Nghĩa nhân văn mà hiển ra, vả lại quán chiếu bát nhã, thực tướng bát
nhã đều nhân văn tự mà nổi dậy, thì một chữ một câu trong kinh văn chẳng
thể nào không khảo đính rõ ràng đích xác cho đúng. Vì kinh này đọc tụng
rất phổ biến sâu rộng, nên từ đời nhà Minh đến nay các bộ lưu thông ở
thế gian chép khác nhau rất nhiều. Thường thường truyền đi chép lại sai
lầm, hoặc cố ý tăng giảm, mỗi người tự cho mình là đúng, khiến cho người
đọc không còn biết đâu mà theo nữa. Tôi sanh ra muộn, may gặp các kinh
sớ của chư đại đức đời nhà Tấn, Tùy và Ðường như ngài Tăng Triệu, Trí
Giả, Tuệ Tịnh, những cuốn kinh luận này đem từ hải ngoại trở về, mà
những cuốn kinh đời nhà Ðường viết, như cuốn của ông Liễu Thành Huyền
cất dấu ở Ðôn-Hoàng thạch thất nay cũng phát hiện ở thế-gian. Tôi nhờ
những cuốn này dùng để tham khảo kê cứu lẫn nhau khảo câu kinh nào là
đúng, và đính chính câu nào là sai. Thực là sự gặp gỡ hiếm có, mà cũng
là trách nhiệm kẻ hậu học. Còn đến những chữ và câu có chỗ giống nhau và
khác nhau, tuy một chữ thêm hay bớt mà có quan hệ nghĩa của kinh rất
lớn, nay tôi cũng mỗi mỗi theo văn tỏ bày ra, nói rõ nghĩa lý của nó cái
nào đúng, cái nào sai, để phân biệt cho rành rẽ. Văn của kinh chia ra
làm 3 khoa : 1- Tự phận . 2. - Chính tông phận . 3. - Lưu thông phận,
hết thảy các kinh, kinh nào cũng đều như thế. Cách chia phán như thế bắt
đầu từ ngài pháp sư Ðạo An đời Ðông Tấn, ngài là thầy của ngài Tuệ Viễn
ở Lư Sơn, sơ tổ tông tịnh-độ. Thuyết này hồi mới bắt đầu đặt ra, người
nghe còn nghi ngờ. Sau chất chính cùng các vị đại đức Tây Trúc tới, mới
biết ở Tây Ðộ hết thảy các kinh đều phân khoa như thế, lúc đó mới chịu
phục là đúng, thành ra quy tắc nhứt định. Như kinh này từ câu như thị
ngã văn, đến câu phu tọa nhi tọa, đó là tự phận, từ câu thời trưởng lão
Tu Bồ-Ðề đến câu thị danh pháp tướng, là chính tông phận. Từ câu Tu
bồ-Ðề, nhược hữu nhân dĩ vô lượng a tăng kỳ thế giới thất bảo trì dụng
bố thí, đến câu tín thụ phụng hành, là lưu thông phận.
TỰ PHẬN : - 1. - Chứng tín tự.
Như thị ngã văn, nhứt thời Phật tại Xá Vệ quốc, Kỳ Thụ Cấp Cô Ðộc viên, dữ đại tỳ kheo chúng thiên nhị bách ngũ thập nhân câu.
Dịch
nghĩa : Ta nghe như vầy, một thời Phật ở nước Xá Vệ, vườn Kỳ Thụ Cấp Cô
Ðộc, cùng với tăng chúng đại tỳ kheo 1250 người ở chung.
Chúng
tín tự lại có tên là thông tự, vì tự này các kinh đều có, cũng có tên
là kinh hậu tự, Phật lúc mới thuyết kinh vốn không có lời tự này, đến
lúc kết tập mới thêm vào, nên cũng gọi là di giáo tự. Phật sắp nhập niết
bàn, tôn giả A-Nan khâm phụng di mạng, hết thảy ở đầu cuốn kinh nào
cũng phải để câu : Ta nghe như vầy, một thời Phật ở xứ Mỗ, cùng với đại
chúng Mỗ bao nhiêu người ở chung, các lời này, Phật sai A Nan để câu
trên, cốt chứng minh đúng là lời Phật nói để khởi tín, nên gọi là chứng
tín tự. ÐẠI TRÍ ÐỘ LUẬN gọi văn của khoa này là lục thành tựu. Vì phàm
kết tập một bộ kinh ắt có saú duyên mới có thể thành tựu. Sáu duyên là:
1. -Như thị là tín thành tựu, 2. -Ngã văn là văn thành tựu, 3. - Nhất
thời là thời thành tựu, 4. - Phật là chủ thành tựu, 5. - Xứ Mỗ là xứ
thành tựu, 6. - Cùng với tỳ kheo chúng bao nhiêu người ở chung là chúng
thành tựu. Sáu duyên đã đầy đủ thì chủ thuyết pháp, thời thuyết pháp, xứ
thuyết pháp, chúng nghe pháp và người kết tập phụ trách chứng minh chỗ
tự mình nghe được, gồm đủ để thành tựu sự tín của mọi người, mỗi mỗi đều
đủ nên gọi là lục thành tựu. Ban đầu nói : như thị, không khác như,
không phi là thị. Phàm người ta tin nhau thì nói như thị, chẳng tin thì
không nói như thị. Nay kẻ kết tập mở miệng ra đã trịnh trọng nói như
thị, là để tỏ rõ lời nói này đúng như Phật nói, lời và nghĩa không sai
lầm, đủ để tin ở ngày nay mà truyền lại về sau, nên gọi là tín thành
tựu. Kinh Hoa-Nghiêm nói: "Tín là mẹ công đức của nguồn đạo, nuôi lớn
hết thảy các thiện pháp", tín là cửa bắt đầu nhập đạo nên sắp đặt ở hàng
đầu. Thứ nhì là ngã văn, ngã là A-Nan tự xưng, đặt biệt xưng tiếng ngã
là lời phụ trách, vả lại để nói rõ là tự tai của ông ấy thân nghe mà
chẳng phải là truyền thuật. Trên đã như thế, dưới lại xếp đặt tường tận
các người cùng nghe, lại để nói rõ là chẳng phải một mình nghe riêng,
thì như thị tin mà có bằng cớ, nên gọi là văn thành tựu. Ngày thế tôn
thành đạo thì A-Nan mới giáng sanh, đến lúc A-Nan xuất gia thì Phật đã
thuyết pháp được 20 năm, vì thế ông ấy xin Phật đem lời Phật thuyết pháp
20 năm trước ra nói lại, gọi là bổ thuyết. A-Nan lại được pháp tánh
giác tự tại tam muội, có thể trong lúc nhập định hiểu thấu suốt hết thảy
các pháp, nên kết tập pháp tạng ắt phải suy tôn A-Nan, cũng là chỗ Phật
thân hứa. Như kinh Pháp Hoa nói : "Ta cùng A-Nan ở nơi Không Vương Phật
đồng thời phát tâm, ta ưa tinh tiến bèn được làm Phật, A-Nan thường
nghe nhiều nên trì pháp tạng của ta" là vậy. Lúc kết tập, A-Nan lên pháp
tòa, ánh sáng thân của ông ta giống in như Phật. Mọi người ngờ là thế
tôn lại trở dậy thuyết pháp, hoặc ngờ vị Phật ở phương khác lại, hoặc
ngờ A-Nan thành Phật. A-Nan mở miệng liền nói : Như thị ngã văn ... thì
ba điều nghi trên liền dứt. Vì thế tôn đã biết trước ắt có sự nghi này,
nên khiến hết thảy ở nơi đầu các cuốn kinh đều để câu như thị ngã văn.
Việc kết tập trong kinh, luật, luận có nhiều thuyết, hoặc nói tiểu thừa
tam tạng đều do A-Nan kết tập, hoặc nói Ưu Bà Ly kết tập luật tạng,
A-Nan kết tập kinh luận. Hoặc nói luận là Ðại Ca Diếp tự mình kết tập,
lại có chỗ nói luận là ông Phù Lâu Na tụng ra đây gọi là ngũ bách kết
tập, cũng là đệ nhứt kết tập. Lúc đó là năm thế tôn nhập diệt, chỗ kết
tập ở ngoài Vương Xá Thành, hang Tất Ba La. Vua A Xà Thế làm hộ pháp ở
ngoài, Ðại Ca Diếp tôn giả làm thượng thủ. Hoặc nói 500 tăng chúng, hoặc
nói 1000 tăng chúng, hoặc nói 84 ngàn tăng chúng, đây gọi là kết tập
thượng tọa bộ, vì Ðại Ca Diếp là thượng tọa trong hết thảy các vị tăng.
Kết tập bắt đầu từ ngày 15, tháng đầu mùa an cư năm đó. An cư 3 tháng
thì xong, hoặc nói 4 tháng mới xong. Hoặc nói tháng 12 năm đó vua A Xà
Thế chết, Ðại Ca Diếp cũng vào núi Lang Tích, đại chúng liền giải tán.
Ðương lúc đó lại có mấy ngàn tăng chúng hoặc đã chứng, hoặc chưa chứng
quả A La Hán chẳng thể dự hội được, họ muốn báo ơn Phật, nên ở cách phía
tây bắc hang này 20 dặm, họ kết tập riêng kinh, luật, luận và tạp tập
tạng, cấm chú tạng, gọi là năm tạng, vì đây là phàm và thánh đều tụ hội
để kết tập, nên gọi là đại chúng bộ kết tập. Ngài Ba Tu la hán làm
thượng thủ, vua A Xà Thế cũng làm đàn việt hộ pháp cúng dường. Ðây là
thấy ở trong các kinh sách Phát Tạng và Tây Vực Ký .
Sau lại có
3 lần kết tập nữa : một lần sau khi Phật nhập diệt 100 năm, trưởng lão
Gia Tư Na làm thượng thủ nhóm hợp 700 thánh tăng, trưởng lão Ly Bà Ða và
Tát Bà Ca vấn đáp bàn luận, chuyên về luật tạng , nghiêm tịnh những
điều giới luật, đây là kết tập lần thứ nhì. Một lần ở lúc Phật nhập diệt
235 năm sau, đời vua A-Dục, ngài Mục Kiền Liên Ðế Tu làm thượng thủ,
họp tăng chúng 60 ngàn vị, tuyển chọn lấy 1000 vị. Ngài Ðế Tu làm luận
để phá tà thuyết của ngoại đạo. Ðây là kết tập lần thứ ba. Sau chót thì ở
bốn, năm trăm năm sau khi Phật nhập diệt, đời vua Ca Nhĩ Sắc Ca nhóm
500 vị La Hán, 500 vị bồ tát, ngài Ca Chiên Diên Tử làm thượng thủ, ngài
Mã Minh Bồ Tát tạo luận, trải qua 12 năm thành Tỳ-Ba-Sa luận có một
triệu bài tụng để giải nghĩa kinh. Hoặc nói Thế Hữu Bồ Tát làm thượng
thủ tạo tam tạng luận một triệu bài tụng, đây là kết tập lần thứ tư.
Hoặc lúc Phật còn tại thế đã có kết tập, như ông Mục Kiền Liên tạo Pháp
Uẩn Túc Luận, nhưng chẳng qua là bộ phận soạn thuật, còn như triệu tập
tăng chúng hội họp lại làm việc kết tập đại quy mô thực bắt đầu ở Ðại Ca
Diếp, A-Nan và các thánh tăng. Ðại thừa kết tập ước có 2 thuyết : 1.
-Là Phật nhập diệt 7 ngày, Ðại Ca Diếp bảo 500 vị la hán gõ chuông đánh
khánh nhóm họp các vị A La Hán ở khắp 10 phương thế giới được 88 ngàn
vị, ở khoảng giữa 2 cây tha la, mà sai A-Nan, thăng pháp tòa chia ra kết
tập 3 tạng : Bồ Tát, Thanh Văn, Giới Luật. Bồ Tát tạng có 8 : Thai hóa
tạng là thứ nhứt, Trung ấm tạng là thứ hai, Ma Ha Diễn, phương đẳng là
thứ 3, Giới Luật tạng là thứ 4, Thập Trụ Bồ Tát tạng là thứ 5, Tạp tạng
là thứ 6, Kim Cương tạng là thứ 7, Phật tạng là thứ 8. Ðây là thấy ở
trong kinh Bồ Tát Xử Thai. Một thuyết là Văn-Thù, Di Lặc các vị đại bồ
tát cùng A-Nan ở Thiết Vi sơn kết tập đại thừa tam tạng, đây là thấy ở
trong Trí Ðộ Luận. Ðến như bộ Mật Tông cũng có hai thuyết, hoặc bảo là
ông A-Nan kết tập hết thảy, hoặc bảo kim Cương Thủ Bồ Tát làm chánh,
A-Nan làm phó, thuyết sau này căn cứ trong kinh Lục Ba La Mật. Trong
kinh này Phật đem các pháp thu nhiếp làm 5 phần, ngài bảo Từ Thị bồ tát
rằng "Sau khi ta diệt độ phải khiến A-Nan thụ trì kinh tạng, Ưu Bà Li
thụ trì luật tạng, Ca Ða Diễn Na thụ trì luận tạng, Văn Thù Sư Lợi thụ
trì đại thừa bát nhã ba la mật đa, Kim Cương Tạng bồ tát thụ trì thậm
thâm vi diệu chư pháp tổng trì môn (tức là chú)" .
Biểu pháp :
biểu pháp có nghĩa là tiêu về tự tánh. Nghe kinh, nghe pháp trọng yếu ở
chỗ đem kinh văn tiêu dung mỗi mỗi về đến trên bổn tánh của mình mà thể
hội, thì mới được thụ dụng. Ðoạn văn này vốn là cảnh duyên sự tướng, mà
còn có thể tiêu về tự tánh được, thì kinh văn sau này có thể dùng đoạn
này làm tiền lệ để biết. Suy đó ra, nếu đối với hết thảy cảnh duyên đều
có thể lĩnh hội như thế, thì thụ dụng vô cùng. Phải nên chú ý! Như : là
như như bất động, có nghĩa là tánh thể vốn có sẵn đầy đủ của con người,
thị: là đương hạ tức thị. Hết thảy phàm phu tuy tánh này đương hạ tức
thị, mà sanh diệt sát na chẳng ngừng, lại chẳng như như là tại sao? Tại
ngã chấp nó che lấp đi, nên ắt phải phá cái chấp tiểu ngã mà quy về cái
đại ngã. Ðại ngã là nhứt chơn pháp giới, tức là tâm Phật và chúng sanh
ba cái không sai biệt, cái ngã thường, lạc, ngã, tịnh. Chữ ngã ở đây
phải hiểu nghĩa như thế. Văn: là phản văn, văn tự tánh. Nếu muốn quay
trở về ắt phải phản văn (nghe trở vào) chẳng thể hướng ngoại rong ruổi
mưu cầu, bội giác hợp trần. Nhứt thời : là chỗ bảo thập thế cổ kim chẳng
lìa một niệm, hiện tại lại cũng là tam thế tâm chẳng thể đắc, phải hiểu
như thế. Chữ ngã trong văn trên là khiến lĩnh hội nhứt chơn pháp giới,
thì chướng ngại của không gian tiêu trừ, chữ nhứt thời ở đây là khiến
lĩnh hội không có tam thế (hiện tại, quá khứ, vị lai), thì chướng ngại
của thời gian cũng tiêu trừ. Tánh thể vốn nó như thị, như thị! Phải nghe
trở vào như thị! Kẻ phàm phu quên cái bổn lai của mình lâu rồi, nay
muốn phản chiếu lại thì phải có phương tiện. Trong sáu căn chỉ có nhĩ
căn là rất viên thông, như mười phương đánh trống thì đều nghe đủ cả 10
phương, ở tánh vốn không chướng ngại, dễ lĩnh hội hơn, nên mới khiến từ
nơi nhĩ căn mà vào. Vì nhĩ căn đầy đủ 1200 công đức, số 1200 chẳng qua
để bày tõ sự viên mãn vô ngại, vì giềng mối của 10 phương là bốn phương
(bốn góc và phương trên phương dưới đều do đông tây nam bắc mở ra, nên
mới thêm sáu giềng mối, đây là nói về chiều ngang, còn tam thế thì nói
về chiều dọc. Ngang dọc giao tham là số 12, bày tỏ sự vô tận của nó gọi
là 1200), cùng với tam thế nhân lên là 12, lại gấp thêm 100 lần là 1200.
Phật : là tự tánh thiên chân Phật, già và chiếu cả hai bên,
trung đạo viên dung, tự tánh vốn nó như thế, đây là Xá Vệ Quốc của tự
tánh. Chiến thắng ngũ ấm ma mà thiệu long Phật chủng là Kỳ Ðà thái tử
của tự tánh. Trang nghiêm phước tuệ, rừng của công đức gọi đó là cây.
Ðứa con bỏ cha chạy trốn nay đã trở về nhà thừa hưởng sản nghiệp của
cha, hạt minh châu dấu trong áo, chẳng mệt nhọc mà được tức là vườn Cấp
Cô Ðộc của tự tánh. Ðại : là đại bi, đại nguyện. Tỳ kheo: là xa lìa trần
cấu. Chúng : là lý sự hòa hợp, 1200: là viên mãn nhĩ căn, công đức của
nghe trở vào, 55 người : là thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hướng,
tứ gia hạnh, thập địa, đẳng giác, cộng 55 vị. Vì chung bảo bổn tánh như
như bất động, đương hạ tức thị. Nếu quả có thể ngang dọc không chướng
ngại, nghe trở vào như thị, thì tự tánh thiên chân Phật liền như thị mà
tại, mà cùng với 55 vị bồ tát ma ha tát đại bi đại nguyện xa lìa trần
cấu, lý sự hòa hợp, công đức nghe trở vào viên mãn, làm bạn lứa. Thế thì
Linh Sơn pháp hội nghiễm nhiên chưa giải tán, lại gọi là tại Linh Sơn
thân nghe diệu pháp cũng có thể được, hay nói Linh sơn ở ngay trong tấc
lòng này cũng đều có thể được. Vì cớ gì? Vì tự tánh thiên chân Phật cùng
với Thích Ca Mâu Ni Phật đã tâm tâm in với nhau, ánh sáng ánh sáng
chiếu lẫn nhau, như thế thì đã thấy cảnh tướng của chứng tín tự là chẳng
phải là tướng mà thấy Như Lai. Thưa các bậc thiện tri thức, chữ như thị
này chẳng phải đối với cuốn kinh này thì như thị, không đối với cuốn
kinh thì chẳng như thị, lại cũng chẳng phải ở chỗ tòa giảng kinh nghe
kinh này thì như thị, lìa tòa thì chẳng như thị, lại chẳng phải ở pháp
hội thì như thị, ra ngoài pháp hội thì chẳng như thị. Phải ở hết thảy
thời, hết thảy việc, hết thảy cảnh đều thấy các tướng chẳng phải tướng,
thì động tĩnh như một, không cái nào là chẳng thị.
PHÁT KHỞI TỰ
Nhĩ thời thế tôn thực thời, trước y trì bát, nhập Xá Vệ đại thành
khất thực, ư kỳ thành trung thứ đệ khất dĩ, hoàn chỉ bổn xứ, phạn tự
ngật, thu y bát, tẩy túc dĩ, phu tọa nhị tọa.
Dịch nghĩa : Lúc
đó là thời ăn của đức thế tôn, ngài mặc áo cầm bình bát, vào thành Xá Vệ
lớn xin ăn, ở trong thành này lần lượt xin xong, trở về chỗ cũ, ăn cơm
xong, thu y bát, rửa chân xong, trải tọa cụ mà ngồi.
Phật vì kẻ xuất gia chế ra ba thứ áo :
1.
-An-đà-hội cũng gọi là ngũ điều y (cắt vải làm miếng vuông ráp may lại
như hình miếng ruộng, nên gọi là phước điền y, năm điều thì hình vuông
lớn, chín điều thì hình vuông nhỏ lần, lại cũng gọi là trước thể y, làm
công việc và nằm ngồi thì mặc).
