh. Phía trên
nữa có hai con chuột, một trắng, một đen, đang cặm
cụi gặm nhấm sợi dây mà anh đang đeo trên đó.
Vừa lúc ấy, một
giọt mật từ ổ ong rơi xuống ngay vào miệng anh. Bấy
giờ, quên cả thớt voi đang rượt, con rắn độc đang
nằm dưới đáy giếng, sợi dây có gai nhọn quàu trầy
cả mình mẩy, bầy ong đang vây đánh và hai con chuột, tượng
trưng cho ngày và đêm, đang gặm nhấm sợi dây đời
sống, anh mê mệt thọ hưởng giọt mật một cách thỏa
thích...".
Ðó là hình ảnh của
cuộc sống mà chúng ta đang sống: Người lang thang lạc bước
giữa rừng là chúng ta. Khu rừng mênh mông đầy chông gai là
kiếp nhân sinh trong vòng luân hồi. Thớt voi tượng trưng
cho Tử Thần. Con rắn độc nằm dưới đáy giếng là sự
già nua. Sợi dây rừng đầy gai nhọn là sự sinh. Bầy ong là
những nỗi khổ đau luôn luôn đe dọa sự an lành của chúng
ta. Giọt mật hình dung những thú vui hiếm hoi trong đời
sống. Hai con chuột, một trắng, một đen là ngày và đêm.
Quả thật vậy, cuộc
sống của chúng ta trong vòng luân hồi không giống như một
vườn hoa tươi đẹp, lộng lẩy màu sắc và bát ngát hương
trầm, mà tựa hồ như một khu rừng mênh mông đầy chông
gai và đá nhọn. Trên bước viễn du trong vòng luân hồi,
từ vô lượng kiếp, chúng ta vẫn còn đang lặn hụp trong
những kiếp sống triền miên tiếp diễn mà không tìm được
đường thoát. Hạnh phúc mà phần đông chúng ta mong tìm
chỉ là sự thỏa mãn một vài ước vọng. Nhưng vừa khi đạt
đến điều mong mỏi ta lại ước mơ điều khác và cứ như
thế không ngừng. Chúng ta không bao giờ được thỏa mãn
trọn vẹn vì không bao giờ biết là đủ. Lẽ dĩ nhiên,
một ước vọng không được toại nguyện làm cho ta đau
khổ. Nhưng dầu có được toại nguyện đi nữa, ta lại lo
âu, bận tâm suy nghĩ để gìn giữ, sợ nó mất đi. Trong
cảnh cơ hàn, ta ước mong được sang trọng giàu có, rồi
khi được giàu sang ta lại lo sợ phải nghèo đói cơ cực.
Nhưng trong cuộc sống vô thường tạm bợ này có thú vui nào
tồn tại mãi mãi, có hạnh phúc nào trường tồn. Mặt
trời mọc ở phương Ðông chỉ để lặn ở phương Tây,
hoa nở tốt tươi buổi sáng để rồi úa tàn về chiều,
mọi cuộc sum hợp vui vầy đều phải chấm dứt trong phân
tán chia lìa, vừa lúc sanh ra đời đã phải mang theo mầm
mống chết. Chừng ấy nổi sầu muộn càng sâu đậm. Trong
thế-gian huyền ảo, tạm bợ, vô-thường, ngã chấp và đầy
tham vọng này chúng ta không thể tìm được hạnh phúc
thật sự, trường tồn vĩnh cửu.
Sanh, già, bệnh,
chết
là những gì mà trong đời sống không ai có thể tránh
khỏi. Và bốn trạng thái đau khổ ấy được tượng trưng
trong câu chuyện bằng sợi dây, con rắn, gai nhọn trên sợi
dây và thớt voi.
Cái sanh mà trong
câu
chuyện, được tượng trưng bằng sợi dây đầy gai nhọn
phải được hiểu là sự sống và sự sống trong một
kiếp bắt đầu lúc vừa được thọ thai, không phải lúc
lọt lòng mẹ. Vài người tưởng tượng thai bào như một nơi
chốn ấm cúng đầy đủ tiện nghi, hay như một tịnh thất
đượm nhuần tình thương mà con người ẩn rút vào đó
một thời gian để tịnh dưỡng tâm linh. Trong thực tế,
được thọ thai vào lòng mẹ không giống như hiện thân vào
nằm trong một đóa hoa sen đẹp đẽ, tinh khiết và có mùi
thơm dịu dàng. Trái lại, tứ bề là những gì nhơ nhớp,
tanh hôi. Không có gì là hấp dẫn cho cả mẹ lẫn con. Sau
chín tháng mười ngày chịu đựng mọi đau khổ, nằm trong
một cái bọc, em bé thoát lòng mẹ và được kéo lôi ra,
tống vào đời. Một lần nữa, mẹ và con vô cùng đau đớn.
Mẹ nhăn nhó rên siết, con cất tiếng chào đời bằng
giọng la khóc, trong khi mọi người khác hân hoan thỏa thích
đón mừng.
Khi nói sanh là
khổ, không
phải chúng ta chỉ nghĩ đến nỗi khổ nhọc hiểm nguy gây
nên do cảnh mang nặng đẻ đau mà sâu xa hơn, ta phải nhận
thức rằng chính cái sanh là đầu dây mối nhợ, là khởi
duyên, tạo cơ hội cho cái khổ bám vào. Nếu không sanh
tức không có sự sống và không có sự sống tức là không
có khổ. Vì lẽ ấy mục tiêu cứu cánh của người
Phật-tử là thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi, tức thoát
ra khỏi mọi khổ đau. Nhưng bản chất tự nhiên của chúng
sanh là cố bám vào sự sống, giống như anh chàng bị gai quàu
trầy cả mình mẩy mà vẫn đeo chắc lấy sợi dây, vì ái-dục
là một năng lực vô cùng hùng mạnh, luôn luôn tiềm tàng
ngủ ngầm bên trong tất cả mọi người. Chính ái-dục, thô
kịch hay vi tế, thúc đẩy ta đeo níu, cố bám chắc vào
sự sống dưới mọi hình thức và do đó, dẫn dắt ta mãi
mãi phiêu bạt trong biển trầm luân.
Ðã sanh ra tất
trưởng
thành và đi dần vào cảnh già nua. Trong câu chuyện, con
rắn độc nằm dưới đáy giếng tượng trưng cho tuổi già.
Danh từ "Jarã" mà Ðức-Phật dùng ở đây không
phải chỉ riêng tuổi già mà hàm xúc ý niệm "đi dần
đến tuổi già" hay "hư hoại". Như vậy có sự
biến đổi từ lúc còn trong bào thai chớ không đợi đến
lúc lọt lòng mẹ. Lẽ dĩ nhiên, thân thể hao mòn tiều
tụy, răng long, tóc bạc, má cóp da nhăn, mắt mờ tai điếc,
tinh thần suy kém, trí não lu mờ, quên trước lộn sau... là
cảnh già nua phát lộ ra ngoài và nổi bật một cách hiển
nhiên mà tất cả mọi người đều thấy. Nhưng từ khi
thọ thai, chúng ta luôn luôn biến đổi, liên tục trưởng
thành, không ngừng trở thành một cái gì mới, rồi đi
dần đến cảnh già nua, diệt vong và tan rã.
