Vài người trong chúng ta mới bắt
đầu hành thiền. Có người đã hành được một hoặc hai năm nhưng chưa thông hiểu
gì. Chúng ta không nắm vững và không tin chắc nơi pháp hành. Khi chưa tin chắc,
ắt không thấy rằng tất cả mọi sự vật quanh ta chỉ thuần túy là Giáo pháp và do
vậy, chúng ta quay trở về những lời dạy của quý thầy (Ajahn). Nhưng trong thực
tế, khi chúng ta thấu hiểu cái tâm của chính mình, khi có đủ chú niệm (sati) để
nhìn sâu vào tâm, ắt trí tuệ phát sanh. Giờ phút nào và nơi chốn nào cũng trở
thành cơ hội tốt đẹp để chúng ta lắng nghe Giáo Pháp.
Chúng ta có thể học Giáo Pháp trong
thiên nhiên, trong cây cối chẳng hạn. Cội cây được sanh ra do nguyên nhân, rồi
trưởng thành theo giòng trôi chảy của thiên nhiên. Ngay tại đây, cội cây đang
thuyết giảng Giáo Pháp cho chúng ta. Nhưng chúng ta không lãnh hội lời giảng.
Rồi theo thời gian cây trưởng thành, lớn lên và lớn lên đến lúc nở mộng, trổ
hoa, sanh trái. Tất cả những gì ta trông thấy chỉ là sự phát triển của hoa và
quả. Chúng ta không thể đem nó vào bên trong mình để quán chiếu. Do đó chúng ta
không hiểu biết rằng cội cây đang dạy ta bài học về Giáo Pháp. Trái trổ sanh và
ta chỉ hái ăn mà không quán xét và tìm hiểu: ngọt, chua, hay mặn là bản chất tự
nhiên của trái. Và đó là Giáo Pháp, là bài giảng của trái. Tiếp tục lớn lên, lá
trở nên già, úa vàng, khô héo, chết và rơi rụng. Tất cả những gì ta thấy chỉ là
những chiếc lá vàng khô rơi rụng đầy sân. Chúng ta đạp đi trên lá, và chúng ta
quét sạch, chỉ thế thôi. Chúng ta không khảo sát tận tường và như vậy không
lãnh hội được bài học mà thiên nhiên đang thuyết giảng. Về sau, lá non nở mầm,
mọc lên, và ta chỉ thấy bấy nhiêu, không có gì hơn nữa. Đó không phải là chân
lý được thấu hiểu bằng suy gẫm.
Nếu có thể đem tất cả những dữ kiện
ấy vào bên trong và quán chiếu ta sẽ nhận thấy rằng sự sanh của cội cây và sự
sanh của chúng ta không có gì khác biệt. Cơ thể này của chúng ta được sanh ra
và tồn tại tùy thuộc nơi những điều kiện, những nguyên tố đất, nước, lửa, gió.
Kế đó nhờ chất dinh dưỡng trong vật thực nó trưởng thành, và ngày càng lớn lên.
Mỗi phần trong cơ thể đều biến đổi và trôi chảy thích ứng với bản chất thiên
nhiên của nó. Không có gì khác với cội cây; tóc, móng, răng, da v.v…, tất cả
đều biến đổi. Nếu chúng ta thông hiểu sự vật trong thiên nhiên ta sẽ tự hiểu
biết chính mình.
Con người được sanh ra rồi cuối
cùng, chết. Chết rồi sanh trở lại. Móng, răng, da cũng vậy, luôn luôn hoại diệt
và mọc lên trở lại. Nếu thấu hiểu pháp hành chúng ta có thể nhận thức rằng cây
cối không có gì khác chúng ta. Nếu lãnh hội được giáo huấn của chư vị thiền sư
chúng ta sẽ nhận thức rằng cảnh vật bên ngoài và bên trong chúng ta cũng tương
tợ nhau. Những sự vật hữu giác hữu tri và vô tri vô giác không có gì khác nhau.
Nó cũng giống như nhau. Và nếu thấu đạt được tính cách giống nhau ấy, khi thấy
bản chất thiên nhiên của một cội cây chẳng hạn, chúng ta sẽ hiểu rằng nó không
có gì khác biệt với ngũ uẩn của chính ta – sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Hiểu
biết như vậy tức hiểu biết Giáo Pháp. Hiểu biết Giáo Pháp chúng ta cũng hiểu
biết ngũ uẩn, luôn luôn di động và không ngừng biến chuyển như thế nào.
Như vậy, bất luận đi, đứng, nằm,
ngồi, chúng ta phải giác tỉnh chú niệm, theo dõi canh chừng tâm mình. Nhìn thấy
cảnh vật bên ngoài cũng như thấy sự vật bên trong. Thấy bên trong thì cũng
giống như thấy bên ngoài. Nếu lãnh hội đầy đủ điều nầy ắt chúng ta có thể nghe
lời dạy của Đức Phật. Nếu thấu hiểu như vậy ta có thể nói rằng Phật tánh hay
bản chất Phật, “người hiểu biết”, đã vững vàng an trú trong tâm mình. “Người
hiểu biết” ấy hiểu biết bên ngoài và hiểu biết bên trong. “Người hiểu biết” ấy
thấu triệt tất cả sự vật nào phát sanh. Thấu hiểu như vậy, khi ngồi dưới gốc
cây ta nghe lời dạy của Đức Phật. Đi, đứng, nằm, ngồi ta nghe Đức Phật giảng
dạy. Thấy, nghe, hưởi, nếm, sờ đụng và suy tư, ta nghe Đức Phật ban huấn từ.
Đức Phật chính là “người hiểu biết” ấy, bên trong cái tâm này! Người ấy hiểu
biết Giáo Pháp, quán chiếu Giáo Pháp. Không phải Đức Phật mà xưa kia đã thị
hiện trên thế gian nay đến giảng cho chúng ta, nhưng bản chất Phật hay Phật
tánh, “người hiểu biết” phát sanh. Tâm trở thành sáng tỏ.