2. - Uất-đa-la-tăng cũng gọi là
thất điều y, lúc giảng kinh, thuyết pháp thì mặc ra ngoài ngũ điều y,
nên cũng gọi là áo ngoài (ngũ điều y lại có tên là hạ phẩm y, thất điều
có tên là trung phẩm y, cửu điều có tên là thượng phẩm y). Nếu ở nơi
đông đảo, hoặc vào chỗ đại đô hội, hoặc vào cung vua thì mặc y cửu điều,
tiếng Phạm gọi là tăng-già-lê, cũng gọi là đại y. Nay thế tôn sắp vào
thành xin ăn nên mặc đại y. Ba thứ y này có tên chung là cà-sa. Cà-sa có
nghĩa phức tạp, chẵng phải chỉ màu sắc xanh vàng đỏ đen tím xen lẫn
nhau làm phức tạp, mà vì chẳng dùng màu đỏ ròng, có khi pha lẫn màu đỏ
với màu xanh hay màu vàng, hoặc màu đen màu tím. Chẳng những màu đỏ
chẳng phải màu đỏ ròng, ngay đến màu xanh vàng đen tím cũng chẳng phải
màu xanh ròng, vàng ròng, đen ròng, tím ròng nên gọi là phức tạp. Cho
nên màu đỏ mà pha lẫn màu xanh thì thành ra màu đen bùn, nên mới gọi là
mặc y đen, màu đỏ mà pha vàng thì gọi là màu mộc-lan, màu tím cũng là
màu đỏ pha đen mà thành, đều chẳng phải là màu chính, nên lại gọi là màu
không chính, màu hư hoại, màu nhuộm, sở dĩ như thế là để phân biệt với
người tại gia, lại cũng có ý chẳng trụ ở sắc. Những màu sắc như thế thì
mờ tối không rực rỡ, cũng là có ý không làm cho người khác chóa mắt. Mặc
áo cầm bát, xin ăn ... đều là giới luật chế định. Thế tôn làm như thế
tức là lấy bản thân Ngài làm khuôn mẫu dạy người ta trì giới.
Xin
ăn có nhiều nghĩa, nay nói sơ lược : vì hàng phục ngã mạn, vì chẳng
tham ăn ngon, vì chuyên tâm tu đạo, vì khiến cho kẻ thấy sanh tâm hổ
thẹn. Xuất gia vốn là để độ chúng sanh, mà muốn độ chúng sanh thì trước
phải dứt hoặc, mà dứt hoặc ắt phải khổ hạnh khiến cho mọi người thấy đó
sanh ra tâm hổ thẹn. Họ nói : vì cớ độ chúng sanh mà tự mình khổ như
thế, thế thì chúng ta há tham miếng ăn ngon, mưu tính cho sướng thân ư?
Sanh tâm hổ thẹn, ngõ hầu đạo tâm tăng trưởng, tục niệm bớt lần đi, thế
thì việc xin ăn có ích cho chúng sanh rất lớn, há chỉ khiến người khác
bố thí để trồng phước điền mà thôi ư? Nên xin ăn là phước hết sức lớn
của người xuất gia tu hành. Bực cổ đức vì lo rằng những kẻ có lòng tin
chẳng được nhiều, ắt gặp sự phỉ báng, nên bất đắt dĩ tự mình cày ruộng
trồng lúa lấy để ăn, như thế là đã trái với Phật chế, đã rất đáng đau
lòng! Sao có thể như người đời nay nói Tỳ kheo lại phải kinh doanh thêm
cả các nghề khác, như thế thì hà tất phải xuất gia làm chi? Chẳng thể
phá hoại Phật pháp như thế được. Muốn cho Phật pháp hưng thạnh Tỳ kheo
nếu không đi xin ăn thì không được. Còn nếu bảo ở đông phương chẳng thể
thực hành, và ở thời đại ngày nay chẳng thể thực hành, thì nước Thái Lan
đến nay vẫn còn vâng theo Phật chế mà thực hành, sao có thể bảo là đông
phương chẳng thể thực hành ư? Chỉ cần phải được đa số người có tín tâm
thì sau mới có thể thực hành được. Trải tọa cụ mà ngồi là sắp sửa nhập
định. Theo quy tắc thì trước khi ngồi còn có kinh hành, nay chẳng nói
tới là bày tỏ sự dụng công yếu khẩn, có ý chẳng thể phút giây nào trễ
biếng. Thuyết bộ kinh lớn này mà phát khởi ở việc tầm thường hằng ngày
thì thật là lạ lùng đặc biệt, nên Tu Bồ Ðề mở miệng liền than : hi hữu!
Nhưng lạ lùng đặc biệt thực không khác với tầm thường, nên ông Tu Bồ Ðề
kế tiếp nói : khéo hộ niệm khéo phó chúc. Có thể thấy văn này có liên
quan với trọn bộ kinh, lý này hết sức sâu kín tinh vi mà lại thân thiết,
nếu chỉ xem sơ qua há chẳng cô phụ. Nay tôi mở ra 10 tầng để nói rõ
nghĩa, 4 tầng trước theo pháp để nói rõ, sáu tầng sau theo giáo hóa để
nói rõ :
1. -Thị hiện mặc áo xin ăn, bôn tẩu trần lao giống in
như kẻ phàm phu là Phật chẳng trụ Phật tướng là hiển thị vô ngã tướng
của Phật. Tôn chỉ trọn bộ kinh này là ở chỗ phá ngã, nay thị hiện vô ngã
mà chẳng nói ra một chữ, cũng tức là thị hiện vô pháp tướng của Phật.
Tuy không nói ra một chữ mà thực ra là hiển thị pháp vô ngã, lại cũng là
chỗ để hiển thị cũng không có phi pháp tướng của Phật. Lý tam không
hiện rõ ràng ra trọn vẹn triệt để, đây gọi là khéo phó chúc.
2.
- Như chỗ nói rõ ở trên là đại trí, tu bồ tát hạnh ắt phải bi và trí
đầy đủ nên lúc nói tường tận, vừa mở miệng ra là khiến phải độ chỗ có
hết thảy chúng sanh, mà nay thị hiện giống như kẻ phàm phu là
đồng-sự-nhiếp trong tứ nhiếp pháp. Vì thế tôn đại từ đại bi chẳng bỏ
chúng sanh, mà dùng chính bản thân mình làm quy tắc để làm kiểu mẫu cho
các vị Bồ tát ma ha tát, đây gọi là khéo hộ niệm. Tóm lại mà xem, lấy
đại trí mà thực hành đại bi là không mà chẳng không. Nhân đại bi mà hiển
đại trí là hữu mà chẳng hữu. Không mà chẳng không gọi đó là diệu hữu.
Hữu mà chẳng hữu mới là chân không. Há chẳng phải là tức không, tức giả,
tức không, nhị đế quán dung, rõ ràng là đệ nhứt nghĩa đế của trung đạo
ư? Thế thì ở việc tầm thường hằng ngày mà đã đem lý hiển tam không, quán
dung nhị đế, yếu chỉ của trọn bộ kinh nêu lên đầy đủ. Ðây gọi là hi
hữu!.
3. -Phật thuyết các bộ kinh khác, thường thường phóng
quang động địa làm pháp khởi, để hiển thị hết thảy các pháp đều từ bát
nhã chánh trí mà ra, tức là không pháp nào là chẳng phải bát nhã. Trong
những hội thuyết bát nhã trước, Phật cũng đã phóng quang động địa để
hiển thị bát nhã chánh trí có thể bạt trừ trụ địa vô minh. Nay hội thứ
chín thuyết Kim-cương bát nhã lại chẳng thị hiện như thế, là để hiển thị
ngay đến pháp tướng của bát nhã cũng chẳng chấp. Nên kinh này nói: Phật
thuyết bát nhã ba la mật tức là chẳng phải bát nhã ba la mật. Phải
biết, ngay đến cả bát nhã mà chẳng chấp thì mới là bát nhã ba la mật.
Ðây cùng cực của chẳng chấp thủ tướng,
4. -Trong khoảng mấy
chục năm, trước khi chưa thuyết kinh này, Phật ngày ngày cũng đều thị
như thế này, đã thuyết kinh này rồi, cho đến lúc vào niết bàn trong
khoảng mấy chục năm, cũng lại ngày ngày thị hiện như thế này, thì có thể
thấy gọi là thị hiện, chỉ là người khác thấy như thế mà nói vậy thôi,
còn Phật thì không có niệm ta vì đại chúng làm sự thị hiện này. Vì Phật
không một sát na nào là chẳng ở trong nhị đế viên dung đại không tam
muội. Người khác thấy chỗ Phật thị hiện như thế, đều là từ trong đại
không tam muội tự tại tuôn chảy ra mà thôi. Phật thì làm mà như là vô
sự, từ ban sơ không để tâm vào việc làm đó. Ðây là cùng cực của như như
bất động. Ngàn muôn lời nói trọn bộ kinh đến chỗ quy kết thì nói : thụ
trì đọc tụng, vì người khác diễn thuyết. Sao gọi là vì người khác diễn
thuyết? Là bất thủ ư tướng, như như bất động. Có thể thấy 8 chữ này là
chỗ khẩn yếu của trọn bộ kinh, lại cũng là chỗ khẩn yếu của người học
thụ trì diễn thuyết. Nay ở việc tầm thường hằng ngày, mà tức là hiển thị
chỗ khẩn yếu của kim cương bát nhã, há chẳng gọi dó là hi hữu, khéo hộ
niệm, khéo phó phúc ư? Trên đây là theo pháp để nói rõ nghĩa của phát
khởi tự.
5. - Hết thảy chúng sanh cùng đầy đủ Phật tánh, tức là
người người có đầy đủ pháp thân Như Lai. Nhưng pháp thân Như Lai của
chúng sanh ẩn tàng mà chẳng hiển hiện ra. Sở dĩ ẩn tàng mà chẳng hiện
ra, nên chẳng gọi là pháp thân Như Lai, mà chỉ gọi là Như Lai Tạng, vì
chúng sanh bôn tẩu để có cơm ăn áo mặc, bội giác hợp trần, đã lâu rồi
quên mất bổn lai diện mục. Nay lấy pháp thân Như Lai thị hiện giống như
phàm phu bôn tẩu trần lao, là không có gì khác, vì muốn khiến hết thảy
chúng sanh ở trong trần lao mỗi người hồi quang phản chiếu Như Lai tạng
vốn sẵn có của mình mà thôi!
6. - Bác địa phàm phu chướng sâu
nghiệp nặng, nay muốn phản chiếu, nếu không khéo khai thông, khuyên nhủ
cho nó huân tập thì chẳng thể được. Nay thuyết kinh này mà phát khởi ở
những việc xin ăn v. v... là chỉ thị cho chúng sanh thụ trì kinh này
phải coi giống như việc ăn cơm uống nước thường ngày, một ngày chẳng thể
lìa bỏ. Cứ huân tập lâu ngày như thế ngõ hầu tín tâm thêm lớn, ở trong
cái vỏ vô minh đầy đặc ló ánh sáng ra.
7. - Thế nhưng kinh tối
thượng thừa, thậm thâm vi diệu, nay được thấy nghe, thụ trì, mà muốn
lĩnh hội nghĩa chân thực của Như Lai, nếu không có đủ tư cách tương
đương, thì cũng không vào được cửa. Kinh này nói : Sau 500 năm có kẻ trì
giới tu phước, ở nơi chương cú này có thể sanh tín tâm, lấy đây làm
thực, tín là cửa để nhập đạo, lấy đây làm thực là hiểu rõ nghĩa chân
thực của nó. Cho nên có thể thấy, hiểu rõ nghĩa chân thực của nó mới là
thực tín (thực tín khác với tin một cách lờ mờ), mà thực tín thì do ở
trì giới tu phước, há chẳng chú trọng ư? Nay các việc mặc áo cầm bình
bát, xin ăn đều là giới luật của Phật chế định, y theo đó mà làm tức là
trì giới. Mà xin ăn là khiến cho kẻ thấy nghe sanh tâm hổ thẹn, tăng
trưởng đạo nghiệp, chẳng những chỉ khiến cho họ làm bố thí trồng phước
điền mà thôi, đó mới là tu phước, Kim Cương bát nhã phát khởi ở trì giới
tu phước, chính là chỉ-thị cho chúng sanh phương tiện trước khi khởi
tin nhập môn.
8. - Xin ăn v.v... là trì giới. Trải tọa cụ mà
ngồi là sắp nhập định. Do giới sanh định, do định sanh tuệ, nên lời tự
cho là khi phát khởi thuyết Kim Cương bát nhã, lại chỉ-thị chúng sanh
bằng ba sự học vô lậu (giới, định, tuệ) theo một thứ tự nhất định, để tỏ
rõ trì giới tu phước có thể sanh thực tín mà nhập môn được. Nhưng muốn
cho bát nhã chánh trí hiện ra, nếu chẳng tu định thì chẳng thể được.
9.
- Chỗ cần yếu của tu hành là phải ở lý và sự hai cái dung hội nhau,
trong lúc tĩnh nuôi dưỡng được đầu mối này, lại phải ở lúc đối cảnh tùy
duyên, siêng năng khám nghiệm. Người xưa gọi là trải qua việc để luyện
tâm, đây là một cách tu hành rất cần yếu. Lý hai bên chẳng chấp ắt phải ở
ngay lúc ăn cơm mặc áo mà lĩnh hội, ắt phải ở công việc tầm thường hằng
ngày mà thực hành được, ngõ hầu có thể đạt đến chỗ động và tĩnh như
một, thì không cái nào là chẳng phải vậy. Ðây lại là ý huyền vi của bát
nhã phát khởi ra ở các việc xin ăn v. v ...
10. - Càng có chỗ
tinh diệu, phát khởi tự này tức là trỏ đích xác phương tiện hạ thủ cho
người trong cảnh trần lao. Ðã bị túc nghiệp dắt dẫn rơi vào trong cái
túi da thúi này, thì sự chạy đi kiếm ăn, kiếm mặc, có ai tránh khỏi
được? Vì đó mà đuổi theo ngọn, quên mất gốc thì đã đành là chẳng thể
được, còn nếu vì giải thoát trần lao chẳng nổi mà sanh phiền não, thì
lại cũng sao có thể được? Cái đạo là ở chỗ khéo léo lợi dụng hoàn cảnh
của mình, như thế thì chỗ nào mà chẳng là đạo-tràng ư? Mỗi sáng mặc áo
đi ra ngoài, mỗi người đều siêng năng chức vụ xin ăn của mình, xong việc
liền trở về. Những việc ứng tiếp chẳng can thiệp gì tới mình có thể bớt
được thì bớt, bốn chữ: trở về chỗ cũ này kíp phải để mắt vào. Sau khi
trở về liền đem đồ ra ăn uống, rửa ráy v. v... những việc phải làm đều
liệu lý dọn dẹp cho xong xuôi, rồi liền phải tĩnh tọa, thu nhiếp vọng
niệm, quán tâm, đây là 4 chữ : trải tọa cụ ngồi, lại càng phải để mắt
vào. Người đời nay trọn ngày bận rộn, ứng thù đã nhiều. Sau khi trở về
lại chẳng nhiếp tâm tĩnh tĩnh tọa, dẫu cho có tụng kinh niệm Phật, công
khóa chẳng khuyết, mà tâm này chưa từng dùng công phu tĩnh nhiếp một
chút nào, nên tuy tụng kinh niệm Phật mà vọng niệm vẫn đầy dẫy, thì có
ích chỗ nào đâu? Lại ở nghĩa lý chẳng chấp tướng, và chẳng chấp phi
tướng là pháp và phi pháp hai bên đều chẳng chấp, từ xưa tới nay chẳng
lưu tâm thể hội, sở dĩ tu hành nhiều năm mà vẫn như cũ thấy cảnh liền
dời, theo duyên liền chuyển, không có một lập trường vững chắc. Tự mình
đã không có chút thụ dụng nào, thậm chí đại phá giới luật, không gì là
chẳng làm, tự mình cho là chẳng chấp pháp tướng, có biết đâu rằng sớm đã
chấp thủ phi pháp tướng rồi vậy. Tự mình đọa lạc, lại dắt dẫn theo vô
số thiện nam tín nữ đều cùng đọa lạc. Ðây là đều bởi chưa từng nhiếp
niệm, quán tâm, chưa từng thể hội hiểu rõ nghĩa bất trụ tướng và hai bên
chẳng chấp, khiến sanh ra như thế. Há chẳng đáng thương hại ! Nên 8 chữ
: trở về chỗ cũ, trải tọa cụ ngồi, trong kinh này chính là cái kim châm
vào đỉnh đầu, bài minh bên cạnh chỗ ngồi của chúng sanh bôn tẩu trần
lao chúng ta, lấy cái này mà phát khởi, chính là trỏ đích xác bát nhã
chẳng phải chỉ nói trống không mà được. Cần phải noi theo văn tự, bắt
đầu quán chiếu, thời thời khắc khắc chẳng buông lung, sự sự việc cần
khám nghiệm, mới hứa cho tiến được một phần nào. Trên đây là theo giáo
hóa để nói rõ nghĩa phát-khởi-tự. Tóm 10 nghĩa này để làm phát khởi,
chẳng những lý và sự của vô thượng đại pháp rõ ràng trọn vẹn, lại phương
pháp dự bị bắt đầu hạ thủ của kẻ tu hành cũng nói ra hết ở đây. Thật là
hi hữu ! Nếu chẳng mỗi mỗi lĩnh hội, theo như pháp mà tu, há chẳng
những cô phụ Thế Tôn hi hữu hộ niệm phó chúc, lại cô phụ luôn phát khởi
tự hi hữu này. Nhĩ thời : là lúc chính đương nói nghe đầy đủ, cơ duyên
thành thục. Thế tôn : riêng có 10 danh hiệu, gọi chung lại là thế tôn,
vì ngài đầy đủ đức của 10 danh hiệu được tôn sùng ở thế gian nên gọi là
thế tôn, nghĩa này là theo Ðại-Luận. Mười danh hiệu là :
1. - Như Lai, các pháp như một, là như, chẳng lại mà lại là lai, đây là theo tánh thể để tiêu hiểu đức.
2. - Ứng cúng, ứng với việc cúng dường của cõi trời cõi người, đây là theo đại bi, đại nguyện để tiêu biểu đức.
3.
- Chánh biến tri, là biết hết thảy pháp, tức là giả mà cũng tức là
không, không pháp nào là chẳng trung đạo, một không hết thảy không, một
giả hết thảy giả, một trung hết thảy trung, không nghiêng không dựa,
tịch và chiếu đồng thời là chánh, tam-đế lý trí viên dung vô ngại, trí
khắp sa giới, soi suốt vi trần là biến, đây là theo nghĩa tịch chiếu
đồng thời để tiêu biểu đức.
4. - Minh hành túc, có hai thuyết :
kinh Ðại Niết Bàn nói : minh là được vô lượng thiện quả, hành túc là
chân có thể đi (trỏ giới và tuệ), nghĩa là đắc vô thượng bồ đề do đi
bằng chân giới tuệ, đây là theo nghĩa tu nhân đắc quả mà tiêu biểu đức.
Ðại Luận nói : "minh là tam minh : túc mạng, thiên nhãn, lậu tận, hành
là trỏ ba nghiệp thân, khẩu, ý, chỉ có Phật là hành của tam minh đầy
đủ", theo nghĩa này mà nói là theo nghĩa thần thông để tiêu biểu đức.
5.
- Thiện thệ nghĩa là đi tốt lành, tức là vào vô dư niết bàn, chỗ gọi là
sanh diệt diệt hết thì tịch diệt hiện ra, đây là theo nghĩa đoạn chứng,
để tiêu biểu đức.
6. - Thế gian giải, sự tướng của hết thảy
hữu tình, phi hữu tình, không loại nào là chẳng hiểu rõ, đây là theo
nghĩa hậu đắc trí để tiêu biểu đức.
7. - Vô thượng sĩ, ở trong
hết chúng sanh, Phật là bực cao hơn hết, đây là theo địa vị để tiêu biểu
đức. 8. - Ðiều ngự trượng phu, hoặc dùng lời nói mềm dịu, hoặc dùng lời
nói khổ thiết, khéo có thể điều ngự bực trượng phu khiến cho họ vào
thiện đạo (chẳng kể trai hay gái tăng hay tục, muốn xa lìa trần cấu, nếu
chẳng đầy đủ khí khái của bực trượng phu, tâm chí quả quyết kiên định
thì chẳng thể được. Người mà được như thế thì chỉ có Phật là có thể điều
phục mà giá ngự họ), đây là theo giáo chủ để tiêu biểu đức.
9.
- Thiên nhân sư, làm tiêu biểu cho cõi trời cõi người, như ánh sáng mặt
trời rọi khắp, không chỗ nào là chẳng được ích lợi, đây là theo nghĩa
lợi khắp để tiêu biểu đức.
10. - Phật, tự giác, giác tha, giác hành viên mãn gọi là Phật đà, đây là theo nghĩa cứu cánh giác quả để biểu đức.
Các
kinh luận khác hoặc hợp ứng cúng, chính biến tri làm một gọi là ứng
chính biến tri, hoặc hợp thiện thệ, thế gian giải làm một, hoặc hợp vô
thượng sĩ, điều ngự trượng phu làm một, hoặc hợp Phật, thế tôn làm một,
có nhiều thứ chẳng giống nhau. Bởi vì kinh nói Phật đủ 10 danh hiệu nên
hợp 10 số làm tiêu-chuẩn. Chỉ có Ðại Luận, từ thứ nhứt Như Lai, đến thứ
mười Phật, chia làm 10 số, mà lấy thế tôn làm tiếng gọi chung 10 danh
hiệu của Phật, nghĩa này có thể đúng hơn cả.
