Chương 1.
Gốc rễ của sân hận
SẮC
THÁI CỦA CƠN GIẬN
Khái niệm “giận dữ” được định
nghĩa như dòng chảy cảm xúc, đối tượng là con người được thể hiện qua lời nói
khó nghe, lời qua tiếng lại trong giao tiếp cũng như việc làm… mang lại sự bực
dọc, không ưa thích.
Cơn giận dữ biểu hiện dưới nhiều
góc độ khác nhau. Ví dụ, góc độ giọng nói thì sự giận dữ được thể hiện qua lời
quát tháo, nguyền rủa tục tĩu, hăm dọa, hoặc lời đường mật nhưng chứa lưỡi dao,
mảnh chai hay gai nhọn bên trong mà người giận dữ tặng đối phương. Biểu hiện
không thiện cảm về giọng nói làm giá trị, ý nghĩa mối quan hệ, giao tế bị tổn
thương, để lại vết hằn nội kết tạo khoảng cách ngày càng nhân rộng. Nó có thể
trở thành dãy núi Trường Sơn hay Vạn Lý Trường Thành là tùy vào khả năng xử lý
mâu thuẫn của hai bên. Sự ứng xử thiếu khôn ngoan sẽ tạo ra hố ngăn cách hoặc
thiết lập thành hai đường ray xe lửa song song, sự nóng giận sẽ thiêu đốt mối
quan hệ tình người!
Theo nhà Phật, cơn giận dữ như
ngọn lửa đỏ có thể thiêu cháy tất cả. Ai nuôi dưỡng cơn giận dữ trong lòng là
đang tình nguyện đưa ngọn lửa vào thiêu đốt tâm thành tro bụi, làm cho hành
động mang tính hủy diệt và mối quan hệ giữa tình người, kể cả với người thân
trở thành nội kết khổ đau. Trong mọi tình huống, nếu vô tình hay cố ý nuôi
dưỡng cơn giận dữ trong lòng, tức là đang từ bỏ niềm hạnh phúc, an vui giữa
mình với người. Sân hận và giận dữ là hai đối tượng mà người con Phật cần tu
tập để chuyển hóa. Chinh phục để chiến thắng cơn giận mang lại hạnh phúc lâu
dài trong tâm, hành động và quan hệ giữa con người với nhau!
Nếu cơn giận dữ được biểu đạt
bằng hình thức cử chỉ thì da mặt tái mét, mắt đỏ ngầu, môi giật và máu dồn lên
não bộ hoặc nói lầm bầm, đập bàn ghế, xô ngã các vật dụng,
đập nát những gì đang có trên
tay, hoặc biểu hiện bằng cách giậm chân, nhổ nước miếng hay những biểu hiện thô
bạo, tấn công, bạo động, thậm chí muốn tiêu diệt người khác. Các biểu đạt của
sân hận là hành vi phiền não, nghiệp chướng và khổ đau. Đệ tử Phật cần nhận
diện biểu hiện của sân hận từ thô đến tế. Đừng để sân hận len lỏi vào hơi thở,
sự sống kể cả trong ý nghĩ và việc làm, nhất là đối với người đang đi trên con
đường hướng thượng, tìm kiếm sự an lành lâu dài hay vĩnh viễn.
Sân hận còn được biểu đạt dưới
góc độ tính tình, thái độ ứng xử, có thể là sự hiềm khích, bực dọc, im lặng,
làm ngơ, dửng dưng trước khổ đau của người khác, dù là người thương, người thân
đã từng chia sẻ niềm vui, nỗi khổ trong cuộc sống. Khi cơn giận dữ xuất hiện,
con người có thể trở nên chai sạn, bàng quan trước những khổ đau, nhu cầu trợ
giúp của người khác trong khi chỉ cần mở bàn tay ra là có thể nâng đỡ, giúp
người ta có được chất liệu an vui và hạnh phúc lâu dài.
Kinh điển thường ví giận dữ như
một cơn điên. Người điên cuồng không kiềm chế được ý thức nên hành vi, cử chỉ,
việc làm gây thương tổn bản thân và người khác. Người giận dữ càng lưu giữ thái
độ này lâu chừng nào thì sẽ chia chẻ mảnh đất tâm nhiều chừng đó. Giận dữ chính
là cơn điên giết chết tình thân, làm biến dạng thái độ, lời nói, việc làm,
khiến bạn thành thù, tốt thành xấu. Khi không tự chủ cơn giận, có thể có những
việc làm vi phạm luật pháp. Chẳng hạn, trong cơn ghen tức có thể tạt axit, đâm
chém, xúi bậy người gây bạo động, khủng bố đối phương. Giận dữ có thể do mâu
thuẫn ý thức hệ tôn giáo, chính trị, những va chạm quyền lợi. Trong lịch sử
nhân loại đã từng diễn ra và hiện tại, tương lai có thể sẽ còn diễn ra.
Đức Phật ví sân hận như cục than
ngầm. Nếu thời đó có
than đá thì tin chắc Ngài cũng
ví nó như cục than đá. Than đá bén lửa lâu nhưng sức cháy có thể giữ được từ
giờ này sang giờ khác. Người khéo kiềm chế lòng sân hận chúng ta khó nhìn thấy
qua sự biểu đạt lời nói, việc làm, cử chỉ, ứng xử, cách giải quyết vấn đề nhưng
họ có sự ức chế, nỗi đau thù hận lâu dài, tìm cơ hội trả đũa. Có người suy
nghĩ, nếu ai tạo nỗi đau cho tôi một phần thì tôi sẽ làm cho người đó đau khổ
mười phần, nếu người nào làm tôi mất mặt trước quần chúng một lần thì tôi sẽ
làm cho người đó mất mặt suốt cả cuộc đời. Cơn sân hận ví như cục than ngầm,
nhằm nói lên tính cách thâm hiểm của người chưa chiến thắng cơn giận dữ trong
tâm.
Có trường hợp đức Phật so sánh
cơn sân hận như đám mây. Nó có thể che lấp bầu trời ánh sáng trí tuệ, nhận
thức, hành động của con người. Trong đạo Phật, mặt trời được ví như đường dẫn
đạo, sự xuất hiện của nó mang lại ánh sáng, sự sống cho tất cả các hoạt động
của người, vạn vật. Khi sân hận che phủ mặt trời nhận thức thì có mắt mà không
nhìn thấy, có tai mà không nghe, các giác quan bị ức chế. Cho nên, người sân
hận có phản ứng dễ nổi loạn, xung đột hoặc làm bất cứ việc gì để thoả mãn cơn
giận. Tuy nhiên, ta càng thoả mãn cơn giận thì khổ đau càng gia tăng, sự thoả
mãn cái tôi trong cơn giận không phải là giải pháp.
Sân hận còn được ví như sự phản
kháng, làm tê liệt các ý thức, nhận thức, nhiệt huyết để dấn thân và phục vụ,
làm băng giá lương tâm, chai sạn tình thương. Hậu quả là đối tượng mất hết tình
yêu thương, tha nhân thậm chí cả với người gần gũi đã từng có những kỷ niệm
đẹp. Sân hận trở thành năng lượng hủy diệt, triệt tiêu và đẩy đối tượng vào
chân tường. Lúc đó, sự phản kháng của đối tượng có thể là sự lựa chọn một mất
một còn, nạn nhân của giận dữ được đặt trên bàn cân mà không ai muốn khoan
dung. Do vậy, sân hận chính là ngọn lửa.
Đức Phật đã nói: “Nhất niệm sân
tâm khởi, bá vạn chướng môn khai”. Lửa sân hận nhen nhúm rất đơn giản, tưởng
chừng không có gì nguy hại nhưng thiêu đốt tất cả công đức đã gieo trồng, những
việc làm từ thiện, dấn thân trong cuộc đời, những tình thương đã chia sẻ, phục
vụ cộng đồng và xã hội, thiêu đốt tất cả mối quan hệ tình người. Cơn giận dữ
còn là quả bom làm nổ tung tất cả nhịp cầu quan hệ giữa các quốc gia.
Ngành tâm lý học Phật giáo định
nghĩa sân hận là một phản ứng âm tính đối nghịch với những gì con người không
thích, không muốn hoặc không hài lòng. Con người nghĩ mình là chủ thể bị tác
động, ảnh hưởng, đâm chọc, hoặc bị làm thương tổn… Sự phản ứng âm tính trong
trường hợp này được xem là cách thức làm tâm nổi phồng theo dạng bị viêm, giống
như viêm bao tử, gan... Sự trương phồng khiến người ta cảm thấy rất nóng, ray
rứt, khó chịu, bần thần, đau đớn. Do đó, phải tìm cách giải thoát bằng thuốc
giảm đau. Khi bế tắc, nhiều người đã chọn giải pháp chạy trốn, tìm chốn hoặc
lao vào các cuộc truy hoan để tìm quên lãng.
Trong những cách làm giảm đau
cơn sân hận, nhiều đấng mày râu chọn giải pháp uống rượu hay hút thuốc lá hoặc
dùng những chất kích thích không tốt cho sức khỏe để giúp quên đi cơn bực dọc,
chán nản mà y không có giải pháp thoát ra. Nhưng nên nhớ “mượn rượu giải sầu,
sầu thêm nặng”. Dùng rượu chè không phải giải pháp thoát ly cơn đau và cũng
không phải giải pháp làm cơn sân hận, bực tức giảm xuống. Ngược lại, càng làm
cơn đau trương phồng ở cấp độ lớn hơn, nhiều hơn. Giống như người bị khát nước
nhưng lại uống nước biển hay nước muối. Dĩ nhiên, cơn khát sẽ gia tăng sau khi
đưa nước ấy vào cơ thể. Giải pháp đó có tác hại lớn hơn giải pháp trốn chạy.
Tất cả những giải pháp chạy trốn
đều có những phản ứng
phụ, khiến con người trở nên thụ
động hoặc bạo động. Thụ động tức là không còn màng đến cuộc đời, nhân tình thế
thái, làm tâm bị khô héo, rút lại, phản xạ các giác quan không còn nhạy bén. Sự
chạy trốn bế tắc cũng giống như con rùa rút đầu và tứ chi vào mai để tạo cảm
giác an toàn. Đó không phải là giải pháp thích ứng với tình huống.
Người chọn giải pháp bạo động
thì ngược lại, giống con rùa lúc nào cũng đưa đầu và bốn chi ra bên ngoài để có
thể kháng cự, xung đột với đối tượng và làm những gì nó muốn hòng chiến thắng
hoàn cảnh. Nếu con rùa thò tứ chi ra bên ngoài, dĩ nhiên khó có thể tránh khỏi
những trường hợp nguy hại đến mạng sống khi đối phương mạnh hơn, nguy hiểm hơn.
Như vậy, giải pháp thụt đầu vào
trong hay thò đầu ra trước tình huống sân hận theo cách thế đối đầu đều không
tốt. Bởi vì, một bên để lại nỗi buồn, tạo thành những cách ứng xử tiêu cực, còn
một bên để lại sự xung đột mà hệ quả dẫn đến đổ vỡ, khổ đau cho mình và người.
Có thể định nghĩa sân hận như là
cách làm nỗi đau bị trương sình lên hoặc chìm đắm, chìm sâu vào vô thức. Nếu
không có bản lĩnh khắc chế nó sẽ thấm sâu vào tâm và để lại nỗi đau lớn. Nỗi
đau này trở thành nội kết, lặp lại nhiều lần thành không gian ảo của phiền não,
nghiệp trở thành sự cau có, bực dọc trong ứng xử, khiến người ta có thể trút
lên bất cứ đối tượng nào khi có dịp tiếp xúc bằng nhiều cách.