Tất cả mọi sự vật
được cấu thành đều phải hư hoại và diệt vong. Lẽ dĩ
nhiên, thể xác của chúng ta, do nhiều thành phần lớn nhỏ
cấu hợp, ắt phải bị hoại diệt. Ðó là đau khổ (Dukkha)
đối với những ai hằng bám níu vào cơ thể vật chất
của mình, chấp rằng đây là "Tôi", cái này là
"của Tôi". Chúng ta có thể nhìn sự hư hoại của
thân, tức Dukkha, dưới ba phương diện. Trước là
một phần của thân hư hoại, không thể hoạt động như ý
ta muốn, như m?t cánh tay hay một cái chân bại xụi, một
bộ phận trong mình bị tê liệt... và hằng trăm triệu
chứng ương yếu khác. Trường hợp thứ nhì là giác quan hư
hỏng, như đui mù, câm điếc chẳng hạn. Và thứ ba là trí
não, hư hoại như thần kinh rối loạn, mất trí nhớ, trở
nên lãng trí không còn hiểu biết rõ ràng. Tất cả những
trạng thái hư hoại ấy đều dẫn đến đau khổ. Nhưng
nếu so sánh, hai phương diện hư hoại đầu, dầu rất khó
chịu đựng, vẫn không sâu xa bằng phương diện thứ ba. Ta
có bị tật nguyền cách nào, trạng thái đau khổ chỉ kéo
dài trong một kiếp sống, trong khi người mà tâm linh hư
hoại ắt không đủ sáng suốt để đi theo con đường của
Giáo-pháp và như vậy phải chịu khổ đau triền miên trong
nhiều kiếp sinh tồn.
Nhiều bạn trẻ rất
hãnh
diện với thân hình cường tráng khỏe mạnh của mình,
vẫn không thích nghĩ đến tuổi già, để trọn vẹn thọ hưởng
những thú vui của thời niên thiếu. Nhưng dầu ta có nghĩ
đến nó cùng không, nó vẫn ở đâu đây. Con rắn độc
vẫn luôn luôn nằm dưới đáy giếng. Tình trạng già nua đến
với ta từng giây, từng phút và thâu ngắn đời sống chúng
ta trong từng chập tư tưởng. Bao nhiêu người trong chúng
ta, chịu bình tâm suy niệm về hiện tượng chết?
Có sanh, có sống là
có
bệnh. Bệnh hoạn là việc dĩ nhiên trong đời sống và
trong câu chuyện, được tượng trưng bằng những gai nhọn
trên sợi dây. Dầu già, dầu trẻ hay bất luận ở lứa
tuổi nào ta cũng có thể lâm bệnh. Tấm thân ô trược này
chỉ là nơi nương tựa của bao nhiêu bệnh hoạn tật
nguyền. Ðức-Phật dạy:
"Hãy nhìn cái
thể xác đẹp đẽ này, một khối đau đớn, một đống
bệnh tật, được người ta bận tâm đến nhiều nhưng không
chứa đựng gì bền vững, không có gì tồn tại".
Có những bệnh tật
của thể xác, cũng có những bệnh tinh thần. Cả hai, bệnh
tinh thần hay thể xác, đều là nguyên nhân sanh khổ. Vào
thời Ðức-Phật có một cụ già tên Nakulapita, một hôm
đến bạch với Ngài:
"Bạch Hóa Ðức
Thế-Tôn, nay con đã già yếu, thân thể gầy còm, đi đứng
lụm cụm, tuổi quá cao. Con đã đến mức tận cùng của
kiếp sống, thường bệnh hoạn và luôn luôn ương yếu. Cúi
xin Ðức Thế-Tôn mở lượng từ-bi khuyên dạy, an ủi con
thế nào để con có thể an hưởng phước báu lâu dài".
- "Ðúng vậy, này
ông Thiện Nam, quả thật thân thể của ông đã yếu đuối
mỏi mòn. Tuy nhiên này ông Thiện Nam, người nào mang thân
này mà khoe khoang rằng mình hoàn toàn mạnh khỏe, chỉ
trong chốc lát thôi, người ấy cũng là điên cuồng. Như
vậy này ông Thiện Nam, ông hãy tu tập suy niệm như sau,
"dầu thân xác này có ương yếu, ta sẽ không để cho
tâm bệnh hoạn".
Cụ già Nakulapita
nghe được lời dạy của Ðức-Phật thì lòng phấn
khởi, hoan-hỷ đảnh lễ Ngài rồi ra đi. Và cụ đến
bạch với Ngài Sãriputta (Xá-Lợi-Phất) xin Ngài
giải thích thêm thế nào là thân thể bệnh hoạn mà tâm
cũng bệnh hoạn và thế nào là thân bệnh mà tâm không
bệnh.
Ðức Sãriputta
dạy: "Nơi đây (trong trường hợp này), này ông
Thiện-Nam, người không phân biện rõ ràng Giáo-pháp, không
tu tập theo lời dạy của Giáo-pháp, xem thân thể này là
chính mình (là tự ngã) thấy tự ngã của mình nằm trong
thân thể, thân thể trong tự ngã. Người ấy nói: "Tôi
là thân này, thân này là của tôi và ý tưởng ấy thâm
nhiễm lâu ngày nhiều kiếp như vậy. Ðến khi thân thể
biến đổi, tàn tạ và ngày càng trở nên tồi tệ thêm,
theo định luật vô-thường, bất ổn định, dính liền
với mọi sư vật, mọi kiếp sinh tồn, thì cảm nghe buồn
rầu, âu sầu, đau khổ. Người ấy ta thán, than vản,
tuyệt vọng.
Người ấy xem Thọ,
Tưởng, Hành, Thức là tự ngã, xem chính mình nằm trong
Thọ, Tưởng, Hành, Thức, hoặc xem Thọ, Tưởng, Hành,
Thức nằm trong chính mình và nói: "chính ta là ngũ-uẩn,
ngũ-uẩn là ta, cái này là Thọ, Tưởng, Hành, Thức của
ta" và cứ thế ý niệm tự đồng hóa với ngũ-uẩn
thâm nhiễm người ấy. Do đó, khi Thọ, Tưởng, Hành,
Thức, biến đổi ... vì bản chất của nó là bất ổn định
và luôn luôn biến đổi thì người ấy buồn rầu ta thán,
âu sầu và tuyệt vọng. Ðó, này ông Thiện-Nam, là thân
bệnh hoạn mà tâm cũng bệnh hoạn.
Và bấy giờ, thế
nào
là thân ương yếu bệnh hoạn mà tâm cường tráng khỏe
mạnh? Người được giáo dục đầy đủ, tu tập thuần
thục trong Giáo-pháp của bậc Thánh Nhân, người ấy xem
thân này không phải là tự ngã và tự ngã không nằm
trong thân này. Người ấy không nói "Tôi là thân này,
thân này là tôi", mà cũng không bị ý niệm ấy thâm
nhiễm. Như vậy, khi thân biến đổi và tàn tạ người
ấy không âu sầu, không phiền muộn...
Cùng thế ấy,
người
ấy không xem Thọ, Tưởng, Hành, Thức là chính mình, cũng
không xem tự ngã mình nằm trong bốn uẩn ấy. Người ấy
không bị ý niệm kia thâm nhiễm và không nói, "Thọ,
Tưởng, Hành, Thức là tôi, tôi là Thọ, Tưởng, Hành,
Thức". Vì không thâm nhiễm những ý niệm sai lạc
ấy, khi Thọ, Tưởng, Hành, Thức biến đổi người ấy
không âu sầu, không phiền muộn..."