Thực thời : Tam
thế chư Phật quy định quá ngọ một sợi tóc liền chẳng được ăn. Nay nói
giờ ăn sắp đến, nên trước phải đi xin. Trong Luật Tạng nói thực thời
chẳng phải một thuyết, nay hãy thuật ra một thuyết : giờ sửu, dần, mão
(từ 2 giờ sáng đến 8 giờ sáng) là giờ ăn của chư thiên, gọi là sơ phận
(hoặc giờ dần, mão, thìn làm sơ phận, sách Toản Yếu của ngài Khuê Phong y
theo thuyết này), giờ thìn, tỵ, ngọ (từ 8 giờ đến 12 giờ trưa) là giờ
ăn của nhân gian, gọi là trung-phận, giờ mùi, thân, dậu ( từ 2 chiều đến
8 giờ tối) là giờ ăn của súc sanh, gọi bô-phận, giờ tuất, hợi, tý (từ 8
giờ tối đến 2 giờ khuya) là giờ ăn của thần quỉ, gọi là dạ-phận. Vì bảo
là các đạo chúng sanh phần nhiều ăn ở giờ đó, hoặc nên ăn ở giờ đó,
chẳng phải bảo nhứt định là chẳng dời đổi. Chỉ có Phật pháp chế định qua
giờ ngọ thì chẳng ăn, dụng ý sâu rộng như trong luận nói. Lúc đi khất
thực, phần nhiều ở giờ thìn (8 đến 10 giờ sáng), vì đi sớm quá hay đi
trễ quá thì xin không được. Ðây là đề phòng chúng sanh không có gì để bố
thí khiến cho họ sanh ra phiền não, và nếu không xin được cái gì ăn lại
khiến tự mình phiền não.
Trước y : Phật chế ra 3 y : 1. -
An-đà-hội nghĩa là áo lót trong, hành đạo hoặc làm việc có thể dùng, tức
là y năm điều, có tên là hạ phẩm y . 2. - Uất-đa la-tăng nghĩa là áo
ngoài, cũng có tên là trung phẩm y, tức là y 7 điều, có thể mặc để vào
làng xóm hoặc thuyết pháp. Còn nếy gặp đại chúng tụ hội thì phải mặc đại
y. 3. - Tăng-già-lê nghĩa là y mặc lúc đông người tụ hợp tức là đại y,
lại có tên là thượng phẩm y, cũng có tên là phước điền y, là y chín điều
cho đến 25 điều. Nếu vào cung vua, thành vua, xóm làng, chỗ nào và lúc
nào đại chúng tập hội, uy nghi nghiêm chỉnh, hoặc truyền giới thuyết
pháp, xin ăn v v... phải mặc y này. Từ năm đến chín điều đều cắt vải rời
ra thành miếng hình vuông, rồi may ráp lại, số điều ít thì vuông vải
lớn, số điều nhiều thì vuông vải nhỏ, nhỏ thì xen khít nhau rõ ràng như
ranh giới miếng ruộng, nên chỉ có y chín điều gọi là phước điền y. Từ 10
điều trở lên là vì thân thể có người cao lớn nên y may cũng theo đó mà
dài rộng hơn, vì thế số điều tăng lên nhiều. Bên Thiên Trúc là xứ lạnh,
nên ba y cho phép mặc lồng với nhau. Ðông Phương vì khí hậu còn lạnh
nhiều hơn, và vì tập quán nên phần nhiều mặc ra ngoài áo thông thường,
bởi thế không có thói quen mặc lồng hai ba cái, chỉ có xứ Tây Tạng, các
vị Lạt Ma mặc như thế mà thôi. Ba y gọi tên chung là cà-sa, là tiếng
Phạm đặt tên theo màu sắc của Y, tức là y có màu sắc chẳng chính, sắc hư
hoại, chẳng chính có nghĩa là màu phức tạp , màu phức tạp là màu hư
hoại. Nên màu đen phải đen như bùn, màu xanh phải giống như màu
đồng-lục, màu đỏ thì đỏ nhiều đen ít pha lẫn nhau gọi là màu mộc-lan,
tức là Thiên Trúc chỗ gọi là càn-đà sắc, hoặc màu đỏ màu đen pha lẫn
nhau thành ra màu nâu. Ký Quy Truyện nói : hoặc dùng củ sanh-địa, hoặc
dùng hoàng-bá, giã đất đỏ hay đá đỏ ngâm nước mà nhuộm. Tóm lại chẳng
cho dùng các màu chính tươi tốt rực rỡ như màu xanh, vàng. đỏ, đen, tím,
mà phải gồm màu phức tạp khiến cho màu xậm lại hư đi. Tứ Phần luật nói :
mỗi mỗi trong một màu tùy ý làm cho màu đó hư hoại đi là vậy. Còn như
man điều y là y của sa di, sa di ni, y này không có tướng điều, các vị
tăng lớn nếu không có ba y thì cũng có thể thông dụng. Ưu-Bà-Tắc,
Ưu-Bà-Di cũng hứa cho trong lúc lễ Phật tạm thời mượn mặc, mà chẳng được
mặc thường. Lúc Phật pháp mới sang đông phương người xuất gia chẳng
biết may cà-sa, chỉ may man-điều-y mà thôi trải qua 187 năm sau mới biết
may cà-sa. Trí Bát : tiếng Phạm là bát-đa-la, có nghĩa là ứng lượng
khí, tức là ăn tương ứng với lượng của mình, không quá lớn để chế bớt
tham, lại cũng nghĩa là thể, sắc, lượng đều cùng với pháp tương ứng, Thể
của bát chỉ cho làm bằng sắt hay sành, chẳng cho làm bằng cây, vì bát
làm bằng cây là đồ dùng của ngoại đạo, lại dễ dơ bẩn. Sắt thì lấy màu
chất phác vốn sẵn, lượng thì như trên đã nói, gọi tắt là ứng-khí tức là
đồ ứng cúng của bực hiền thánh. Thích Ca thành đạo, tứ thiên vương lấy
cái bát bằng ngọc lưu ly xanh của long cung cúng dường quá khứ
Duy-Vệ-Phật, hoá bát này ra làm bốn, mỗi vị thiên vương cầm một cái dâng
lên Phật. Phật lại hợp bốn bát làm một cầm để đi xin ăn. Nhập Xá Vệ Ðại
Thành : vườn Kỳ Ðà ở phía đông nam thành năm, sáu dặm, nên mới nói vào
thành. Thành này dài hơn 60 dặm, trong thành nhà ở chín ức, đất rộng
người đông nên gọi là đại (lớn).
Khất thực : Phật chế chẳng cho
người xuất gia dùng bốn thứ phương pháp mưu sinh, nuôi dưỡng thân mạng :
1). -Trồng cây, cấy lúa, gọi là hạ khẩu thực, 2). -Quan sát tinh tú để
nói điềm kiết hung là ngưỡng khẩu thực, 3). -Giao thiệp với kẻ có quyền
thế giàu có ở bốn phương là phương khẩu thực, 4). - Bói toán nói sự lành
dữ xấu tốt là duy khẩu thực, gọi chung là bất tịnh thực, tà mạng thực.
Chỉ
cho khất thực gọi là chánh mạng thực, là đường chánh của người xuất
gia. Sao gọi là đường chánh? Vì chiết phục ngã mạn, chẳng tham ăn ngon,
chuyên ý hành đạo, vì khiến cho hết thảy mọi người phá trừ bỏn xẻn, tăng
thêm phước. Ðến như Phật tự mình xin ăn, theo kinh Anh-Lạc gồm có nhiều
nghĩa, như khiến cho mọi người chẳng sanh lòng kiêu ngạo, khinh lờn,
khiến cho hết thảy chúng sanh bị che lấp được thấy Phật, được lợi ích,
trỏ bảo cho người xuất gia chẳng nên chứa đựng của cải. Ư kỳ thành trung
thứ đệ khất sĩ : thứ đệ có nghĩa là đi từng nhà theo thứ tự mà xin,
chẳng lựa chọn nhà giàu hay nghèo. Khất dĩ : nghĩa là hoặc bình bát đã
đầy, hoặc xin đến bảy nhà mà thôi, chẳng phải là lần lượt đi xin khắp cả
thành. Nối liền câu sau mà nói, thì xin xong liền trở về chẳng chút ngó
ngàng. Hoàn chi bổn xứ : là từ thành trở về vườn Cấp Cô Ðộc. Phạn tự
ngật : phạn tự là ăn cơm, như chữ phạn sơ tự (ăn cơm rau) trong sách
Luận Ngữ, ngật là xong.
Trong kinh Bảo Vân nói : đồ ăn xin được
chia làm 4 phần : một phần định nghĩ cho người cùng phạm hạnh, một phần
nghĩ thí cho người nghèo, đau ốm, một phần thí cho chúng sanh trên cạn,
dưới nước, còn chỉ giữ lại một phần để ăn. Trong kinh Thập Nhị Ðầu Ðà
chẳng nói chia người cùng phạm hạnh, là kinh này có dụng ý, nên hợp lại
mà thực hành. Chẳng nói chia cho người cùng phạm hạnh là vì đều phải tự
mình đi xin ăn, mà nay nói chia cho là vì hoặc có duyên cớ gì khác chẳng
rảnh đi xin ăn được. Nay ở hai thứ người phạm hạnh và người nghèo, đau
đều nói nghĩ, và nghĩ thí thì rõ ràng là chẳng nhất định, nếu có thì cho
chúng nó. Còn chúng sanh ở trên cạn dưới nước thì nhứt định là phải
thí, nên chẳng nói nghĩ. Thu y bát : không thu thì không tránh khỏi quải
niệm, chẳng thể yên tâm tu đạo. Tẫy túc dĩ : vì bảo hộ chúng sanh nên
đi chân không khất thực (người ở Aán Ðộ thường mang giầy da, dễ tổn
thương sanh mạng), sợ dính nhuộm bùn nhơ nên phải rửa, thu y bát, rửa
chân xong liền tu quán, vì lấy đạo làm trọng. Phu tọa nhi tọa : phu là
mở, tọa là tọa cụ. Trong 4 uy nghi đi, đứng, ngồi, nằm, thì đi dễ tán
loạn, đứng dễ mệt nhọc, nằm đễ hôn trầm, nên kẻ tu hành chỉ ngồi là hơn.
Cho nên kẻ xuất gia có nhiều người chỉ ngồi mà không nằm, kiết-già
phù-tọa là nghi thức thường trong cửa Phật, nên nay bỏ qua không nói kỹ.
Ngồi kiết già có 4 lợi ích : 1). -thân tâm thu nhiếp lại, mau
phát ra khinh an, 2. - có thể trải qua thời gian lâu mà chẳng mau mỏi,
3). - Chẳng giống ngoại đạo, vì họ không có pháp ngồi này, 4). - Hình
tướng ngay ngắn trang trọng khiến người khác sanh kính tín.
Ở
trên, từ trước y đến tọa, đều là Phật từ bi, ủy khúc vì đại chúng đem
thân mình ra làm quy tắc, thế tôn hồi ban sơ chẳng cần phải làm như thế.
Tại sao lại nói vậy? Như kinh Anh Lạc Nữ nói: "thân hóa Phật như trọn
đoạn Kim Cương, không có hai tạng sinh thục". Kinh Niết Bàn nói : "thân
của Như Lai chẳng phải là thân ăn phức tạp", tại sao phải xin ăn? Mà thị
hiện xin ăn trừ ba nghĩa đã nói trên khiến cho hết thảy mọi người chẳng
sanh kiêu mạn, thì không cái nào là chẳng vì người tu hành làm khuôn
mẫu. Ðã chẳng cần ăn, mà lại nói ăn cơm xong, chẳng biết cứu cánh có ăn
hay không? Ðây có hai nghĩa, nếu cứu cánh không ăn thì kẻ bố thí phước
chẳng được đầy. Phật từ bi khiến cho họ mãn nguyện, nên cũng thường theo
chúng mà ăn. Lại có thuyết nói : thức ăn đến miệng Phật thì có uy-đức
thiên ở bên cạnh ẩn mình tiếp món ăn đó đến phương khác bố thí làm Phật
sự. Vì chưng Phật đã hiển thị ăn, khiến kẻ bố thí phước được đầy đủ, mà
lại dùng thần lực dời đi làm Phật sự, thì ăn và chẳng ăn hai nghĩa không
ngại. Lại kinh A-Hàm nói : "Phật đi lìa xa đất 4 ngón tay, hoa sen nâng
ở chân" nguyên chẳng cần rửa, mà nay mỗi mỗi thị hiện những sự tướng
như trên há chẳng phải là ủy khúc vì đại chúng làm khuông mẫu ư?
Ở
trên chỗ nói nơi đoạn đầu chẳng qua là theo văn giải nghĩa, đến đoạn
thứ nhì chỗ nói làm khuôn mẫu cũng chỉ là nghĩa phổ thông, chỗ rất cần
yếu là phải hiểu rõ kinh này tại sao bày ra những sự tướng đó để phát
khởi? Phải biết, ở trong đó có tinh nghĩa rất lớn. Chỗ này chính là trỏ
bày một cách thân thiết để khiến người ta day về trong sự hành, chỉ,
động, tĩnh, mà thể hội. Thử nghĩ Như Lai vì cớ độ chúng sanh, ngài chẳng
phải sanh ra mà thị hiện sanh, thị hiện giống như kẻ phàm phu, không
ngày nào là chẳng mặc áo ăn cơm tức là không ngày nào là chẳng lấy thân
mình làm quy tắc. Tại sao đầu các cuốn kinh khác phần nhiều nói phóng
quang động địa, nay muốn tuyên thuyết tổng trì của hết thảy các pháp,
Kim Cương bát nhã đại pháp của chư Phật sanh ra, mà lại chỉ nghiêng về
nói một đoạn việc làm tầm thường hằng ngày dùng để phát khởi, thử hỏi có
kỳ hay không? Có diệu hay không? Kỳ diệu chẳng phải ở chỗ kỳ diệu, mà
kỳ diệu ở chỗ thô thiển.
Phải biết, việc hết sức bình thường,
và lý hết sức cao sâu có quan hệ mật thiết với nhau. Các nhà xưa nay
hoặc xem ra là giới, định làm phát khởi, hoặc đem cảnh tượng như như bất
động làm phát khởi, hoặc bảo việc làm tầm thường hằng ngày chẳng thể
coi thường, hoặc bảo mặc áo ăn cơm tức là phóng quang động địa làm phát
khởi, mỗi vị đều có chỗ thấy của mình, mỗi vị đều có cái diệu của mình.
Nay tôi đem các thuyết ra, lại từ phương diện yếu chỉ châm đối kinh văn
dẫn chứng nói rõ, khiến người ta có thể dễ thể hội. Nghĩa uẫn đã sâu,
một thời nói ra khó hết. Nay tổng quát đại khái làm mười tầng, nói một
cách đại lược :
1. - Bát-nhã là yếu pháp để nuôi lớn tuệ mạng,
thiệu long Phật chủng, cũng như áo mặc cơm ăn là món cần yếu của người
thế gian để hộ trì sắc thân, nối trước truyền sau. Nay đem các việc mặc
áo xin ăn làm phát khởi, chính là khiến người phát đại tâm hiểu rõ món
ăn bát nhã pháp này chẳng thể nào lìa ra trong chốt lát. Nên kinh nói :
Thụ trì đọc tụng, rộng vì người khác thuyết, tức là gánh vác A-Nậu
Bồ-Ðề. Lại nói : phải biết người này thành tựu pháp tối thượng hi hữu.
Lại nói : Chỗ có kinh này tức là có Phật và đệ tử tôn trọng. Từ mặt trái
của mấy câu kinh văn này mà xem, thì có thể sợ hãi cho là quan hệ của
nó rất lớn, giống như áo mặc cơm ăn một thứ, chẳng có thể tạm lìa ra
được, nên lấy đó làm phát khởi.
2. - Kinh nói : sau 500 năm có
kẻ trì giới tu phước, ở chương cú này có thể sanh tín tâm, thì có thể
thấy trì giới tu phước là cửa nhập đạo bát nhã, xin ăn là giới luật chế
định. Nay hiển thị mặc áo cầm bình bát, lần lượt đi xin ăn, đã là dẫn
dắt chúng sanh trì giới, lại là khiến cho khắp chúng sanh tu phước.
Trong kinh chỗ gọi là pháp thân vốn chẳng phải ăn, ứng thân, hoá thân
cũng như thế, vì tăng trưởng phước ở cõi trời cõi người, nên Phật từ bi
làm phước điền là vậy. Thế Tôn ngày ngày xin ăn tức là ngày ngày phát
khởi chúng sanh tín căn có thể vào bát nhã. Nay ở trước khi muốn thuyết
Kim Cương Bát-Nhã liền nói xin ăn để làm phát khởi, thân thiết biết bao
nhiêu!
3. - Khuê Phong đại sư nói :"giới có thể nuôi dưỡng
định, định có thể phát tuệ", nên dùng giới, định phát khởi. Phải biết,
tuệ mà không có giới, định là cuồng tuệ, chẳng phải là chính tuệ. Xin ăn
là giới, trải tọa cụ mà ngồi là để nhập định. Ðã hiển thị sự tướng
giới, định, rồi sau thuyết bát nhã rất sâu, há chẳng phải là hiển thị
thứ tự nhất định của tam học (giới, định, tuệ), khiến cho người ta biết
cái nào trước, cái nào sau. Lại trong kinh chỉ nói tuệ, mà riêng ở trong
phát khởi bổ túc thêm giới, định, là Phật, Bồ Tát vì cớ độ chúng sanh
khẩn thiết chu đáo đến như thế !
4. - Hết thảy người học Phật
có thể day về phía áo mặc cơm ăn, thức ngủ, bận rộn, mệt nhọc mà rèn
luyện, ấy là phương pháp rất cần yếu để hàng phục vọng tâm. Bởi tham cầu
cơm ăn áo mặc mà chẳng ngại bận rộn mệt nhọc, thì đã đành là chấp
tướng, ngay đến chán ghét sự mệt nhọc bận rộn này mà sanh phiền não thì
cũng là chấp tướng. Ắt phải đối cảnh tùy duyên, đã chẳng mê muội, lại
chẳng phiền não mới là phương pháp an tâm. Nên kinh nói : hết thảy pháp
đều là Phật pháp. Lại trong kinh phần nhiều đem độ bố thí ra để nói
hàng, trụ tâm, cũng là ý này. Thử nghĩ, bọn phàm phu chúng ta có người
nào là chẳng cần cơm ăn áo mặc, muốn thoát ra đã chẳng thoát nổi, muốn
tham cũng tham chẳng được. Lại đã phát đại tâm học Phật, thì các việc bố
thí độ sanh đều tất nhiên phải học. Nếu chẳng ở hết thảy đều dụng công
như trên, thì một ngày từ sáng đến tối nếu chẳng chấp hữu thì liền chấp
không, lúc nào mới có thể tìm được cái Tự-Tại? Ngay đến một câu Phật
cũng làm sao có thể niệm được tốt, các việc hoằng pháp lợi sanh cũng ắt
học chẳng được tốt. Nay Phật ở ngay trên sự mặc áo, ăn cơm, phát khởi
thậm thâm bát nhã, hai bên chẳng chấp, hết thảy đếu như, khiến người ta
lĩnh hội được ngay ở trên những sự tướng này mà dụng công, đã chẳng thể
chấp hữu mê không mà thủ pháp tướng, lại chẳng thể lìa hữu nói không mà
thủ phi pháp tướng, thiệt là đại từ đại bi vậy !
5. - Như lai
tùy thuận phàm phu mặc áo xin ăn, là nói rõ chẳng chấp cái tướng của quả
vị. Chính là trong kinh chỗ nói : Như Lai tức là nghĩa chư pháp như, là
vậy. Phải biết, quả như thì nhân cũng như, cho nên phải lìa hết thảy
tướng, phát a nậu bồ đề tâm, mà cái đạo hàng hàng phục tâm mình ở hết
trong này. Lấy quả đức chẳng chấp tướng phát khởi nhân hành chẳng nên
chấp tướng, thiệt đúng là chỗ gọi : nhân gồm biển quả, quả suốt nguồn
nhân, hết sức vi diệu !
6. - Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng
Vương nói : "Ngũ uẩn tức là pháp thân" Ngũ uẩn là huyễn hữu của duyên
sanh pháp thân là chân không, tịch mà chiếu. Ðây là bảo cho người ta
phải ở ngay cái huyễn hữu để thấy chân không, mà chẳng phải là tướng
đoạn diệt. Kinh này nhiều thứ khiển trừ tướng, mà quy trọng ở pháp,
chẳng nói đoạn diệt tướng, cũng là ý này. Phải biết, chỗ gọi là đệ nhứt
nghĩa không, chính phải chẳng chấp thủ, lại chẳng đoạn diệt mới gọi là
đệ nhứt nghĩa. Ðây là điểm khẩn yếu để học bát nhã, mà Như Lai lấy pháp
thân thị hiện các huyễn tướng phàm phu ăn cơm mặc áo, chính là muốn cho
phàm phu từ trên huyễn tướng của mỗi người thể nhận pháp thân vốn đầy
đủ. Chỉ đừng đuổi theo vọng, cần gì phải cầu cái chân ở ngoài cái vọng.