Nếu chúng ta tôn trí vững chắc Đức
Phật bên trong tâm mình, ắt ta thấy tất cả mọi sự vật, quán chiếu tất cả, và
nhận thức rằng tất cả không có gì khác biệt với chúng ta. Chúng ta thấy rằng
loài thú, cây cối, núi non và các loại dây leo đều giống như ta. Chúng ta thấy
người nghèo, người giàu - không có gì khác ta. Người da đen, người da trắng – không
khác! Tất cả đều có những đặc tính như nhau. Người mà thấy được như vậy thì bất
cứ ở đâu cũng cảm nghe thoải mái, hài lòng. Người ấy lúc nào cũng lắng tai nghe
lời dạy của Đức Phật. Còn nếu không hiểu được như vậy, thì dầu có trải qua suốt
cuộc đời của mình, để nghe các bài giảng của chư Tăng, người ấy vẫn không thể
lãnh hội ý nghĩa của lời giảng.
Đức Phật dạy rằng! chứng ngộ Giáo
Pháp chỉ là hiểu biết Thiên Nhiên, hiểu biết thực tại ở quanh ta, hiểu biết bản
chất của Thiên Nhiên ở ngay tại đây! (Nơi đây danh từ Thiên Nhiên bao hàm các
sự vật, vật chất cũng như tinh thần, không phải chỉ có cây cối, thú vật v.v…).
Nếu không hiểu biết cái Thiên Nhiên ấy ta sẽ gặp thất vọng và vui mừng, ta sẽ
bị lạc lối trong những cảm xúc buồn vui, làm phát sanh sầu muộn và hối tiếc.
Lạc lối trong những đối tượng của tâm (pháp), tức lạc lối trong Thiên Nhiên.
Khi đã lạc lối trong Thiên Nhiên ta sẽ không hiểu biết Giáo Pháp. Đấng Giác Ngộ
chỉ giản dị vạch cho ta thấy Thiên Nhiên ấy.
Tất cả mọi sự vật, khi đã phát sanh
ắt biến đổi và hoại diệt. Những vật mà chúng ta nhồi nắn, như chén dĩa, tô, tộ…
tất cả đều cùng một đặc tính. Do nguyên nhân nào đó, như ý muốn thúc đẩy con
người sáng tác, một cái chén được nhồi nắn thành hình, rồi ta sử dụng cái chén,
chén trở nên xưa, cũ, bể, và ta không còn thấy nó nữa. Cây cối, núi non và các
giống dây leo cũng cùng một thế ấy, chí đến thú vật và người ta cũng vậy.
Khi Ngài Anna Kondanna (A Nhã Kiều
Trần Như), nghe Đức Phật thuyết giảng lần đầu tiên liền chứng ngộ. Sự chứng ngộ
ấy không có gì là phức tạp lắm. Ngài chỉ giản dị nhận thức rằng bất luận gì
được sanh ra đều phải biến đổi, tự nhiên trưởng thành và đến thời kỳ, phải hoại
diệt. Trước kia Ngài Anna Kondanna không bao giờ nghĩ đến điều ấy, hoặc có nghĩ
chăng nữa cũng mù mờ, không tận tường, không sáng tỏ, nên Ngài còn chấp vào ngũ
uẩn mà không buông bỏ. Đến khi ngồi lại giữ tâm chú niệm, lắng nghe Đức Phật
giảng thì Phật tánh phát sanh đến Ngài. Ngài liền thọ nhận một loại “truyền
thông” Giáo Pháp, vốn là sự hiểu biết rằng tất cả các pháp hữu vi đều vô
thường. Bất luận gì được sanh ra tự nhiên phải trưởng thành và hoại diệt.
Sự chứng nghiệm ấy quả thật khác
biệt với bất luận gì Ngài được biết từ bao giờ. Ngài thật sự ý thức rõ ràng tâm
mình là như vậy, “Đức Phật” thị hiện bên trong Ngài. Vào lúc bấy giờ Đức Phật
tuyên bố rằng Anna Kondanna đã thọ nhận Pháp Nhãn (Nhãn Quan của Giáo Pháp).
Pháp Nhãn ấy trông thấy gì? Mắt ấy
thấy rằng hậu quả dĩ nhiên của bất luận gì được sanh ra là trưởng thành và hoại
diệt. “Bất luận gì được sanh ra” có nghĩa là tất cả mọi sự vật! Dầu vật chất
hay tinh thần, tất cả đều nằm trong phạm vi của “bất luận gì được sanh ra”.
Đoạn này hàm xúc tất cả Thiên Nhiên. Như thân này chẳng hạn -- nó được sanh ra
và tiến dần đến hoại diệt. Khi còn thơ ấu, nó “diệt” từ trong trạng thái thơ ấu
ấy để trở nên “thiếu nhi”. Một thời gian sau nó “diệt” từ trạng thái thiếu nhi
để trở nên thanh niên và nó tiếp tục “diệt” từ thanh niên để bước vào trung
niên, rồi “diệt” từ trung niên để đến lão niên và cuối cùng chấm dứt kiếp sống.
Cây cối, núi non và các loài dây leo, tất cả đều mang cùng một đặc tính, giống
như nhau.
Như vậy, tri kiến hay huệ giác của “người hiểu biết” rõ ràng phát hiện vào tâm
của Ngài Kodanna, ngay lúc Ngài ngồi đó. Sự hiểu biết tận tường về “bất luận gì
được sanh ra” đã được vững chắc tôn trí một cách thâm sâu vào tâm não làm cho
Ngài có đủ khả năng để nhổ tận gốc rễ mọi luyến ái bám níu vào cơ thể mình.
Luyến ái ấy là thân kiến “sakkaya ditthi”. Điều này có nghĩa là Ngài không xem
thân này là một tự ngã, một chúng sanh. Ngài không nhìn nó trong ý nghĩa “tôi”
hay “nó” và không bám níu vào nó. Ngài ý thức rõ ràng và do đó, tận diệt thân
kiến, sakkya ditthi.
Rồi hoài nghi (vicikiccha) cũng
tận diệt. Khi đã nhổ tận gốc rễ mọi luyến ái vào thân (thân kiến) Ngài không
còn chút gì hoài nghi về sự chứng ngộ của mình. Rồi giới cấm thủ (silabbata
paramasa) cũng tận diệt.
(Thông thường danh từ giới cấm thủ
được phiên dịch từ phạn ngữ silabbata paramasa, sự bám níu chấp vào nghi thức
lễ bái. Ở đây Ngài Ajahn giảng nó, cùng với hoài nghi, đặc biệt liên quan đến
thân kiến. Theo kinh điển, thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ là ba thằng
thức đầu tiên trong mười thằng thức mà hành giả tận diệt khi bước vào giòng
suối chảy đến Niết Bàn (Nhập Lưu). Mười thằng thức là mười dây trói buộc cột
chặt chúng sanh vào vòng luân hồi. Đến khi hoàn toàn giác ngộ, vị A La Hán tận
diệt tất cả mười thằng thức).