Một nguyên nhân
khác
đưa đến đau khổ (Dukkha) mà không ai có thể tránh là
cảnh sanh tử biệt-ly, bởi vì chết là nghìn thu vĩnh
biệt. Trên bước thênh thang trong vòng luân hồi đã bao
lần ta chết và đã bao lần ta khóc cái chết của một người
thân. Hãy lắng nghe đạo hữu Huỳnh Thanh Long ngỏ lời
nhắn nhủ người khách lữ hành đang lạc lối giữa rừng:
"Hỡi người
khách lữ hành trên cõi thế
Ði lang thang vô định đã bao đời!
Vòng tử sanh sanh tử, nẻo luân hồi
Trong Tam Giới xoay đi rồi chuyển lại!
Vô lượng kiếp khóc cha rồi khóc mẹ
Khóc vợ con, quyến thuộc kẻ thân yêu
Khóc cửa nhà, tài sản sớm tiêu điều!
Từ vô thỉ khóc than bao cảnh khổ
Những giọt lệ đắng cay người đã đổ
Còn nhiều hơn nước mặn khắp trùng dương!
Hỡi người khách lữ hành trên cõi thế
Ði lang thang vô định đã bao đời!
Vòng tử sanh sanh tử, nẻo luân hồi
Trong Tam Giới kiếp này rồi kiếp khác!
Từ vô thỉ mỗi đời người bỏ xác
Khắp địa cầu phủ trắng đống xương khô!
..."
Sanh, Trụ, Diệt là
định
luật chung của muôn loài vạn-vật. Trong thế-gian hiện tượng
này có cái chi luôn luôn tồn tại? Có cuộc sum hợp nào mãi
mãi vững bền? Có cuộc sống nào không đi dần đến cái
chết? Cứng rắn như sắt đá, to lớn như hành tinh, hung
dữ như ác thú, khôn ngoan như loài người, tất cả đều
phải hoại diệt. Cũng như từ cành cây có nhiều trái rơi
rụng, trái non có, trái già có, trái chín mùi có, cùng thế
ấy, từ cành cây của đời sống ta có thể rơi lìa bất
luận ở lứa tuổi nào, từ sơ sinh, thiếu sinh, tráng sinh,
vv... chí đến khi niên cao tuổi lớn. Già chết, trẻ chết,
giàu sang chết, quyền quý chết, bần hàn chết, tối tăm
ngu muội chết, thông minh sáng suốt chết... cái chết không
dành riêng cho một người, một gia đình, một xóm làng,
một quốc gia hay dân tộc nào mà đó là số phần của
tất cả mọi chúng sanh trong Tam-Giới, từ Dục-Giới,
Sắc-Giới đến Vô-Sắc-Giới, từ hạng ngạ quỷ, cầm thú,
đến Chư-Thiên, Chư Phạm-Thiên. Chúng ta bước vào đời và
trưởng thành giữa những người thân yêu: nào cha mẹ, ông
bà, nào cô bác, cậu dì, nào anh chị em, nào thân bằng
quyến thuộc, thầy cô, xóm giềng, vv... Chúng ta thương yên
nhau, vui cười với nhau, rồi lần lượt mỗi người ra đi
một ngã, tùy theo cái nghiệp của mình. Ðến như thế nào,
ra đi đường thế ấy. Chúng ta đến một thân một mình,
với hai bàn tay trắng. Cũng một thân một mình chúng ta sẽ
ra đi với hai bàn tay không.
Ðối với phần đông
chúng ta, chết là diễn biến đau khổ trọng đại nhất trên
đời vì chúng ta suy tư sai lạc. Trong thực tế cái chết không
giống như một chằng tinh hung dữ ẩn núp đâu đây trong lùm
bụi, bên đường, chực hờ lúc ta trờ tới là chụp lấy
ăn thịt. Cái mà ta gọi là chết chỉ là cái gì đã xảy
đến ta vô số lần trong kiếp sống, chỉ khác ở một điểm
là lần này hiện tượng chết biểu lộ dưới một hình
thức hiển hiện hơn. Sách Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhi Magga)
dạy rằng trong ý nghĩa cùng tột, chúng sanh chỉ sống trong
thời gian của một chập tư-tưởng (chập tư-tưởng hay sát-na
tâm, được giải thích là một phần triệu triệu của
khoảng thời gian một cái chớp):
"Tựa hồ như bánh
xe lăn trên mặt đất, trong mỗi điểm thời gian vòng bánh
xe chỉ chấm đất ở một điểm. Cùng thế ấy, kiếp
sống của chúng sanh chỉ tồn tại trong khoảnh khắc của
một chập tư-tưởng hay như ta thường gọi một sát-na tâm.
Khi chập tư-tưởng ấy chấm dứt, chúng ta nói rằng chúng
sanh ấy chấm dứt".
Như vậy, trong từng
khoảnh khắc của kiếp sống chúng ta đang chết và đang tái
sanh. Vì mê muội, không phân biệt được bản chất của cái
chết tạm thời trong mỗi khoảnh khắc nên chúng ta lo sợ
một cái chết đặc biệt, xảy đến vào phút cuối cùng
của kiếp sống, mà không thấy rằng đó chỉ là sự chấm
dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Trong câu
chuyện kể trên, cái chết được hình dung như thớt voi luôn
luôn theo bén gót người đi lang thang bất định giữa khu
rừng bát ngát mênh mông của đời sống".
Sanh, già, bệnh,
chết
là những cái khổ mà mặc dầu không ai tránh khỏi, chỉ đến
với ta vào giai đoạn nào. Ta chỉ sanh ra và chết một
lần, chỉ trở nên già nua vào lúc xế chiều của cuộc
sống và trừ phi phải bị một chứng bệnh kinh niên bất
khả trị, ta chỉ lâm bệnh từng lúc. Nhưng còn những đau
khổ khác có tánh cách thường xuyên hơn, được Ðức-Phật
mô tả trong bài Kinh Chuyển Pháp Luân như sau:
"... sống chung
với người mình không ưa thích là khổ, xa lìa người thân
yêu là khổ, mong muốn mà không được là khổ. Tóm lại,
bám níu vào thân ngũ-uẩn là khổ".
Ðó là những phiền
phức và đau khổ khác không ngớt ve vãn để phá tan tình
trạng an-lạc của ta. Trong câu chuyện là bầy ong không
ngừng bay vù vù bao phủ khách lữ hành đang lạc lối trên
cõi thế.
Phải sống chung với
người mình không ưa thích là một điều khổ. Chung sống
với một người điên, với kẻ sát nhân hung bạo tàn ác,
với một tên trộm luôn luôn chực hờ để đánh cắp một
vật gì của mình, với người có tánh lăng loàn lang chạ,
người gian dối, thô lổ cộc cằn, người có tính đâm
thọc, đem chuyện đầu kia về dèm pha ở đầu này, sống
với người say sưa, hư hèn mất nết, vv... đều là khổ. Vã
lại "người mình không ưa thích" ở đây có thể là
một con thú, hay một vật làm cho mình khó chịu, cũng có
thể là thời tiết quá lạnh hay quá nóng, hoặc nữa là
một công việc làm để sinh sống mà mình không thích. Tất
cả những hoàn cảnh ấy đều là nguyên nhân đưa đến đau
khổ".