Nếu lại chấp cái chân, thì lại là ở trong cái chân nổi dậy cái vọng.
Trong kinh những câu : Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, ưng sanh vô sở trụ
tâm, phàm phu, phi phàm phu, chúng sanh phi chúng sanh, chẳng câu nào
là không thuyết nghĩa bất thủ, bất đoạn, bất tức, bất ly. Thế thì phát
khởi của kinh này có thể gọi là hết sức thiết yếu.
7. - Như Lai
thị hiện xin ăn, mà xin ăn xong liền trở về chỗ cũ. Lũ phàm phu chúng
ta chỉ biết bận rộn ở chỗ mưu ăn, trọn ngày trọn năm hướng ngoại rong
duổi mưu cầu, chưa từng biết phản chiếu bổn tánh. Lại như lai thị hiện
ăn xong liền thu xếp hết thảy, nhiếp tĩnh, vào quán tưởng, còn lũ phàm
phu chúng ta thì ăn no xong rồi chơi dỡn, quậy động chẳng nghỉ, chưa
tùng tĩnh được một lát, lại làm sao có thể tu quán ư ? Phải biết, bát
nhã tuệ lực từ nội chiếu mà sanh ra, mà nội chiếu ắt trước phải tĩnh tọa
nhiếp tâm. Nay dùng những câu này để phát khởi, chính là trỏ bảo cho
chúng ta hết thảy thế duyên khi nó lại thì ứng tiếp nó, khi việc qua rồi
liền phải thu xếp liệng qua một bên, liền lại phản quán, tĩnh chiếu,
bội trần hợp giác, thì mới có thể phát khởi bát nhã bổn tuệ . Phải nên
chú ý !
8. - Yếu chỉ của một bộ Kim Cương kinh chỉ là ở chỗ làm
sao hàng, làm sao trụ, nhưng dễ gì nói ra được? Ngài Ðạt-Thiên pháp sư
nói : "một khi có chỗ trụ thì giác tâm liền mất đi, vừa muốn hàng phục
thì vọng tâm càng nổi dậy", vậy nên phải không hàng mà hàng, không trụ
mà trụ, thế thì hạ thủ ra sao? Nay xem thế tôn mặc áo, ăn cơm, đi ra
phố, qua ngõ hẻm, rồi trở về rửa chân, trải tọa cụ, những việc nhỏ nhặt
này chẳng phải làm một thời như thế, mà độ sanh 49 năm thì 49 năm đều
làm như thế. Bởi Kim Cương thân của thế tôn không cần ăn cơm, không cần
rửa chân, lại chẳng cần học nhập định, nhưng vì cớ vì chúng sanh mà ngày
nào cũng làm những việc đó, tuy làm mà như vô sự, thiệt là bình đẳng
như như. Thứ hành động quen thuộc này tức là khuôn mẫu lớn để hàng tâm,
trụ tâm, chúng ta ắt phải tu học như thế. Phàm gặp lúc cảnh duyên tới,
đều phải theo như lời Phật dạy mà thực hành, làm mà như vô sự. Làm mà
như vô sự tức là không hàng mà hàng, không trụ mà trụ, như thế tức là có
thể khế hợp vào tôn chỉ sâu của bát nhã.
9. - Ở trên chỗ nói
không hàng mà hàng, không trụ mà trụ còn sợ chưa rõ nghĩa, nay xin lại
nói thêm, thế tôn khác xa người thường, tại sao lại thị hiện đường lối
của kẻ phàm phu, mà chẳng khác với người thường chút nào? Phải biết, vì
thế tôn chẳng khác với người thường, sở dĩ ngài khác xa người thường.
Chúng ta phải từ chỗ này mà thể-hội, và day về tự thân mình mà thể-hội.
Vì cớ gì ? Vì tuy chúng ta là phàm phu, mà vốn đầy đủ có như như Phật
tánh. Vì cớ gì? Vì chẳng thủ ở tướng. Chúng ta học bát nhã phải từ chẳng
thủ ở tướng mà dụng công. Chẳng thủ có nghĩa là chẳng ly hết thảy tướng
mà cũng chẳng chấp tướng. Nếu nghiêng về lấy vô tướng làm chẳng chấp,
thì lại là thủ phi pháp, mà là đoạt tuyệt. Nên kinh nói : nếu thấy các
tướng chẳng phải tướng liền thấy Như Lai. Các tướng chẳng phải tướng có
nghĩa là tuy có các tướng mà không chấp nó. Lại nói : chẳng thủ ở tướng,
như như chẳng động. Vì chẳng thủ ở tướng cho nên được thấy hết thảy
pháp tướng, phi pháp tướng. Chẳng thủ tức là không hàng phục mà hàng
phục, không trụ mà trụ. Ðầu cuốn kinh lấy chẳng thủ tướng làm phát khởi,
tôn chỉ này sâu vậy.
10. - Tổng hợp chỗ thuyết ở trên có thể
thấy một phận phát-khởi-tự này hiển hiện ra trọn vẹn đệ nhứt nghĩa
không, hãy xem Như Lai thị hiện giống như kẻ phàm phu là vì lợi tha, là
không có ngã tướng. Bát nhã diệu pháp phó mặc cho từ trên sự tướng của
những việc nhỏ nhặt tự tại tuôn ra, tức là không có pháp tướng. Chẳng
cần phải ăn mà đi xin ăn, cho đến thị hiện rửa chân, trải tọa cụ v v...
là dùng giáo pháp chẳng nói để hộ niệm, phó chúc hết thảy những kẻ phát
đại tâm, cũng tức là không có phi pháp tướng. Ðược tiến lên như thế, thì
lý trí chân-không hiện rõ ràng ngay nơi tâm, nơi mắt, phát khởi tinh
diệu còn gì hơn thế nữa chăng? Các ông phải biết, sở dĩ trên phận
phát-khởi-tự này, tôi nói đi nói lại chẳng nệ phiền phức, không có gì
khác, chỉ muốn cho các vị thiện tri thức biết được làm sao khởi tín, và
hiểu rõ lý trí tam không, tùy việc mà có thể thấy. Xin các ông day về
lúc mặc áo, ăn cơm, lúc hành chỉ, động tĩnh, tùy theo từng lúc mà quán
chiếu như thế, thì có thể được sự thụ dụng ngay. Rồi sau mới biết một bộ
kinh Kim Cương này thiệt là phuơng thuốc hay để tiêu trừ khổ ách, con
đường tắt để vào Phật trí. Các ông phải nên tôn trọng !
CHÍNH TÔNG PHẬN
Thời trưởng lão Tu Bồ Ðề tại đại chúng trung, tức tùng tọa khởi,
thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hợp chưởng cung kính nhi bạch
Phật ngôn :
Dịch nghĩa : Lúc đó ông trưởng lão Tu Bồ Ðề ở trong
đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy hở vai áo phía hữu, đầu gối phía
hữu quì xuống đất, chấp tay cung kính mà thưa Phật rằng :
Thời :
tức là trỏ lúc thế tôn xin ăn xong trở về vườn Kỳ Ðà, chữ thời này rất
cần phải chú ý. Lời tán thán hi hữu ở văn dưới liền theo một đoạn văn
trên mặc áo, cầm bát mà tới. Kẻ chép kinh để một chữ thời, gồm có vô
cùng cảm khái ở trong đó. Thế tôn mặc áo, cầm bát, xin ăn, ngày nào cũng
như thế, đại chúng tuy thấy thế mà giống như không thấy. Lần này cơ
duyên thành thục mới bị con mắt của Tu bồ Ðề xem thấy. Ðại pháp bát nhã
thế tôn chẳng thường thuyết, ngay đến thuyết cũng phải đợi cơ duyên
thành thục mới thuyết. Thiệt là hi hữu khó gặp, chỗ gọi là ngàn năm một
thuở vậy.
Trưởng lão : là tên gọi bực tuổi tác và đức hạnh đều
cao, nhà Ðường dịch là cụ-thọ chỉ hiển tuổi cao, nhà Ngụy dịch là
tuệ-mạng chỉ hiển đức lớn. Ngài La-Thập thuận theo văn nghĩa phương đông
dịch làm trưởng lão gồm cả hai nghĩa trên.
Tu Bồ Ðề : nghĩa là
Không sanh, lại có chỗ dịch là Thiện Hiện, Thiện Cát, Gia đình của ông
giàu có nhiều tài bảo, trong lúc ông sanh ra thì kho tàng vàng bạc trong
nhà trống không hết, nên đặt tên ông là Không Sanh. Sau khi sanh ra 7
ngày, thì tài bảo trong kho lại hiện ra trở lại, nên gọi ông là Thiện
Hiện. Lại thầy tướng xem tướng ông đoán rằng : đứa trẻ này tốt lành
chẳng cần phải lo lắng, nên lại có tên là Thiện Cát. Lúc mới sanh ra,
kho tàng trống không là biểu hiển lý không. Sau tài bảo lại hiện ra là
biểu hiển không mà chẳng phải thiên-không. Sách Tây Vực Ký nói : "ông Tu
Bồ Ðề vốn là Thanh Long Ðà Phật ở Ðông Phương, ảnh hiện ra ở hội Phật
Thích Ca, thị hiện làm A La Hán, phụ giúp Thích Ca Mâu Ni làm việc giáo
hóa, ở trong cửa Phật hiểu nghĩa không đệ nhứt". Không mà chẳng không
mới là chân không, mới là đệ nhứt nghĩa không. Các đệ tử chẳng bằng Tu
Bồ Ðề lĩnh ngộ rất sâu, nên trên hội bát nhã ắt phải lấy Tu Bồ Ðề làm
đương cơ thay đại chúng thỉnh vấn Phật. Tu Bồ Ðề vì đại chúng khải
thỉnh, gồm có 4 yếu nghĩa :
1)- Ðại chúng thông thường ngày
ngày thấy thế tôn mặc áo, cầm bát, cùng các vị tỳ kheo tầm thường giống
nhau, nên mờ mịt chẳng biết dụng ý của Phật ở chỗ nào, thế nên ắt phải
đợi thị hiện thanh văn là ông Tu Bồ Ðề vì đó mà khải thỉnh.
2)-
Ðây đã đến hội bát nhã thứ 9, thế tôn ở lúc bình thường, mặc áo ăn cơm,
khéo hộ niệm, khéo phó chúc bát nhã đại pháp, đem lý đệ nhứt nghĩa
không rất sâu nêu lên đầy đủ, nhưng đại chúng đã đành chẳng thể hiểu
thấu, nếu không có Tu Bồ Ðề thì chẳng ai có thể vì đó khải thỉnh.
3)-
Các vị trưởng lão đệ tử của Phật chẳng phải chỉ một ông Tu Bồ Ðề, nhưng
hiểu nghĩa không thì không ai bằng Tu Bồ Ðề, nên đương cơ thỉnh pháp
nếu không có Tu Bồ Ðề thì chẳng có ai thỉnh nổi. 4)- Trong hội còn có
các vị bồ tát ma ha tát, sao không khải thỉnh, mà nhường Tu Bồ Ðề một
mình thỉnh vấn, vì chưng Phật nói bát nhã chính là vì bậc a la hán, gồm
thêm các vị bồ tát, nếu bồ tát khải thỉnh, thì a la hán sẽ nghi rằng đây
là pháp của bồ tát, cùng với ta chẳng dính líu gì. Nay nhường Tu Bồ Ðề
khải thỉnh hoàn toàn là vì đại chúng mà thỉnh, văn dưới mở miệng ra liền
nói : thiện nam tử, thiện nữ nhân. Nên một lời nói : ở trong đại chúng,
gồm có bao nhiêu ý nghĩa ở trong đó.
Tức : có nghĩa là liền, có ý là cấp bách chẳng thể đợi. Thế
tôn trải tọa cụ mà ngồi, đại chúng cũng vậy, nên Tu Bồ Ðề liền từ tọa cụ
đứng dậy, đây là theo dấu tích mà giảng như thế. Nếu theo trên căn bản
thì Tu Bồ Ðề sớm đã thành Phật, thế tôn thuyết bát nhã đã trải qua tám
hội, tại sao ắt phải đợi đến hội thứ chín lúc thuyết Kim Cương bát nhã
mới từ chỗ ngồi đứng dậy mà thỉnh? Có thể biết, phàm việc gì ắt phải cần
có trọn vẹn bốn cái : thời, tiết, nhân, duyên mới có thể hợp thành. Thế
tôn thuyết bát nhã là thời, thuyết Kim Cương là tiết, có bao nhiêu thứ
nhân, có bao nhiêu thứ duyên, đến đây nhân duyên đầy đủ, Tu Bồ Ðề bèn
đương cơ thỉnh vấn đại pháp này. Cà-sa mặc ở vai trái, nên vai mặt có
thể để hở. Phật chế mặc cà-sa lúc bình thời không để hở vai, ắt đến lúc
cung kính mới để hở vai. Phàm người ta làm việc ắt dùng tay mặt, đi thì
chân mặt bước đi trước, đây là biểu thị ý hễ có việc thì đệ tử phải phục
vụ. Kinh này chú trọng ở gánh vác bồ đề, đệ tử chính nên gánh lên vai
trách nhiệm này. Lúc lễ bái thì hai đầu gối dính liền với đất, như sám
hối thì quì đầu gối mặt , người xưa gọi là hồ-quị. Trước địa : là chân
dẫm lên đất một cách chắc thực, tiêu biểu pháp tức là thực tế lý địa,
tức là thực tướng, khiến người ta chứng được bổn tánh. Hợp chưởng : là
hai bàn tay hợp với nhau, không cầm vật gì khác. Chúng ta hai tay lúc
duỗi ra nắm lại toàn là trần cấu, nay thì hợp hai tay với nhau tức là
bội trần hợp giác. Ðể hở vai đến chắp bàn tay là thân nghiệp thanh tịnh.
Diện mạo ở ngoài ngay ngắn nghiêm chỉnh gọi là cung, trong lòng thành
khẩn gọi là kính, là ý nghiệp thanh tịnh. Nhi bạch Phật ngôn : bạch
nghĩa là thưa với, bày tỏ, đem ý tứ của mình bày tỏ ra, đây là ngữ
nghiệp thanh tịnh.
XƯNG TÁN
Hi hữu thế tôn! Như Lai thiện hộ niệm chư bồ tát, thiện phó chúc chư bồ tát.
Dịch nghĩa : Thưa đức thế tôn hi hữu! Như Lai khéo hộ niệm các bồ tát, khéo phó chúc các bồ tát.
Thông thường nói hi hữu, qui nạp lại nó có 4 nghĩa :
1)-
thời hi hữu, vì như lai xuất thế trải qua vô lượng kiếp cũng khó gặp
được, 2)- Xứ hi hữu, vì trong tam thiên đại thiên thế giới chỉ có một vị
Phật, 3)- Ðức hi hữu, vì phước và tuệ thù thắng, không ai sánh kịp, 4)-
Sự hi hữu vì từ bi phương tiện dụng rất khéo léo. Bốn nghĩa trên là
thuyết thông thường. Nay nói hi hữu là trỏ ngay bát nhã ba la mật mà
nói.
Thế tôn : là danh hiệu chung của Phật, lúc xưng hô thì
dùng, gọi tên Phật là biểu thị quả đức, gọi tên như lai là biểu thị tánh
đức. Tu Bồ Ðề ở việc mặt áo ăn cơm v. v... của Phật, thấy được các
tướng mà chẳng phải tướng liền thấy như lai, nên mở miệng liền gọi : NHƯ
LAI, Phật lấy pháp thân như lai thị hiện giống như kẻ phàm phu, đây là
chính ở chỗ đó biểu thị chẳng trụ hết thảy tướng. Pháp thân như lai vì
cớ vì lại thị hiện giống như phàm phu? Tức là chẳng bỏ chúng sanh, tức
là hộ niệm. Chẳng bỏ chúng sanh là đại bi, mà lấy pháp thân như lai để
thị hiện là đại trí. Ðại bi này từ đại trí mà sanh ra, là hữu mà chẳng
hữu. Hữu mà chẳng hữu mới là diệu hữu, mới là cái diệu hữu chẳng ngại
chân không. Lấy cái diệu hữu chẳng ngại chân không để hộ niệm há chẳng
là khéo ư? Hiện tích giống như phàm phu, chính là biểu thị pháp thân như
lai chẳng trụ hết thảy tướng, tinh nghĩa của Kim Cương Bát Nhã nêu lên
hoàn toàn, đây là lấy giáo nghĩa chẳng dùng lời nói để phó chúc. Giáo
nghĩa chẳng dùng lời nói là đại trí, đại trí này từ đại bi sanh ra, là
không mà chẳng không. Không mà chẳng không mới là chân không, mới là
chân không chẳng ngại diệu hữu. Lấy cái chân không chẳng ngại diệu hữu
để phó chúc, khéo không còn gì khéo hơn như thế. Chẳng kể là hộ niệm hay
phó chúc, không cái nào là chẳng không và hữu rõ ràng cả hai, tinh lý
phát huy chân không diệu hữu của trọn bộ kinh chỗ nào cũng có thể thấy,
rõ ràng là mạch lạc thông suốt vậy.
Sự tán thán hi hữu đã đành
là ý nhiều kiếp đã qua khó gặp, mà cũng gồm cả nghĩa khó lĩnh hội ở
trong đó. Ðây là đem câu văn ở dưới : Tôi từ xưa đến nay chỗ được tuệ
nhãn chưa từng được nghe kinh như thế này, và câu : Tôi nay được nghe
kinh điển như thế này, tín giải thụ trì chẳng đủ là khó, nếu ở đời sau,
sau 500 năm, có chúng sanh nào được nghe kinh này tín giải thụ trì, thì
người này là đệ nhứt hi hữu, ra mà xem đều có thể chứng minh là tín giải
chẳng dễ vậy. Ý của Tu Bồ Ðề cho là : Tôi từ xưa đến nay bây giờ mới
xem ra sự hộ niệm phó chúc của như lai, đại chúng tuy chẳng thể lĩnh
hội, mà thế tôn vẫn thị hiện như thế, lại càng hi hữu. Hộ niệm, phó chúc
sở dĩ đều nói là khéo, hộ niệm thuộc về tâm, phó chúc thuộc về miệng.
Nếu đợi khởi tâm hộ niệm, thì lúc khởi tâm mới có hộ niệm, còn lúc chẳng
khởi tâm liền chẳng hộ niệm. Nếu đợi phát ra lời nói để phó chúc, thì
lúc phát ra lời mới có phó chúc, còn lúc chẳng phát ra lời nói liền
chẳng phó chúc, đều chẳng có thể gọi là khéo. Nay lấy như lai vào thành
rồi trở về vườn , như như chẳng động, mật thị trụ tâm, dùng thân mình
làm khuôn mẫu, chính là gia hộ ức niệm.
Lại lấy ăn xong, ngồi
tĩnh tọa, một niệm chẳng sanh, mật thị hàng phục tâm, khiến tăng chúng
lấy đó làm phép tắc, chính là phó thác phó chúc. Trong khoảng động tĩnh
lấy thân làm giáo pháp mà chẳng dùng ngôn ngữ làm giáo pháp, tùy theo
lúc, tùy theo chỗ, không cái nào là chẳng làm mô phạm cho bồ tát. Ðây
thiệt là chỗ bảo rằng khéo, Tu Bồ Ðề mở miệng tán thán hi hữu thật là
đúng vậy.
THỈNH PHÁP
Thế tôn ! Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm, ưng vân hà trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm ?
Dịch
nghĩa : Thưa đức thế tôn ! Trai lành, gái lành phát tâm a nậu đa la tam
miệu tam bồ đề, phải làm sao trụ , làm sao hàng phục tâm mình ?
Các
bản thông thường đều chép : vân hà ưng trụ. Nay theo bản viết kinh của
người nhà Ðường chép : ưng vân hà trụ. Chư bồ tát ở câu văn trên tức là
trỏ thiện nam tử, thiện nữ nhân nầy mà nói, vì họ phát vô thượng tâm,
liền có tư cách thành Phật, liền có thể gọi là bồ tát. Thiện : là thiện
căn, phát vô thượng tâm nếu không có đại thiên căn thì chẳng thể được.
Phàm con người đều có thiện căn, nếu không có thiện căn thì chẳng thể
vào trong nhân đạo, cũng chẳng thể nghe đại pháp này. Nhưng nếu không
phát tâm thì chỉ có thiện căn nầy một cách trống không, há chẳng cô phụ.
Trong kinh Phật thường hay chê trách đàn bà, lại thường nói đàn bà
chướng nặng, chẳng thể thành Phật, ắt trước phải chuyển qua thân đàn ông
mới có thể thành Phật. Có kẻ nghi ngờ pháp bình đẳng của Phật, nếu đàn
bà trước phải chuyển qua thân đàn ông là bất bình đẳng, đây là họ chưa
hiểu rõ phật lý mà trước đã phê bình phật pháp, như thế thì chẳng nên!