Là người con Phật, phải có chánh
niệm và tỉnh thức để nhận biết được sự vận hành của sân hận. Nó có tác hại đối
với đời sống đạo đức, lương tâm, nhất là đối với sức khỏe, tuổi thọ và giá trị
tình người!
PHẢN
ỨNG CỦA SÂN HẬN
Ở Trung Hoa có câu chuyện dân
gian kể về một anh ngư
phủ. Mỗi ngày anh thường đi bắt
cá ở vùng duyên hải. Có hôm được rất nhiều, có hôm chẳng được con nào.
Vào ngày sóng to gió lớn, anh ta
không đánh được gì, thuyền cứ chồng chềnh qua lại, nghiêng ngả, đụng chỗ này,
chỗ kia khiến anh rất bực mình, cau có.
Anh chỉ tay vào thuyền và nói:
“Tao báo cho mày biết, lần này là lần cuối nhé, lần sau mà còn như vậy tao sẽ
trừng phạt cho biết tay”. Nói xong, anh cảm thấy hả dạ, cập thuyền vào bờ và về
nhà nghỉ.
Khi về nhà, anh suy nghĩ, “Chiếc
thuyền này không có mắt nên nó bị chồng chềnh, va chạm là chuyện thường. Thôi,
bây giờ mình tạo cho nó con mắt”. Hôm sau, anh mua sơn về vẽ lên mui thuyền hai
con mắt thật to. Hôm sau nữa, anh ta dong thuyền đi đánh cá. Lần này cũng giống
lần trước, không được con cá nào vì biển động. Chiếc thuyền của anh cũng ngả
nghiêng qua lại, đụng chỗ này, chỗ khác. Anh giận quá, cầm cây chèo đập mạnh
vào chiếc thuyền, nhất là chỗ hai con mắt đã vẽ và mắng: “Mày đui hả, tao đã
tạo cho mày hai con mắt rồi, sao cứ đi đụng hoài?” Anh đập đến lúc mái chèo gãy
rời, cuối cùng, không còn cái gì chèo thuyền nữa, anh đành bỏ thuyền để bơi vào
bờ. Tối về nhà, anh lại suy nghĩ, “Sao mình phải đập chiếc thuyền, hôm nay cũng
may mắn, nếu sóng to gió lớn thì có lẽ mắc nạn rồi”.
Qua câu chuyện này, có thể nhìn
anh lái thuyền dưới góc độ “bệnh tâm thần nhẹ”, tức là tâm thần bất ổn nên rất dễ
cau có, khó chịu, phiền não. Anh có thái độ ứng xử bạo động đối với chiếc
thuyền vốn là ân nhân, chở anh từ nơi nay đến nơi khác, bạo động với phương
tiện đã giúp mang lại cuộc sống ấm no cho anh. Bạo động luôn cả đối với bản
thân vì lấy cây chèo đập thuyền đến gãy chèo, để cuối cùng không còn phương
tiện để chèo thuyền vào bờ nên phải tự bơi khiến cơ thể bị mỏi mệt, rũ rượi,
rất may là không bị đắm chìm dưới
biển sâu, trở thành phẩm vật
“cúng dường” cá mập mà không cần thắp hương.
Câu chuyện cho thấy lòng sân hận
rất dễ dàng phát sinh ở con người. Có những người sân hận một cách vô cớ như
trường hợp anh ngư phủ. Giận vô cớ bắt nguồn từ nhận thức không sáng suốt rằng,
biển bị động chứ không phải chiếc thuyền cứ tự đụng chỗ này chỗ kia. Biển động
nên thuyền phải chao đảo, đâu thể quở trách thuyền. Nếu lúc đó nóng tính, quở
trách khí hậu thời tiết cũng không đúng vì biển có ngày động, có ngày không.
Thường những người sống bằng nghề biển có một ý thức, không bao giờ ra biển khi
khí hậu thời tiết có gió to sóng lớn. Bởi anh ngư phủ không có kiến thức thâm
sâu về lĩnh vực đó nên cứ làm theo thói quen, để rồi cơn sân hận phát sinh
khiến anh bị nhiều nỗi nhọc nhằn.
Sân hận có thể bắt nguồn từ
nhiều nguyên nhân. Cuộc đời có bao nhiêu vấn đề thì sân hận theo đó xuất hiện,
tồn tại, phát triển tương thích. Do đó, khi quan sát về thái độ sân dẫn đến
hành động sân và những ứng xử không đẹp thì người con Phật phải vượt lên trên
những phản ứng tầm thường đó. Nếu không, những người liên hệ trực hoặc gián
tiếp và ngay chính bản thân sẽ trở thành nạn nhân của cơn giận dữ. Cuối cùng,
nhận lấy tác hại rất lớn không lường trước được.
Hệ quả xấu của giải pháp này là
nếu thành công thì một bên cũng sứt trán và bên còn lại bể đầu, nghĩa là không
bên nào thành công, cũng không có được sự hoàn mỹ. Đó là chưa nói đến việc ức
chế tâm lý. Khi người nào đó bị cản phá, bị nổi cáu dù trong một tình huống cho
phép thì trong lòng người đó vẫn có nỗi uất hận. Nỗi uất hận này có thể bộc
phát bất cứ lúc nào khi nó có điều kiện hay chất xúc tác, kích thích. Đó là
cách thức giải quyết vấn đề đặt trên nền tảng của nhận thức tầm thường, phàm
phu.
Nghĩa là, nhiều người đã tự cho
mình quyền ăn miếng trả miếng. Đối tượng nào mang đến đau khổ, ta có quyền đáp
trả lại đau khổ cho họ ở bình diện tương đương hoặc lớn hơn, nhiều hơn. Cách
ứng xử như vậy không phải giải pháp lâu dài vì có thể tạo ra làn sóng đối chọi
nhau. Theo đạo Phật, cuộc đối chọi như vậy sẽ không ai là kẻ chiến thắng, cả
hai đều là nạn nhân hứng hết tất cả khổ đau do hận thù, tranh chấp, sân hận đem
lại. Đệ tử của đức Phật phải chọn giải pháp hoàn hảo có thể đã có, nếu không
phải tìm một cách mới để giúp tâm an, thân vui, giúp mình thoát ra khỏi sự kìm
kẹp của thù hận, đối chọi, xung đột, trả đũa nhau trong đời.
Triết gia Aristotle từng phát
biểu: “Nổi cáu hay nổi giận với người khác là chuyện dễ, nhưng khi mình nổi cáu
với người đáng nổi cáu trong một hoàn cảnh cho phép, ở một mức độ có thể chấp
nhận và cách thức dùng sự nổi cáu đó với một mục đích tốt là điều không phải dễ
dàng tìm được”. Theo lời phát biểu này, Aristotle chấp nhận nổi cáu dẫn đến sự
bạo động hay dẫn đến thù hận với người khác, coi như điều gì đó rất được biện
hộ (trustify) từ góc độ xã hội.
Theo quan niệm Nhị nguyên của
triết gia Aristotle, trong tình huống đối tượng làm ta nổi cáu là đối tượng
xấu, ác cản trở những việc làm tốt hoặc những người hầu như chỉ đem lại phiền
não cho cuộc đời, sự nổi cáu với những con người như vậy là được phép. Chấp
nhận đối kháng vì cái thiện để giải quyết vấn đề. Con người có khuynh hướng dùng
sức mạnh lớn hơn để đè bẹp sức lực nhẹ. Dùng cưỡng lực âm thanh lớn để trấn áp
âm thanh nhỏ là phản ứng thường gặp của con người. Mặc dù âm thanh nhỏ đó vẫn
mang lại tiếng ồn. Như vậy, giải pháp trong trường hợp này là bạo động nhằm
triệt tiêu bằng cản lực, cái nào mạnh cái đó sẽ thắng.
Trong Tam Quốc Chí, ai đã đọc qua tác phẩm
này thì không
thể quên nhân vật Trương Phi,
xem người hữu dũng, hiên ngang, bất khuất, nhưng không có mưu kế. Khổng Minh
được xem là bậc thầy tiên tri, biết trước được diễn biến các sự vật, hiện tượng
sẽ diễn ra nên ông thường giúp Trương Phi thành công trong những cuộc giao
chiến với quân Tào Tháo. Khổng Minh biết, nếu để hai bên đánh nhau thì dù quân
của Trương Phi thắng cũng phải tổn thất rất nhiều nên ông đã dùng mẹo, lợi dụng
cơn sân hận của Trương Phi để giúp Trương Phi đánh thắng mà không hao tổn quân
lính. Khổng Minh yêu cầu Trương Phi ra chiến trường giao chiến với Tào Tháo.
Trước khi Trương Phi đi Khổng
Minh đưa một phong thư chứa đựng bí kíp dặn: Hai bên sẽ giao tranh với nhau
trên một cây cầu lớn, chờ khi lính của Tào Tháo đến gần hai phần ba cây cầu mới
được mở xem bí mật chiến thuật và chiến lược trong bức thư. Trương Phi luôn tin
tưởng Khổng Minh nên không hề hoài nghi.
Theo lời căn dặn của Khổng Minh,
lúc thấy quân Tào Tháo tiến được hai phần ba cây cầu, Trương Phi liền mở thư
nhưng giật mình vì trong thư không có chữ nào. Trương Phi nổi giận, vì cho rằng
Khổng Minh đã có ác ý đưa ông vào chỗ chết. Ông nghĩ, ta không làm điều gì để
Khổng Minh buồn, tại sao Khổng Minh lại hãm hại ta? Trong lúc sân hận, Trương
Phi dùng hết sức bình sinh hét lên một tiếng thật lớn.
Dưới cầu có con cá kình ngàn năm
tuổi rất lớn, đã hoảng sợ vì tiếng hét của Trương Phi, cá liền nhảy lên làm cây
cầu gãy thành nhiều khúc. Trương Phi bỏ chạy ngay sau khi hét xong vì lực lượng
của ông không nhiều, nếu đối đầu sẽ tổn thất lớn. Vừa bỏ chạy, Trương Phi nghe
tiếng cây cầu gãy và quay lại nhìn thấy quân địch rớt xuống chết đầy sông.
Trương Phi hiểu ngay Khổng Minh đã gài ông vào tình thế như vậy do biết dưới
cầu có con cá kình, và tiếng thét giận dữ
của Trương Phi khiến cá trở mình
làm cầu gãy.
Câu chuyện cho thấy, khi cơn
giận dữ trỗi dậy trong tình huống chiến đấu làm cho con người tăng thêm sức
mạnh, nghĩa khí để giành thắng lợi. Nhờ khả năng tiên tri của Khổng Minh,
Trương Phi đã chiến thắng không hề tốn cây gươm, người lính nào.