Cùng một thế ấy,
phải xa lìa người thân kẻ yêu là nguyên nhân gây đau
khổ khác không thể tránh. Con xa cha mẹ, cha mẹ xa con,
chồng lìa vợ, vợ lìa chồng, bạn bè xa cách, quyến
thuộc chia lìa đều là khổ. Nhưng có hợp là có tan, đó là
lẽ tự nhiên. Cảnh sum hợp trên thế-gian là tạm bợ. Và
đời sống của chúng ta, gặp gỡ nhau trên thế-gian cũng
chỉ là tạm thời. Tất cả những mối liên hệ trong gia đình,
trong xã-hội, như cha mẹ, anh em, chồng vợ, bạn bè quyến
thuộc, vv... tất cả đều tạm bợ. Nếu trong trường hợp
trên: sống với người không ưa thích, chúng ta bị thương
tích vì mũi tên có tẩm thuốc độc "Sân hận" thì
ở trường hợp này, xa lìa người thân yêu mũi tên bắn vào
mình ta lại tẩm thuốc độc "Tham ái". Chúng ta
mến yêu, muốn mãi mãi sống một bên những người, những
sinh vật, hay những vật dụng mà ta thương mến hay ưa thích,
nhưng rồi tham vọng ấy không được thỏa mãn trọn vẹn và
chúng ta thất vọng và đau khổ. Trong một thế-gian mà tính
khát khao tham muốn và gắn bó luyến ái luôn luôn ngự trị
và cảnh phân tán chia lìa là điều không thể tránh thì làm
thế nào chúng ta có thể vượt thoát ra khỏi được hai hình
thức đau khổ này? Chúng ta hằng ngày lặn hụp bơi lội
trong biển vô-thường và trong lúc ấy, chính chúng ta cũng
không ngừng biến đổi, thì chắc chắn là chúng ta phải
chịu hai loại đau khổ thường xuyên này.
Như vậy, bằng cách
này
hay cách khác, chúng ta không thể tránh khỏi cảnh "mong
muốn mà không được". Ðiều mong ước mà không thành
tựu làm cho ta đau khổ. Trái lại, những cảnh ngộ nghịch
lòng hay những điều mà ta ít mong mỏi nhất lắm khi đến
với ta một cách đột ngột. Những trường hợp nghịch
cảnh tương tợ trở thành không thể chịu đựng nổi và
đau khổ đến đổi vài người yếu tánh và kém hiểu
biết phải nghĩ đến việc quyên sinh, tưởng chừng như
chết là giải quyết mọi vấn đề đau khổ. Về điểm này
Ðức-Phật dạy rằng chúng sanh phải chịu cảnh già,
bệnh, chết, phiền muộn, ta thán, đau đớn, âu sầu và
tuyệt vọng và mong muốn: phải chi ta khỏi bị cảnh già,
bệnh, chết, phiền muộn, ta thán, đau đớn, âu sầu và
tuyệt vọng! Phải chi những hoàn cảnh bất hạnh kia đừng
bao giờ đến với ta! Nhưng, không phải chỉ bằng cách mong
muốn suông mà ta có thể chận đứng, làm cho những hoàn
cảnh bất hạnh ấy không đến với ta. Và điều ước
muốn mà không thành tựu là nguyên nhân đưa đến đau
khổ.
Ðức-Phật nhiều lần
nhấn mạnh rằng mong ước suông không thể bảo vệ chúng
ta. Ðường lối duy nhất để thoát khỏi đau khổ là thực
hành Giáo-pháp và phát triển tuệ minh-sát.
Giờ đây, để chấm
dứt đoạn mô tả đau khổ (Dukkha) Ðức-Phật dạy:
"... Sankhittena
Pancupãdãnakkhandhã Dukkha" có nghĩa "tóm tắt,
ngũ-uẩn thủ là khổ".
Ngũ-uẩn thủ ở đây
là sự bám níu (thủ:Upãdãna) vào ngũ-uẩn (Pancãkkhandhã),
hay năm nhóm bám níu. Như vậy, bám níu vào ngũ-uẩn là
khổ. Ðây là sắc thái tế nhị nhất của khổ (Dukkha)
và cũng là sắc thái bền bỉ dính liền và gần gủi với
chúng ta nhất. Năm nhóm bám níu này tức: Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức... là những thành phần cấu hợp nên chúng sanh.
Do nghiệp tạo trong tiền kiếp, chúng ta đã bám níu vào ngũ-uẩn
từ thủa bắt đầu kiếp sống hiện tại. Và trong kiếp
sống hiện tại ta tiếp tục tạo nghiệp bằng cách luôn luôn
ham muốn, khát khao hoặc ghét bỏ, xua đuổi điều này vật
nọ. Cả hai trường hợp đều là hình thức bám níu khác
nhau, vì ghét bỏ, xua đuổi là ham muốn khát khao, tức bám
níu, cái ngược lại. Nhưng bản chất của cái mà ta bám níu,
ngũ-uẩn, là bất ổn định, không ngừng sanh rồi diệt và
như vậy bám níu vào nó không khác nào dơ tay nắm lấy
một nắm nước và mong rằng nước sẽ ở lại mãi mãi
trong tay. Chắc chắn là ta phải thất vọng. Ðiểm này sẽ
được đề cập đến ở đoạn hành-khổ (Sankhãra
Dukkhatã).
Trên đây là phần
đen
tối của cuộc sống mà chúng ta đang sống. Tuy nhiên, trong
khu rừng của đời sống không phải chỉ có chông gai và đá
nhọn. Thỉnh thoảng ta cũng gặp một vài bông hoa tươi đẹp,
một vài kỳ hoa dị thảo, hay một vài giọt mật ngọt ngào.
Chính những giọt mật hiếm hoi ấy làm cho ta say đắm, quên
hẳn mọi sầu khổ và hiểm nguy. Và trong khi chúng ta mãi mê
thọ hưởng giọt mật thì hai con chuột, một trắng, một
đen, tượng trưng ngày và đêm, không ngừng gặm nhấm sợi
dây. Mỗi ngày qua đưa ta đến gần cái chết hơn một ngày.
Mỗi đêm qua đưa chúng ta đến gần cái chết hơn một đêm.
Giáo-lý của
Ðức-Phật
đặt trọng tâm vào sự đau khổ (Dukkha) và nhằm
chấm dứt đau khổ. Trong khi dạy rằng đau khổ (Dukkha)
là đặc tánh nổi bật nhất của đời sống Phật-giáo nhìn
Dukkha dưới ba sắc thái:
a) Khổ-Khổ (Dukkha-Dukkhatã
): Ðời sống hiển nhiên là đau khổ, sự đau khổ
hiển nhiên mà mọi người đều có thể trông thấy.
b) Vô-Thường-Khổ (Viparinãma-Dukkhatã
): Ðau khổ vì vô-thường. Viparinãma là thay đổi,
biến chuyển, thay hình đổi dạng. Bản thể của đời
sống là đau khổ vì bản thể của vạn pháp là vô-thường.
c) Hành-Khổ (Sankhãra-Dukkhatã
): Ðau khổ vốn dính liền, cố hữu với chúng sanh
trong sự cấu thành của chúng sanh. Chính bản chất của
chúng sanh là đau khổ. Tự chúng sanh là đau khổ. Chính ngũ-uẩn
là đau khổ.
a)
Khổ-Khổ (DUKKHA-DUKKHATÃ )
Trong quyển "The
Buddha's Ancient Path", Ðại-Ðức Piyadassi viết:
"Ðối với người
có quan kiến chân chánh, tức hiểu biết và không luyến
ái, một sự kiện nổi bật rõ ràng minh bạch là trong toàn
thể thế-gian chỉ có một vấn đề là đau khổ (Dukkha),
bất toại nguyện. Tất cả những vấn đề khác đã được
hay chưa được biết, đều trọn vẹn nằm trong vấn đề
có tánh cách phổ thông này. Nếu vạn nhất có việc gì
trở thành vấn đề thì đương nhiên việc ấy phải dính
liền với trạng thái bất toại nguyện, hay nếu muốn dùng
một danh từ khác, trạng thái xung đột, bất ổn, xung đột
giữa ý muốn của ta và các diễn biến của đời sống.