Phải biết, đàn bà đích xác là có chướng nặng, một là có chướng ngại về
chửa đẻ, nuôi con, hai là thường thường nhận lầm ÁI làm TỪ BI. TỪ BI là
bình đẳng, không chia ra thân sơ, hậu bạc, ÁI là giòng sông sanh tử,
dùng lầm liền rơi vào luân hồi. Trong con mắt Phật không có tướng nam
hay nữ, sở dĩ nói đàn bà chướng nặng là muốn cho họ đặc biệt chú ý,
chẳng nên chịu sự chướng ngại nầy, chỉ cần phải phát đại tâm, thì cũng
có thể thành phật như đàn ông. Chỗ nầy sở dĩ Tu Bồ Ðề hỏi cả hai.
Phát
: là sanh ra, nổi dậy, có nghĩa là phát tâm trên cầu Phật đạo, dưới hóa
chúng sanh, chứng quả vô thượng. Chữ phát thông suốt cả văn trên văn
dưới, nghĩa thông năng và sở. Văn trên thiện nam thiện nữ là năng phát,
văn dưới a nậu bồ đề là sở phát. Tiếng Phạm A nậu đa la có nghĩa là vô
thượng, tam miệu là chánh đẳng, tam bồ đề là chánh giác, hợp lại là vô
thượng chánh đẳng chánh chánh giác. Chánh giác là khác với cái bất chánh
của phàm phu, ngoại đạo, vì phàm phu còn có cái ngã, chẳng thể tự giác,
ngoại đạo tuy có giác mà thuộc về thiên giác, tà giác, chẳng phải chánh
giác. Chánh đẳng là khác với cái bất đẳng của nhị thừa. A la hán đều
được chánh giác, nhưng sợ sanh tử như lao ngục, gấp rút ở tự độ, khuyết
thiếu từ bi tâm, chẳng thể tu thiện, độ chúng sanh, vì không có tâm bình
đẳng : Tam miệu là trỏ ngay bồ tát mà nói. Chánh đẳng là tự giác, giác
tha, tự và tha đều bình đẳng. Vô thượng là khác với hữu thượng của bồ
tát. Bồ tát giác tuy chánh đẳng, nhưng còn chưa được như Phật giác hành
viên mãn, nên vô thượng là trỏ ngay Phật mà nói. Chỗ phát tâm của thiện
nam tử thiện nữ nhân nầy là vô thượng giác tâm của Phật. Tâm là thể linh
minh giác chiếu, ở trên dụng có chia ra : chân, vọng, nhiễm, tịnh. Nay
nói theo bồ đề mà phát thì rõ ràng là chân là tịnh, chẳng phải vọng
nhiễm.
Ðại Luận nói : từ nhân đến quả có năm thứ bồ đề : 1)-
phát tâm bồ đề tức là thập tín vị, 2)- phục tâm bồ đề tức là tam hiền
vị, 3)- minh tâm bồ đề tức là từ sơ địa đến thất địa, 4)- xuất đáo bồ đề
tức là bát địa đến thập địa, 5)- vô thượng bồ đề tức là như lai quả vị.
Nay theo năng phát tâm, tức là ngay ở bồ đề thứ nhứt, còn nếu
theo sở phát tâm thì tức là bồ đề thứ năm. Năng và sở hợp lại mà nói,
suốt thông từ đầu đến cuối. Cho nên biết vô thượng thuộc quả, chánh đẳng
chánh giác thuộc nhân, tâm sở phát thì thông cả nhân lẫn quả. Ưng : là
nên, phải nên, chữ này suốt với hai câu sau. Trụ : là ngừng ở một chỗ.
Hàng phục : là khắc chế, nhiếp trì. Chữ tâm trong câu kỳ tâm, là trỏ
vọng nhiễm mà nói. Lời nói có ba ý : phàm là bồ tát phải phát bồ đề tâm,
nên trước hỏi phát tâm. Vừa mới phát tâm nầy, chẳng được như Phật, tùy
duyên an trụ, nên thứ nhì hỏi trụ tâm, ý ở chỗ cầu Phật chỉ bảo phương
pháp có thể khiến cho tâm nầy tương ứng mà trụ. Lại vì vọng tâm nổi dậy
liền liền, chẳng thể giống như Phật tự nhiên hàng phục, nên sau lại hỏi
hàng phục, ý ở chỗ cầu Phật chỉ bảo phương pháp có thể khiến cho vọng
tâm tự nhiên mà hàng phục. Phát tâm là việc trước hết, nhưng ắt phải
phát đại tâm mới có thể tu đại hạnh, đắc đại quả.
Kinh Hoa
Nghiêm nói : "Quên mất bồ đề tâm mà tu các thiện quả là bị ma nhiếp
trì". Thiện nam nữ lúc mới phát tâm ắt phải tự mình kỳ vọng cho mình
thành Phật mà phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm. Vô thượng chính
là chỗ cầu mong. Muốn cầu vô thượng ắt phải tu phước độ sanh, nên thứ
nhì nói chánh đẳng. Muốn độ chúng sanh ắt phải trước tự độ, nên sau nói
chánh giác. Nói ngược lại, tức là tự giác giác tha, giác hành viên mãn.
Ðại
luận nói : lúc mới phát tâm, và lúc cứu cánh, hai cái không khác. Hai
tâm này thì tâm trước khó. Phát tâm bồ đề, đến vô thượng bồ-đề chỉ là
một tâm, chẳng phải hai tâm, nhưng mới phát tâm khó, nên Tu Bồ Ðề trước
đem phát tâm ra để hỏi. Trụ tâm, hàng tâm là việc sau. Có người trước đã
từng phát tâm, sau nầy quên mất, đây là chẳng biết chơn tâm an trụ ra
sao, để đến nỗi vọng tâm chẳng thể hàng phục được. Nên Thiện-Tài đồng tử
mỗi lần gặp thiện hữu đều khải thỉnh rằng : "Tôi đã trước phát a nậu đa
la tam miệu tam bồ đề tâm, mà chưa biết làm sao học bồ tát hạnh, tu bồ
tát đạo". Do đó có thể biết phát đại tâm ắt tu đại hạnh, trụ, hàng,
chính là chỗ hạ thủ thiết thực để tu hành, nên thứ nhì mới hỏi trụ hàng.
Nhưng hai sự hỏi nầy thực giúp lẫn nhau, vì giác tâm trụ thì vọng tâm
chẳng hàng mà hàng, vọng tâm hàng thì giác tâm chẳng trụ mà trụ.
NHƯ LAI TÁN HỨA
Phật ngôn : thiện tai, thiện tai ! Tu Bồ Ðề, như nhữ sở thuyết. Như Lai thiện hộ niệm chư bồ tát, thiện phó chúc chư bồ tát.
Dịch
nghĩa : Phật nói : Khéo thay, khéo thay ! Tu Bồ Ðề, như chỗ ông nói.
Như Lai khéo hộ niệm các bồ tát, khéo phó chúc các bồ tát.
Kẻ
kết tập kinh, chỗ nầy để chữ Phật là có ý sâu. Phật là quả cứu cánh
giác. Văn trên người phát tâm chính là tu nhân. Muốn biết đường dưới núi
thì phải hỏi người đã đi qua. Chỗ nầy để chữ Phật, tức là nhân như thế,
thì quả như thế, ngược lại tức là quả như thế thì nhân cũng như thế.
Thiện tai, thiện tai : là lời xưng tán. Như nhữ sở thuyết : là lời ấn
chứng. Chữ thiện tai thứ nhứt là xưng tán ông Tu Bồ Ðề khéo khế hợp với
bổn tâm của Như Lai.
Mấy chục năm Phật thị hiện trần lao, lẳng
lặng hộ niệm phó chúc, tuyệt nhiên chưa có lời nói, mà nay ông Tu Bồ Ðề
riêng mình có thể thấy được, nên Phật xưng tán ông ấy. Chữ thiện tai thứ
hai là xưng tán ông ấy thay đại chúng khải thỉnh. Khổ tâm của Phật là
muốn cho thiện nam nữ phát tâm học hỏi, nhưng không người nào có thể
thỉnh vấn.
Nay một mình ông Tu Bồ Bồ Ðề có thể thỉnh vấn, để
mãn bổn nguyện của như lai, nên Phật lại xưng tán ông ấy. Người khác
chẳng thể hỏi, chỉ riêng một mình ông có thể hỏi, nên chữ thiện tai thứ
nhứt là tán đại trí của ông ấy. Hỏi pháp chẳng phải vì mình mà vì đại
chúng, nên chữ thiện tai thứ nhì là tán đại bi của ông ấy : ông thiệt có
thể thấy được ta chẳng trụ phật tướng mà hộ niệm phó chúc, nên nói :
như chỗ ông nói. Vì hộ niệm phó chúc như thế thì đại chúng chẳng hiểu,
chỉ có Tu Bồ Ðề một mình có thể trỏ ra, nên Phật ấn khả lời nói của ông
ấy. Hai câu Như Lai nguyên là lời Tu Bồ Ðề tán Phật, nay Phật hết sức
nhìn nhận là đúng. Phật bảo : Như Lai hộ niệm phó chúc, như chỗ ông nói
không sai một chút nào. Ðó là muốn khiến cho chúng sanh ở trong chỗ mặc
áo cầm bát, đi lại, động tĩnh, của như lai, lĩnh cái ý hộ niệm phó chúc.
HỨA NÓI
Nhữ kim đế thính, đương vị nhữ
thuyết. Thiện nam tử thiện nữ nhân phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề
tâm, ưng như thị trụ, như thị hàng phục kỳ tâm.
Dịch nghĩa :
Ông nay nghe cho kỹ, sẽ vì ông nói. Trai lành gái lành phát tâm a nậu đa
la tam miệu tam bồ đề, phải trụ như thế, phải hàng phục tâm mình như
thế.
Tu Bồ Ðề há lẽ nào chẳng nghe cho kỹ (đế thính)? Sự răn
này của Phật là vì đại chúng, và vì lũ chúng sanh ta ở hiện tại. Ðế có
nghĩa là chân thực chính xác, một là chẳng thể cống cao, hai là chẳng
thể thấp hèn. Nếu phạm vào hai bệnh này liền chẳng thể nghe cho kỹ, ngay
đến nghe cũng chẳng có thể chính xác. Có người mới nghiên cứu kinh luận
chút ít liền tự cho là minh thông hiểu phật học, đây là phạm vào bịnh
cống cao. Có người suy cao thánh cảnh, cho là đại pháp cao sâu như thế,
thì chúng ta sao có thể hiểu nổi, đây là phạm bịnh thấp hèn. Cống cao là
mạn, thấp hèn cũng là ti-mạn. Nghe kinh như thế liền chẳng có thể chân
thực chính xác, cho nên kẻ học phật cần phải tránh hai bịnh trên, hư tâm
để lĩnh thụ, nên gọi là đế thính. Ðã có thể đế thính, há rằng Phật
không nói? Nên nói : đương vi nhữ thuyết (sẽ vì ông nói) là có ý nói :
nếu ông chẳng đế thính, ta liền chẳng sẽ vì ông nói. Câu này là
cảnh-sách chúng ta lúc nghe kinh, những tri kiến hồi trước ắt phải liệng
bỏ đi hết, chẳng thể còn chất chứa trong tâm.
Ba câu dưới từ
thiện nam tử, thiện nữ nhơn, chính là nêu ra tôn chỉ tu hành. Thuyết xưa
2 chữ NHƯ THỊ, là để trỏ một đoạn văn dưới "diệt độ nhứt thiết chúng
sanh" mà nói, thì mạch lạc trước sau không thông suốt, huống chi văn
dưới vốn đã có 1 câu "ưng như thị hàng phục kỳ tâm" ư ? Lại bảo hai chữ
như thị là trỏ một đoạn văn trong phát khởi tự, thế tôn trước y trì bát
... đến phu tọa nhi tọa mà nói, thì cũng chưa xác đáng. Nay bảo hai chữ
như thị là trỏ ngay văn trên 2 câu thiện hộ niệm thiện phó chúc mà nói,
có nghĩa là chỉ-điểm ngay hiện tiền, đương hạ tức thị.
Một đoạn
văn : trước y trì bát là mạch xa, 2 câu : thiện hộ niệm là mạch gần. Ðã
biết mạch gần thì mạch xa tự mình thông hiểu. Vì pháp thân như lai thị
hiện tướng trần lao của phàm phu là vô ngã tướng, vô pháp tướng, cũng là
vô phi pháp tướng, nên thiện nam nữ cũng phải nên chẳng trụ ở tướng, mà
trụ như ta. Phàm phu chẳng trụ ở tướng, thì trụ ở phi pháp tướng. Một
khi đã có trụ liền sai lầm, hàng phục chẳng được vọng tâm sanh diệt. Nên
thiện nam nữ phải ở chỗ như lai mặc áo ăn cơm, lý hội cái lý hai bên
chẳng chấp, như thị hàng phục nó.
Ðáng thương thay lũ chúng
sanh khỗ não, chẳng kể kẻ nghèo người giàu, một đời vì áo cơm mà bận rộn
vất vã, chẳng kể làm nghề nghiệp gì cũng đều chỉ là một thứ ăn xin.
Sáng sớm thức dậy đi ra nơi đô thị làm việc, tức vào thành xin ăn. Theo
đúng thời giờ bắt đầu làm việc và nghỉ ngơi tức là lần lượt xin xong.
Xin ăn đã dành là cần yếu, nhưng xong việc liền phải trở về chỗ cũ. Bịnh
của phàm phu là vì vấn đề cơm áo, chẳng thể nào mà không hướng ngoại
rong ruổi mưu cầu, kết quả quên đi mất chủ nhân ông, chẳng còn trở về
chỗ cũ. Thế nên công việc xong xuôi, phải mau mau quay đầu lại, đem tâm
mình yên tĩnh một lúc, hồi quang phản chiếu, không nên làm những việc
chẳng dính dấp gì với mình. Ðây tức là học "trải tọa cụ mà ngồi" của
Phật. Chúng ta có thể đem lời, câu trong kinh văn quay trở về đến tự
thân mình, thì tự mình có chỗ thu dụng. Quả nhiên có thể ở khoảng công
việc tầm thường hằng ngày, lúc nào cũng phản chiếu tức là hàng phục, tức
là hai bên chẳng chấp, tức là cùng với tánh thể xứng với nhau mà bắt
đầu tu, ngay đến niệm Phật cũng niệm được tốt.
KHẾ HỢP VỚI TÔN CHỈ, CẦU XIN NÓI RÕ
Duy nhiên thế tôn : nguyện nhạo dục văn.
Dịch
nghĩa : Thưa vâng, thưa Thế tôn : Con nguyện ưa thích muốn nghe. Duy là
lời đáp ứng có nghĩa là thưa vâng. Tiếng nói đi vào trong tâm thì tâm
thông suốt. Ở lý trụ, hàng như thế đã hiểu rõ triệt để. Sự hộ niệm phó
chúc của như lai, người khác chưa thể thấy mà Tu Bồ Ðề riêng mình có thể
thấy được, thay đại chúng khải thỉnh trụ tâm, hàng tâm, quả nhiên được
phật tán hứa. Kẻ kếp tập kinh ở dưới chữ duy, để nhiên, là tả ra ông Tu
Bồ Ðề bình sanh mừng rỡ vui sướng, tự mừng rằng lĩnh hội được tình cảnh
không sai. Nhưng vì đại chúng chưa thể hiểu rõ, nên lại thỉnh vấn.
Nguyện : là nguyện vọng. Nhạo : là ưa thích. Dục : là mong cầu. Nếu chỉ
tâm nguyện mà chẳng ưa thích, thì sự nghe hoặc là chưa thân thiết. Hoặc
tuy ưa thích mà chẳng mong cầu, thì nghe hoặc chưa sâu xa. Ba chữ này
một tầng tiến lên một tầng, biểu thị sự khác vọng của đại chúng, cũng có
thể vì chúng sanh khổ não đời mạt pháp biểu thị khát ngưỡng. Chữ văn
này cùng với chữ văn trong câu "như thị ngã văn" ở ngay đầu kinh ứng
tiếp với nhau, vì nếu không có Tu Bồ Ðề nguyện nhạo dục văn, thì A Nan
làm sao có thể nghe được?
Văn có ba thứ : 1) Nghe lời nói, nhĩ
căn phát ra thức, chỉ nghe ở lời nói, 2) nghe nghĩa, ý thức ở lời nói
hiểu nghĩa của nó, 3) Nghe ý, ngưng thần, nhứt tâm tìm nghĩa lấy ý.
Nay
nghe lời nói như thị trụ, hàng ắt sẽ được ý, mà quên nghĩa, khiển trừ
lời nói mà tiêu về tự tánh mình, có thể biết được. Người người vốn sẵn
đầy đủ cái tự tánh như như bất động, nhưng vì vô minh che lấp đi, khiến
cho vọng tâm sanh diệt chẳng ngừng, nên kẻ học phải ở trên chữ VĂN này
mà dụng công, phản văn văn tự tánh, thời thời chiếu, thời thời văn, thì
biết tâm, phật, và chúng sanh ba cái không sai biệt. Nên chữ văn này làm
công phu PHẢN VĂN liền có thể tiêu về tự tánh.
THEO CẢNH NÓI RÕ VÔ TRỤ ÐỂ TỎ BÁT NHÃ CHÁNH TRÍ, THEO TÂM NÓI RÕ VÔ TRỤ ÐỂ HIỂN BÁT NHÃ LÝ THỂ.
Phật cáo Tu Bồ Ðề : Chư bồ tát ma ha tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm.
Dịch nghĩa : Phật bảo Tu Bồ Ðề : Các bồ tát ma ha tát phải hàng phục tâm mình như thế nầy.
Câu
Phật cáo, là người kết tập kinh để vào. Phàm để câu này vào là đều chỉ
thị cho người ta biết chỗ lời nói trong nầy rất là quan hệ khẩn yếu,
chẳng thể đọc qua sơ lược. Câu chư bồ tát là trỏ thiện nam nữ phát đại
tâm mà nói.
Phàm nói bồ tát ma ha tát có 2 nghĩa : 1) đại bồ
tát trong hàng bồ tát, như Quán Thế AÂm bồ tát ma ha tát, là trỏ một
người mà gọi. 2) gọi chung nhiều người, nghĩa là hoặc bồ tát hoặc đại bồ
tát. Kẻ phát tâm chẳng phải chỉ một người, nên nói : chư, nghĩa là hết
thảy mọi người. Trong này đã nói nhiều người, là lời trỏ chung vậy.
Phải
biết kinh này vốn là tối thượng thừa nên kẻ phát tâm học kinh này đều
là đại bồ tát. Nhưng căn tánh họ không giống nhau, tuy cùng phát đại
tâm, có kẻ phát được viên mãn cứu cánh thì thành đại bồ tát, có kẻ phát
chẳng viên mãn cứu cánh thì chỉ có thể thành bồ tát thôi. Phật thuyết
kinh này cũng hy vọng người người đều phải phát tâm được viên mãn cứu
cánh. Như phát tâm trên thành phật đạo dưới hóa chúng sanh thì là bồ
tát. Nếu biết tuy phát tâm trên thành phật đạo, dưới hóa chúng sanh, mà
lại biết tuy trên thành phật đạo mà thực không chỗ nào thành, tuy dưới
hóa chúng sanh mà thực không chỗ nào hóa, mới là không chỗ thành mà trên
thành, không chỗ hóa mà dưới hóa, thì tánh đức cứu cánh, thể dụng viên
mãn, mà là đại bồ tát. Những việc giống như thế này ở thế gian rất
nhiều, tuy chỗ học là vô thượng đại pháp, mà thành tựu thì rất nhỏ, rất
nhỏ. Ðều do ở chỗ chẳng biết theo đúng như pháp để tu, phát tâm nhỏ quá
vậy!
Như pháp môn niệm phật vốn là vô thượng diệu pháp rất viên
rất đốn, mà chỉ biết tự mình liễu thoát lấy mình, thì pháp tối thượng
thừa này chẳng những không đủ để làm đại thừa, rốt cuộc thành ra tiểu
thừa! Nên chỉ có thể vãng sanh hạ phẩm, nhiều kiếp chẳng thể nở hoa thấy
phật, vì cùng bi nguyện của phật trái nhau, đây là tại chẳng biết xứng
với tánh mình mà tu. Rất đỗi ngay đến hạ phẩm cũng chưa đủ, chỉ có thể
sanh đến nghi thành, lại phải tu hành một thời gian lâu dài mới có thể
lìa nghi thành mà sanh an dưỡng, há chẳng trên phụ ơn Phật, dưới phụ
linh tánh mình ư? Tại sao như thế ? Ðều là bởi : chẳng hiểu rõ cái sở dĩ
nhiên của đại pháp, cho nên học phật điều cần yếu hơn hết là mở trí
tuệ. Mở trí tuệ có nghĩa ngay bước đầu tiên mà nói là hiểu rõ lý. Nếu
chẳng hiểu rõ lý chơn thật, thì phát tâm chẳng thể đến chỗ vô thượng.