Lúc bấy giờ pháp hành của Ngài
Kondanna trở nên vững vàng và trực tiến. Cho dù thân có đau đớn hay sốt nóng
Ngài cũng không bám vào đó, không hoài nghi. Ngài không hoài nghi vì đã tận
diệt luyến ái. Khi ta nhổ tận gốc rễ quan kiến chấp rằng thân này là tự ngã thì
sự luyến ái bám níu vào thân và hoài nghi cũng chấm dứt cùng với nó. Nếu có ý
niệm chấp rằng thân này là tự ngã phát sanh trong tâm thì hoài nghi và giới cấm
thủ cũng bắt đầu ngay tại đó.
Như vậy, ngay vào lúc Đức Phật
thuyết giảng xong Giáo Pháp thì Ngài Anna Kondanna khai thông Pháp Nhãn. “Mắt
của Giáo Pháp” ấy chỉ là “Người hiểu biết rõ ràng”. Lối nhìn mới mẻ. Nó thấy
chính cái Thiên Nhiên này. Nhận thấy Thiên Nhiên một cách rõ ràng, tường tận,
nhổ tận gốc rễ mọi bám níu (thủ), và “người hiểu biết” được sanh ra đời. Trước
đó Ngài hiểu biết, nhưng vẫn còn thủ. Quý vị có thể nói rằng trước kia Ngài
hiểu Giáo Pháp nhưng vẫn còn chưa thấy Giáo Pháp, hoặc nữa, quý vị có thể nói
là Ngài đã thấy Giáo Pháp nhưng chưa tự mình đồng hóa, đồng nhất thể, chưa là
một với Giáo Pháp.
Vào lúc ấy Đức Phật tuyên bố,
“Kondanna đã hiểu biết”. Hiểu biết gì? Ngài chỉ hiểu biết Thiên nhiên! Thông
thường chúng ta lạc lối trong Thiên Nhiên, cũng như ta lạc lối trong thân này.
Đất, nước, lửa và gió hợp lại cấu thành cơ thể này của chúng ta. Đó là một sắc
thái của Thiên Nhiên, một hình thể vật chất mà mắt ta có thể thấy. Nó tồn tại
nhờ vật thực, rồi trưởng thành và biến đổi, đến sau cùng hoại diệt.
Bây giờ, đi trở vào bên trong, cái
trong thân, là thức “người hiểu biết” này, chỉ giản dị là sự hay biết. Nếu sự
hay biết ấy được thâu nhận xuyên qua mắt thì được gọi là nhãn thức, xuyên qua
tai thì được gọi là nhĩ thức, qua mũi là tỷ thức, qua lưỡi là thiệt thức, qua
thân là thân thức và qua ý là ý thức. Thức chỉ có một, nhưng nó tác động ở
nhiều nơi khác nhau, nên ta gọi bằng nhiều danh từ khác nhau. Xuyên qua mắt thì
được gọi bằng tên này, qua tai ta lại gọi bằng một tên khác. Tuy nhiên, dầu tác
động xuyên qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân hay ý, chỉ có một sự hay biết. Theo
ngôn ngữ của kinh điển, chúng ta gọi là lục thức, nhưng trong thực tế chỉ có
một thức duy nhất phát sanh ở sáu căn khác nhau. Có sáu cửa vào, “lục nhập”,
nhưng chỉ có một sự hay biết duy nhất, vốn là cái tâm này.
Tâm này có khả năng hiểu biết chân
lý của Thiên Nhiên. Nếu tâm còn bị che lấp, ta nói rằng nó hiểu biết xuyên qua
Vô Minh. Nó hiểu sai lầm và nó thấy sai lầm. Hiểu sai lầm, thấy sai lầm, hoặc
hiểu và thấy đúng, chỉ là sự hay biết duy nhất. Chúng ta nói Tà Kiến và Chánh
Kiến nhưng kỳ thật chỉ là một. Cả hai : tà và chánh, đều phát sanh từ một nơi.
Khi là một kiến thức sai lầm, ta nói Vô Minh che lấp chân lý. Khi mà kiến thức
là sai lầm, nó kéo theo cả dây, Tà Kiến, Tà Tư Duy, Tà Ngữ, Tà Nghiệp, Tà Mạng
… tất cả đều tà! Đằng khác con đường của pháp hành Chân chánh cũng phát xuất từ
một nơi đó. Khi có Chánh thì Tà biến dạng.
Đức Phật thực hành khổ hạnh, chịu
đựng nhiều gian truân khổ nhọc, đau đớn và tự ép xác khổ hạnh, nhịn ăn v.v...
Ngài quán chiếu thâm sâu vào bên trong tâm cho đến khi cuối cùng nhổ tận gốc rễ
mầm mống Vô Minh. Tất cả chư Phật đều giác ngộ từ trong tâm, bởi vì thân nào có
biết gì! Quý vị có thể cho nó ăn hoặc bắt nó nhịn đói cũng không sao. Nó có thể
chết bất cứ lúc nào. Tất cả chư Phật đều thực hành với tâm. Các Ngài giác ngộ
trong Tâm.
Đức Phật quán chiếu và từ bỏ hai
pháp hành cực đoan – Lợi dưỡng, buông lung chìm đắm trong Dục Lạc và Lợi Dưỡng
trong Đau Khổ -- và trong bài pháp Đầu Tiên (kinh Chuyển Pháp Luân) Ngài thuyết
giảng Trung Đạo, con đường khoảng giữa hai cực đoan ấy. Nhưng khi ta nghe những
lời dạy ấy thì nó chạm lòng ham muốn của ta. Ta đắm chìm trong dục lạc và tiện
nghi, ta mê say trong hạnh phúc, nghĩ rằng những điều ấy là tốt đẹp – đó là Lợi
Dưỡng, buông lung trong Dục Lạc. Đó không phải là con đường chân chánh. Bất
thỏa mãn, không vui, không thích và sân hận – đó là Lợi Dưỡng, buông lung trong
Đau Khổ. Trên đây là hai cực đoan mà người đi trên con đường thực hành nên
tránh.