Và lẽ dĩ nhiên, mọi người đều cố gắng giải quyết
vấn đề, hay nói cách khác, nỗ lực của mọi người là
chấm dứt trạng thái bất toại nguyện ấy, là kiểm soát,
chế ngự cuộc xung đột đã làm cho ta ưu phiền, đau
khổ. Chúng ta nhìn vấn đề duy nhất ấy dưới nhiều khía
cạnh khác nhau, vấn đề kinh tế, vấn đề xã-hội, vấn
đề chánh trị, vấn đề tâm lý, chí đến vấn đề tôn-giáo.
Phải chăng tất cả các vấn đề ấy đều phát nguyên
từ đau khổ (Dukkha), bất toại nguyện? Nếu không
phải vậy, nếu các vấn đề ấy không phải là đau
khổ, bất toại nguyện, tại sao ta cố gắng giải quyết?
Giải quyết một vấn đề phải chăng là để làm giảm
suy trạng thái bất toại nguyện? Tất cả các vấn đề
tạo nên bất toại nguyện và nỗ lực của ta nhằm chấm
dứt tình trạng ấy".
Ðối với đạo hữu Gunaratna,
chỉ cần nhìn quanh ta với cặp mắt quan-sát và tâm suy tư
là ta sẽ thấy hiển nhiên nổi bật đặc tánh đau khổ
của đời sống. Trong một bài thuyết trình về Tứ-Diệu-Ðế,
ông nói:
"Có đời sống
của người nào, từ bé đến già, mà phẳng lặng, im lìm
như mặt nước ao hồ, không bị chút lo âu, sợ-sệt,
buồn rầu, làm chao động? Có gia-đình nào chưa từng khóc
cái chết của một người thân? Tìm ở đâu ra một trái
tim chưa từng bóp siết nhói đau và chưa bao giờ sầu
muộn? Và chính trong giờ phút này, ngay lúc tôi đang nói và
quý vị đang nghe, có bao nhiêu trăm, bao nhiêu ngàn, hơn
nữa, bao nhiêu triệu người đang trằn trọc hay nằm vùi
trên giường bệnh, ở nhà hay ở trong bệnh viện, trong
thế-gian rộng lớn và đầy dẩy đau khổ này? Bao nhiêu
triệu bệnh nhân khác cũng trong giờ phút này, đang nằm
trải mình trên bàn mổ, giữa hai trạng thái, sống và
chết? Bao nhiêu người khác nữa đã đến mức tận cùng
của đời sống, cũng trong giờ phút này, đang cố bám
lấy hơi thở mà hầu như không còn trở lại nữa, và
cố hớp lấy từng hớp hơi thở cuối cùng? Và bao nhiêu
triệu cha mẹ, con cái, bạn bè đang than khóc sự ra đi
của thân bằng quyến thuộc? Không thấy tức không biết,
ngoại trừ người suy tư. Vậy thử nhìn qua thế-gian chung
quanh ta để nhận thấy đến mức độ nào đói rét và
nạn thất-nghiệp đã gây đau khổ cho nhân loại? Có
phải chăng đó là dấu hiệu không thể lầm lẫn chỉ rõ
tánh cách phổ cập của đau khổ (Dukkha)?"
Ðó là sắc thái đau
khổ hiển nhiên của đời sống mà mọi người suy tư đều
có thể nhận thấy.
b)
Vô-Thường
Khổ (Viparinãma Dukkhatã )
Ðau khổ vì đời
sống là vô-thường, là sắc thái thứ nhì của Dukkha.
Khi mà tất cả mọi sự vật đều biến đổi, không có gì
ổn định, không có gì bền vững, không có gì tồn tại
giống hệt nhau trong hai khoảnh khắc thì hậu quả dĩ nhiên
là trạng thái vô-thường, bất ổn, bất định, bất điều
hòa, những khía cạnh khác nhau của đau khổ (Dukkha).
Chính sự biến đổi là dấu hiệu của Dukkha.
Ðau khổ là một cảm
giác, danh từ Phật-giáo là Thọ (Vedanã). Theo
Vi-Diệu-Pháp (Abhidhamma) có năm loại Thọ, tức năm
loại cảm giác:
1) Thọ Hỷ (Somanassa
): Cảm giác thích thú về tinh thần, hạnh-phúc, như
khi nhận được một tin lành, nghe một bài pháp thích thú,
xem một bức tranh đẹp, vv ...
2) Thọ Khổ (Domanassa
): Cảm giác đau khổ về tinh thần như khi nhận được
bạo tin hay nghe những lời nói hung tợn, thấy những
cảnh tượng bạo tàn, vv ...
3) Thọ Lạc (Sukha
): Cảm giác thích thú về thể xác như khi dùng một bửa
cơm ngon, nằm giường êm, ngủ trong phòng có điều hòa không
khí, vv ...
4) Dukkha:
Cảm
giác đau đớn, thiếu tiện nghi như ngồi chật hẹp trên
một chiếc xe cũ kỹ, đi ngoài nắng, uống thuốc đắng,
vv ...
5) Thọ xả (Upekkhã
): Cảm giác vô ký, không vui, không khổ.
Trong thực tế, khi
tinh
thần được hạnh phúc thì vật chất cũng được vui thích
và trái lại, khi thể xác được thích thú thì tinh thần cũng
được khoan khoái. Vậy, ta có thể gom hai cảm giác vui thích
tinh thần và vật chất làm một, gọi chung là Sukkha. Cùng
một thế ấy, ta gom hai cảm giác đau khổ, tinh thần và
vật chất, làm một và gọi chung là Dukkha. Ðến đây
Thọ hay cảm giác, còn ba:
- Cảm giác Vui
Thích
tinh thần và vật chất: Sukkha
- Cảm giác Ðau Khổ tinh thần và vật chất: Dukkha
- Cảm giác Vô Ký: Upekkhã
Trong ba cảm giác
này Upekkhã
rất yếu ớt, hầu như không có. Ta có thể xem như không có
cảm giác vô ký. Còn lại hai cảm giác, vui thích và đau
khổ, tinh thần cũng như vật chất. Nhưng trong trạng thái
luôn luôn biến đổi của mọi sự vật bên trong và bên ngoài,
ta không thể có hạnh-phúc vững chắc, tức không có
hạnh-phúc thật sự. Trong khi hoàn cảnh biến đổi và tất
cả đều phải biến đổi, chính cái hương vị ngọt bùi
của hạnh-phúc cũng trở thành vị đắng cay của Dukkha.