Hiểu rõ nghĩa lý chẳng phải là ở trên văn tự mà mổ xẻ tìm hiểu, mà ắt
phải tu quán. Tu quán là gì ? Là đã phải đọc nhiều kinh điển đại thừa,
lại phải ngăn trừ hết mọi duyên, thu nhiếp thân tâm. Nếu chẳng trước đem
tâm này thu nhiếp ở một chỗ, thì sao có thể noi theo văn tự bắt đầu
quán-chiếu, nên mới nói : Giới sanh định, định sanh tuệ. Giới để ngăn
trừ ngoại duyên. Chữ định có cạn, sâu, lúc mới hạ thủ thực hành ắt phải
miễn cưỡng nhiếp tâm ở một chỗ, khiến cho tâm ngừng tĩnh mà chẳng tán
loạn, thì mới có thể khởi quán-chiếu. Ðến khi quán tuệ sanh ra thì liền
đại định liền ở ngay trong đó, chẳng đợi phải miễn cưỡng nữa. Nên phương
pháp chỉ-quán có nghĩa là chỉ từ quán mà tới, quán thành thì tự nó chỉ.
Tại sao? Vì quán thành thì vọng tưởng trừ hết, tức là chỉ, mà chẳng
phải đè ép xua đuổi vọng tưởng là chỉ.
Tóm lại hai chữ định và
tuệ sanh khởi lẫn nhau, chẳng thể xem thành hai cái một cách cứng ngắc,
nên nói như xe có 2 bánh, lại chỉ tức là quán, quán tức là chỉ. Chỉ quán
là công phu khẩn yếu để học phật, mà những lời nói trên lại là nghĩa lý
khẩn yếu trong chỉ quán, chẳng thể nào mà không biết. Người mới phát
tâm tại sao gọi là bồ tát ma ha tát? Vì họ có thể phát đại tâm, liền có
tư cách thành bồ tát ma ha tát, nên mới gọi như thế, đây là một nghĩa.
Phật gọi như thế là muốn cho người ta thừa nhận ngay mình là bồ tát ma
ha tát, chẳng nên tự mình mất sự thắng lợi, đây là nghĩa thứ hai. Thế
tôn bình đẳng, bình dẳng, ngài coi chúng sanh vốn là giống như phật, thế
thì gọi kẻ phát vô thượng tâm là bồ tát ma ha tát, lại có gì đáng lạ
lùng, đây là nghĩa thứ ba.
Như thị : là trỏ lời văn ở dưới sẽ
nói rõ. Hàng phục kỳ tâm : là khiến cho vọng tưởng chẳng nổi dậy, lại
cũng là khiến kẻ bất giác được giác. Câu văn trên trước hỏi vân hà trụ,
lời chỉ-thị tổng quát của phật thì cũng trước nói ưng như thị trụ, tại
sao đến lúc nói rõ ràng, lại trước nói hàngphục? Yếu nghĩa trong này nên
chia ra làm 3 tầng để tỏ rõ : hết thảy chúng sanh từ xưa đến nay chẳng
giác, nay tuy phát vô thượng giác tâm, cũng chẳng qua là sơ tâm phát bồ
đề, những thói quen, vọng niệm của nó chưa trừ được một chút nào, thì
làm sao có chân tâm có thể trụ. Nếu cho là lúc mới phát vô thượng giác,
liền thấy chân tâm, thì ngay một niệm này cũng vẫn là vọng tưởng. Nên
người mới phát tâm, công phu hạ thủ chỉ có hàng phục.
Cổ nhân
nói : "Chỉ cầu ngừng vọng, chẳng lại tìm chân" là ý này. Phải biết, tâm
của chúng ta tuy hoàn toàn chẳng giác, mà thực hoàn toàn là chỗ biến
hiện cuả bổn giác. Chân và vọng hòa hợp gọi là thức, là như vậy. Chỉ cần
vọng tâm trừ từng phần, từng phần, thì chân tâm liền hiển lên từng
phần, từng phần. Kịp đến vọng hết tình không, thì thủy giác hợp với bổn
giác. Ban sơ không cần nói trụ tâm hay chẳng trụ, đây sở dĩ chẳng nói
trụ mà trước nói hàng phục, lý nó là một. Chẳng những lúc mới phát tâm
phải từ hàng phục mà hạ thủ mà thôi, từ đầu đến cuối cũng chỉ là công
phu hàng phục, cho đến thành Phật cũng không chỗ trụ. Phải biết, vọng
tưởng vô minh, lấy phá nó làm mục đích, tu hành đến thập tín vị mới chỉ
có thể phục, chưa thể phá. Từ thập tín tiến vào sơ trụ mới phá một phần
vô minh, chứng một phần pháp thân (tức là mới thấy một phần chân tâm),
mười phần chỉ mới được một phần, làm sao có thể trụ? Nay gọi là trụ tức
là chẳng thoái chuyển ở a nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Từ đó, bước bước
tiến thêm lên, mà trải qua thập trụ, lên thập hạnh, thập hồi hướng, tứ
gia hạnh rồi sau mới tới địa, đến bát địa mới gọi là vô học, vô minh mới
dứt hết. Mà thập phương chư Phật lại ân cần khuyên tiến lên nữa, phải
nên mãn bổn nguyện, quảng độ chúng sanh, chớ nên trụ vào niết bàn. Từ đó
mà trải qua cửu địa, thập địa đến đẳng giác, còn một phần vô minh sau
cùng (có thể thấy đến đẳng giác mới phá được chín phần), vẫn phải dùng
kim cương trí để phá nó mới thành cứu cánh giác, mà vẫn là chẳng trụ
sanh tử, chẳng trụ niết bàn. Có thể biết là địa vị đến thành phật mà còn
trụ mà chẳng trụ, chẳng trụ mà trụ, như thế tôn thị hiện giống như phàm
phu, đây chẳng phải là cái gương trụ mà chẳng trụ ư? Thế thì thủy chung
đều không chỗ trụ, chỉ có hàng phục thật là rõ ràng, đây là lý thứ hai.
Tu Bồ Ðề trước tuy hỏi trụ mà ánh sáng con mắt ông thấy thực chú trọng ở
hàng phục, vì chưng muốn lấy trụ chẳng được, nên kế tiếp lấy hàng phục
để hỏi, nếu không thì chỉ hỏi phải làm sao trụ đã đủ rồi, sao còn thêm
một câu hàng phục sau nữa. Mà lời phật chỉ-thị tổng quát, đã nói phải
trụ như thế, lại nói phải hàng phục như thế, thì ý cũng giống như vậy.
Thế thì tuy lời nói có câu trước câu sau, mà ý là một, trừ hàng phục ra
không có phương pháp tiến tu nào khác, đây là lý thứ ba.
CHÍNH NÓI RÕ
Sở hữu nhứt chúng sanh chỉ loại, nhược loãn sanh, nhược thai sanh,
nhược thấp sanh, nhược hóa sanh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu
tưởng, nhược vô tưởng, ngã dai linh nhập vô dư niết bàn nhi diệt độ chi.
Như thị diệt độ vô luợng vô số, vô biên chúng sanh, thực vô chúng sanh
đắc địa độ giả.
Dịch nghĩa : chỗ có hết thảy những loài chúng
sanh, như loài sanh trứng, loài sanh thai, sanh chỗ ẩm ướt, như loài hóa
sanh, như loài có sắc, như loài không có sắc, như loài có tưởng, như
loài không có tưởng, như loài phi hữu tưởng, phi vô tưởng, ta điều khiến
vào vô dư niết bàn mà diệt độ chúng nó. Diệt độ như thế vô lượng vô số
vô biên chúng sanh, thực ra không có chúng sanh nào được diệt độ.
Tứ
đại ngũ uẩn, chúng duyên hòa hợp mà hiện ra tướng sanh, nên gọi là
chúng sanh, đây là bổn nghĩa của một danh từ chúng sanh, còn nói rộng ra
thì số đông người, chủng loại nhiều gọi là chúng sanh. Người này chỉ
biết nghĩa rộng mà sơ sót bổn nghĩa, chẳng biết rằng bổn nghĩa hết sức
vi diệu, ấy là khiến quán chiếu lý vốn chẳng sanh, và đương thể tức
không. Tại sao nói như thế? Vì chúng duyên hòa hợp gọi là sanh, tánh thể
ban sơ đâu có sanh, nên vốn nói chẳng sanh, vốn đã vô sanh thì nay cũng
vô diệt. Ðã là nhân duyên hòa hợp hiện ra tướng sanh, cho nên duyên tán
thì diệt, há chẳng phải là đương thể tức không ư? Ðây là theo tướng mà
nói.
Còn nếu theo tánh mà nói, thì tánh vốn chẳng nhân đó mà
sanh, tuy tướng của sanh diệt đầy dẫy, mà cùng với thể có can thiệp gì,
nên nói đương thể tức không. Hết thảy chỗ có chúng sanh là số nhiều, nên
nói hết thảy, loài của nó nhiều nên nói loài chúng nó. Loài chúng nó là
những loài gì ? Là từ loài loãn sanh đến loài phi hữu tưởng, phi vô
tưởng. Trong kinh phật nói loài chúng sanh khác nhau, có lúc lấy lục đạo
mà chia, là muốn người ta hiểu rõ lý luân hồi, có chỗ chia làm mười hai
loài chúng sanh (như trong kinh Lăng Nghiêm), là muốn cho người ta hiểu
rõ lý mười tập nhân, sáu giao-báo. Có chỗ lấy tam giới để chia, là muốn
cho người ta hiểu rõ lý nương dựa cao hay thấp, và chẳng ngoài phạm vi
hai việc sắc và dục.
Nay kinh này cũng lấy tam giới để chia
loài, mà chẳng nói đến dục giới, sắc giới vô sắc giới là vì ở cõi vô sắc
giới còn có một thứ sanh lý đặc biệt khác, phải hiển thị ra một cách
đặc biệt mới là triệt để, lại cũng muốn khiến người ta hiểu rõ, chúng
sanh sở dĩ không ra khỏi tam giới là tại chẳng những chấp sắc, chấp dục
nó làm chướng ngại, lại còn có chướng ngại căn bản ắt phải hiểu thấu một
cách triệt để, vì đó đối trị, thì mới có thể nhập vô dư niết bàn, mới
có thể diệt độ được. Nay trước nói về dục giới. Dục giới có hai :
1)
Thượng giới lục thiên (tứ thiên vương thiên, đạo lợi thiên, dạ ma
thiên, đâu suất thiên, hóa lạc thiên, tha hóa tự tại thiên), vì phúc đức
hơn nhân gian nên sanh thiên. Vì còn có dâm dục nên ở dục giới, vì dục
niệm so sánh đạm bạc hơn nên chỉ hóa sanh mà không có 3 sự sanh của
loãn, thai thấp.
2)- Hạ giới : người, súc sanh, ngã quỷ, địa
ngục, còn tu la thì chia ra nhiếp vào thiên (hóa sanh), nhân (thai sanh
từ thiên rơi xuống) súc (sanh nơi ướt rất thấp hèn, sanh ra ở giữa biển
lớn, buổi sáng ở khoảng không, buổi tối trở về với nước), quỷ (loãn
sanh, vì có thần lực hộ pháp nên được thần thông, ở nơi khoảng không).
Ðiển này coi ở kinh Lăng Nghiêm cuốn thứ 9. Ðịa ngục là hóa sanh, quỷ là
thai và hóa sanh, nhân và súc thì đủ cả thai, loãn, thấp, hóa 4 sanh.
Những loài này đều lấy dâm dục mà chánh tánh mạng, tội nặng tình nhiều
thì càng rớt xuống mà sa đọa vào địa ngục, tội và tình lần lần ít thì
sanh nhân đạo.
Từ sắc giới trở lên (sắc giới 18 cõi trời, chia
ra sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, mỗi thứ ba cõi, tứ thiền chín cõi.
Sắc giới cũng có vô tưởng thiên, vì đã có sắc nên không nhiếp vào vô sắc
giới) đều là hóa sanh. Nên chỉ đem loãn, thai, thấp, hóa để nói thì đã
nhiếp hết tam giới. Nhưng vì từ sắc giới trở lên có sanh lý đặt biệt
không hiển ra, nên lại đem nhược hữu sắc, nhược vô sắc ra mà nói. Vì
không có dục, nhân định lực mà hóa sanh sắc giới, nên nó khác với dục
giới. Lại vì nó có thể ngay đến tướng của sắc thân cũng không chấp
trước, nên nhân định lực mà hóa sanh vô sắc giới, vì thế nó khác với sắc
giới. Chỉ đem hữu sắc, vô sắc ra nói cũng nhiếp hết tam giới. Từ dục
giới trở xuống, thì kẻ nào cũng có sắc thân. Nhưng ở dưới cõi trời dục
giới chẳng phải chỉ có hóa thân, nên tước đem loãn, thai, thấp, hóa ra
nói, thì ở sanh lý hạ giới mới đầy đủ. Lại ở trong vô sắc giới, vì định
lực có cạn, sâu, lại có sanh lý đặc biệt khác chẳng thể nào không bày tỏ
ra, nên lại nói : nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng,
nhược phi vô tưởng. Bốn cõi trời vô sắc giới, không vô biên xứ, thức vô
biên xứ tức là nhược hữu tưởng trong kinh này. Sắc tướng đã không, nên
gọi là không vô biên xứ (vô sắc giới chỉ không có nghiệp quả sắc, vì nó
đoạn dục, không chấp tướng sắc thân, nhưng có định quả sắc, sắc này vi
diệu, từ sắc giới trở xuống không thể thấy nổi, nên gọi là vô sắc giới).
Sắc thân thô (sắc giới) trọc (dục giới) đã không, thì chẳng chấp cái
thức ở trong sắc thân, nên gọi là thức vô biên xứ. Thức tức là tám thức,
chân vọng hòa hợp gọi là thức. Nhân thức nên có tưởng, tưởng là thức
thứ bảy hằng thẩm tư lường mà chấp ngã, và thức thứ sáu phân biệt biến
kế. Hai chữ hữu tưởng nhiếp chung hai giới sắc và dục. Chúng sanh ở sắc
dục giới chẳng ai là không có thức. Nhân hai thức thứ sáu, bảy, nên chấp
sắc thân làm ngã, nhân chấp sắc thân nên nổi dậy bao nhiêu thứ tưởng
tham dục. Nhưng từ sắc giới trở xuống, chẳng những có thức mà gồm có cả
sắc cả dục, nên ắt trước đem loãn, thai, thấp, hóa có sắc ra nói, để tõ
rõ nó khác với vô sắc giới.
Còn từ vô tưởng trở lên thì là sanh
lý đặc biệt của vô sắc giới, nên ắt phải biểu thị ra, nói rõ nó chẳng
những không có nghiệp quả sắc, nên nó khác với hai giới sắc và dục. Ðây
là vô sở hữu xứ thiên ở vô sắc giới, là không có thức thứ sáu phân biệt
vọng tưởng, vì thường ở trong định, và thức thứ bảy chấp ngã cũng không
có, vì ở trong định không có tư luờng, và chẳng chấp có sắc thân, cho
nên thức vô biên xứ định lực của nó lại càng sâu hơn trước. Còn phi hữu
tưởng, phi vô tưởng tức là phi tướng phi phi tưởng thiên của vô sắc
giới, đến đây định lực càng sâu, thức thứ tám a-lại-da như ẩn như hiện,
mà chưa thể chuyển thức thành trí, gọi đó là hữu tưởng cũng chẳng phải,
mà gọi đó là vô tưởng cũng chẳng phải. Biết đâu rằng trước nói vô sở
hữu, không phải thiệt có thể vô sở hữu, chẳng qua là hai thức thứ sáu và
bảy tạm thời hàng phục, tự nó cho là vô sở hữu thôi. Vì sao? Vì hai
thức thứ sáu và bảy chuyển, thì thức thứ tám và năm thức trước cũng theo
đó mà chuyển, sao còn như ẩn như hiện? Vả lại họ lầm rồi, tám thức
nguyên là chỗ chân tâm biến hiện ra, sao có thể vô sở hữu, lại hà tất vô
sở hữu? Chỉ chuyển nó là có thể được. Thức thứ sáu chuyển là diệu quán
sát trí, thức thứ bảy chuyển là bình đẳng tánh trí, thức thứ tám cũng
theo đó mà chuyển làm đại viên kính trí. Năm thức trước cũng theo đó mà
chuyển là thành sở tác trí. Như thế rồi sau mới thể và dụng hoàn toàn
hiện rõ, lại sao có thể không có ư? Tóm lại đều do chẳng biết Phật lý,
toàn dùng chứng một cách mờ ám chẳng được hay khéo, cho nên phi tưởng
phi phi tưởng dẫu trải qua sống lâu tám vạn kiếp mà vẫn phải đọa lạc.
Loãn, thai, thấp, hóa, mà trước nói loãn sanh là vì loãn có đầy đủ thai,
thấp, hóa, nên nói trước. Ở trong thai của mẹ, lấy huyết làm đồ nuôi
dưỡng là thấp (ướt), vốn nó không có mà nay có là hóa. Thai chẳng gồm
loãn mà có đủ thấp, hóa, nên nói thứ nhì, thấp gồm hóa mà chẳng đủ loãn,
thai nên nói thứ ba (thấp sanh là ở nơi đất ướt ẩm, bẩm thụ khí âm
dương mà hóa sanh, vì nó ắt phải ở đất ẩm ướt nên gọi là thấp sanh). Hóa
sanh là không có mà bỗng nhiên có, chẳng đủ loãn, thai, thấp, nên là
thứ tư. Còn vô sắc thì chẳng đủ sắc dục mà có thức, là thứ năm. Hữu sắc,
vô sắc, đây là theo sắc tướng thô hay vi diệu mà nói. Còn hữu tưởng, là
rõ ràng tuy nó vô sắc mà còn có thức tưởng hiện khởi, nên là thứ sáu.
Còn vô tưởng, rõ ràng là hai thức sáu, bảy của nó đã phục và chẳng đủ
tưởng, nên là thứ bảy. Còn phi hữu tưởng, phi vô tưởng, rõ ràng là nó
chẳng những không đủ thức thứ sáu, bảy, mà thức thứ tám cũng phục được
phân nữa, nên là chót. Ðây là theo sự khởi phục của tình thức mà nói. Vì
cái trước thì có đủ cái sau, còn cái sau thì chẳng đủ cái trước. Loãn,
thai, thấp, hóa tuy chẳng hết thảy lấy trước sau chia ra hơn kém, mà tóm
lại lấy 3 cái : dục, sắc, thức mà nói, thì cái trước trước kém cái sau
sau, mà cái sau sau hơn cái trước trước. Phật chia loài ra một cách
tường tận chẳng ngại phiền toái, chẳng phải là lời nói trống không, ý ở
chỗ khiến cho biết rằng hết thảy chúng sanh loài nó tuy nhiều mà chẳng
ra ngoài ba việc : THỨC, SẮC, DỤC, nó sở dĩ thành ra chúng sanh là ở chỗ
đó. Nay phát vô lượng giác tâm, muốn khiến hết thảy chúng sanh thành vô
thượng giác, nếu không dứt hết dâm dục, chẳng chấp thủ sắc tướng,
chuyển thức thành trí thì chẳng được. Vọng hết, tình không, nghiệp thức
đã chuyển, thì tâm sanh diệt diệt mất, ra ngoài biển sanh tử, mà chứng
vào viên minh tánh hải bất sanh bất diệt. Ðây gọi là vào vô dư niết bàn,
đây gọi là diệt độ.
Ðại thừa niết bàn có hai :
1.
-Hữu dư niết bàn, đã dứt hết chi mạt vô minh (tức là kiến tư hoặc), còn
dư căn bản vô minh chưa dứt (tức là nghiệp thức, tức là sự bất giác tự
động tối sơ, cũng có tên là sanh tướng vô minh, trụ địa vô minh) nên gọi
là hữu dư.
2. - Vô dư niết bàn, nghiệp thức đều không (thức là
chuyển thức hành trí) vô minh lại không còn thặng dư nữa. (Chỗ này khác
với hữu dư vô dư niết bàn của tiểu thừa. Tiểu thừa nói : chỗ học đã
xong, mà còn dư thân khổ báo chưa hết là hữu dư, tức là đã ra khỏi
chướng ngại của phiền não, mà còn có thân khổ y. Hết báo thân này thì
gọi là vô dư y niết bàn, nghĩa là hôi thân, diệt trí).