Những “con đường” cực đoan ấy chỉ
giản dị là hạnh phúc và đau khổ phát sanh đến ta. “Người đi trên con đường”
chính là cái tâm này, chính là “người hiểu biết”. Nếu một cảm xúc dễ chịu đến,
chúng ta bám níu vào điều tốt đẹp ấy, đó là Lợi Dưỡng trong Dục Lạc. Khi một
xúc cảm khó chịu phát sanh, chúng ta bám vào nó bằng cách không ưa thích, đó là
Lợi Dưỡng trong Đau Khổ. Cả hai đều là con đường lầm lạc, không phải là con
đường của người hành thiền. Đó là con đường của người thế gian, những người đi tìm
vui sướng và hạnh phúc, cố tránh sầu muộn và đau khổ.
Người có trí tuệ biết những con
đường lầm lạc nhưng không tự buông trôi đắm chìm trong đó mà dứt bỏ, tách lìa
ra khỏi nó. Người ấy không để bị dục lạc và bất toại nguyện, hạnh phúc và đau
khổ gây xúc động. Nó phát sanh đến, nhưng người sáng suốt hiểu biết, không bám
vào và buông bỏ, để nó đi theo bản chất thiên nhiên của nó. Đó là Chánh Kiến.
Khi đã thấu triệt tận tường như thế, ắt có giải thoát. Hạnh phúc và đau khổ
không có nghĩa lý gì, đối với người đã giác ngộ.
Đức Phật dạy rằng bậc Giác Ngộ xa
lìa ô nhiễm. Điều này không có nghĩa là các Ngài bỏ chạy, tránh xa ô nhiễm. Các
Ngài không chạy đi đâu cả. Ô nhiễm vẫn ở đó. Ngài lấy ví dụ lá sen trong đầm.
Lá sen và nước cũng ở trong đầm. Lá sen trầm mình trong nước, nhưng nước không
thấm vào. Nước như ô nhiễm và lá sen như tâm của bậc giác ngộ.
Tâm của người hành thiền cũng dường
thế ấy, không bỏ chạy đi đâu cả, mà vẫn ở ngay tại đó. Thiện và ác, hạnh phúc
và đau khổ, chánh và tà phát sanh -- hành giả hiểu biết tất cả; chỉ giản dị
hiểu biết mà không để cho nó xâm nhập vào tâm mình. Hành giả chỉ là người chứng
nghiệm mà không bám níu. Nói rằng hành giả chỉ chứng nghiệm suông là nói theo
ngôn ngữ thông thường của người đời. Trong ngôn ngữ của Giáo Pháp chúng ta nói
rằng người hành thiền để cho tâm mình đi theo Trung Đạo.
Những sinh hoạt của hạnh phúc và
đau khổ v.v… luôn luôn phát sanh, bởi vì nó là đặc tính của thế gian. Đức Phật
thành đạt sự giác ngộ của Ngài trong thế gian, Ngài quán chiếu thế gian. Nếu không
quán chiếu thế gian ắt Ngài không trông thấy thế gian và như vậy, không thể
vượt khỏi lên trên thế gian. Sự giác ngộ của Đức Phật chỉ giản dị là giác ngộ
chính nơi thế gian này. Thế gian vẫn còn đó: lợi lộc và lỗ lã, tán dương và
khiển trách, danh thơm và tiếng xấu, hạnh phúc và đau khổ, tất cả đều vẫn còn
đó. Nếu không có những hiện tượng ấy ắt không có gì để giác ngộ. Điều mà Ngài
hiểu biết chỉ là thế gian, những gì bao quanh tâm não của con người. Nếu con
người chạy theo những cái ấy, mong tìm được tán dương, danh vọng, lợi lộc và
hạnh phúc và cố gắng tránh những tình trạng đối nghịch, con người sẽ chìm sâu
dưới trọng lượng của thế gian.
Lợi lộc và lỗ lã, tán dương và
khiển trách, danh thơm và tiếng xấu, hạnh phúc và đau khổ,-- đó là thế gian.
Người lạc lối trong thế gian không có đường để lẫn thoát. Người ấy đã bị thế
gian tràn ngập. Thế gian theo Định Luật của Giáo Pháp, vì lẽ ấy chúng ta gọi là
Thế Gian Pháp, Giáo Pháp của Thế Gian. Người sống trong thế gian pháp được gọi
là chúng sanh trong thế gian. Người ấy sống trong tình trạng rối loạn.
Vì lẽ ấy Đức Phật dạy chúng ta phát
triển Con Đường. Con Đường này, có thể phân chia thành Giới, Định, Tuệ, phải
được phát triển trọn vẹn, đầy đủ, đến tận cùng! Đây là Con Đường thực hành nhằm
tiêu diệt thế gian. Thế gian ấy ở đâu? Nó ở ngay trong tâm, và chúng sanh say
đắm trong ấy! Hành động nào bám níu vào lời khen tặng, vào lợi lộc, danh vọng
và hạnh phúc được gọi là “thế gian”. Khi nó ở tại trong tâm, thì thế gian trổi
dậy, chúng sanh trong thế gian được sanh ra. Thế gian được sanh ra chỉ vì tại
ham muốn. Lòng ham muốn là nơi chôn nhau cắt rún của tất cả thế gian. Chấm dứt
ham muốn tức chấm dứt thế gian.
Pháp hành Giới, Định, Tuệ của chúng
ta cũng được gọi là Bát Chánh Đạo. Bát Chánh Đạo này cùng với Tám Thế Gian Pháp
là một cặp. Thế nào là Bát Chánh Đạo và Tám Thế Gian Pháp là một cặp? Nếu nói
theo kinh điển thì lợi lộc và lỗ lã, tán dương và khiển trách, danh thơm và
tiếng xấu, hạnh phúc và đau khổ là Tám Thế Gian Pháp. Chánh Kiến, Chánh Tư Duy,
Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định
là Bát Chánh Đạo. Hai con đường bao gồm tám chi này – Thế Gian Pháp và Chánh
Đạo – cùng tồn tại chung ở một nơi. Tám Thế Gian Pháp ở ngay tại đây, trong
chính cái tâm này, cùng với “người hiểu biết”. Nhưng gì “người hiểu biết” này
bị che lấp nên hiểu biết sai lầm và do đó trở thành thế gian. Chỉ có một người
ấy, “người hiểu biết”, không ai khác! Bản chất Phật hay Phật tánh chưa phát
sanh trong tâm này, nó chưa tự rút được ra khỏi thế gian. Một cái tâm như thế
ấy là thế gian.