Vậy, rốt cùng chỉ còn sự đau khổ, tinh thần và vật
chất.
Thú vui được có tài
sản sự nghiệp, thú vui được lợi lộc, thú vui được
danh thơm tiếng tốt, được vinh quang phú quý, thú vui gia đình,
thú vui với thân bằng quyến thuộc... thật là dễ chịu,
thích thú. Nhưng tất cả đều biến đổi và cuối cùng cái
chết có thể chia rẽ tất cả. Ðến chừng ấy nỗi sầu
muộn cũng sẽ sâu đậm, tương đương với thú vui trước
kia. Ông Gunaratna viết:
"Có người nào dám
bảo rằng điều may mắn sẽ không trở thành rủi ro và
những điều kiện thỏa đáng sẽ tiếp tục còn thỏa đáng?
Ðặc tánh biến đổi luôn luôn tiềm tàng trong mọi sự
vật. Chừng nào mà đặc tánh này còn tồn tại thì
chừng ấy lo sợ còn làm cho chúng ta đau khổ, vì chúng ta
không muốn những điều kiện thỏa đáng, ấy bị chấm
dứt hay gián đoạn. Ðó là sắc thái Viparinãma của
đau khổ. Từ thủa bình minh của lịch sử nhân loại, tình
trạng bất an toàn của những gì tốt đẹp trong đời
sống đã nói lên sự đau khổ". Vua chúa lo sợ sự an
toàn của ngôi vị mình. Người thường dân lo sợ sự an
toàn của mạng sống mình. Người tư bản lo sợ sự an toàn
của sự nghiệp mình. Người làm công lo sợ cho sự an toàn
của công ăn việc làm của mình. Nếu mọi sự vật đều
biến đổi thì không thể có thanh bình và an toàn. Nếu không
có thanh bình và an toàn tức có xáo trộn, bất ổn và lo
sợ. Và đó là đau khổ (Dukkha).
Chẳng những sự vật
tạo thú vui phải biến đổi mà chính người thọ hưởng
thú vui ấy cũng luôn luôn biến đổi. Như vậy, chúng ta đang
mục kích cảnh tượng buồn cười, những chúng sanh luôn luôn
biến đổi cố gắng rượt theo và bám lấy những vật cũng
luôn luôn biến đổi, hình ảnh một cái bóng chạy theo và
cố chụp cho được một cái bóng khác. Về điểm này Ðại-
Ðức Piyadassi giải thích:
"Xuyên qua khả
năng
nhạy của giác quan (Lục-Căn) con người bị ngoại cảnh,
đối tượng của giác quan (Lục-Trần), thu hút và thích
thú trong ấy. Do đó phát sanh sự thọ hưởng hay trạng thái
hoan-hỷ trong lục-trần. Ðó là sự kiện hiển nhiên, không
thể phủ nhận, vì tất cả chúng ta đều thường xuyên
chứng nghiệm. Tuy nhiên, cả hai sự thọ hưởng và đối
tượng thích thú của nó, đều không thể tồn tại lâu dài.
Cả hai đều phải biến đổi. Bây giờ, khi người kia không
thể giữ lại được, hay bị mất đi những lạc thú,
theo lẽ thông thường thì người ấy buồn rầu, sầu
muộn, thất vọng. Người ấy cũng không thích cái gì nhàm
chán và luôn luôn đi tìm những thích thú mới, giống như
những con bò thả ăn ngoài đồng, luôn luôn đi tìm bãi
cỏ mới. Nhưng đặc tánh của những thích thú mới cũng
là vô-thường, tạm bợ, tồn tại nhất thời rồi trôi
qua. Như thế, những lạc thú của đời sống, dầu ta thích
thú nó cùng không, vẫn là bước đầu, mở đường vào
trạng thái đau khổ " (The Buddha's Ancient Path).
Trong quyển The
Buddha
and His Teachings (Ðức Phật và Phật Pháp), Ðại-Ðức Nãrada
viết:
"Hạng người
thường
chỉ thấy lớp ngoài nhưng bậc Thánh-nhân thấy được
thực tướng của sự vật. Ðối với các Ngài tất cả
đời sống đều là khổ và các Ngài nhận thấy rằng không
thể có hạnh-phúc thật sự, hoàn toàn bền vững, trong
một thế-gian huyền ảo, tạm bợ và vô-thường. Không
thể có hạnh-phúc trường tồn vĩnh cửu trong một
thế-gian luôn luôn biến đổi. Hạnh-phúc vật chất chỉ
là sự thỏa mãn một vài ước vọng. Nhưng khi ta vừa đạt
được nó thì nó đã vội lìa bỏ ta. Dục vọng không khi
nào được thỏa mãn trọn vẹn. Không bao giờ ta cho là đủ".
c)
Hành
Khổ (Sankhãra Dukkhatã )
Sắc thái thứ ba của
đau khổ là Hành-khổ (Sankhãra Dukkhatã). Hành (Sankhãra)
là một danh từ có rất nhiều ý nghĩa. Ở đây, danh từ này
bao hàm tất cả những gì được cấu tạo do nhiều nguyên
nhân cùng hợp lại, một cấu hợp, một nhóm, một khối.
Theo Phật-giáo con người là sự cấu hợp của hai thành
phần: Danh và Sắc, phần tâm linh và phần vật chất.
Về phần vật chất
như
đã thảo luận rộng rãi trong bài Vô-thường, với khoa
học hiện đại ta biết rằng thể xác của chúng ta là sự
cấu hợp của nhiều tế bào, tế bào là sự cấu hợp
của nhiều nguyên tử và nguyên tử bao gồm âm điện tử,
dương điện tử, trung hòa điện tử, những thành phần luôn
luôn biến đổi, luôn luôn di động, từng giây, từng
khoảnh khắc. Như vậy, con người, sự cấu hợp của vô
số những thành phần luôn luôn biến đổi, tức cũng không
ngừng biến đổi.
Hơn 2500 năm về
trước,
Ðức-Phật dạy rằng: "Hai thành phần Danh và Sắc, tâm
và vật chất, ở trong trạng thái luôn luôn di động".
Dựa theo Tạng-Luận (Abhidhamma Pitaka) Ðại-Ðức Nãrada
giải thích sự biến đổi của vật chất như sau: "Từ
ngàn xưa những nhà hiền triết Ấn-Ðộ cũng tin có một
nguyên tử bất khả phân tán gọi là "Paramanu".
Một hột bụi nhỏ mà ta thấy vỡn vơ trong làn ánh sáng
được gọi là "Ratharenu". Một Ratharenu
chia làm 36 "Tajjaris", một Tajjari chia làm
36 "Anus" và một Anus chia làm 36 "Paramanus".
Vậy nếu ta chia hột bụi nhỏ kia làm 46656 phần thì một
phần nhỏ bé ấy là Paramanu. Theo quan niệm thời bấy
giờ thì Paramanu là đơn vị vi tế nhất của vật
chất, không thể còn phân tách được nữa.
Với nhãn quan siêu
phàm,
Ðức-Phật phân tách Paramanu và tuyên bố rằng Paramanu
gồm có những năng lực tương quan gọi là Paramattha
hay thành phần chánh yếu của vật chất. Những Paramattha
ấy là Ðất (Pathãvi), nước (ãpo), Lửa (Tejo)
và Gió (Vãyo), được gọi là tứ đại chánh yếu hay
tứ đại. Tứ đại: Ðất, Nước, Lửa, Gió là những đơn
vị căn bản của vật chất, luôn luôn pha lẫn với bốn
chuyển hóa là màu Sắc (Vanna), Hương (Gandha),
Vị (Rasa) và bản chất dinh dưỡng (Ojã)...