Niết bàn
: tiếng Phạm nói cho đủ là bát-niết-bàn, có nghĩa là bất sanh bất diệt,
tức là tánh thể, cũng dịch là diệt độ, hay vô-vi. Nhập : là chứng nhập,
tức là ý khiến chúng sanh chứng nhập cứu cánh giác quả. Diệt : là sanh
diệt đã diệt hết thì tịch diệt hiện ra. Ðộ : là độ hai lần sanh tử :
phần đoạn và biến dịch. Chỗ nầy chẳng đem tiếng Phạm ra nói, mà đem
nghĩa của nó ra nói, một là để tỏ rõ chỗ gọi là nhập vô dư niết bàn,
không có gì khác, chỉ là diệt cái tâm sanh diệt của THỨC , SẮC, DỤC,
liền qua biển sanh tử mà đến niết bàn bờ bên kia. Hai để tiện lợi cho
lời nói. Như văn dưới "diệt độ vô lượng vô số, vô biên chúng sanh", nếu
đổi diệt độ ra niết bàn thì chẳng dễ gì mà hiểu rõ. Ðây là dịch rất hay
rất khéo. Vô dư niết bàn pháp tướng tông gọi là vô trụ xứ niết bàn, rõ
ràng là chẳng trụ sanh tử, cũng chẳng trụ niết bàn, lời dịch này cùng
với lời dịch của Thập Sư mỗi cái có nghĩa của nó và đều khéo. Còn nói
người tu hành chết đi gọi là niết bàn, là nhập diệt, đây là mượn nghĩa
để nói rõ nó chẳng trụ tướng mà vào tịch diệt.
Người đời phần
nhiều hiểu lầm chữ niết bàn, nhập diệt, cho là chuyện nói về chết. Nhà
nho đời Tống lại nhận lầm tịch diệt là chẳng làm một việc gì, nghĩa càng
sai rất xa. Nhà Pháp tướng nói : "ba bộ phận rưỡi chúng sanh chẳng được
thành Phật là: định tánh La-Hán, định tánh bồ-tát, nhứt-xiển-đề (không
có tín căn) là 3 bộ phận, thêm vào bất định tánh là nửa bộ phận". Tại
sao nay đều được khiến thành Phật ư? Phải biết kinh nói: "Phật chủng từ
duyên khởi", lại kinh Niết Bàn nói : "phàm là có tâm thì nhất định sẽ
làm Phật". Lại kinh Viên-Giác nói: "hữu tánh, vô tánh đều thành Phật
đạo", thì tại sao lại chẳng được? Vì phật tánh tuy chúng sanh vốn đầy
đủ, nhưng phật chủng phải đợi duyên sanh. Pháp tướng nói chẳng được
thành là nói nếu không có chủng (giống) thì ắt chẳng thành, chẳng phải
là nói định tánh nhứt-xiển-đề không có phật tánh. Nên 2 chữ chủng và
tánh chẳng thể lộn xộn. Kẻ học tánh tông thường hay chấp tánh mà mê muội
chủng, như chấp tánh phế bỏ tu. Kẻ học tướng tông lại thường hay chấp
chủng mà mê muội tánh, đều là lỗi chẳng hiểu rõ tôn chỉ của kinh. Như
thị : Là trỏ câu trên linh nhập vô dư niết bàn. Vô lượng : Là chủng loại
không hạn lượng, chẳng kể căn tánh hơn kém đều độ chúng nó. Nhưng hoặc
chỉ độ một thế giới, mười thế giới, 1 kiếp, 10 kiếp, cũng có thể gọi là
vô lượng vô số, mà nay chẳng phải vậy, mà lại độ vô biên. Vô biên : Là
ngang khắp 10 phương, dọc cùng tam tế, nên vô biên là tổng, mà vô lượng
vô số là biệt. Vì diệt độ vô biên mới được gọi là vô lượng vô số. Thực
vô chúng sanh đắc diệt độ : là quán chiếu lý vô sanh, vô đắc là chân
thực vô, chẳng phải là giả tưởng vô. Bực cổ đức dùng 5 nghĩa để quán
chiếu rất vi diệu :
1) duyên sanh, hết thảy chúng sanh đều là giả hợp của ngũ uẩn, tứ đại, đương thể tức không, làm gì có chúng sanh.
2)
đồng thể, ta cùng với chúng sanh tướng tuy khác mà tánh thì thực giống,
chỗ gọi là nhứt chơn pháp giới là vậy. Thế thì thấy có chúng sanh ấy là
tự tâm mình chấp thủ tự tâm mình, chẳng phải huyễn mà thành ra huyễn
pháp.
3) Vốn tịch diệt, chỗ gọi là chúng sanh chỉ là nhân duyên
hòa hợp giả hiện ra làm tướng chúng sanh, tánh của nó thì vốn vô sanh.
Vốn vô sanh thì vốn vô diệt, sao có thể gọi là đắc niết bàn ư?
4)
Vô niệm, cứ như 3 nghĩa trên mà xem, thì có thể biết thấy có chúng
sanh, thấy có chúng sanh đắc niết bàn toàn là vọng niệm phân biệt, nếu
không có vọng niệm thì chúng sanh không có, mà đắc niết bàn cũng không
có.
5) bình đẳng, như chỗ nói trên, có thể thấy hết thảy chúng
sanh bổn lai là Phật, bình đẳng, bình đẳng, nên nói: bình đẳng chân pháp
giới, Phật chẳng độ chúng sanh. Nếu còn thấy một chúng sanh được diệt
độ, thì liền trái với bình đẳng pháp giới.
Tóm lại, tánh thì
chân thực, tướng thì hư vọng, muốn thành vô thượng giác, phải chứng chân
thực tánh. Thế thì ở hết thảy cảnh giới phải chẳng chấp tướng mà trở về
tánh, mới là chân thực. Nên theo tánh mà nói, thì chúng sanh đắc niết
bàn là chân thực vô, chẳng phải là giả tưởng vô, thật rõ ràng vậy.
Hoặc
hỏi : Văn trên nói rằng : ưng như thị hàng phục kỳ tâm, hai chữ như thị
chính là trỏ khoa này. Nhưng đọc khoa này, thật chẳng hiểu chỗ gọi là
hàng phục, là hàng phục cái gì? Chỉ phát tâm quảng đại, ly tướng, liền
đủ để hàng phục ư? Xin trả lời : nghĩa này rất là tinh, sẽ vì đó phân
tích ra để nói. Chỗ bảo là hàng phục chính là hàng phục VỌNG TAÂM. Vọng
tâm là tâm phân biệt, mà phân biệt nổi dậy ở chấp ngã, nên ngã kiến là
gốc của phân biệt. Nay vì thế day về trên căn bản để khiển trừ, ngã kiến
trừ thì phân biệt vọng tưởng tự nó hóa. Lại văn khoa này chú trọng ở
một câu sau cùng, những câu văn trước đều là để dẫn khởi câu nầy mà tới.
Vì muốn nói thực không có chúng sanh được độ, nên trước nói độ vô biên
chúng sanh vào vô dư niết bàn. Muốn nói khiến cho vào vô dư niết bàn,
nên trước nói loài của chúng sanh chẳng ngoài thức, sắc, dục. Thế nên
biết cái sở dĩ thành chúng sanh, thì biết cái sở dĩ độ chúng sanh, biết
vô biên chúng sanh, không chúng sanh nào chẳng là hư tướng của thức,
sắc, dục huyễn thành ra, thì biết diệt tướng thức, sắc, dục sanh diệt
của nó, khiến vào bất sanh bất diệt, là thực không có chúng sanh, thực
không có chúng sanh nào đắc độ, vì sao? Vì chúng sanh chỉ là thức, sắc,
dục nó che lấp đi. Bổn tánh của chúng sanh nguyên là bất sanh bất diệt,
là cùng với ta đồng thể, thế thì chỗ nào gọi là chúng sanh, chỗ nào gọi
là đắc ư? Quán chiếu như thế thuần phục, thì cái kiến chấp ngã tự nó hóa
ở chỗ chẳng hay chẳng biết. Vì cớ gì? Vì biết ta cũng là chúng sanh, vì
biết đương thể tức không biết niệm nổi dậy thì có, nếu không có niệm
thì hết thảy đều không, biết bổn lai bình đẳng. Ðây là đại thừa pháp sở
dĩ hay khéo, mới thiệt là cái hành phục của chẳng hàng phục vậy. Trong
này càng có yếu nghĩa, sẽ lại vì đó mà nói :
1) Vọng tưởng gốc
rễ rất sâu, nay mới phát giác ra, đạo lực còn nhỏ, mỏng, há có thể đối
địch với nó. Vả chân tâm và vọng tâm nguyên là đồng thể, khởi tâm động
niệm thì trọn cái chân thành ra cái vọng, tâm khai, niệm ngừng nghỉ thì
trọn cái vọng tức là chân, lại cần gì phải trừ. Vì hai thứ nguyên nhân
này, nên chỗ gọi là trừ vọng chỉ là cái tên giả trừ mà thôi, thực ra
không gì có thể trừ. Chỗ bảo là hàng phục là chuyển đi một cách hay
khéo, khiến cho nó qui hóa, chẳng phải là đối địch với nó mà trừ. Nay
khiến phát tâm ly tướng, chính là phương tiện hay khéo, dùng đại tâm mà
hóa nó vậy.
2) Tại sao phát đại tâm liền có thể hóa? Phải biết,
tâm lượng của phàm phu nhỏ hẹp, cho nên chấp ngã, càng chấp lại càng
hẹp. Nếu phát tâm quảng độ vô biên chúng sanh, lâu ngày quán thuần thục,
thì trong chỗ chẳng hay chẳng biết, tình chấp đã tiêu mất.
3)
Phàm phu chỉ biết có ngã, nếu khiến cho nó ở ngay trên tự thân nó để
quán vô ngã thì nó không thể vào được. Nay khiến cho nó từ đối diện day
về chỗ rộng rãi để quán không có chúng sanh, tâm lượng đã mở rộng ra
trong khoảng đối chiếu, thì cái ngã cũng là duyên sanh, là vốn tịch
diệt, nên liền thông suốt dễ hiểu. Ðây đều là pháp môn hay khéo, phát
đại tâm mà hóa nó vậy.
4) Cội rễ của kiến tư hoặc là ngã kiến,
nay dùng phép chuyển di mặc hóa, dứt nó ở chỗ chẳng hay biết, thiệt là
kim cương rất chắc rất bén vậy.
5) Chấp ngã là thức mạt-na, có
ngã liền có sự phân biệt, có nhân, chúng sanh, thọ giả, phân biệt là
thức thứ 6, nay hết thảy chẳng chấp là chuyển thức thứ 6, thứ 7. Thức 6,
7 mà chuyển thì 5 thức trước và thức thứ 8 đều chuyển mà thành trí, đây
gọi là bát nhã ba la mật.
6) Ðộ chúng sanh thành Phật để già
(che) cái không, thực vô chúng sanh diệt độ để già (che) cái hữu, đây là
già cả hai bên. Tuy quảng độ chúng sanh mà thực không có chúng sanh,
tuy thực không có chúng sanh mà quảng độ chúng sanh, đây là chiếu cả hai
bên. Quán già và chiếu đồng thời để làm nhân, thì đắc quả tịch chiếu
đồng thời.
7) Phát quảng độ tâm là đại bi, quán lý thực không
có chúng sanh là đại trí. Bi trí sẵn đầy đủ lại là nhân của chẳng trụ
sanh tử, chẳng trụ niết bàn.
8) Theo bên đại bi chỗ nói ở trên
mà nói tức là tu phước, theo bên đại trí mà nói tức là tu tuệ. Phước tuệ
song tu lại thành cái nhân lưỡng túc tôn. Như thế có thể biết hết thảy
pháp đại thừa ở cả trong đó, mà đều là pháp thẳng đến bảo sở. Nên kinh
này nói : hết thảy chư phật và chư phật a nậu đa la tam miệu tam bồ đề
pháp đều từ kinh này ra.
9) Chưa có thể độ mình trước muốn độ
người, bồ tát phát tâm chỗ gọi là đại bi vậy. Nay xem nghĩa của khoa
này, mới biết độ người tức độ mình, thì trong đại bi liền có đại trí,
thiệt là hay khéo.
10) Khoa này là khiến người ta phát nguyện,
từ xưa đến nay người học phật mỗi hay lấy làm khổ vì chẳng phát nổi đại
nguyện, có thể noi theo những điều từ 1 đến 9 nói trên để xem, thì đại
nguyện bi trí cụ túc sẽ phát sanh ra một cách dễ dàng. Lại khoa trên chỗ
nói là hàng phục cũng có nghĩa riêng, vì chưng khiến kẻ phát đại nguyện
nên lập chí kiên cường, chớ sanh ra khiếp nhược, ngay đó tức hàng phục
tâm mình.
Trong 2 khoa trên đây là chỉ bảo đích xác chỗ công
phu tu hành của chúng ta nó hết sức thân thiết, hết sức cần yếu, nói tóm
lại yếu nghĩa của nó có 8 :
1) Tuệ Mạng Tu Bồ Ðề trước hỏi
trụ, thứ nhì hỏi hàng, phật trả lời trước hàng, thứ nhì mới đến trụ, mà
trong chỗ trả lời về trụ lại nói : "ưng vô sở trụ", thì có thể thấy
chúng ta dụng công phu chỉ cần trừ vọng. Tại sao? Vì chân tâm chẳng hiện
ra, toàn là bởi vọng che lấp, vọng chẳng trừ hết mà nói an trụ ở cái
chân của như như, thì ngay đến một niệm này, vẫn là vọng tưởng. Huống
chi phật cứu cánh chứng đắc, cũng chẳng trụ ở niết bàn, thì lúc tu nhân
sao có thể nói trụ được ư?. Trong kinh Lăng Nghiêm nói : "Nhân minh
chiếu sanh sở, sở lập chiếu tánh vong". Lại nói: "Tri kiến lập tri thị
vô minh bổn". Thế nên biết rằng có trụ thì có sở (chỗ trụ), có sở thì có
lập (lập nên). Có sở, có lập thì trong đại viên kính dính nhuốm bụi dơ,
quang minh sao có thể chiếu khắp, nên mới nói vô minh bổn, chiếu tánh
vong (gốc của vô minh, tánh của chiếu mất). Cho nên Thiền Tông tổ sư nói
: "chỉ cầu ngừng nghỉ vọng, chẳng nên lại tìm chân". Cổ đức cũng nói :
"chỉ hết phàm tình, không có thánh giải nào khác". Ðây có nghĩa là hễ
hết phàm tình thì chính là thánh giải. Kinh lại cũng nói : "tâm cuồng
vọng chẳng ngừng nghỉ, ngừng nghỉ tức là bồ đề", đều là thuyết minh cái
lý dụng công chỉ cần hàng phục vọng tâm. Do đó có thể ngộ, trừ bỏ tri
kiến sai biệt là công phu suốt từ đầu chí cuối, há chỉ là phương pháp
bắt đầu hạ thủ mà thôi đâu ?
2) Hàng phục phải có phương tiện,
nếu không có phương tiện thì vọng tâm càng phừng lên. Nay ngụ hàng phục ở
phát tâm quảng đại, nói một cách khác, thì phát quảng đại tâm tức là
hàng phục, thế thì hàng phục tức là phát đại tâm mà hóa nó, không gì gọi
là hàng mà tự nhiên hàng, hết sức phương tiện vậy.
3) Hàng
phục là hàng phục vọng tâm. Phải biết, vọng tâm từ phân biệt sanh ra,
gốc của phân biệt ở chỗ chấp ngã, nên nay lấy quảng đại tâm để hàng phục
4 tướng ngã, nhân v. v ..., lại độ hết vô lượng, vô số, vô biên chúng
sanh. Ðại từ đại bi như thế thì 2 độc tham sân tiêu trừ. Lại tuy độ sanh
thực không chỗ độ, là không có thường kiến (tức là chẳng chấp hữu), tuy
không chỗ độ, mà độ sanh chẳng ngừng nghỉ, là không có đoạn kiến (tức
là chẳng chấp không). Chẳng thường chẳng đoạn, đầy đủ tuệ vi diệu này
thì độc si cũng trừ. Bởi hết thảy phàm phu ngã kiến nặng, tam độc sâu,
thực do ở căn bịnh tâm lượng nhỏ hẹp, phải lấy tâm quảng đại trị căn
bịnh này, từ trên căn bản giải quyết, thì các bịnh tự nhiên dễ trừ.
4)
Hết thảy chúng sanh từ vô thủy đến nay, xưa nay chẳng giác ngộ, chỗ gọi
là chẳng giác ngộ ấy là chẳng hiểu biết sự phân biệt ngã nhân đều bởi
chấp thủ tướng. Ly tướng, trở về với tánh vốn là đồng thể, há có sai
biệt? Vì chẳng biết mà chấp tướng, nên càng chấp càng mê, mê tức là si.
Do đó nhân cái ngã mà lập nên ngã sở, tham sân tranh nhau nổi dậy, tạo
nghiệp vô cùng. Lại chẳng rõ chỗ gọi là ngã sở, không cái nào chẳng là
huyễn hữu của nhân duyên sanh ra. Chẳng kể pháp (hữu) và phi pháp
(không) nếu có chỗ chấp thủ, tức là chẳng hiểu rõ. Pháp tướng, phi pháp
tướng đều do tánh nổi dậy. Nếu lấy tánh tiêu dung nó, thì tướng vốn
chẳng phải tướng, làm gì có ngã sở, làm gì có ngã nhân. Vì chẳng hiểu
rõ, đến nỗi không làm sao giải thoát được cái khổ do nghiệp trói buộc.
Nay lấy quảng đại tâm độ chúng sanh mà chẳng chấp thủ tướng, tức là
khiến ly hết thảy pháp tướng, phi pháp tướng (tức là ly 2 bên không và
hữu), nhóm về tánh đồng thể. Nếu nhóm về tánh, há còn lại các tướng ngã,
nhân v v..., sai biệt, thế thì chẳng phải độ người tức là độ mình ư?
Hay khéo còn gì hơn nữa !
5. - Phàm phu dễ bị cảnh chuyển (cảnh
là ngã sở), không có gì khác, là vì chấp cảnh mà thôi. Ngay đến phát
tâm tu hành cũng chẳng ai là không có cảnh chỗ mình duyên vào. Ví như độ
sanh tức là chỗ duyên cảnh của người đại tâm tu hành. Ðã chẳng thể
không có duyên cảnh (không có cảnh tức là chấp không, cũng tức là không
từ đâu để bắt đầu tu) lại chẳng thể chấp thủ ở cảnh (thủ cảnh tức là
chấp hữu). Nay nên ngay đầu, lấy độ mà thực không chỗ độ, khiến chẳng
chấp 2 bên, nhóm về trung đạo, hợp với tánh thể, trỏ ra đích xác phương
pháp hạ thủ, thân thiết biết bao nhiêu !
6. - Trong này tuy nói
hàng, chưa nói trụ, nhưng ý của trụ thực đã ngụ một cách kín đáo ở
trong đó. Kẻ phát đại tâm trước hết phải độ sanh, há chẳng phải là trỏ
rõ pháp an tâm ư ? Mà độ không chỗ độ, cũng tức là trỏ ra ưng trụ mà vô
sở trụ, câu kệ của ngài Di-Lặc sở dĩ nói : "lợi ích thâm tâm trụ". Nói
rốt lại là khiến trụ ở bát nhã chánh trí, tức là quán chiếu bát nhã,
quán chiếu không, giả, trung đạo đệ nhứt nghĩa đế, đồng thời chẳng lìa
không, giả. Vì chúng sanh vốn có bịnh chấp thủ, nên chẳng nói rõ, khiến
người chẳng trụ ở tướng tự mình lĩnh hội.
7. - Chỗ thấy thông
thường mỗi hay bảo rằng bát nhã là nói lý sâu, thậm chí sợ nó nghiêng về
bên không, kẻ tu tịnh độ lại không dám nói tới, mà kẻ học bát nhã lại
thường hay chấp lý bỏ phế sự, chỉ nói suông mà thôi. Nay xem ngay bắt
đầu nói hàng phục, có thể thấy chướng ngại của vọng tập chẳng trừ, thì
chánh trí bát nhã sao có thể mở. Vả ngay bắt đầu nói việc độ sanh, có
thể thấy trải qua sự việc mà rèn luyện tâm, chính là chỗ nhập của bát
nhã, sao có thể ngoài sự ra mà nói lý. Lại không và hữu 2 bên đều chẳng
thể chấp, há nghiêng về bên không ư? Chỗ này cần phải để ý xét kỹ.
8.
- Trong này hàng phục phân biệt tâm tức là chuyển thức thứ 6, mà hàng
phục ngã tướng tức là chuyển thức thứ 7. Phải biết, chúng sanh từ vô
thủy bất giác, tự tánh thanh tịnh tâm chẳng hiển hiện ra, mà lại hiện ra
làm thức. Sự tác dụng rất lớn của thức là chỉ có 2 thức thứ 6 và thứ 7,
nên phải từ 2 thức này để hạ thủ. Lúc này trọn hết thảy là thức, làm gì
có chân tâm có thể trụ, nên sở dĩ chỉ nói hành phục mà chẳng nói trụ.