Khi chúng ta thực hành Con Đường, khi chúng ta rèn luyện thân và khẩu, tất cả
đều xảy diễn trong chính cái tâm này. Vì cũng ở chung một nơi, nên con Đường và
thế gian trông thấy nhau. Con Đường trông thấy thế gian. Nếu thực hành với cái
tâm ấy chúng ta sẽ gặp sự bám níu vào những lời khen tặng, danh vọng, dục lạc
và hạnh phúc. Chúng ta thấy luyến ái thế gian.
Đức Phật dạy, “Hãy hiểu biết thế gian. Nó rực rỡ sáng ngời như chiếc long xa
của nhà vua. Kẻ cuồng si say mê, nhưng người trí thì không bị phỉnh gạt”. Không
phải Ngài muốn cho chúng ta đi cùng khắp thế gian để nhìn xem, khảo sát và học
hỏi mọi sự vật trong thế gian. Ngài chỉ muốn cho chúng ta theo dõi và quan sát
cái tâm, vốn tùy thuộc nơi thế gian. Khi Đức Phật dạy ta hãy nhìn xem thế gian,
không phải Ngài muốn chúng ta bị dính kẹt trong đó. Ngài muốn chúng ta khảo
sát, bởi vì thế gian được sanh ra trong chính cái tâm này, Ngồi dưới bóng mát
của một cội cây, quý vị cũng có thể nhìn thế gian. Khi có lòng ham muốn, thế gian
phát hiện ngay tại đó. Khát vọng là sinh quán của thế gian. Dập tắt khát vọng
tức dập tắt thế gian.
Khi ngồi thiền, chúng ta muốn tâm
an lạc, nhưng nó không an lạc. Tại sao? Chúng ta không muốn suy tư, nhưng chúng
ta lại suy tư. Chao ôi ! cũng giống như người kia ngồi nhầm trên ổ kiến. Kiến
bu lại cắn tứ tung. Khi tâm là thế gian thì dầu có ngồi nhắm hai mắt lại ta chỉ
thấy thế gian. Lạc thú, ưu phiền, lo âu, rối trí – tất cả đều khởi dậy. Tại
sao? Là bởi vì chúng ta chưa chứng ngộ Giáo Pháp. Nếu tâm mà như thế ấy hành
giả không thể chịu đựng thế gian pháp, hành giả không thể quán chiếu. Cũng chỉ
giống như người ngồi trên ổ kiến. Kiến bu lại cắn bởi vì ta ngồi ngay trên nhà
của nó! Như vậy thì phải làm sao? Phải tìm một chất độc, hoặc dùng lửa để đuổi
kiến đi.
Tuy nhiên, phần lớn những người
thực hành Giáo Pháp không thấy như vậy. Nếu cảm nghe vừa lòng, họ chỉ đeo theo
trạng thái vừa lòng ấy, cảm nghe phật ý, họ chỉ dính mắc trong tình trạng phật
ý. Đeo níu, bám chặt theo thế gian pháp, tâm họ trở thành thế gian. Đôi khi có
thể chúng ta nghĩ, “Ồ” ta không thể làm được điều ấy, điều ấy vượt khỏi phạm vi
khả năng của ta,”… và rồi ta không cố gắng. Đó bởi vì tâm đầy ô nhiễm. Các thế
gian pháp không để cho Con Đường phát sanh. Chúng ta không thể nhẫn nại chịu đựng
công trình phát triển Giới, Định, và Tuệ Minh Sát. Cũng chỉ giống như người
ngồi trên ổ kiến! Người ấy không thể làm gì. Kiến bu ráp lại cắn và bò khắp
châu thân. Người ấy bị chìm đắm trong tình trạng rối loạn và khuấy động. Anh ta
không thể rời bỏ được chỗ ngồi nguy hiểm, và do đó cứ ngồi lỳ chịu đau khổ.
Với pháp hành của chúng ta cũng vậy. Thế gian pháp đã tồn tại, nằm sẵn trong
tâm chúng sanh. Khi các chúng sanh ấy muốn tìm an lạc, thế gian pháp liền phát
sanh ngay tại đó. Tâm còn vô minh, thì chỉ có đêm tối. Khi tuệ giác phát sanh,
tâm trở nên sáng tỏ, bởi vì vô minh và tuệ giác cũng sanh ra trong một chỗ. Khi
vô minh phát sanh tuệ giác không thể vào, bởi vì tâm đã chấp nhận vô minh. Khi
tuệ giác phát sanh, vô minh không thể ở lại đó.
Vì lẽ ấy Đức Phật kêu gọi các đệ tử
Ngài nên thực hành với tâm (tức hành thiền), bởi vì thế gian được sanh ra từ
trong tâm. Tám thế gian pháp nằm ngay tại đó. Bát Chánh Đạo, tức sự quán chiếu
bằng thiền Vắng Lặng và thiền Minh Sát, đức tinh tấn chuyên cần của chúng ta và
trí tuệ mà chúng ta khai triển, tất cả những công trình ấy tháo gỡ nanh vuốt
của thế gian. Tham ái bám níu, sân hận và si mê dần dần suy giảm, và chúng sanh
nhẹ nhàng hơn, chúng ta hiểu biết đúng như vậy. Nếu có danh vọng, lợi lộc, hoặc
có lời tán dương, có hạnh phúc hay đau khổ, chúng ta hay biết điều ấy. Chúng ta
cần phải hiểu biết những điều ấy trước khi có thể vượt lên, thoát khỏi thế
gian, bởi vì thế gian ở bên trong chúng ta.
Khi ta thoát ra khỏi các thế gian
pháp, cũng giống như ta rời khỏi một ngôi nhà. Khi vào nhà ta có cảm giác như
thế nào? Chúng ta cảm giác là chúng ta đi ngang qua cửa và bước vào nhà. Khi
lìa nhà ta cảm giác là đã lìa khỏi ngôi nhà và bước vào ánh sáng mặt trời,
không còn tối tăm như lúc còn ở bên trong. Khi tâm vào thế gian pháp cũng giống
như ta vào nhà. Khi tâm đã diệt trừ các thế gian pháp cũng giống như ta rời
khỏi nhà.