Trong chiến tranh, binh lính
được huấn luyện để tiêu diệt kẻ thù, giết càng nhanh càng tốt, theo nguyên tắc
“Trong chiến trận không được có lòng từ bi”. Quân lính trước khi ra trận đều
được vào quân trường để huấn luyện tư thế sẵn sàng giết địch, và không tránh
khỏi bị địch giết. Do vậy, chiến tranh luôn mang sự thù hận được nuôi lớn từ
kiếp này sang kiếp khác. Nơi nào có chiến tranh thì sự sân hận sẽ biến dạng
theo nhiều cách thức, con người trở thành đối thủ của nhau, dẫn đến sự tranh
chấp, hơn thua, đổ vỡ. Dĩ nhiên, đau khổ chỉ xuất hiện với những ai trực tiếp
hoặc gián tiếp tham gia cuộc chiến.
Đừng tháo gỡ nội kết và sân hận
theo cách đặt nó vào trạng thái bị ức chế như quả mìn. Nếu đương sự là người cố
chấp thì quả mìn có sức công phá như hai quả bom nguyên tử. Sức công phá của
sân hận có thể làm khổ đau và liên luỵ nhiều người. Các mảnh đạn hay chất phóng
thải của loại bom sân hận có thể làm vợ chồng, anh em, con cái, những đối tác
trực tiếp dính lây. Do đó, chúng để lại vết hằn của khổ đau.
Sân hận cũng như chất độc da cam
trong quan hệ giữa người với người. Chất độc này rất khó tẩy vì nó liên hệ đến
nhận thức, tâm lý, tình cảm cá nhân, cộng đồng và quốc gia. Chất độc da cam của
sân hận khi thấm vào cơ thể sẽ làm tâm tính con người thay đổi thành tiêu cực.
Trong khi đó, chất độc da cam của lòng sân hận, thù hận làm con người khó gần
nhau lâu, dẫn đến tình trạng bi đát hơn là không thể chấp nhận nhau. Nặng nề
hơn là làm cho
không muốn chấp nhận hòa giải,
chuyển hóa chất độc này để không bao giờ nhận lấy những chất liệu đó. Cho nên,
nó trở thành rất ức chế, nguy hiểm!
SỢ
HÃI VÀ BẠO LỰC
Gốc rễ của sân hận bắt nguồn từ
thái độ sợ hãi. Sợ hãi bắt nguồn từ vô minh dẫn đến si mê. Đương sự sân hận
không biết tình huống của vấn đề diễn ra theo cách nào, không nắm chắc được kết
quả của vấn đề đó như thế nào và cũng không rõ đối tác thuộc về thiện hay ác,
tích cực hay tiêu cực thì dẫn đến lo sợ.
Từ lo dẫn đến sợ. Nỗi sợ hãi
khiến đương sự nẩy sinh ra một chuỗi các vấn đề, bắt đầu bằng câu hỏi tại sao,
bằng cách nào và làm thế nào để đối phó? Câu hỏi đặt trên nền tảng hoài nghi.
Hoài nghi lại trở thành chất xúc tác làm cơn sợ hãi có thể bùng phát mãnh liệt.
Trong cơn sợ hãi, sự hoài nghi phải đối phó với đối tượng không biết rõ làm
nhiều người phải ra tay huỷ hoại trước theo sách lược, “Tiên hạ thủ vi cường,”
tức là người nào ra tay trước người đó trở thành kẻ thắng.
Trong Tam Quốc Chí, Tào Tháo là người có cá
tính tượng trưng cho lòng hoài nghi, bạo lực, sân hận. Ông ta phản cả những
người từng giúp và hại những người không theo ông. Ông nhiều mưu kế, muốn gom
cả thiên hạ về tay mình. Tham vọng làm ông bất chấp tất cả mọi phương tiện,
miễn kết quả có được là giang sơn dù được thiết lập trên nền tảng độc tài.
Thời hàn vi, ông có người bạn
thân tên Lã Bá Sa. Hai vợ chồng gia đình bạn rất quý mến Tào Tháo. Trên đường
tị nạn, Tào Tháo ghé qua nhà Sa. Hai vợ chồng mừng rỡ mở tiệc đãi. Vì trong nhà
không sẵn đồ ăn, Sa sai vợ giết gà, giết heo để đãi bạn, còn anh ra đầu làng
mua rượu. Sa nghĩ, lâu ngày anh em gặp nhau dù nghèo nhưng một bữa tiệc cũng
không đáng bao nhiêu, lại có thể thiết lập tình thân.
Tào Tháo đang say ngủ, mắt vẫn
mở trao tráo như dấu hiệu của người hoài nghi. Lúc vợ Sa sai người làm tìm lợn
béo để giết, người làm công hỏi là giết con này hay giết con kia, một con heo
chạy đụng chân vợ Sa, bà ra lệnh, “sát thử” (giết con này). Trong chữ Hán, đại
từ “thử” ở ngôi thứ ba, có thể hiểu tuỳ theo ngữ cảnh là người này hay con vật này.
Bán tín bán nghi, nghe văng vẳng “sát thủ”, Tào Tháo tưởng là ra lệnh giết ông,
liền bật dậy đâm chết vợ Sa và giết luôn những người làm thuê. Trên đường trốn,
Tào Tháo gặp Lã Bá Sa và giết luôn Sa trong lúc tay bạn cầm bầu rượu. Hai vợ
chồng bạn chuẩn bị thiết đãi Tháo nhưng vì đa nghi, tưởng họ mưu sát mình nên
Tháo đã ra tay hạ thủ trước. Khi biết sai lầm, Tháo không hối hận còn tuyên bố
với thuộc hạ Trần Thảo, “Thà ta phụ người khác chứ không để người khác phụ ta”.
Trong câu chuyện trên, nỗi sợ
hãi đã trở thành chất xúc tác tạo nên bạo động, thậm chí có thể giết hoặc đẩy
người khác vào chân tường. Khi bị đẩy vào chân tường, đương sự bị bế tắc vì ức
chế quá nhiều và có thể nảy ra ý xấu muốn tiêu diệt đối phương để y có thể sống
an toàn.
Nỗi sợ hãi chính là nguồn gốc
của khủng bố. Những người Hồi giáo cực đoan có thể biến thân họ thành quả bom
tàn sát và khủng bố. Khi bị ức chế tâm lý, sợ những đối tượng họ không giết,
không hại, không khủng bố có thể khiến mạng sống của họ mất đi hay có thể hại
người thân, cộng đồng và tôn giáo của họ. Được nạp vào người những chất liệu
cuồng tín, sẽ thấy nỗi sợ hãi chính là vũ khí quan trọng có thể giúp họ đạt
được mục đích. Mục tiêu khủng bố được thực hiện thì nỗi khổ đau thuộc về những
người trực hay gián tiếp có liên hệ đến sự khủng bố đó.
Khi hai tòa nhà Thương mại Quốc
tế của Mỹ bị sụp đổ, nền kinh tế Hoa Kỳ và thế giới lâm vào tình trạng khủng
hoảng. Biết bao người bị mất việc, khổ đau. Nỗi đau này lại
kéo theo nỗi đau khác, trực tiếp
ảnh hưởng đến đời sống gia đình của những nạn nhân.
Mỗi nỗi khổ, niềm đau của kiếp
người giống như làn sóng chập chờn trên biển khơi, sóng này đẩy sóng kia. Khổ
đau luôn có chiều hướng lan rộng ra theo cách “Cái này có cái kia có, cái này
tác động làm cái kia bị tác động, cái này xuất hiện dẫn đến cái kia xuất hiện”.
Không biết cách chuyển hoá, khổ đau từ thù hận sẽ kéo theo sự trả đũa thù hận,
làm cho oan khiên ngày càng chồng chất. Những người bị chết trong cuộc khủng bố
phải mang theo nỗi niềm uất hận trong lòng. Khi được tái sinh làm người, lòng
sân hận tiếp tục được dưỡng. Và lúc tiếp xúc với những người Hồi giáo cực đoan,
bỗng nhiên lòng sân hận bùng phát rất dễ dàng. Sự thù hận cứ như thế diễn ra
tiếp nối từ đời này sang kiếp khác, khó có thể dừng lại được.
Nỗi sợ hãi có thể xuất hiện và
tồn tại từ lúc con người bắt đầu có mặt trong bào thai đến lúc qua đời. Khi vào
trong thai mẹ, dù thai nhi còn là phôi, chưa có nhận thức, ngôn ngữ, phân định,
đánh giá nhưng các hạt giống thù hận vẫn tiếp tục tồn tại trong mảnh đất tâm.
Mỗi lần, mẹ tiêu thụ các độc tố
như rượu, ma túy… thực phẩm có hại cho sức khỏe thì đứa con tiếp nhận đủ, vì
cái nhau truyền máu trực tiếp từ mẹ sang con. Theo kinh Vu Lan, khi mẹ ăn đồ nóng thai nhi cảm
thấy đang bị thiêu đốt, ăn đồ lạnh cảm thấy mình đang ở trên núi tuyết, uống
rượu cũng xỉn theo, hút thuốc thai nhi sẽ có hạt giống nghiện ngập. Bào thai ở
trong bụng mẹ bực dọc, khổ đau nhưng không nói được, đành chịu đựng một cách
thụ động. Trong suốt thời gian có thai, nếu người mẹ sinh hoạt không khôn ngoan
sẽ để lại không biết bao nhiêu nỗi sợ hãi cho đứa con, bao gồm cả sự thù hận,
khó chịu, cau có, bực tức. Sau này, sinh ra tính cách đứa bé không bình thường.
Có tình trạng, bé mới hạ sinh đã bị dị dạng do độc tố từ sự tiêu thụ của mẹ gây
ra.
Khi lớn lên, cha mẹ cho con đi
học. Đứa bé sợ hãi về học tập vì sợ thua chúng bạn, không thuộc bài, bị thầy cô
giáo phạt, bị hắt hủi và bỏ rơi. Tất cả những nỗi sợ đó tạo nên cách ứng xử cau
có với người khác. Nó có thể trốn học, chơi bời, rượu chè, hút chích, đánh mất
chính mình.
Đến lúc dậy thì, sự thay đổi về
tâm sinh lý làm cho trẻ có nhiều vấn đề khó hiểu, không biết phải ứng xử thế
nào với nhiều nỗi sợ khác nhau. Những bậc phụ huynh thiếu sự quan tâm đến con
em, không giáo dục giới tính, động viên, an ủi, không hướng dẫn những điều tốt
nên làm, khuyến dụ từ bỏ những thói xấu thì có thể góp phần làm tăng trưởng nỗi
sợ hãi vốn có trong trẻ, làm cho trẻ cảm thấy cau có trong cách ứng xử và ảnh
hưởng trực tiếp đến sự học tập, tính cách của trẻ về sau.
Lúc bắt đầu biết yêu đương thì
bao nhiêu nỗi sợ lại xuất hiện. Ai đã từng yêu đều có những nỗi sợ như nhau. Sợ
bị phũ phàng, chối bỏ, yêu một chiều, mất tình yêu, không trọn vẹn, sợ không
biết cách nuôi dưỡng. Khi đạt được tình yêu rồi lại có những nỗi sợ khác xuất
hiện, sợ bị tình địch cướp tình, người tình chán ngán, nghèo và hàng loạt những
nỗi sợ hãi khác.
Sau khi tốt nghiệp ra trường, có
công ăn việc làm lại bị nỗi sợ hãi thất nghiệp, cạnh tranh, sa thải... Khi nền
kinh tế thị trường lên xuống theo quy luật cung cầu, biến động giá cả. Nỗi sợ
khác không kém phần nguy hiểm là công nghệ robot được sản xuất ngày càng nhiều,
làm cho tình trạng thất nghiệp gia tăng.