Tứ đại và bốn
chuyển hóa luôn luôn dính liền nhau và liên quan với nhau
rất mật thiết. Nhưng trong một loại vật chất thành
phần này có thể trội hơn thành phần khác. Thí dụ như
trong đất thành phần Ðất (Pathãvi) trội hơn ba thành
phần kia. Trong nước thì thành phần Nước (ãpo)
trội hơn. Trong lửa thì thành phần Lửa (Tejo) trội hơn
và trong không khí thì thành phần Gió (Vãyo) trội hơn.
Như vậy, vật chất gồm có những năng lực và những đặc
tính trong trạng thái liên tục biến đổi, luôn luôn trôi
chảy như một giòng suối".
Về phần tâm linh,
Ðại-Ðức
Nãrada viết:
"Tâm, thành phần
quan trọng hơn trong guồng máy phức tạp của con người,
gồm có 52 trạng thái tâm gọi là tâm sở, luôn luôn
biến đổi. Thọ (Vedanã) hay cảm giác là một. Tưởng
(Sannã) hay tri giác là một tâm sở khác. 50 Tâm sở
còn lại được gọi chung là Hành (Sankhãra) hay
những sinh hoạt có tác ý của tâm. Tất cả 52 tâm sở đều
phát sanh trong Thức (Vinnãna).
Theo triết học
Phật-giáo không có một khoảnh khắc nào mà tâm có thể
trống không, nghĩa là không có khoảnh khắc nào mà không
có một loại tâm duyên theo một đối tượng, vật chất
hay tinh thần. Thời-gian tồn tại của một loại tâm như
vậy gọi là chập tư-tưởng hay sát-na tâm. Khi một chập
tư-tưởng diệt tức khắc có một chập mới phát sanh. Như
vậy, những chập tư-tưởng liên tục nối tiếp và thời
gian tồn tại của một chập tư-tưởng thật ngắn, khó mà
quan niệm được.
Mỗi chập tư-tưởng
gồm ba giai đoạn: Sanh (Uppãda), Trụ (Thiti) và
Diệt (Bhanga). Ngay khi một chập tư-tưởng vừa
trải qua giai đoạn Diệt (Bhanga) tức khắc giai đoạn
Sanh (Uppãda) của chập tư-tưởng kế nổi lên. Trong
tiến trình luôn luôn biến đổi của đời sống, mỗi
chập tư-tưởng, khi diệt, chuyển tất cả năng lực và
tất cả những cảm giác đã thâu nhận cho chập tư-tưởng
kế. Một chập tư-tưởng mới bao gồm những tiềm năng
do chập tư-tưởng trước trao lại và thêm vào đó, còn có
cái gì khác nữa, và cái đó là kinh nghiệm và cảm giác
riêng của nó. Như vậy có sự luân lưu không ngừng của
tâm. Luồng tâm giống như giòng suối luôn luôn trôi
chảy. Chập tư-tưởng mới không hoàn toàn giống như
chập tư-tưởng trước, bởi vì thành phần cấu tạo đã
đổi mới mà cũng không hoàn toàn khác, bởi vì cả hai đều
cùng nằm trong một luồng sống, một giòng đời. Không có
chúng sanh đồng nhất nhưng có sự đồng nhất trong tiến
trình đời sống của chúng sanh".
Bốn loại hiện tượng
tâm lý: Thọ, Tưởng, Hành, Thức, hợp với hiện tượng
vật chất, sắc, tạo nên ngũ-uẩn hay năm nhóm, năm khối,
năm thành phần cấu tạo một chúng sanh. Mỗi cá nhân là
sự cấu tạo của năm nhóm ấy.
Như vậy, thể xác
con
người không phải là một thực thể đơn thuần, nguyên
vẹn, không biến đổi, mà là một tiến trình luôn luôn
tiếp diễn. Tâm cũng luôn luôn biến đổi như một sự
tiếp nối liên tục, một giòng sông luôn luôn trôi chảy và
không bao giờ tồn tại giống hệt nhau trong hai khoảnh
khắc kế tiếp. Mỗi giây, mỗi khoảnh khắc trôi qua thì
ở một điểm nước cũng trôi đi, nhường chỗ cho nước
từ một điểm khác trôi đến. Ðiều này đưa ta đến
kết luận: danh-sắc hay sự cấu thành của tâm và thể xác,
cấu thành chúng sanh phức tạp mà ta gọi là con người không
phải là một thực thể tự mình có khả năng tồn tại vĩnh
cửu mà chỉ là một tiến trình liên tục diễn tiến. Ðã
là một tiến trình thì nó là cái gì luôn luôn biến đổi,
không tồn tại lâu dài. Chính vì lẽ ấy mà nó là đau
khổ (Dukkha). Vậy sự đau khổ dính liền với con người
trong sự cấu thành con người. Chính bản chất của khối
ngũ-uẩn là đau khổ (Dukkha). Ðó là sắc thái hành-khổ
(Sankhãra Dukkhatã).
Từ ngàn xưa, không
phải chỉ con người mà tất cả chúng sanh trong ba giới
bốn loài, đều mưu tìm hạnh-phúc và cố tránh đau khổ.
Ðến nay, ta có thể nhìn quanh và xác nhận rằng sự kiện
này vẫn còn. Và trong tương lai, có ai còn hoài nghi chăng
rằng chúng ta sẽ còn tiếp tục theo đuổi mục tiêu huyền
ảo ấy? Chúng ta tận lực làm đủ mọi việc và ước mong
sẽ chứng nghiệm Thọ lạc, tránh khỏi Thọ khổ, tinh
thần cũng như vật chất. Phần lớn chúng ta hướng ra ngoài
và cố gắng đổi thay hoàn cảnh bên ngoài để thỏa mãn
những sở thích của mình. Lẽ dĩ nhiên, đó chỉ là củ
cải mà người ta treo lủng lẳng trước đầu con lừa.
Lừa nỗ lực bước tới để táp lấy cải nhưng không bao
giờ được. Khi đề cập đến vấn đề đau khổ của
kiếp nhân sinh Ðại Ðức Nãrada viết: "Hạnh-phúc
thật sự nằm bên trong chúng ta và không thể định nghĩa
bằng những danh từ như tài sản, sự nghiệp, quyền thế,
danh vọng hay chinh phục, xâm lăng, chiếm đoạt. Nếu sự
nghiệp vật chất ấy được thâu đoạt bằng bạo lực, cường
quyền hay bằng một phương tiện bất công nào khác, hoặc
giả, nếu sự nghiệp vật chất ấy được hướng theo
một chiều hướng lầm lạc hay nếu ta đem lòng luyến ái,
dính mắc, trìu mến nó thì đó chính là nguồn đau khổ, lo
âu và phiền muộn, cho người làm chủ nó. Ðối với người
thường, Thọ hưởng dục lạc của ngũ-trần là hạnh-phúc
tốt đẹp duy nhất. Chắc chắn là có thích thú nhất thời
trong khi ta mơ ước, lúc Thọ hưởng và khi hồi nhớ lại
những khoái lạc vật chất tương tợ. Nhưng hạnh-phúc ấy
quả thật là huyền ảo và tạm bợ. Theo Ðức-Phật, không
luyến ái, tức vượt lên trên mọi dục lạc là hạnh-phúc
tối thượng".