Như vậy hành giả phải tự mình chứng
nghiệm Giáo Pháp. Tự mình, hành giả hiểu biết đã tách rời ra khỏi thế gian pháp
hay chưa, Con Đường đã được phát triển hay chưa. Khi Con Đường đã được phát
triển tốt đẹp thì nó đánh đuổi thế gian pháp và trở thành ngày càng vững chắc,
ngày càng lớn mạnh. Chánh kiến tăng trưởng, Tà kiến giảm suy, cho đến sau cùng
Con Đường tiêu diêt ô nhiễm -- nếu không vậy thì ô nhiễm sẽ tiêu diệt Con
Đường.
Chánh kiến và Tà kiến, chỉ có hai
con đường. Tà kiến cũng có mánh khóe của nó, quý vị biết không, nó có trí tuệ
-- nhưng nó là trí tuệ được trá hình. Vị hành giả bắt đầu phát triển Con Đường
ắt có chứng nghiệm một sự phân chia. Giống như có hai người – một trong thế
gian và một trên Con Đường. Nó phân chia tách rời ra. Bất luận lúc nào hành giả
quán chiếu ắt cảm giác sự phân chia ấy và nó tiếp tục diễn tiến như vậy cho đến
khi tâm thành đạt tuệ Minh Sát, Vipassana.
Hoặc nữa, có thể đó là Vipassanu (tức là Vipassanupakkilesa, tùy phiền não, một
loại ô nhiễm vi tế phát sanh trong khi hành thiền). Đang cố gắng tạo những
thành quả trong sạch trong pháp hành, khi nhìn thấy nó, chúng ta liền chụp, bám
chặt vào nó. Loại bám níu này phát sanh từ lòng ham muốn thành đạt một cái gì
trong pháp hành. Đó là Vipassanu, trí tuệ của ô nhiễm (tức trí tuệ ô nhiễm, hay
tùy phiền não). Vài người phát triển trạng thái tốt đẹp rồi bám vào đó, họ phát
triển trạng thái trong sạch và bám vào đó, hoặc họ phát triển tuệ giác
và bám vào đó. Hành động bám níu vào trạng thái tốt đẹp hay tuệ giác là
Vipassanu. Nó len lỏi xâm nhập vào pháp hành của chúng ta.
Như vậy, khi quý vị phát triển Tuệ
Minh Sát, hãy thận trọng coi chừng! Hãy cẩn thận nhìn xem có phải là Vipassanu
không, bởi vì hai hiện tượng ấy rất giống nhau, đến độ đôi khi ta không thể
phân biệt. Tuy nhiên, với Chánh kiến chúng ta có thể nhận thức rõ ràng cả hai.
Nếu là Vipassanu ắt có đau khổ phát sanh. Nếu thật sự là Vipassana, Tuệ Minh
Sát, thì không có đau khổ. Có an lạc. Còn hạnh phúc và đau khổ, cả hai, đều
vắng bóng, im lìm. Tự quý vị sẽ có thể thấy điều nầy. Pháp hành này đòi hỏi
phải nhẫn nại chịu đựng. Vài người, khi đến đây hành thiền, không muốn có gì
bận rộn, họ không muốn bị chao động. Nhưng họ cũng chao động như trước kia.
Chúng ta phải tìm cách chấm dứt chao động, chính trong trạng thái chao động ấy!
Như vậy, nếu có chao động trong khi quý vị thực hành, đó là đúng. Nếu không có
chao động là không đúng, quý vị chỉ ăn và ngủ nhiều chừng nào cũng được. Khi
muốn đi đâu hay nói gì quý vị chỉ làm theo ý muốn. Như vậy lời dạy của Đức Phật
nghe không xuôi tai. Siêu thế quả thật trái ngược với tại thế. Chánh kiến đối
nghịch Tà Kiến, trong sạch đối nghịch ô trược. Giáo Huấn của Đức Phật va chạm
tham vọng của chúng ta.
Trong kinh điển có một câu chuyện
về Đức Phật trước khi Ngài Thành Đạo. Lần nọ, khi có người dâng cúng một bình
bát, Ngài lấy cái bát thả nổi trên giòng suối và chú nguyện trong lòng, “Nếu ta
sẽ thành Phật, xin cái bình bát này trôi ngược giòng trở lên.” Cái bát trôi trở
lên, ngược giòng! Cái bát ấy là Chánh Kiến của Đức Phật, hay Phật tánh mà Ngài
sẽ thức tỉnh. Nó không theo một chiều với lòng tham của hạng chúng sanh thường.
Nó trôi ngược giòng trôi chảy của tâm chúng sanh, đối nghịch trên mọi phương
diện.
Ngày nay cũng vậy, giáo huấn của
Đức Phật đối nghịch với tâm của chúng ta. Nó chỉ tiêu diệt! Con người muốn
buông lung, lăn trôi theo tham ái và sân hận, nhưng Đức Phật không chịu vậy. Họ
muốn chìm đắm trong ảo kiến, mê hoặc, nhưng Đức Phật tiêu trừ si mê. Như vậy,
tâm Phật đối nghịch với tâm chúng sanh. Người thế gian cho rằng thân này là đẹp
đẽ, Ngài nói nó không đẹp. Họ nói thân này là của họ, Ngài nói không phải vậy.
Họ nói thân này có thực chất, Ngài nói không có. Chánh Kiến vượt lên trên thế
gian. Chúng sanh trong thế gian chỉ buông trôi theo dòng.
Tiếp theo câu chuyện, khi Đức Phật
rời khỏi nơi ấy, có một vị Bà la môn dâng đến Ngài tám bó cỏ. Ý nghĩa thực sự
của tám bó cỏ ấy là tám thế gian pháp – lợi lộc và lỗ lã, tán dương và khiển
trách, danh thơm và tiếng xấu, hạnh phúc và đau khổ. Nhận xong tám bó cỏ Đức
Phật quyết định ngồi trên đó và nhập định. Chính hành động ngồi trên cỏ tự nó
là nhập định, tức là tâm Ngài đã vượt lên trên tám pháp thế gian, khắc phục thế
gian cho đến khi chứng ngộ siêu thế pháp. Thế gian pháp trở thành không còn ý
nghĩa đối với Ngài. Ngài ngồi trên cỏ nhưng cỏ không gây trở ngại cho tâm Ngài,
bất luận bằng cách nào. Những đạo binh của Ma Vương cố gắng cám dỗ Ngài nhưng
Ngài chỉ ngồi đó, trong trạng thái nhập định, chế ngự thế gian cho đến khi cuối
cùng, chứng ngộ Giáo Pháp và hoàn toàn chiến thắng Ma Vương. Đó là Ngài chiến
thắng thế gian. Như vậy, chính pháp hành nhằm phát triển Con Đường đã tiêu diệt
ô nhiễm.