Từ trẻ thơ đến lúc trưởng thành,
nỗi sợ hãi liên tiếp diễn ra. Kết quả, người bị sợ hãi chi phối sẽ ứng xử trong
sự căng thẳng, luôn luôn bị ức chế đè nặng, phiền não, cau có làm ảnh hưởng
trực hoặc gián tiếp đến các đối tác liên hệ.
Nỗi sợ hãi chính là kẻ thù của
định tĩnh, tiến bộ và an lạc. Lúc nào cơn sợ hãi xuất hiện thì niềm hạnh phúc
an vui
liền biến mất. Sợ hãi, an vui,
định tĩnh không đội trời chung, không đồng hành, không thể trở thành bạn bè. Sự
hiện hữu của chúng mang tính loại trừ, cái này hiện hữu thì cái kia phải mất và
ngược lại.
Phản ứng sợ hãi thường kéo theo
bạo động về tư tưởng, lời nói, việc làm, cách thức ứng xử đối với những người
khác. Quan sát loài cá lia thia của Việt Nam hay cá xiêm của Thái Lan thấy
chúng rất bạo động. Con này sợ sẽ bị con khác ăn thịt, cướp hết quyền lợi hưởng
thụ. Hạnh phúc của loài cá đá thường chinh phục được các con cá cái và trở
thành chủ nhân của loài cá cái.
Tâm thức sợ mất quyền lợi làm
chủ nhân, hưởng thụ đã làm cho loài cá đá sống trong nỗi sân hận và bạo động,
dẫn đến thanh toán, loại trừ. Chỉ cần đặt hai lọ cá đá gần nhau là hai con ở
hai lọ phùng mang, trợn mắt. Màu da sậm lên, đuôi và mang phùng to ra, liệng
qua liệng lại vài cái rồi lao vào thành lọ mong xé xác con đối diện.
Lòng sân hận làm cho cá tưởng
đang cắn xé nhau nên giận dữ và lao vào cắn thành lọ. Để hai lọ gần nhau trong
vòng một tiếng đồng hồ, miệng của hai con cá bị sưng to, thân thể rã rượi, mỏi
mệt, đau nhức cho đến lúc nó không còn sức nữa vì tự đập vào thành lọ do tưởng
đang cắn kình địch. Cá không nhận dạng được giữa chúng còn có hai cái lọ khoảng
cách nhất định không thể trực tiếp cắn nhau. Lòng sân hận với nỗi sợ hãi bị
đánh bại, con nào cũng muốn ra tay trước. Nỗi khổ đau trong loài cá đá gia tăng
rất cao.
Loài khổ đau do sân hận và loại
trừ đáng kể là gà đá. Hai con gà trống cứ gặp nhau là gáy, vỗ cánh, phùng mang,
trợn mắt nhào vào đối phương mổ, đá lia lịa. Những người chơi đá gà chuyên
nghiệp thường gắn thêm cựa sắt vào chân gà. Hai con sẽ đá cho đến lúc hơi tàn,
lực kiệt rồi qua đời.
Nghiệp sân si, thù hận của loài
gà tiếp tục được truyền qua tiến trình tái sinh. Chúng như một di truyền về tính
cách sân hận và loại trừ.
Phần lớn các môn thể thao và võ
thuật, sự sân hận dễ dàng xuất hiện trên nền tảng tranh giành chiến thắng và
danh dự. Do tâm tranh giành nên các vận động viên đều có ít nhiều sân hận và
thái độ loại trừ. Đặc biệt, trong các môn võ thuật dù là võ nghệ thuật, sự sân
hận, thù hằn, trả đũa, đánh đấm gắn liền ít nhiều với sợ hãi. Các võ sĩ phải
đánh bại đối thủ, nếu không, sẽ bị đối thủ đánh bại. Muốn đánh bại đối thủ, các
võ sĩ phải làm trỗi dậy lòng sân để vượt qua sợ bị thua. Lòng sân hận do vậy
phát tán rất ghê gớm, biểu đạt qua gương mặt, điệu bộ, sự di chuyển, tiếng hét
giận dữ. Cơn sân trong võ sĩ có thể làm họ muốn thủ tiêu hay thanh toán đối
thủ.
Sợ hãi là đầu mối của sự sân
hận. Sân hận là đầu mối của loại trừ. Nếu không có cách hóa giải thì dễ trở
thành nạn nhân trực hoặc gián tiếp của nhau, liên hệ đến nhận thức sai lầm của
con người.
Hóa giải sân hận từ việc truy
nguyên nguồn gốc của sự thù hận. Trước nhất, cần phải tu tập về thái độ nhận
thức. Hiểu, tất cả mọi thứ trong cuộc đời đều có nhân quả. Dây chuyền nhân quả
có thể nằm trọn trong hiện tại hoặc có dây mơ rễ má với quá khứ và có thể kéo
dài đến tương lai. Khi hiểu được sợi dây oan trái giang hồ có gốc gác nhân quả,
con người sẽ nung đúc thái độ chấm dứt sân hận ở hiện tại. Nhờ đó, lòng thù hận
trả đũa đối với kẻ thù giảm xuống. Phải chấp nhận một cách thức nào đó để không
làm cho thù hận gia tăng. Hoặc chí ít, khi sân hận có mặt thì nỗ lực không cho
nó phát triển.
Cách thứ hai là phải quan niệm
nỗi sợ hãi là ảo giác, là xúc cảm âm tính tiêu cực làm con người mất hết năng
lượng
xây dựng, phát triển và thành
tựu. Còn sống trong sự sợ hãi thì niềm hạnh phúc và an vui còn vẫy tay tạm
biệt. Chỉ cần quan niệm bản chất sợ hãi như kẻ thù của sự tiến bộ thì con người
sẽ không cho phép mình sống trong nỗi sợ hãi. Nhìn thấy nguyên nhân tạo ra sợ
hãi sẽ có thể thực hiện vượt qua một cách rất dễ dàng, nhờ đó, cơn sân hận được
khắc phục.
Trong Hán ngữ, chữ “sân” là một
từ tượng hình được phối hợp bởi hai thành tố, bên trái là chữ “mục” tức con mắt
và bên phải là chữ “chân” tức sự tả hình. Hai từ này ghép lại biểu đạt trạng
thái nhìn người khác một cách đăm đăm không chớp mắt, mắt trợn trắng căm phẫn,
tức giận, biểu thị cái nhìn như muốn ăn tươi nuốt sống người khác. Do đó, sân
là trạng thái đẩy người khác vào chân tường, biểu hiện thái độ muốn tiêu diệt
đối tượng hoặc là cách thức biểu đạt sự trấn áp, làm cho đối tượng bị thù ghét
không vui và bị nỗi khổ về vật lý, tâm lý chi phối. Từ tượng hình “sân” trong
chữ Hán là một triết lý.
Muốn trở thành người an vui hạnh
phúc thì sự biểu đạt trong mối quan hệ với mọi người phải là biểu đạt của sự an
lạc, có dáng dấp của hiểu biết, rộng lượng, hỷ xả và cảm thông. Các đức tính
này là nhịp cầu, chiếc phao, sợi dây nối kết tình thân đã bị sứt mẻ. Nhờ đó,
mọi người đều có cơ hội nhìn mặt, ngồi lại, nói với nhau những lời từ ái, ăn
uống chung một bữa tiệc, sinh hoạt trong một cộng đồng hay hít thở chung bầu
không khí trong lành. Đừng để quan hệ trở thành đối đầu, va chạm, người này
muốn nuốt chửng người kia, hầu thỏa mãn cơn tức giận của bản thân. Trong tiếng
Pali, “sân” có nghĩa là thái độ biểu đạt cảm xúc muốn thiêu hủy đối tượng, đốt
cháy đối tượng, bằm đối tượng ra thành các mảnh vụn.
Khi bị cơn giận thiêu đốt, người
ta có khuynh hướng trút sự nóng giận hay cơn thiêu đốt đó vào đối tượng khác,
nhưng
không ngờ sự trút đổ vô lối đó
càng làm cơn giận gia tăng. Nhiều người sai lầm khi cho sự sân hận là động cơ
của hành động. Từ quan niệm sai lầm này, có người muốn chứng tỏ ta đây có sức
lực, trí khôn, là người thành công chứ không phải người ăn bám nên đã trút đổ
vô tội vạ sự bất mãn và sân hận. Dĩ nhiên, có thể mang lại nỗi đau cho người
khác. Sự thỏa mãn tự hào và ngạo nghễ trong thành công sẽ tạo thành nội kết lớn
hơn, nguy hiểm hơn. Người bị ngạo nghễ thách đố nếu kháng cự thì nội kết giữa
hai người sẽ bốc cháy và trở nên nguy hại.
Là người con Phật, phải thấy rõ
được bản chất sân hận và nội kết. Nội kết có thể được biểu đạt qua hai tư thế
là cụ thể, trực tiếp và thầm lặng. Trong trường hợp biểu đạt thầm lặng, có thể
nói đó là sự giận dữ thầm kín, đang được che đậy, đang núp bên trong tâm của
người thâm hiểm mà bề ngoài của họ là miệng cười, mắt vui, lời nói ngọt như
mật. Hệ quả là ánh mắt thân thiện giả tạo, lời nói “mật ngọt chết ruồi”, nụ
cười thâm hiểm đó như lưỡi dao, viên đạn hay loại vũ khí độc hại làm đối thủ
chết tức tưởi, chết mà không hề biết kẻ thù của mình. Đây là kiểu giết “Tiếu lý
tàng đao”.
Nhìn thấy được tác hại của sân
hận sẽ làm cho người tàng trữ nó trở thành nạn nhân đầu tiên. Người có thói sân
hận nên phóng thích nó càng sớm càng tốt. Buông hận thù đối với người khác là
tự cứu bản thân. Đừng nên biến mình thành nạn nhân và kẻ thù của chính lòng sân
hận!
Sân hận có thể được thể hiện
bằng những hành vi cụ thể như cái tát tay, bứt tóc, đánh đập, tra tấn, đấm đá,
xô đẩy hay tất cả những lời nói tục tĩu, cộc cằn; thiếu xây dựng, đoàn kết, từ
ái. Hay những lời chỉ trích, phỉ báng cốt làm cho đối phương bị đau đớn, bực
dọc những lời thị phi vu khống, xuyên tạc hoặc thái độ phản kháng, nổi loạn,
những hành động khởi nghĩa, những cách thức kháng cự. Có thể dễ dàng kiểm soát,
kiềm chế khi nhìn
thấy được mặt mũi, hơi thở của
sân hận, đặc biệt là khi nhìn thấy được sự vận hành của nó trong hành động đối
với người khác. Chỉ cần có thái độ nhìn đúng đắn về tác hại của sân đối với đời
sống thì có thể “dừng lại” hành động sân. Dưới sự hỗ trợ của chánh kiến, khi
quan sát, lúc hít thở, có thể nhận dạng được mặt mũi của sân và bỏ thành công.