Hình như tất cả mọi
người đều nhận thức rằng trong đời sống hạnh-phúc
quả thật hiếm hoi mà đau khổ thì rất nhiều. Nhưng, trước
cái khổ mỗi người, mỗi giới có một thái độ riêng.
Có hạng người lý
trí
hóa sự khổ, dùng lý trí phân tách, suy luận, giải thích cái
khổ. Có hạng người khác thần thánh hóa sự khổ, cho
rằng khổ là điều kiện tất yếu để con người vươn lên
như những đóa hoa sen, từ bùn nhơ nước đục vượt đến
chỗ thanh khí an lành và rực rỡ nở tung trong ánh nắng ban
mai. Có người, tuy cũng nhận định rằng đời là khổ nhưng
cố tình lãng quên để yên tâm tận hưởng chút ít lạc thú
nào của đời sống. Cũng có người nhận thấy cái khổ
rồi ủ dột âu sầu, sanh ra yếm thế bi quan.
Chúng ta không nên
tự
lường gạt mình, cố tình hiểu rằng không bao giờ có hoàn
cảnh khổ đau trên thế-gian. Ðó là phương cách của chim
đà điểu, khi thấy có hiểm nguy sắp đến thì vội vã
cắm mỏ lùi trong cát để không thấy nữa, một phương cách
lánh nguy không mang lại hiệu quả. Chúng ta phải mở rộng
mắt nhìn thẳng vào vấn đề đau khổ. Khi ta chấp nhận
rằng đã từ lâu mình mãi cặm cụi vát trên vai bao nhiêu
ưu phiền và đau khổ thì chừng đó ta sẵn sàng buông
xuống gánh nặng để khoan thai rảo bước trên con đường
đưa đến tự do và hạnh-phúc thật sự trường cửu.
Phật-giáo nhận cái
khổ như một sự kiện sẵn có và dính liền với đời
sống. Nhưng Ðức-Phật không dừng bước tại đây để
buồn rầu hay để cầu nguyện cho chúng sanh. Như vị lương
y, khi nhận thấy và xác nhận rằng thật sự có bệnh thì
tìm phăng lên nguyên nhân của chứng bệnh và sau khi xác
nhận rằng chứng bệnh có thể chữa trị, kê toa và chỉ
dạy bệnh nhân phương thức trị liệu thích hợp. Cùng
thế ấy, Ðức-Phật xác nhận đau khổ là chứng bệnh
trầm kha của chúng sanh, ái dục là nguồn gốc của đau
khổ, ái dục có thể tận diệt và phương thức diệt trừ
ái dục, chấm dứt đau khổ, là Bát Chánh Ðạo gồm Giới
- Ðịnh - Tuệ.
Như vậy, Phật-giáo
không
bi quan, cũng không lạc quan, mà chỉ thực tiễn. Người
Phật-tử không tự dối mình mà cho rằng thế-gian này quả
thật là cảnh giới mong mỏi và hạnh-phúc vẫn phảng
phất đâu đây. Phật-giáo không hề khuyên bảo chúng ta
phải tin rằng mọi việc đều tốt đẹp trong kiếp sống này
hay trong kiếp tới. Phật-giáo không mê hoặc con người
bằng những liều thuốc ngủ: "Con hãy uống viên thuốc
này, khi Tử-thần đến, liều thuốc sẽ cứu con tỉnh dậy
và con sẽ sống vĩnh cửu, mãi mãi đẹp đẽ và vinh
quang".
Người Phật-tử có
thái
độ của người thấy con rắn bò dưới chân, tự nhủ
rằng đây là một sinh vật nguy hiểm, phải tìm cách lánh
xa nó, chớ không âu sầu, ngồi yên một chỗ để than khóc
vái van, hay tự đối mình, mãi mê vui chơi việc khác và
lờ hẳn thực tế. Hành động như vậy cũng không phải là
đào tẩu, vì đào tẩu là lẫn trốn, sợ bỏ chạy, không
dám ứng phó với những bất hạnh của đời sống. Người
đào tẩu khác hẳn với người biết suy luận đang nỗ
lực chạy thoát, hoặc tìm đường chạy thoát ra khỏi
cảnh hiểm nguy.
Hằng ngày ta có thể
nhận định tánh cách vô-thường của vạn pháp. Hoa nở
rồi tàn. Con người sanh ra, trưởng thành rồi chết. Mọi
sự vật đều luôn luôn biến đổi. Không có cái chi tồn
tại vừng bền trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Do lý vô-thường
có đau khổ. Ðau khổ là sự kiện dĩ nhiên, một thực tế
của đời sống. Phật-giáo dạy chúng ta tận dụng khả năng
để quan sát, suy luận và đối phó với thực tế.
Trong bộ Samyutta
Nikãya,
Tạp A Hàm, có tích chuyện như sau:
Một lần nọ,
Ðức-Phật
ngự tại Kosambi (Câu Ðàm Di) trong khu rừng cây Simsapa.
Lúc ấy, nắm trong tay một nắm lá, Ngài ngỏ lời cùng các
vị Tỳ-Khưu như sau:
"Các con nghĩ thế
nào, này chư Tỳ-Khưu, số lá nằm trong tay Như-Lai và số lá
trên cây, trong toàn thể khu rừng này, số nào lớn hơn?
- Bạch Hóa Ðức
Thế-Tôn, số lá nằm trong tay Ngài hẳn thật không bao nhiêu
nhưng lá trên cây, trong toàn thể khu rừng thì rất
nhiều"
"Cùng thế ấy, này
chư Tỳ-Khưu, những gì Như-Lai chứng ngộ mà không truyền
dạy thật là nhiều, như lá trên cây. Chỉ một ít những gì
Như-Lai truyền dạy. Tại sao? Này chư Tỳ-Khưu, tại sao Như-Lai
không truyền dạy tất cả? Này chư Tỳ-Khưu, là bởi vì
những điều ấy quả thật vô-ích, không thiết yếu để có
một đời sống trong sạch, tinh khiết. Những điều ấy không
dẫn đến nhàm chán, dứt bỏ, chấm dứt, an tịnh, thấu đạt
trọn vẹn, giác ngộ, Niết-Bàn. Vì vậy, này chư Tỳ-Khưu,
Như-Lai không công bố những điều ấy. Và, này chư Tỳ-Khưu,
Như-Lai công bố những gì?
- Ðây là đau khổ,
điều
này Như-Lai công bố.
- Ðây là sự khởi
phát
của đau khổ, điều này Như-Lai công bố.
- Ðây là sự chấm
dứt đau khổ, điều này Như-Lai công bố.
- Ðây là con đường
dẫn đến sự chấm dứt đau khổ, điều này Như-Lai công
bố.
Và tại sao, này chư
Tỳ-Khưu, Như-Lai công bố những chân lý ấy? Bởi vì các
chân lý ấy hữu ích, thiết yếu để có một đời sống
trong sạch, tinh khiết, dẫn đến nhàm chán, dứt bỏ, chấm
dứt, an tịnh, thấu đạt trọn vẹn, giác ngộ và Niết-Bàn.
Vì vậy, này chư Tỳ-Khưu, Như-Lai công bố các chân-lý
ấy".
-ooOoo-