Con người ngày nay không có nhiều
đức tin. Khi đã thực hành trong một hay hai năm họ muốn đến nơi ngay, và họ
muốn đi nhanh. Họ không nghĩ rằng Đức Phật, vị Thầy Tổ của chúng ta xưa kia
phải mất sáu năm trường sau khi rời nhà trước khi trở thành bậc Chánh Đẳng
Chánh Giác. Cũng vì lý do ấy mà chúng ta có truyền thống “tự do ra khỏi lệ
thuộc” (Theo truyền thống này một vị mới xuất gia tỳ khưu phải sống “tùy thuộc”
nơi vị thầy tế độ mình trong thời gian năm năm đầu tiên. Có nghĩa là người mới
thọ Cụ Túc Giới phải sống với thầy mình ít nhất là năm năm, rồi sau đó mới được
“tự do” sống xa thầy). Đúng theo kinh điển, một vị tỳ khưu mới xuất gia phải có
tối thiểu năm hạ mới được xem là có thể sống riêng rẻ một mình (Mỗi năm một vị
tỳ khưu phải trải qua ba tháng an cư kiết hạ vào mùa mưa. Tuổi đạo của thầy tỳ
khưu được tính theo số hạ mà vị ấy trải qua). Trong khoảng thời gian năm năm ấy
vị tỳ khưu đã học hỏi và thực hành đầy đủ, có kiến thức thích nghi, đủ đức tin
và đủ phong độ tốt đẹp của một tỳ khưu. Người nào đã thực hành nghiêm chỉnh
tròn đủ năm năm bên cạnh thầy. Sư cho rằng người ấy đã thuần thục. Tuy nhiên,
người ấy phải thực sự thực hành chớ không phải “sống cho qua ngày tháng” với bộ
y trong năm năm. Vị ấy phải thận trọng theo dõi pháp hành, phải thật sự hành!
Cho đến khi trải qua đủ năm hạ, quý
vị có thể ngạc nhiên, “Cái mà Đức Phật gọi là tự do ra khỏi lệ thuộc là gì? Quý
vị phải thực sự cố gắng tròn đủ năm năm rồi sẽ tự mình hiểu biết những đức tính
mà Đức Phật đề cập đến. Sau thời gian ấy ắt quý vị sẽ thuần thục, tâm trí thuần
thục, và vững chắc không thối chuyển. Tối thiểu, sau ba năm hạ ta phải đạt đến
tầng giác ngộ đầu tiên. Đây không phải chỉ là năm hạ tu cho thân mà cũng là năm
hạ tu cho tâm. Vị sư ấy không để bị khiển trách, có tính hỗ thẹn tội lỗi và
luôn luôn khiêm tốn. Vị ấy không dám hành động sai quấy, dầu trước mặt mọi
người hay sau lưng ai nấy, dầu thanh thiên bạch nhật hay trong đêm tối. Tại sao
không dám? Bởi vì vị ấy đã tiến đạt đến Đức Phật, “Người hiểu biết”. Vị ấy đã
nương tựa nơi Đức Phật, Đức Pháp và Đức Tăng.
Muốn thật sự tùy thuộc nơi Phật,
Pháp, Tăng chúng ta phải thấy Đức Phật. Không biết Đức Phật mà nương tựa nơi
Ngài thì lợi ích gì? Nếu ta chưa hiểu biết Phật, Pháp, Tăng thì quy y Tam Bảo
chỉ là việc làm của thân và khẩu, còn tâm thì chưa đạt đến Tam Bảo. Một khi tâm
đã đạt đến, ta sẽ biết Phật là như thế này, Pháp là như thế này, và Tăng là như
thế này. Chừng đó ta có thể thật sự nương tựa nơi Tam Bảo, bởi vì Tam Bảo đã ở
trong tâm ta. Bất luận đi nơi nào ta sẽ luôn luôn có Phật, Pháp, Tăng cùng ở
với ta.
Một người như thế ấy không dám có
hành động tội lỗi. Vì lẽ ấy ta nói rằng người đã đạt đến tầng giác ngộ đầu tiên
sẽ không còn sanh vào khổ cảnh. Tâm của vị ấy đã vững chắc. Ngài đã bước vào
Giòng Suối (Nhập Lưu), không còn hoài nghi nữa. Nếu không tiến đạt đến Toàn
Giác trong ngày hôm nay vị ấy chắc chắn sẽ đến nơi đến chốn trong một ngày vị
lai. Vị ấy có thể hành động lầm lạc nhưng không lầm lạc quan trọng đến nổi phải
vào khổ cảnh, có nghĩa là vị này không thể thoái bộ đến độ có thân nghiệp và
khẩu nghiệp bất thiện, không thể được. Do đó chúng ta nói rằng vị ấy đã sanh
vào hàng Thánh, không thể thối chuyển. Đây là điều mà quý vị phải tự mình thấy
và hiểu biết trong chính kiếp sống này.
Ngày nay, những ai trong chúng ta
còn hoài nghi về pháp hành, khi nghe vậy sẽ nói, “Ồ, làm thế nào tôi có thể
được vậy?”. Đôi khi chúng ta cảm nghe hạnh phúc, đôi khi giao động, bằng lòng
hay bực bội. Vì lẽ gì? Bởi vì chúng ta không thông thiểu Giáo Pháp. Giáo Pháp
nào? Chỉ là cái Giáo Pháp của Thiên Nhiên, cái thực tại bao quanh chúng ta, thân
và tâm.
Đức Phật dạy, “Không nên bám níu
vào ngũ uẩn, hãy buông bỏ, để cho nó đi!”. Tại sao chúng ta không thể cho nó
đi? Chính vì ta không thấy, hoặc không hiểu biết nó đầy đủ. Chúng ta thấy nó là
chúng ta, tự thấy chúng ta là ngũ uẩn. Hạnh phúc và đau khổ, chúng ta thấy là
chính ta. Ta thấy chúng ta trong hạnh phúc và đau khổ. Chúng ta không thể tự
tách rời ra khỏi nó có nghĩa là chúng ta không thể thấy Giáo Pháp, chúng ta
không thể nhìn thấy Thiên Nhiên.