Trường hợp giận dữ tiềm ẩn rất
vi tế. Có thể biểu đạt bằng hình thức không cộng tác, tham gia, phát biểu hay ù
lì, không chống nhưng tuyệt đối không thân, không hề tham gia nhận xét đánh
giá. Trong trường hợp này, thái độ bề ngoài của đương sự giữ trung lập, trên
thực tế thì có lập trường khác biệt hẳn hoi. Tâm lý học Phật giáo cho rằng, đó
là hành vi sân hận tiềm ẩn, có khả năng tạo nội kết lớn như quả bong bóng được
bơm phồng ngày càng to. Nếu dung tích chứa đựng là 90cc mà bị nạp một lượng khí
với dung tích 120cc thì quả bong bóng này sẽ nổ. Bong bóng sân hận cũng vậy,
khi bơm quá sức chịu đựng, nó sẽ nổ tung làm cho bản thân đương sự bị rát mặt,
đau nhức hay khổ não. Cảm xúc sân hận sẽ làm cho tim, gan, phèo, phổi của đương
sự trương phình lên rồi nổ tung ra thành từng mảnh vụn và biến thành nạn nhân
của khổ đau!
SI
MÊ VÀ SÂN HẬN
Gốc rễ khác của sân hận bắt
nguồn từ thái độ si mê. Si mê được định nghĩa như một nhận thức không sáng
suốt, xa rời bản chất nhân quả, duyên khởi, vô thường, vô ngã. Tất cả các học
thuyết, chủ nghĩa và cách lý giải đặt trên nền tảng nhất nguyên, nhị nguyên đều
là những bước đi rất chập chững của hữu ngã nên thường ghi khắc vết hằn của bản
ngã và khổ đau. Lịch sử nhân loại, về phương diện tư tưởng được đi bằng chủ
nghĩa nhất nguyên tôn giáo, nhất nguyên học thuyết hay đa nguyên tôn giáo, đa nguyên
học thuyết. Việc chạy theo nhất nguyên và đa nguyên làm con người không
chấp nhận nhau, đối kháng nhau.
Khổ đau theo đó xuất hiện từ quá khứ tiếp diễn ở hiện tại và tương lai.
Phải nhận định, đánh giá hiện
tượng trên nền tảng duyên khởi. Duyên khởi là quy luật vận hành của vũ trụ, phủ
định các học thuyết về nguyên nhân đầu tiên dù được gọi bằng danh Thượng đế,
duy vật, duy tâm, duy ý chí. Bất cứ cái “duy” nào cũng đều rơi vào trạng thái
nhất nguyên xa rời bản chất duyên khởi của nhà Phật. Với cái nhìn duyên khởi,
chủ thể nhận thức mới hiểu được sự tương quan chằng chịt của mọi sự vật, hiện
tượng dẫn đến thái độ và phản ứng hành động của con người hay tạo ra hạnh phúc
và khổ đau của đối trọng này, đối trọng kia.
Mọi vật trong đời đều bắt đầu từ
sự vận hành duyên khởi, tương tác lệ thuộc với nhau theo cách thức hai, ba hay
nhiều chiều. Nhìn như vậy giúp đương sự lý giải các vấn đề tường tận hơn, không
bao giờ quy trách nhiệm cho một người nào, không đặt vấn đề vị kỷ lên trên,
không quy kết đổ lỗi cho người khác, không xem mình là trục xoay của chân lý,
còn người khác thì phi chân lý.
Câu chuyện lịch sử về sự tranh
chấp giữa Đổng Trác và Lữ Bố có thể được xem là minh họa điển hình cho lòng si
mê trở thành đầu mối đấu tranh, bạo loạn và chém giết. Đổng Trác là cha nuôi
của Lữ Bố. Đổng Trác vốn háo sắc, muốn chiếm hữu người tình của Lữ Bố là Điêu
Thuyền. Mối tình tay ba này khiến Lữ Bố trở thành người bất hiếu, giết chết cha
nuôi.
Khi bị sự si mê chi phối, con
người có khuynh hướng thích đoạt sở hữu của người vào tay mình. Ai đụng vào
quyền lợi, sở hữu, hạnh phúc của họ thì người si mê sẵn sàng kháng cự, chiến
đấu tới cùng. Nhiều tình huống khổ đau bắt nguồn từ trạng thái si mê, giành
giựt, chiếm đoạt, giành quyền sở hữu, tự hào thỏa mãn trên sự chiến thắng. Các
cuộc chiến thôn tính của các nước đế quốc xâm lăng
trong quá khứ chủ yếu là để có
thêm nhiều thuộc địa, giá trị kinh tế mà không cần trực tiếp đầu tư sức lao
động. Si mê đã trở thành nguyên nhân của tất cả những sự bạo động, tranh chấp,
chém giết lẫn nhau.
Để hóa giải thù hận từ gốc rễ
của si mê, hành giả phải nuôi dưỡng những hạt giống trí tuệ. Những ai nặng lòng
tham đắm tình mà sát hại nhau thì nên quan niệm rằng, hạnh phúc không chỉ có ở
tình yêu từ một mỹ nhân hay người nam có quyền lực, giàu sang, học vị… mà nằm ở
chỗ hai người yêu nhau luôn sống bằng tinh thần tương kính, tương nhượng, hiểu
biết, chia sẻ và cảm thông.
Cái đẹp của tâm giữa hai người
chính là chất liệu nuôi lớn tình yêu. Ngoài ra, còn có cái đẹp của đời sống đạo
đức, tư cách, trí thức góp phần làm cho tuổi thọ tình yêu và hôn nhân được lâu
dài, an toàn. Cho nên, cần gì chiếm đoạt tình yêu từ sắc đẹp và quyền thế của
người khác mới có hạnh phúc. Hãy tìm tình yêu và hạnh phúc bằng cách an toàn
hơn là hạnh phúc của lòng chung thủy và không có sự tranh giành.
Nếu Đổng Trác là người hiểu biết
về đạo lý nhân quả thì ông đã không biến mình thành tình địch của con nuôi. Nếu
Lữ Bố hiểu được đạo lý đã không hạ đao giết chết cha nuôi. Quan niệm nhất
nguyên “chỉ có cái này” thì mới được hạnh phúc, không có nó thì mọi giá trị
hạnh phúc đều mất hết, sẽ tạo ra nhiều rắc rối và tranh giành vì ai cũng muốn
mình được quyền ưu tiên.
Đừng thần tượng hoá bất cứ ai
hay cái gì, đừng mơ tưởng cái thuộc về lý tưởng nói nên chủ trương chủ nghĩa
tuyệt đối, vì cái tuyệt đối nhất trong cuộc đời chính là sự tương đối. Nếu
không thể có một đối tượng để tạo an vui, hạnh phúc lâu dài như mong đợi thì
với cái thứ yếu vẫn có thể có được hạnh phúc. Quan niệm về cái thứ yếu là nền
tảng thay thế cho cái
tuyệt đối, giúp có được hạnh
phúc.
Quan niệm chỉ có cái ưu tiên,
những thứ đặc quyền, đặc lợi mới có hạnh phúc sẽ làm trở ngại cho con đường
hạnh phúc. Thái độ chấp nhận người khác sẽ giúp mình trở thành người độ lượng.
Nếu có cuộc tranh chấp loại trừ, người độ lượng sẵn sàng nhường cho bất kì
người nào hữu duyên. Cuộc đời đâu phải chỉ khi có “người đó” hay “cái đó” mới
được hạnh phúc, khi không có “người đó” hay “cái đó” thì bầu trời ảm đạm, khổ
đau! Cho nên, tương nhượng là một trong những giải pháp làm cho thù hận giữa
người và người có cơ hội được chuyển hoá.
LOẠI
TRỪ VÀ ĐỐI KHÁNG
Gốc rễ khác của sự hận thù là
thái độ loại trừ. Sự độc đoán dẫn đến loại trừ. Người có thái độ độc đoán sẽ tự
đặt mình trên bàn cân nặng hơn những người khác. Họ tự cho mình vai trò mặt
trời, còn người khác phải là mặt trăng, họ là ngày và người khác phải là đêm.
Thái độ độc tôn làm cho bản ngã trương sình nhanh chóng. Nếu tính độc tôn song
hành với sự thành công thì người độc tôn rất ngạo mạn. Y có khuynh hướng chinh
phục, bành trướng, phủ trùm, khống chế và những gì đi ngược lại đều tạo nên sự
đối kháng ở y. Y sẽ nỗ lực bằng mọi giá tiêu diệt một cách tàn nhẫn.
Thái độ loại trừ là làm cho chủ
thể nhận thức, nhìn cuộc đời bằng hai cặp kính sân hận và không tương nhượng.
Người độc tôn loại trừ tự xem mình là giá trị chân lý tuyệt đối và tất cả con
người, sự việc còn lại đều tùy thuộc vào trục xoay của chủ nghĩa cá nhân. Người
độc đoán sẽ xem hạnh phúc của mình là trên hết. Tất cả sự vận hành cuộc đời, vũ
trụ, con người, thậm chí người thân của y đều là thứ yếu. Y muốn hướng nào thì
mọi người phải theo hướng đó. Y muốn lên thì lên, xuống thì xuống. Do đó, bạo
động, nổi loạn, kháng cự
dễ phát sinh đối với người có
thái độ cực đoan như vừa nêu.
Thái độ ứng xử, loại trừ khiến
tâm lý và hành động của con người hướng tới chỗ không chấp nhận người khác,
nhất là những người có khả năng bằng hoặc hơn mình. Người độc đoán cũng không
muốn tạo điều kiện cho bất kỳ đối tượng nào có cơ hội thành công. Y giành hết
những điều kiện thuận lợi về phía mình. Y trở thành con người ích kỷ, tầm
thường.
Loại trừ là thái độ độc tôn.
Người độc tôn chỉ đồng minh với người và những gì thuộc sở thích, hợp gu và
mang lại hạnh phúc cho y. Những gì không hợp gu, không thích thì y tìm cách
triệt tiêu, nhằm tạo vùng ảnh hưởng phủ khắp. Độc tôn là đầu mối của chủ nghĩa
bành trướng và đặt quyền lợi thiểu số lên trên quyền lợi đa số.
Lịch sử nhân loại đã từng chứng
kiến nhân vật Hitler, con người của sự “độc tôn loại trừ”. Ông có mối thù
truyền kiếp với những người Do Thái thông minh. Ông đã ra lệnh mưu sát không
biết bao nhiêu ngàn người Do Thái ở nước Đức và khắp nơi trên thế giới. Ông hạ
lệnh giết hết tất cả những tướng lĩnh và đảng viên của các đảng đối lập. Lịch
sử Hitler là lịch sử khổ đau do chính ông gieo rắc cho nhân loại. Nỗi khổ đau thế
chiến thứ hai có gốc rễ từ lòng tham loại trừ. Liên minh Đức, Nhật, Ý chỉ có
giá trị tạm thời, trong chiến lược thế chân vạc. Khi liên minh chân vạc này
chiến thắng và biến các nước khác thành thuộc địa thì trước sau gì cũng đến
giai đoạn liên minh tay ba này loại trừ nhau, giành quyền thống trị thế giới vì
bản chất của những kẻ độc tôn không muốn có người thứ hai ngang mình.
Thái độ loại trừ làm cho kẻ độc
tài khó có thể chấp nhận người khác. Thái độ loại trừ có mặt ở chủ nghĩa tôn
giáo và ý thức hệ chính trị. Khi chấp nhận một chủ nghĩa nào đó, con người sẽ
có khuynh hướng không chấp nhận những học
thuyết đối lập. Chủ nghĩa mới
xuất hiện, người có tâm loại trừ sẽ công kích, chỉ trích để giành quần chúng về
phía mình. Y lật ngược mặt trái, mặt sau của chủ nghĩa đó để chứng minh chủ
nghĩa của y là số một. Hành động vạch lá tìm sâu thường được người, chủ nghĩa
loại trừ sử dụng và khai thác triệt để. Người ta có thể nhìn thấy một cục ghèn
trên mắt của người khác dễ dàng, nhưng đống rác to tướng trước nhà của mình lại
làm ngơ. Ứng xử “tự thị tha phi” khiến đương sự khó có cơ hội nhìn thấy những
sai trái của bản thân huống là cái tốt và hay của người khác.
