PHẨM THỨ IX: ỦNG HỘ PHẬT PHÁP
Ngày tiết thượng nguyên Rằm tháng giêng. trong năm đầu
niên hiệu Thần Long, Tức là năm 684, đời vua ĐườngTrung Tông. Tắc
Thiên Thái hậu và Trung Tông Hoàng đế ban chiếu rằng:
“Trẫm thỉnh hai vị sư Huệ An Tức Quốc sư Huệ An. và Thần Tú vào cung
cúng dường, để khi việc nước rảnh rang có thể tham học giáo pháp Nhất
thừa. Hai sư từ chối, nói rằng: ‘Phương Nam có Huệ Năng Thiền sư được
Hoằng Nhẫn Đại sư mật truyền y pháp, hiện truyền tâm ấn Phật, nên thỉnh
vị ấy mà hỏi.’ Nay sai nội thị là Tiết Giản mang chiếu chỉ đến thỉnh
rước. Mong sư mở niệm từ, mau đến kinh thành.”
Sư dâng biểu cáo là có bịnh, xin được trọn đời ở nơi rừng núi. Tiết Giản thưa rằng:
“Các vị thiền đức tại kinh thành đều nói rằng: ‘Muốn được hiểu đạo, phải
ngồi thiền tập định. Như chẳng nhờ thiền định mà được giải thoát, thật
là chưa có.’ Chẳng hay ý thuyết pháp của Ngài như thế nào?”
Sư đáp: “Đạo do tâm ngộ, có phải ở chỗ tập ngồi đó sao? Kinh nói: ‘Nếu
bảo Như Lai ngồi hoặc nằm, ấy là hành đạo tà.’ Ở đây dẫn Kinh Kim
Cang. Cớ sao vậy? Vì không do chỗ nào mà lại, cũng không đi đến chỗ nào,
không sanh không diệt, ấy là phép thiền thanh tịnh của Như Lai. Các
pháp đều như hư không tịch tĩnh, ấy là phép ngồi thanh tịnh của Như Lai.
Rốt cuộc còn không có chỗ chứng đắc, huống lại phải ngồi sao?”
Tiết Giản thưa rằng: “Đệ tử về kinh, Chúa thượng ắt phải hỏi. Nguyện sư
từ bi, chỉ bảo cho chỗ tâm yếu để tâu lên hai cung Tức là Vua và Thái
hậu. và truyền lại với những người học đạo nơi kinh thành. Ví như một
ngọn đèn nối qua trăm ngàn ngọn đèn, các chỗ tối đều sáng, sáng hoài
không dứt.”
Sư nói: “Đạo không có sáng tối. Sáng tối là nghĩa thay đổi nối tiếp
nhau. Sáng hoài không hết, cũng nghĩa là có hết. Đối đãi nhau mà thành
tên, Do có sáng, mới gọi chỗ không sáng là tối, và ngược lại. Tất cả
các pháp đối đãi đều như vậy. Xem phẩm Phó Chúc. cho nên Kinh Tịnh Danh
nói: Pháp không có so sánh, không có đối đãi.”
Tiết Giản nói: “Sáng ví cho trí tuệ, tối ví cho phiền não. Người tu hành
nếu chẳng đem trí tuệ chiếu phá phiền não thì vòng sanh tử từ vô thủy
đến nay nhờ đâu mà ra khỏi?”
Sư nói: “Phiền não tức Bồ-đề, không hai, không khác. Nếu đem trí tuệ
chiếu phá phiền não, đó là kiến giải của hàng nhị thừa, Thừa Thanh
văn và thừa Duyên giác. là căn cơ của hạng xe dê, xe hươu. Các ví dụ
dùng trong Kinh Pháp Hoa, chỉ hai thừa Thanh văn và Duyên giác. Xem phẩm
Cơ Duyên. Hàng đại căn, thượng trí chẳng phải như vậy.”
Tiết Giản hỏi: “Thế nào là kiến giải của đại thừa?”
Sư đáp: “Sáng với không sáng, kẻ phàm phu thấy là hai. Người trí giả
liễu đạt thấy tánh của sáng tối vốn chẳng có hai. Tánh không hai đó là
tánh thật. Tánh thật ở người phàm phu chẳng bớt; chỗ bậc hiền thánh cũng
chẳng thêm; trụ nơi phiền não mà chẳng tán loạn; ở nơi thiền định cũng
chẳng vắng lặng, chẳng dứt mất, chẳng thường còn, chẳng lại, chẳng qua;
chẳng ở khoảng giữa cùng là trong ngoài, chẳng sanh ra, chẳng diệt mất,
tánh tướng đều như như, thường trụ chẳng chuyển dời, đó gọi là Đạo.”
Tiết Giản hỏi: “Sư nói chẳng sanh chẳng diệt, có khác gì ngoại đạo?”
Sư đáp: “Ngoại đạo nói chẳng sanh chẳng diệt, đó là lấy chỗ diệt mà dừng
chỗ sanh; lấy chỗ sanh mà bày rõ chỗ diệt. Chỗ này rơi vào pháp đối
đãi. Chỗ diệt, họ nói thành chẳng diệt; chỗ sanh, họ nói là chẳng sanh.
Ta nói chẳng sanh chẳng diệt đây là vốn xưa không sanh, nay cũng chẳng
diệt, cho nên chẳng đồng với ngoại đạo. Ngươi nếu muốn biết chỗ tâm yếu,
chỉ cần đối với hết thảy việc thiện ác đều không suy lường, Tổ Sư
khai ngộ cho Huệ Minh cũng nói: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác...” Xem
phẩm Hành Do. tự nhiên sẽ được tâm thể thanh tịnh, sáng tỏ thường tịch,
chỗ diệu dụng nhiều như cát sông Hằng.”
Tiết Giản nhờ ơn chỉ dạy, hoát nhiên đại ngộ. Lễ bái từ biệt về triều,
dâng biểu tâu lên lời nói của Sư. Ngày mùng ba tháng chín năm ấy, Tức
cùng trong năm 684. có chiếu dụ ban khen Sư rằng:
“Sư lấy cớ già yếu, vì trẫm mà lo tu đạo, ấy là ruộng phước Tức là
nơi mọi người có thể gieo hạt giống phước đức vào để được hưởng quả tốt
đẹp về sau. của cả nước. Sư cũng như ngài Tịnh Danh Tức là ngài
Duy-ma-cật, vị Bồ-tát hiện thân cư sĩ thuyết pháp trong kinh Tịnh Danh,
cũng gọi là kinh Duy-ma-cật sở thuyết. cáo bịnh ở thành Tỳ-da Tức là
thành Tỳ-da-ly, hay Tỳ-xá-ly, chữ Phạn, dịch nghĩa là Quảng Nghiêm, là
nơi ngài Duy-ma-cật thuyết pháp., xiển dương đại thừa, truyền tâm của
chư Phật, luận pháp bất nhị. Tiết Giản có truyền lại lời Sư chỉ rõ tri
kiến Như Lai, Trẫm nhờ chất chứa nhân lành, trồng sẵn thiện căn, nên mới
gặp lúc Sư ra đời, đốn ngộ pháp thượng thừa, cảm đội ơn Sư mãi mãi
không hết! Nay xin dâng tấm áo cà-sa Ma-nạp và bình bát thủy tinh. Lệnh
cho quan Thứ sử Thiều Châu sửa sang lại cảnh chùa, và ban hiệu cho chỗ ở
cũ của Sư là Chùa Quốc Ân.”