Hạnh phúc, đau khổ, vui và buồn –
không có cái nào là mình, nhưng chúng ta lại ngỡ là của mình. Những cảm xúc ấy
đến, giao tiếp với chúng ta và chúng ta thấy một khối “atta”, hay tự ngã. Nơi
nào mà có tự ngã quý vị sẽ tìm thấy hạnh phúc, đau khổ và tất cả mọi cái khác.
Do đó Đức Phật dạy hãy tiêu diệt “khối” tự ngã, tức là tiêu diệt thân kiến
(sakkaya diihi). Khi tự ngã (atta) đã bị tiêu diệt ắt vô ngã (anatta) tự nhiên
phát sanh.
Chúng ta chấp Thiên Nhiên là ta và
chúng ta là Thiên Nhiên và như vậy không thật sự hiểu Thiên Nhiên đúng theo
chân lý. Nếu nó tốt đẹp, ta vui cười với nó, nếu nó xấu, ta khóc vì nó. Nhưng
Thiên Nhiên chỉ giản dị là hữu vi pháp (sankhara). Và như ta đọc tụng câu kinh
“Tesam vupasamo sukho” – dẹp được các pháp hữu vi là hạnh phúc thật sự. Làm thế
nào dẹp được các pháp hữu vi? Chúng ta chỉ loại trừ lòng luyến ái, bám níu vào
nó và nhìn thấy đúng thực tướng của nó, thấy nó đúng như thật nó là vậy.
Như vậy, có chân lý trong thế gian?
Cây cối, núi non và các dây leo, tất cả đều sống theo chân lý của nó, sanh và
diệt theo bản chất thiên nhiên của nó. Chỉ riêng có chúng ta là không có chân
lý. Chúng ta thấy nó và bận rộn lo lắng vì nó nhưng Thiên Nhiên vẫn bình thản,
nó chỉ là vậy. Chúng ta cười, chúng ta khóc, chúng ta giết chóc, nhưng Thiên
Nhiên vẫn nằm trong Chân Lý, nó là Chân Lý. Dầu ta có vui hay buồn thế nào,
thân này chỉ đi theo con đường thiên nhiên của nó. Nó được sanh ra, trưởng
thành và già nua, luôn luôn biến đổi và mỗi lúc mỗi già thêm. Nó theo Thiên
Nhiên như thế ấy. Kẻ nào chấp rằng thân này là chính mình và mang nó theo đi
cùng khắp với mình, kẻ ấy sẽ đau khổ.
Do đó, Ngài Anna Kondanna (A Nhã
Kiều Trần Như) nhận thức rằng “bất luận gì được sanh ra” tất cả mọi sự vật, dầu
vật thể hay vô hình. Cái nhìn của Ngài đối với thế gian đã thay đổi. Ngài đã
thấy chân lý. Từ chỗ ngồi đứng dậy, Ngài mang chân lý ấy theo với mình. Tiến
trình sanh và tử vẫn liên tục tiếp diễn, nhưng Ngài chỉ nhìn nó. Hạnh phúc và
đau khổ phát sanh rồi hoại diệt, nhưng Ngài chỉ ghi nhận. Tâm Ngài không biến
đổi. Ngài không bao giờ còn rơi vào khổ cảnh.Ngài không vui mừng hay phiền muộn
vì những sự việc ấy. Tâm Ngài vững chắc củng cố trong công trình quán chiếu.
Đó! Ngài Kondanna đã thọ nhận Pháp
Nhãn. Ngài thấy Thiên Nhiên đúng theo Chân Lý, cái Thiên Nhiên mà ta gọi là
sankhara, pháp hữu vi. Trí tuệ là cái nhận thức chân lý của các pháp hữu vi. Đó
là cái tâm hiểu biết và nhận thấy Giáo Pháp.
Cho đến ngày nào thấy được Giáo
Pháp chúng ta còn phải nhẫn nại và kiên trì tự chế. Chúng ta phải chịu đựng,
chúng ta phải từ bỏ! Chúng ta phải trau giồi hạnh chuyên cần và đức tính bền
dẽo chịu đựng. Tại sao phải trau giồi hạnh chuyên cần? Bởi vì chúng ta lười
biếng! Tại sao phải trau giồi hạnh nhẫn nhục chịu đựng? Bởi vì chúng ta không
nhẫn nhục chịu đựng. Đường lối là vậy. Nhưng khi chúng ta đã kiên cố vững vàng
trong pháp hành, đã chấm dứt lười biếng, chừng đó sẽ không cần sử dụng đến hạnh
chuyên cần. Nếu chúng ta đã hiểu biết chân lý của tất cả những trạng thái tâm,
nếu chúng ta không thỏa thích hay âu sầu vì nó, ắt ta không cần đến hạnh nhẫn
nhục chịu đựng, bởi vì tâm đã là Giáo Pháp. “Người hiểu biết” đã trông thấy
Giáo Pháp, đã là Giáo Pháp.
Khi tâm là Giáo Pháp, nó dừng lại.
Nó đã đạt đến An Lạc. Không cần phải đặc biệt làm gì khác, bởi vì tâm đã là
Giáo Pháp. Bên ngoài là Giáo Pháp, bên trong là Giáo Pháp. “Người hiểu biết” là
Giáo Pháp. Trạng thái đối tượng là Giáo Pháp, và cái hiểu biết trạng thái ấy là
Giáo Pháp. Nó là một. Nó tự do.
Thiên Nhiên này không phải được
sanh ra, nó không già, không bệnh. Thiên Nhiên này không hoại diệt. Thiên Nhiên
này không thỏa thích cũng không buồn phiền, không lớn không nhỏ, không nặng
không nhẹ, không dài không ngắn, không trắng, không đen, không có cái gì mà quý
vị có thể so sánh với nó. Không có pháp ước định nào có thể đạt đến nó. Vì lẽ
ấy ta nói rằng Niết Bàn không màu sắc. Tất cả màu sắc chỉ là quy ước. Trạng
thái thiên nhiên này vượt ra ngoài thế gian, không có quy ước nào của thế gian
có thể theo kịp nó.
Như vậy, Giáo Pháp là cái gì đã
vượt khỏi thế gian. Nó là cái gì mà mọi người phải tự mình trông thấy. Nó vượt
qua khỏi mọi ngôn ngữ. chúng ta không thể nói ra thành lời hay viết ra thành
chữ, quý vị chỉ có thể đề cập đến đường lối và phương tiện để thành đạt nó.
Người đã tự mình thấy nó là đã viên mãn hoàn tất công tác của mình.