Thái độ loại trừ cũng đặt con
người trong tư thế không chấp nhận người khác huống là đối thủ. Vì họ cho rằng,
kẻ thù đã mang lại những nỗi khổ đau khiến họ sụp đổ thành công, phải làm lại
cuộc đời bằng đôi bàn tay trắng. Lòng thù hận trong thăng trầm và đối diện
“xuống chó” từ địa vị “lên voi” làm cho đương sự ôm giữ mãi nỗi đau và thù hận
trong tâm không nguôi. Một điều kiện nhỏ cũng làm cho “giọt nước tràn ly”. Sự
thành công lúc “lên voi” trong quá khứ nhiều chừng nào thì sự thù hận gia tăng
chừng đó. Đối với sự mất mát ít hơn, sự thù hận có thể theo thời gian giảm đi.
Đương sự thù hận khó có thể sống với thái độ rộng lượng, tha thứ và bỏ qua
những đau khổ do người khác gây ra. Họ khó có thể ngồi với người mà họ coi là
kẻ thù để tìm giải pháp cho những bế tắc, lận đận, khổ đau giữa nhau.
Đức Phật chưa bao giờ kết tội
những người cản phá con đường thánh thiện, ngay cả những người là “bom” của con
đường Bồ tát. Ngược lại, bằng tình thương và tuệ giác, đức Phật thọ ký cho họ
sẽ thành Phật trong tương lai. Việc làm của đức Phật nhằm hướng đến một thế
giới không còn kẻ xấu, ác. Trong mỗi con người đều có chất liệu giác ngộ (Phật
tính). Khi biết khai thác và phát triển tiềm năng giác ngộ này thì mọi khổ ách,
sai lầm trong quá khứ không còn nữa. Con
đường của sự làm mới đạo đức sẽ
bày trước mắt.
Cách tân đời sống đạo đức thường
được khởi đầu bằng lương tâm hối hận về những điều xấu đã gây. Muốn làm mới
nhân cách từ quá khứ đen tối, điều trước tiên là phải dẹp bỏ lòng tự ái. Khi
lòng tự ái được chuyển hoá thì ý nghĩ, hành động và lời nói sẽ có sự thay đổi
tích cực. Trong trường hợp này, nếu mở lòng đón nhận người lỗi lầm, xem họ như
bạn thì khổ đau giữa hai bên biến mất. Nhờ sự hiểu biết và cảm thông, con người
dễ tha thứ lỗi lầm của người khác. Người hiểu biết còn phát triển tâm tuỳ hỷ
với các đồng sự. Khi đang trực thuộc một giáo phái, ngôi chùa hay quy y một vị
thầy, người ta có thể lập bè, nhóm đối kháng với những người tu tập khác phái,
khác nhóm. Thói quen này dần dần tích thành tâm lý và cách ứng xử loại trừ.
Để chuyển hoá tâm lý ích kỷ và
loại trừ, nên quan niệm sự đa dạng là cần thiết, thái độ khác biệt tạo nên sự
phong phú. Đức Phật đã nói đến 84.000 pháp môn, con số tượng trưng cho sự đa
dạng. Người tiếp cận chân lý có thể đi trên nhiều con đường với các phương tiện
khác nhau mà vẫn có thể về cùng đích.
Ý niệm về sự đa dạng pháp môn
dạy, đừng bao giờ áp đặt người khác phải theo quan điểm của mình. Đừng nghĩ
phương pháp của ta là số một, pháp môn của người khác là số hai, ba, bốn... Các
quan niệm ta là nhất, người khác là phụ thuộc, chính là tâm lý loại trừ trực
hoặc gián tiếp. Người mang thái độ loại trừ dễ dàng tặng người khác những “cái
mũ” của học thuyết, chủ nghĩa. Người bị chụp lên cái mũ dễ bực tức, nổi cáu,
sân hận.
Nên chấp nhận rằng, chân lý có
thể tiếp cận bằng nhiều con đường khác nhau. Tương tự, hạnh phúc có thể đạt
được bằng nhiều cách, thế khác nhau. Giá trị của cá nhân phần lớn
là do sự khác biệt với người
khác. Phải là cái đặc thù thì mỗi sự đóng góp sẽ trở thành đặc biệt. Đặc thù
nhưng không đối kháng. Đặc thù để bổ sung, hỗ trợ nhau.
Với quan niệm đa dạng về tu tập,
tôn giáo, pháp môn, người ta trở nên bao dung, rộng lượng hơn, sẵn lòng tha thứ
người khác, không bao giờ buộc người khác vào thế chấp nhận mình mà không chấp
nhận chính họ. Người tu có tông chỉ duy nhất để lựa chọn thì tông chỉ đó là đạo
Phật. Nếu người tu chỉ có một học thuyết để theo thì học thuyết đó chính là
pháp Phật. Có một cái gì đó để quyết định thì quyết định đó chính là con đường
đạo đức và tuệ giác mà đức Phật đã dấn thân, ban tặng. Ở đây, hoàn toàn không
hề có những chiếc nón, mũ vốn làm con người bị phân hoá. Các nhà sư luôn để đầu
trọc, nửa tháng cạo đầu một lần. Tóc là cái được người đời quý trọng mà người
tu còn không muốn giữ huống hồ giữ những cái nón, mũ bị người khác chụp lên.
Nhiều người bị nhiễm lăng kính
chính trị, nên đã chính trị hoá các nhà sư. Nhiệt tình thiếu tuệ giác trong
việc chống các vị cao Tăng không thuộc giáo pháp hay pháp môn của mình thì chỉ
chứng tỏ kiến thức, sự hành trì Phật học còn non kém. Người chụp mũ và phỉ báng
các bậc cao Tăng, các thiền sư khác với pháp môn sẽ gây ra khẩu nghiệp nặng.
Theo tinh thần Phật dạy, nên bỏ
thái độ loại trừ và độc tôn để có thể nhìn thấy được sự đóng góp và giá trị của
người khác. Người khác có thể theo học thuyết mà ta không thích nhưng nếu hành
động và sự dấn thân của họ mang lại giá trị lợi lạc thì nên tán thán và học
tập.
Câu chuyện “Thiện Tài Đồng Tử
tầm sư học đạo” là điển hình về tinh thần đa pháp môn trong dung thông vô ngại.
Thiện Tài đi tham vấn học hơn 50 vị thầy, xuất thân từ nhiều trường phái và
pháp môn khác nhau. Đôi lúc, tông chỉ của họ đối lập nhau nhưng Thiện Tài vẫn
xem họ là thầy trong lĩnh
vực ông thiếu chuyên môn. Nhờ
tinh thần cầu tiến và dung thông, Thiện Tài đã rút ra được những tinh hoa nhất
của các pháp môn để hành trì. Đây là một bài học hay, giúp nhìn nhận cuộc đời
bằng chính cái nó vốn có.
Pháp môn phản ánh con đường hành
trì khác nhau. Đừng buộc tất cả hành giả phải theo hoặc là Tịnh Độ tông với
tinh hoa của sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật hoặc Thiền tông với tinh hoa của công
án thoại đầu hay quán niệm, hoặc Mật tông với ba nghiệp mật … Biến ống nhòm của
mỗi pháp môn thành bầu trời chân lý là sai lầm về nhận thức luận và phương pháp
tu tập. Phật nói pháp 49 năm với hàng ngàn bài kinh, trăm ngàn trang sách. Đôi
lúc, do cuồng tín với một tông phái nào đó, người ta đánh mất cái nhìn toàn
diện, khởi lên thái độ loại trừ, mất nhiều cơ hội tiếp xúc với nguồn chân lý vi
diệu vốn đa dạng, mang chức năng trị liệu của đức Phật.
Lời Phật dạy được ví như biển
pháp, mưa pháp, bầu sữa pháp mang lại nguồn an vui và hạnh phúc cho người hữu
duyên! Tu tập theo đạo Phật phải có cái nhìn rộng mở, không câu chấp, để sẵn
sàng đón nhận và nhìn người khác như đối tượng hỗ trợ cho những cái đang còn
thiếu hay những gì cần có ở hiện tại hoặc tương lai.
VA
CHẠM VĂN HÓA
Gốc rễ khác của sân hận gắn liền
với sự va chạm truyền thống văn hóa, phong tục tập quán hay lịch sử của các dân
tộc. Khi các truyền thống văn hoá bị va chạm và xung đột thì xung lực của sự
thù hận sẽ được gieo rắc ở bình diện lớn và nghiêm trọng hơn. Nếu có dịp tiếp
xúc với nền văn hóa khác, hãy tự xem mình như một phần tử vốn được sinh ra từ
nền văn hóa đó. Nhờ quan niệm dung thông này, mâu thuẫn văn hoá không xuất hiện
trong tâm. Mọi xung đột, loại trừ từ mâu thuẫn văn hoá được tránh khỏi. Ứng xử
như vậy
chẳng những không tự đánh mất
mình khỏi nền văn hoá gốc mà còn giúp có cơ hội tắm mát trong nền văn hoá khác.
Nhờ vậy, có được chất liệu của sự an vui, hạnh phúc, hòa hợp, tương thân và
đồng hành trong các bản sắc văn hóa, phong tục tập quán ở những nơi khác bản
địa một trời một vực.
Thập niên 90 của thế kỷ XX,
nhiều tu sĩ Việt Nam
có cơ hội sang Ấn Độ tu học. Ấn Độ là đất nước có nhiều nền văn hóa khác nhau,
cũng là cái nôi đã sinh ra nhiều tôn giáo trên thế giới. Ai sang Ấn Độ cũng có
dịp đối diện với nhiều nền văn hóa khác nhau. Nếu lấy mình làm trục xoay để
nhận định, đánh giá các sự kiện văn hoá thì có thể rơi vào trạng thái bị sốc.
Có lẽ những người viết sách, hướng dẫn du lịch thế giới đã đúng khi họ đặt nhan
đề cho tủ sách loại này bằng cụm từ “Culture shocked,” nghĩa là “Cú sốc văn
hoá”. Thật vậy, tiếp xúc với nền văn hoá khác mà không có sự nghiên cứu và
chuẩn bị trước, người du lịch dễ bị sốc. Các cú sốc về văn hoá có thể dẫn đến
sân hận, thị phi, thậm chí tranh giành và huỷ diệt như đã thấy trong lịch sử
của nhân loại nhiều ngàn năm qua.
Ấn Độ có “Lễ hội văn hóa” mang
tên “Lễ Thánh Thiêng” (Holy festival). Trong lễ hội, tất cả những người theo Ấn
Độ giáo phải chuẩn bị đón nhận niềm vui khi được người khác tạt nước màu hay
bôi trét bột màu lên thân thể. Trong ngày này, người Ấn Độ thường mặc bộ đồ cũ,
để khi ra đường được ai tạt nước hay bôi bột màu lên thì khỏi hư áo sạch. Nếu
màu sắc tạp dính vào áo hay vào người được các nền văn hoá khác gọi là dơ xấu
thì người Ấn Độ lại cho là thiêng liêng.
Không hiểu được nét văn hoá đặc
thù này của người Ấn Độ giáo thì dễ nổi cáu vì nghĩ bị người khác làm dơ và trở
nên xấu hổ trước quần chúng. Nhiều người ngoại quốc không có thiện cảm với lễ
hội này nên đã dùng nghệ thuật chơi chữ, đổi từ “holy” (thiêng liêng) thành
“dirty” (dơ dáy) để gọi lễ
này là “dirty festival,” (một lễ
hội dơ). Sự kháng cự về dị biệt văn hóa đã tạo thành xung lực đối đầu giữa các
cá nhân khác nhau trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Quan niệm độc nhất sẽ tạo ra sự
đối kháng và loại trừ. Phải thấy sự khác biệt tạo ra tính đa dạng và phong phú.
Cũng như hoa có nhiều loại, mỗi loại một sắc thái. Có hoa màu vàng, đỏ, trắng
hoặc vừa vàng vừa đỏ xen kẽ nhau. Nhiều loại hoa khác nhau tạo thành vẻ đẹp cho
vườn hoa. Nếu tất cả hoa trong vườn cùng màu trắng hoặc vàng đỏ, xanh thì không
tạo thành vẻ đẹp bổ sung. Màu trắng hỗ trợ và làm nổi bật màu đỏ. Màu đỏ làm
nổi bật màu vàng. Cứ thế, sự khác nhau lại mang tính bổ sung cho nhau. Hình thù
cũng vậy, phải có cao thấp, mập ốm, héo tươi, chính phụ, ánh sáng nhiều và ít.
Sự tương phản tự nhiên sẽ tạo ra hệ giá trị đa chiều. Cũng vậy, sự đa dạng về
bản sắc văn hóa của loài người là cách hỗ trợ và bổ sung cho nhau. UNESCO đã
kêu gọi các quốc gia trên thế giới phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đừng
để bản sắc văn hóa đó bị diệt chủng, biến dạng hay bị huỷ diệt trong chiến
tranh do xung đột văn hóa gây ra.
Khi hai nước có quan hệ tốt thì
sự giao lưu về kinh tế, văn hoá; nghệ thuật, văn học mang tính đối lưu. Nền văn
hóa nước lớn sẽ ảnh hưởng đến nền văn hóa nước nhỏ. Như trường hợp Trung Hoa
ảnh hưởng đến Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Mông Cổ, Tây Tạng hay Ấn Độ đã
ảnh hưởng đến Tích Lan, Miến Điện, Bhutan, Xích Kim, Pakistan, Ban- gladesk,
thậm chí Thái Lan, Lào, Campuchia.
Sự tương tác văn hoá thường diễn
ra theo công thức cái nổi và chìm, tác động và bị động, ảnh hưởng và bị ảnh
hưởng. Nếu không quan niệm nền văn hóa khác như một sự hỗ trợ, bổ sung cho nền
văn hóa của mình, thái độ kháng cự là đầu mối của mọi cú sốc văn hoá.
Văn hóa Trung Hoa là nền văn hóa
rất đẹp nhưng một số vua Trung Hoa đã làm những chuyện không đẹp về văn hóa.
Chẳng hạn như Tần Thủy Hoàng ra lệnh đốt sách, chôn học trò để phủ định và hủy
diệt tất cả những giá trị văn hóa của những triều đại trước. Tình trạng vị vua
sau xóa sổ những đóng góp của các vị vua trước là hành động muốn độc tôn văn
hoá.
Cần tiếp nhận nền văn hóa khác
một cách hoan hỷ để biết thêm tinh hoa hay các dữ liệu văn hoá như giá trị mới.
Ngạn ngữ phương Tây rất đúng khi cho rằng, “Một người biết được hai ngôn ngữ có
giá trị bằng hai người”. Tương tự, có thể nói, “người hiểu nhiều nền văn hóa
như người có nhiều quốc tịch, dù y chỉ có một passport!” Người lịch lãm có thể
sống hòa bình, hoà hợp và hạnh phúc với người thuộc các nền văn hoá khác. Nhờ
vậy, lòng sân hận về sự khác biệt không có cơ hội xuất hiện.
Ứng đối trước những khác biệt về
văn hóa, muốn không bị sân hận chi phối đòi hỏi đến tầm nhìn hiểu biết, rộng
lượng và bao dung. Chỉ với thái độ rộng mở, mọi khác biệt không tạo ra loại
trừ. Ngược lại, tôn vinh cho nhau!
Lúc nào chưa buông bỏ được sân
hận thì con người vẫn còn bị gọi là bệnh nhân, phiền não, nghiệp lực, đối kháng
và hủy diệt lẫn nhau. Do đó, khổ đau tiếp tục xuất hiện với người sân hận dưới
nhiều hình thức khác nhau. Nếu tất cả sống bằng lòng sân hận thì cuộc đời trở
thành bệnh viện rất lớn nhưng không đủ chỗ để chứa và không đủ thuốc để chữa
lành cho các bệnh nhân. Nếu không buông bỏ sự hận thù thì dù có ra đời hằng
trăm tôn giáo cũng không có giá trị.
Đức Phật luôn dạy tìm sự hóa
giải, tháo gỡ nội kết, mở tung cái gút giữa các mối quan hệ bế tắc. Trên tinh
thần Bồ tát đạo, nhận lỗi về mình để buông khổ đau do người cố ý tạo ra.
Trong chiến tranh, các chiến sĩ
được đào tạo để giết kẻ địch trên tinh thần của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa
dân tộc... Trong chiến tranh, dù chính nghĩa cũng không có sự toàn thiện vì
chiến sĩ của hai bên phải đối xử tàn nhẫn với nhau. Chẳng hạn như lính Mỹ đã
tra tấn dã man các tù nhân của Iraq,
thậm chí lột quần áo để nhục mạ họ. Nếu lính Mỹ bị Iraq bắt làm tù nhân thì Irac cũng
khó tránh khỏi các hình thức tra khảo tàn nhẫn khác.
Để xoá bỏ hận thù, đức Phật dạy,
tất cả mọi người nên quán rằng, ai là người nam đều đã từng là ông, cha, bác,
chú, anh trai, em trai, con trai, cháu chắt trai mình và tất cả những người nữ
đều đã từng là mẹ, vợ, cô, dì, thím, mợ, chị gái, em gái, cháu gái của mình.
Quán và sống được như thế thì đâu nỡ lòng nào hành hạ, tàn sát những người thân
như vậy dù nhân danh bất cứ chủ nghĩa hay ý thức hệ nào.
Muốn hóa giải khổ đau, trước
tiên phải có trái tim Bồ tát, thương xót kẻ đã đem lại bất hạnh hay khổ đau cho
mình. Tìm cách tạo cơ hội cho họ vươn cao. Tặng họ chiếc thuyền Bát nhã để họ
đến bờ hạnh phúc, chiếc phao tha thứ để họ lội qua biển khổ đau, hận thù. Tặng
họ cánh buồm từ bi giúp họ đến chốn an lành. Đừng dồn người khác vào thế bí,
không còn lối thoát. Đó là thái độ khôn ngoan của nhà Phật để hóa giải hận thù
và khiến nó không còn chỗ bám rễ huống là tái tạo khổ đau cho đời.
Mở rộng tấm lòng bi để yêu
thương kẻ đã thù hận mình, bởi họ là một nghiệp nhân! Dang rộng đôi tay từ để
cứu độ kẻ hận thù mình, bởi họ là anh em ruột thịt! Vứt bỏ sân hận giống như
cắt bỏ mụt ghẻ đau nhức, bởi sân hận là rắn độc có thể cắn chết người!
Cuối cùng, luôn nhìn cuộc đời
bằng tâm trạng hoan hỷ! Vì xét cho cùng, mọi sự vật hiện tượng xảy ra trong đời
chỉ là
chuyển biến của nhân quả. Khi
dùng tâm hoan hỷ nhìn đời thì sân hận đâu có chỗ xuất hiện. Thiền sư Nhất Hạnh
đã từng viết:
“Lướt trên sóng sinh tử Thuyền từ dạo bến mê Nụ cười
vô uý nở
Phiền
não tức Bồ-đề”.
Và chân thành gởi đến quý vị lời
khuyên:
Hơi đâu
ôm ấp hận thù
Cho
vương sầu khổ, âm u cuộc đời!
SÂN
HẬN VÍ NHƯ CÁI CƯA
Đức Phật dùng hình ảnh cái cưa
để mô tả trạng thái tiêu cực của lòng sân. Cái cưa tạo ra các vết loang lổ và
cắt đứt vật nào đó. Khi hai tay cầm hai đầu của cái cưa và thực hiện động tác
kéo qua kéo lại thì vật liệu bị cắt sẽ đứt làm đôi. Cũng vậy, nỗi sân hận, nỗi
niềm không hoan hỷ, trạng thái tâm bực dọc, khó chịu đều được ví như cái cưa.
Trước nhất, cưa dòng cảm xúc ra từng mảnh vụn, dòng cảm xúc trở thành mạt cưa
khổ đau. Dĩ nhiên, khi một vật liệu có giá trị bị cưa nát nhiều mảnh thì chắc
chắn giá trị của nó mất đi vĩnh viễn. Dầu con người có thể nối kết những vật
dụng bị cắt đứt qua lưỡi cưa sân hận, tình trạng nguyên thủy của an vui và hạnh
phúc cũng không thể được đảm bảo trọn vẹn. Cứ liên tưởng đến ảnh dụ cái cưa
được sánh ví như trạng thái sân hận để đừng cưa chính mình và người khác trong
mối quan hệ tình người.
Dù ảnh dụ này nêu ra ở cuối
nhưng được đức Phật khẳng định là trọng tâm của bài kinh. Ngài muốn ám chỉ sân
hận xuất hiện trong mối quan hệ đối tác giống như cái cưa có thể cưa đứt tình
người ra nhiều khúc. Cho nên, chỉ khi nào nhận thức được điều đó mới có ý thức
khắc phục, chuyển hóa cảm xúc, làm tất cả cảm giác khó chịu lắng dịu có nghệ
thuật.
Đức Phật chia bản kinh này ra
làm nhiều ý tưởng chính. Trước nhất, Ngài xác định phạm vi và giới hạn của sự
giao tế. Khi xác định được phạm vi và giới hạn trong giao tế thì không được
phép vượt qua dù có lí do biện hộ rất chính đáng. Chẳng hạn, trong tình huống
bảo hộ, bênh vực cho những người bị nói xấu, thị phi, chỉ trích… nói chung là
bị hại thì hành giả phải biết dừng ở mức độ nào đó chứ không nên xen ý kiến quá
sâu vào vấn đề. Vì sẽ làm vấn đề trở nên phức tạp hơn, giống tình huống đổ dầu
vào lửa trong khi không có nhu cầu cần dầu.
Có một số vị Tỳ kheo quan sát
một sự kiện khá lâu và cảm thấy khó chịu nên đến thưa đức Phật rằng, có thầy
tên là Moliyaphagguna rất dễ nổi lên trạng thái phẫn nộ, đôi lúc bất mãn, vấn
thoại bất cứ người nào nói xấu những sư cô có quan hệ rất thân mật với thầy.
Tương tự, bất cứ ai nói xấu thầy này thì các sư cô đó cũng biện hộ và bênh vực,
dẫn đến thái độ bất mãn, sân hận, cau có. Dĩ nhiên là vấn thoại rằng, tại sao
lại có những mục đích gây vấn nạn khó dễ lẫn nhau?
Thông thường, tình huống các vị
đồng tu bảo hộ, che chở, chăm sóc lẫn nhau có thể chấp nhận được. Nhưng vấn đề
đức Phật đặt ra là, nếu đi quá giới hạn cho phép thì sự bảo hộ có thể trở thành
phiền não cho mình và cả người được bảo hộ. Vấn đề đức Phật chỉ ra là, nỗi khổ
niềm đau, thị phi trong quan hệ giao tế là một thực tại. Người sống trong cuộc
đời dù tốt cũng vẫn có kẻ nói xấu, không đồng tình, không ưng thuận. Hoặc ưng
thuận trước mặt, chống nghịch sau lưng, nói một đường, tâm tư một nẻo. Đó là
thực tại hiển nhiên, nơi nào cũng có.
Thấy người đồng tu, người thân,
bạn bè bị nói xấu thì làm sao không cảm thấy khó chịu. Kinh dùng khái niệm nói
xấu, trong trường hợp này phải xác định người bị nói xấu là bị oan uổng, hàm
oan rất lớn, bị vu khống hoặc bị nói cường điệu làm cho vấn đề trở nên phức tạp
hơn, hay khi nỗ lực làm việc
tốt nhưng lại bị nhận định, đánh
giá rất xấu, tiêu cực.
Trước trạng thái bị nói xấu, ai
cũng cảm thấy khó chịu. Người bị nói xấu có thể nhẫn nại, chịu đựng được nhưng
bạn của họ lại khó chịu. Người bảo hộ thường có lời ra tiếng vào với thái độ và
tâm tưởng bảo hộ nạn nhân. Nhưng nói và bảo hộ thiếu phương pháp là làm cho lửa
hận thù của nạn nhân được nhóm lên nhiều hơn và bốc cháy trong mối quan hệ.
Khi bảo hộ cho người bị hàm oan
thì tính liên minh được thiết lập. Đây là phản ứng tâm lý tất yếu. Người được
giúp cảm thấy tâm đắc với người đã giúp đỡ dù bản thân không nhờ đến. Phản ứng
liên minh đáp lại là sẽ xuất hiện phản ứng, ai đụng đến người đã từng bảo hộ
mình thì cũng có khuynh hướng bênh vực. Cuối cùng, tạo ta những liên minh mang
tính đối kháng. Thiết lập liên minh để tạo ra phản ứng đối lập không phải là
một giải pháp tốt.
Đức Phật biết trong trường hợp
này các sư cô bị nói xấu, hàm oan và thầy Moliyaphaguna là anh hùng đóng vai
trò người trung gian tháo gỡ cái gút hàm oan, nhưng thiếu phương pháp nên làm
cho vấn đề trở nên rối rắm, nỗi hàm oan lại gia tăng. Trong tình huống đó,
người đóng vai trò tháo gỡ thay vì đứng trung lập, làm trọng tài để điều phối
và hóa giải lại trở thành liên minh của nạn nhân. Từ thiện chí dấn thân vào sự
kiện phức tạp đã làm nó trương sình hơn. Vì người tháo gỡ đứng về một phía nên
lời nói dù đúng đắn cũng khó được người khác lắng nghe và chấp nhận.
Để tháo gỡ thái độ liên minh sân
hận, đức Phật đã cho mời Moliyaphaguna đến hỏi đầu đuôi câu chuyện. Moli-
yaphaguna thừa nhận đó là sự thật. Khi ấy, đức Phật nói rất tế nhị đại ý rằng,
thật không xứng đáng và không có giá trị lớn cho người xuất gia đã từ bỏ thân
bằng quyến thuộc, gia đình, địa vị xã hội, đời sống hưởng thụ để sống cuộc đời
thong dong, giải thoát, không
vướng bận mà lại liên hệ quá thân mật, không cần thiết đối với những người đồng
tu. Dù sự liên hệ có giá trị về xã hội nhưng nhiệt tình quá mức làm cho mối hàm
oan, căng thẳng trở nên gia tăng.
Đức Phật muốn nói, vai trò người
tháo gỡ phải hết sức tế nhị. Đừng vì nhiệt tình quá mà làm cho vấn đề trở nên
phức tạp. Người tháo gỡ hàm oan phải ở tư thế trung lập mới có cơ hội tiếp xúc
khách quan để tìm ra giải pháp không tổn hại cả hai phía. Dĩ nhiên, trong giao
lưu đối tác, nếu xảy ra mâu thuẫn thì bên nào cũng nghĩ mình có lí do chính
đáng, mình đúng và được quyền ứng xử như vậy. Cho nên, người đứng ra hoá giải
mà nghiêng về một phía thì không phải là giải pháp giải quyết vấn đề. Mặt khác,
cũng không nên cứ mặc kệ vấn đề diễn biến. Không bận tâm sẽ dẫn đến thái độ thờ
ơ, yếm thế. Phải thừa nhận vấn đề vấp phải như một thực tại đang diễn ra và đặt
tiêu chí giá trị tháo gỡ lên hàng đầu để xác quyết được rằng, trong tình huống
nào nên dấn thân và ở mức độ nào để sự rạn nứt không trở nên phức tạp. Nhờ đó,
giá trị thiện chí của người trung gian được đánh giá đúng mức.
Lời dạy của đức Phật có hàm ý
sâu hơn là, trong sự bảo hộ lẫn nhau đối với người đồng tu khác giới tính, dù
nội dung xuất phát từ động cơ chính đáng vẫn có thể tạo ra những sợi dây liên
hệ về tình cảm làm cho vấn đề có thể phát triển theo hướng lệch lạc về sau. Đức
Phật thừa nhận, dù là người xuất gia có tâm huyết, lý tưởng bảo hộ, bênh vực sự
hàm oan nhưng vẫn có thể tạo ra rắm rối nếu không biết dừng lại đúng lúc.
Ảnh dụ của câu chuyện có thể ứng
dụng vào đời sống người tại gia. Chẳng hạn, người có gia thất nhưng vài năm
trước họ từng có những người bạn học khác phái rất thân mật. Hai bên có thiện
cảm với nhau, mỗi người đi một hướng theo sự lựa chọn của lý tưởng và hành quả
của nghiệp. Sau
này gặp lại nhau, người rất phát
đạt, thành công còn người kia gặp hoàn cảnh rất khó khăn. Đôi lúc, vẫn có tin
tức nói về những người bạn cũ gặp khó khăn, hoạn nạn thì sự trắc ẩn, thương
tưởng, nhiệt huyết và tình thân hữu ngày xưa bắt đầu khơi dậy. Vì vậy, những
người bạn thành công có thể hỗ trợ, giúp đỡ bạn đang gặp hoạn nạn và tin người
bạn đời của mình sẽ đồng thuận. Là người tốt, ai cũng đồng thuận trước những
tình cảm cao thượng đó của bạn đời. Nhưng nếu dấn thân giúp bạn cũ đang gặp khó
khăn quá mức, đầu tư quá nhiều cho chuyện ngoài lề thì tình cảm, thời gian,
công sức, năng lực dành cho gia đình hiện tại bị giảm đi. Tình cảm trong gia
đình có thể bị rạn nứt và khó đảm bảo được hạnh phúc. Do đó, vai trò trách
nhiệm người giúp đỡ xuất phát từ thiện chí thì phải đặt trong quỹ đạo nhất định
với những giới hạn giao tiếp cho phép.
Dấn thân trong trường hợp này
nếu là người độc thân thì không nói làm gì. Nếu là người đã có gia đình thì đòi
hỏi giao tiếp phải rất khéo léo để thiện chí không bị hiểu lầm.
Có thể áp dụng công thức lời
khuyên của đức Phật cho tất cả quan hệ giữa các đối tác với nhau. Và phải biết
đặt lên bàn cân hệ giá trị thế nào là có lợi, thế nào là không để sáng suốt dấn
thân đúng tình huống, dừng đúng chỗ thì hiệu quả công việc sẽ được thừa nhận.
Ảnh dụ lưỡi cưa. Như kẻ đạo
chích dùng cây cưa để cưa tay và chân của người khác. Mỗi động tác cưa qua cưa
lại làm nạn nhân rướm máu, thịt rơi, nỗi đau chồng chất. Tương tự, khi người
sân hận khởi lên ý niệm trả thù đối phương bằng cách cưa người đó ra từng khúc
thì tâm niệm này không làm cho người sân hận được an vui, hạnh phúc dù mối thù
đã được trả. Từ bi, tha thứ, buông xả là chất liệu cần thiết giúp phóng thích
nỗi khổ niềm đau. Tác giả của khổ đau là ai, động cơ gì không quan
trọng. Không có lòng từ bi thì
không thể hành trì thành công giáo pháp an vui, hạnh phúc của Như Lai. Pháp
Phật là giáo pháp của từ bi, chuyển hóa, vô ngã, vị tha.
Do giận tức và hận thù không
buông bỏ, nhiều người nói thà bị nghiệp xấu miễn là trả thù được người gây ra
khổ đau. Do hận thù che lấp, nhiều người chấp nhận đau thương, bị rỉ máu miễn
là trả thù được người thù địch một cách đau đớn! Nhưng họ đâu biết sự cố chấp
đó chỉ làm họ càng đau khổ hơn. Lòng hận thù giống như ghim dao trong lòng hoặc
như đang cầm dao hai lưỡi trong lòng bàn tay. Mỗi lần xiết con dao lại, máu sẽ
rỉ chảy ra từ sự sống. Muốn hết đau khổ, không còn cách nào khác là phải buông
đau khổ, giống như buông con dao xuống. Lấy hận thù để trả đũa hận thù giống
như lấy cái cưa hai lưỡi cưa vào từng làn da, thớ thịt, gân xương của bản thân.
Mỗi động tác cưa, máu của khổ đau sẽ chảy, đến lúc không còn nữa thì con người
lịm đi. Chỉ cần dừng sự cưa lại thì máu bớt chảy. Kẻ dùng cây cưa của sân hận
để cưa người khác không bao giờ hành trì thành công con đường an vui, hạnh
phúc. Nói cách khác, muốn an vui thì phải từ bỏ cái cưa sân hận, thái độ trả
đũa, thiết lập tình thương và sống hòa bình với khổ đau! Mỗi tâm niệm sân hận
sẽ tạo ra một khí giới trong lòng. Tâm sân là một loại vũ khí nguy hiểm, có thể
tạo ra đổ nát, hủy diệt và chết chóc. Trong khi đó, lòng từ bi tạo ra sự sống,
hòa khí, an vui và hạnh phúc!
Tóm lại, những gì được đức Phật
trình bày trong bài kinh này là pháp môn chuyển hóa lòng sân rất hiệu nghiệm.
Đức Phật đã dùng hình ảnh ấn tượng của cây cưa, tạo ra sợ hãi và khổ đau đối
với cảm xúc và các quan hệ giao tế để khuyên rằng, cần phải dừng lưỡi cưa khổ
đau lại. Phải giải quyết vấn đề khôn ngoan bằng lòng từ bi và tha thứ. Buông
lòng sân hận và tha thứ người khác thực ra là dừng cái cưa khổ đau do tự tâm
tạo ra mà thôi.