Chỗ gọi là chánh trí quán chiếu bát nhã cũng vẫn còn là thức. Phải biết,
thức nguyên là chỗ biết hiện của tự tánh dùng để phân biệt, chấp ngã,
liền thành ra thức, nên mới gọi nó là vọng. Nếu dùng thức để hàng phục
phân biệt ngã chấp, tức là dẫn nó về đường chánh, nên mới gọi tên nó là
chánh trí, cũng như lấy cái mâu của ông đánh vào cái thuẫn của ông, lại
cũng như tục ngữ nói : người cởi cái chuông vẫn phải là người đã buộc
chuông. Thiền tông gọi là "ly tâm ý thức tham" cũng như thế. Vì nó chưa
ly (lìa) nên dạy nó ly. Phải biết, niệm năng ly cũng là thức, vì không
từ đó mà hạ thủ, thực không còn biện pháp nào khác. Mà Thiền Tông không
nói rõ là thức, cùng với trong kinh này chẳng nói trụ, dụng ý giống
nhau. Thiền Tông hạ thủ liền đã ly tâm ý thức, đây há chẳng phải là uống
thuốc hay mà chẳng biết thuốc tại sao hay ư? Niệm Phật pháp môn cũng
thế, nói đến niệm Phật tức là dùng tâm thức. Biết đâu rằng nhứt tâm
chánh niệm là để hàng phục những vọng niệm đầy dẫy. Hoặc nói : vì niệm
Phật chưa có thể ly niệm, rốt cuộc chẳng bằng Thiền Tông trỏ ngay nhân
tâm kiến tánh thành phật, cao hơn. Biết đâu rằng tịnh niệm và vọng niệm
khác nhau xa, vọng niệm càng niệm thì niệm lại càng nổi dậy, tịnh niệm
thì có thể niệm niệm mà đi đến vô niệm. Ví như dùng bùn mà lóng nước thì
nước càng đục ngầu, dùng phèn mà lóng nuớc thì nuớc liền trong sạch.
Còn nói trỏ ngay, hướng thượng, thì pháp môn niệm phật so với trỏ ngay,
hướng thượng của Thiền Tông còn yên ổn hơn, hay khéo hơn. Chữ ngay có
nghĩa là khi té xuống đất, liền từ dưới đất đứng dậy, há chẳng lanh lẹ
hay khéo ư? Cho nên pháp môn tịnh độ hạ thủ tức là chuyển thức thành
trí, là hàng phục, là chánh trí quán chiếu bát nhã, là tức niệm ly niệm,
2 bên chẳng chấp. Và người niệm phật phải phát đại tâm, phổ nguyện pháp
giới chúng sanh cùng sanh cực lạc, liền đem chánh niệm xông ướp pháp
giới, quảng độ hàm linh, há chẳng cùng với chỗ nói trong kinh này giống
nhau ư? Nếu có thể dung hội được điểm nghĩa lý này thì sao còn không
siêng năng niệm phật ư? Còn sợ niệm phật chẳng đủ sức lực ư ? Cần yếu !
Cần yếu !
TRƯNG THÍCH
Hà dĩ cố ? Tu Bồ Ðề, nhược bồ tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức phi bồ tát.
Dịch
nghĩa : Vì cớ gì? Tu Bồ Ðề ơi, nếu bồ tát có tướng ta, tướng người,
tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tức là chẳng phải bồ tát.
Trưng
là đem ra, đem chỗ nói nghĩa văn trên mà giải thích rõ ràng gọi là
trưng thích, có ý tự hỏi lại tự trả lời. Nhân, chúng sanh, thọ giả đều
từ ngã tướng mở ra. Có ngã tướng liền có nhân tướng đối với ngã tướng.
Nhân chẳng chỉ có một người là chúng sanh tướng. Kiến chấp ngã nối tiếp
chẳng dứt là thọ giả tướng. Bốn tướng chẳng ngoài một cái ngã tướng. Nay
mở ra mà nói là nói rõ kẻ chấp ngã liền có tâm phân biệt. Phải biết, 6
thức sanh ra ở thức mạt-na, có thức mạt-na liền có 6 thức chẳng lìa
nhau. Chấp ngã, phân biệt như thế là bịnh thông thường của kẻ phàm phu,
há là bịnh của bồ tát, cho nên mới nói là tức phi (tức chẳng phải) sở dĩ
răn dạy cảnh cáo kẻ phát đại tâm rất sâu xa vậy. Ngã tướng bởi ngã kiến
mà sanh ra, ngã kiến bởi ngã tướng mà hiển ra, một cái trong, một cái
ngoài từ xưa đến nay chẳng lìa nhau nên phá ngã tướng tức là phá ngã
kiến. Tướng có thô, tế, thô thì chấp cảnh, tế thì chấp tâm. Ngài Hậu Chu
cũng nói: “ngã tướng là theo tâm mà nói, tức là theo thức mà nói”, vì 8
thức là tướng của tâm chân như biến hiện ra, nên Duy Thức Tông cũng có
tên là Tướng Tông. Khoa nầy vốn giải thích cái cớ khiến phát đại tâm ở
khoa trên, sao chẳng nói vì cớ gì phát đại tâm hóa chúng sanh, vì cớ gì
đoạn hoặc chuyển thức, và vì cớ gì độ mình trước phải độ người, độ người
tức là độ mình, như thế há chẳng khiến cho nghĩa của khoa trên càng rõ,
mà ắt từ phản diện mà nói, là tại sao? Vì đoạn hoặc chuyển thức v v...
đều là pháp, đều chẳng thể chấp thủ, chấp thủ thì lại thành ngã tướng,
lại thành phân biệt. Nên chẳng dùng biểu-thuyên, mà dùng già-thuyên
khiển-đãng hết thảy. Ðây là ý nhiệm mầu của thế tôn mà cũng là chính
tông của bát nhã. Bốn tướng tức là 1 cái ngã tướng, có ngã tướng liền có
nhân tướng để đối đãi, đối đãi chẳng chỉ 1 người tức là chúng sanh
tướng. Ngã tướng ở trong vọng tâm, niệm niệm nối tiếp chẳng quên tức là
thọ giả tướng. Bồ tát nếu thấy có chúng sanh được độ, tự ta độ chúng nó
tức là có ngã tướng, từ đó mà 4 tướng đều nổi dậy, có 4 tướng liền có
tâm phân biệt, có tâm phân biệt là phàm phu, chẳng phải bồ tát. Người tu
hành thứ nhứt phải gạt bỏ chữ NGÃ, phát tâm vì hết thảy chúng sanh, đây
tức là hàng phục ngã tướng. Ngã dai linh nhập vô dư niết bàn nhi diệt
độ chi, chúng sanh cang cường, khiến chúng nó tu hành đã chẳng dễ, huống
chi liễu sanh thoát tử, nhưng đều chẳng cần hỏi tới, vô luận người và
chẳng phải người, đều độ chúng nó thành phật, vì chưng chúng nó cũng vốn
là phật, đây là hàng phục nhân tướng.
Diệt độ vô lượng vô số
vô biên chúng sanh, mà trong tâm không nổi dậy niệm làm sao có thể độ
hết, đây là hàng phục thọ giả tướng. Thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả,
đây là hàng phục chúng sanh tướng. Tại sao phải hàng phục như thế? Vì
phát vô thượng tâm thì phải làm hạnh bồ tát, hạnh Phổ Hiền, nếu còn bốn
tướng thì làm sao gọi là bồ tát được? Phật muốn cho người tu hành từ văn
tự mà quán chiếu, Nếu chẳng dùng công phu quán chiếu, thì phàm tình
chẳng thể chuyển, nên người học phải từ chỗ nầy mà hạ thủ. Nay đem đoạn
kinh văn này thuật rõ phương pháp quán chiếu. Người xưa ở phương pháp
quán chiếu phần nhiều chưa nói rõ. Quán là quán sát (lúc ban đầu dịch là
tư, nghĩa là trong tâm suy nghĩ). Thiền tông chẳng có thể dùng tâm ý
thức để tham thiền, là rõ ràng dạy người ta chẳng dùng tư, nhưng lại nói
: chẳng thể rơi vào cái vỏ vô tư, thì lại là phải dùng tư-duy. Sở dĩ
dạy như thế là vì phàm phu tri kiến nhiều, ắt phải đi thẳng vào, nên
trước đem cành ngọn trừ chặt đi. Thiền tông khán thoại-đầu, phải nổi dậy
nghi-tình, nếu chẳng tư-duy thì nghi-tình từ đâu mà nổi dậy? Quán là tư
duy, nhưng chỉ tư duy không thôi, thì chẳng thể được, nên lại phải dùng
chiếu, chiếu là khán của Thiền Tông. Như đem văn tự bắt đầu quán chiếu,
một khi lìa văn tự trở về trong tâm, thì sau mới có thể chiếu trụ. Lúc
chiếu, nói là có tư duy mà là không tư duy, nói là không tư duy mà chẳng
phải là không tư duy. Lúc này trong tâm tự nhiên trí tuệ mở ra. Mở ra
như thế nào? Tức là vọng tưởng ngừng lại, mà trụ ở bổn giác. Bát nhã có
văn tự bát nhã, quán chiếu bát nhã, thực tướng bát nhã. Văn tự là trỏ
kinh văn mà nói, thực tướng là trỏ cái tánh của người người vốn có đầy
đủ mà nói. Phật thuyết bát nhã là hy vọng người học chứng tánh vốn có
đầy đủ này. Làm sao có thể chứng được? Tức là phải đem văn tự ra bắt đầu
quán chiếu, nếu không quán chiếu thì văn tự là văn tự, chẳng thể tiêu
về tự tánh mình, chẳng được thu dụng. Chúng ta đọc kinh Kim Cương nguyên
muốn tiêu về tự tánh mình. Phật thuyết kinh nầy cũng là vì cái đó. Thế
thì đạo lý quán chiếu phương pháp quán chiếu, chẳng thể nào mà không
biết. Chẳng những bát nhã phải quán chiếu, mà hết thảy phật pháp nói đến
việc tu hành, dù ngàn muôn pháp môn cũng không ngoài quán chiếu. Ba
điều kiện học phật là : giới, định, tuệ. Không có giới thì ba nghiệp
thân khẩu ý chẳng được thanh tịnh, nên giới là nền móng của tu học, nó
đứng một mình. Hai chữ định, tuệ sanh khởi lẫn nhau, theo trên quả mà
nói là định, tuệ, theo trên nhân mà nói là chỉ, quán. Chỉ là ngừng nghỉ
vọng niệm, quán là quán chiếu chân tâm. Vì CHỈ có thể sanh định, vì QUÁN
có thể sanh tuệ, đây là nói riêng hai cái ra, kỳ thực công phu chỉ
quán, chỉ có một chữ QUÁN, hai cái chỉ và quán là một việc. Chỉ là lúc
mới hạ thủ phải thu nhiếp tâm một chỗ, tức là chỗ cổ nhân nói là ÐỊNH,
kỳ thực lúc mới hạ thủ chưa đủ để nói định, mà định bèn do đó sanh ra.
Lâu lâu thì do định sanh TUỆ. Tại sao? Vì sau khi quán một thứ pháp môn
đã thành tựu, thì trí tuệ liền phát sanh, vọng tưởng liền tiêu mất, nên
có tuệ thì mới có thể thành tựu cái định nầy. Lại lúc mới hạ thủ, nhiếp
tâm một chỗ ắt phải hết sức để ý mới có thể nhiếp được, có thể thấy
trong đó có sự quán. Nên nói đi nói lại chỉ một chữ quán, sở dĩ bát nhã
chẳng nói chỉ mà nói quán chiếu. Quán chiếu có nhiều thứ phương pháp,
nếu không có phương pháp thì chẳng thể khởi chiếu. Phương pháp tuy các
tông không giống nhau, mà tông chỉ chỗ qui về thì là một. Như 3 thứ quán
không, giả, trung của Thiên Thai Tông, tứ vô ngại quán, và pháp giới
quán của Hoa Nghiêm tông, ngũ trùng duy thức quán của Pháp Tướng tông,
đạo tường quán, A tự quán của Mật Tông, khán thoại-đầu của Thiền tông,
quán vô lượng thọ phật của Tịnh độ tông đều là vậy. Hoặc nói : niệm phật
chẳng phải là quán, câu này không đúng. Phải biết, tức niệm mà tức
quán, nếu vọng tưởng đầy dẫy tán tâm niệm phật thì chẳng được thụ dụng.
Ắt phải miệng niệm phật hiệu, tâm tưởng Di Ðà như ở trước mắt. Niệm phật
như thế thì vọng tưởng không từ đâu mà nổi dậy, đây tức là quán, nên
dụng công phu chẳng gì cần yếu hơn tu quán. Tu quán là thu nhiếp ý căn, ý
căn nhiếp trụ, thì 2 nghiệp thân, khẩu cũng nhiếp ở một chỗ. Nên tâm
tưởng phật, miệng niệm phật, tay lần chuỗi của Tịnh Ðộ tông, tâm tác
quán, miệng niệm chú, tay kết ấn của Mật tông, có thể thấy chẳng kể dụng
công phu như thế nào, nếu không làm sự quán thì chẳng thể được. Ba phép
quán không, giả, trung, và tứ vô ngại quán của phía bên giáo, dường như
phép quán có khác nhau, nhưng lý của nó thì vẫn là một, chẳng thể nào
mà chẳng biết, nếu không thì ở kinh điển các tông chẳng dung hội mà có
sự chống chõi nhau. Phương pháp làm sự quán từ nhà Ðường trở về sau, trừ
Thiền tông ra, các tông khác giảng pháp nầy lần lần ít đi. Như Thiên
Thai tông lúc giảng về giáo lý, ở lý không, giả, trung phát huy phép
quán rất tường tận, mà lúc dụng công tu hành, thì lại chẳng nhứt định
dùng phép nầy. Chỉ có Thiền tông từ xưa đến nay chuyên nói một phép
hướng thượng, vả lại chẳng chịu cho dùng tâm ý thức tham. Vì thế có kẻ
bày ra thuyết cho rằng các pháp môn khác còn dùng tư duy, chỉ có Thiền
tông chẳng dùng tư duy, lại dẫn lời kinh nói : “chẳng thể dùng tâm sanh
diệt làm gốc tu nhân”, để chứng thực thuyết này. Biết đâu rằng chẳng
chịu cho dùng tâm ý thức tham, có nghĩa là chẳng chịu cho dùng phàm tình
để đo lường, một khi dùng ý thức tức là phàm tình. Lấy tâm tình của
phàm phu suy tính đo lường lời nói của phật, thì quyết không thể được,
nên chẳng chịu cho. Từ xưa lại có thuyết quán tức là chiếu. Chiếu là
chiếu trụ, mà cổ nhân đối với chiếu trụ lại có lời phê bình, cho là
chiếu trụ như thế tức là ám chứng (chứng một cách mờ ám). Ðã chẳng chịu
cho dùng phàm tình đo lường, chiếu lại là ám chứng, mà nghĩa gốc của
quán lại là tư-duy, vì thế kẻ học không còn biết đường nào mà theo. Thế
thì tu quán, cứu cánh phải hạ thủ ra sao? Tôi ở chỗ nầy tham thiền trải
qua nhiều năm, theo Ðại Thừa Chỉ Quán của Nam-Nhạc đại sư mà ngộ được lý
nầy. Cổ nhân nói : chẳng dùng tâm ý thức tham, tức là chẳng dùng tâm
sanh diệt làm nhân của gốc tu. Ý của Phật thì chẳng giống như thế, ấy là
nói kẻ học phật lúc mới phát tâm chẳng thể lấy tâm sanh diệt làm nhân
của gốc tu, như kinh nầy nói : thiện nam tử thiện nữ nhân phát a nậu da
la tam miệu tam bồ đề tâm, là vậy. Ðến thực tế dụng công thì phải dùng
tư duy, như kinh nầy nói : sở hữu nhứt thiết chúng sanh chi loại, ngã
dai linh nhập vô dư niết bàn nhi diệt độ chi, tức là tư duy. Lúc mới bắt
đầu phát vô thượng bồ đề là xứng tánh khởi tu, đó là chẳng dùng tâm
sanh diệt làm nhân của gốc tu, đến khi tu hành ắt phải dùng quán chiếu
tức là tư duy. Thiền tông nói : chẳng thể dùng tâm ý thức tham là nỗi
khổ tâm của Tổ sư, kỳ thực vẫn phải tư duy, chẳng tư duy thì chẳng thể
nổi dậy nghi-tình, đến như chẳng dùng phàm tình để đo lường lại là một
việc khác. Tại sao biết từ nhà Ðường trở về sau, các tông khác phần
nhiều chẳng biết làm sự quán? Ðây có thể lấy thuyết của Thiện đạo đại sư
trong Thập Lục Quán kinh để chứng minh. Ngài nói : “hiện nay căn của
con người ngu độn, tu quán chẳng thành được”, nên ngài chỉ đề xướng niệm
phật. Ðây là trỏ pháp của Quán kinh rộng lớn, tâm lượng kẻ phàm phu
chẳng thể tương ứng. Tôi chẳng thể nào vì Thiện Ðạo đại sư có lời nói
trên mà gạt phép quán ra chẳng nói bàn. Từ giữa nhà Ðường trở về sau,
Mật tông cực thịnh trong một thời, chẳng bao lâu lại tiêu diệt mất, Hoa
Nghiêm Tông cũng thế. Thiên Thai tông đến khoảng giữa cũng suy kém, trải
qua sự đề xướng của Ngài Tứ Minh, Từ Vân 2 vị đại sư, các kinh sớ lại
từ Nhựt Bổn thu về, được nhờ đó mà hưng thạnh trở lại. Nhưng dụng công
thực tế của 2 ngài cũng chỉ dùng tịnh độ, mà chẳng phải chỉ-quán. Từ đời
Tống trở về sau, Tịnh Ðộ tông còn có mấy vị đại sư, mà phương pháp làm
sự quán cũng phần nhiều chẳng giảng, nên chỉ có Thiền tông là còn có
pháp môn quán. Ðời sau người tu hành chẳng phải là không nhiều, mà đắc
lực thì rất ít, đó là vì chẳng giảng phương pháp làm mà sự quán nó quan
hệ như thế ! Lại người tu hành thường thường lúc mới tu rất đắc lực, sau
thì lại thay đổi chí hướng, đó cũng vì chẳng biết làm sự quán, khô khan
vô vị bèn đến như thế ! Lại có kẻ đọc tụng kinh điển đại thừa có thể
hiểu rõ lý trong kinh, mà kết quả trái lại sanh ra tà kiến, cũng là tại
chẳng biết làm sự quán. Quán tức là tư duy.
Chiếu có hai nghĩa :
1) Chiếu trụ, 2) Chiếu kiến. Chiếu kiến là trỏ lúc công phu đã tu
thành, như câu : “chiếu kiến ngũ uẩn dai không” trong Tâm Kinh là vậy.
Ðại khái chiếu kiến từ chiếu trụ mà tới, chiếu trụ từ tư duy mà tới,
chẳng tư duy thì chẳng thể chiếu trụ, chẳng chiếu trụ thì chẳng thể
chiếu kiến. Tư duy lâu ngày, tâm mình an trụ một chỗ tức là chiếu trụ,
lúc này bao nhiêu vọng niệm tạm thời ngừng nghỉ chẳng còn sai khiến
mình, nếu vọng niệm sai khiến thì chẳng thể ngừng nghỉ được. Người người
một niệm hiện tiền vốn đầy đủ chân tâm, chỉ vì vọng niệm sai khiến, nên
chẳng giác ngộ. Vọng tưởng một khi ngừng lại, thì quang minh vốn có tự
nhiên phát ra, đây tức là trí tuệ. Quán chiếu phải quán tâm tánh của
chúng ta, gọi đó là tiêu về tự tánh mình. Nhưng phàm phu ngược lại quán
chiếu chẳng đến nơi, hoàn toàn đen tối như thùng sơn, hoàn toàn là vọng
tâm, như thế thì làm sao có thể được? Chỉ có chiếu theo lời phật dạy để
quán, tức là trước phải ở nơi văn tự của kinh Phật dụng công. Phật nói
phương pháp quán chiếu, tức là chẳng hứa cho chúng ta dùng phàm tình đo
lường. Như đoạn kinh văn này, nếu dùng phàm tình đo lường mà chẳng dùng
quán, liền chẳng thể hiểu thấu. Người đời đọc kinh chỉ chuyên ở trên văn
tự tìm cầu, cho là đã hiểu rõ nghĩa kinh, như thế thực là chẳng thể
được. Như câu “ưng như thị hàng phục kỳ tâm”, phàm tình đo lường đã đành
có nhiều thứ giải thích, như thế thì chẳng dùng được, phải nên trừ khử
nó đi. Rồi lại tưởng nữa, thì lại có các thứ cảnh giới khác, nên lại
phải trừ khử nó. Tưởng rồi lại tưởng nữa, đều chẳng dùng được, càng
tưởng càng tiến lên, lâu lâu như người ngu ngốc, thì chỗ nhiệm mầu chính
là ở chữ NGỐC này. Người xưa nói : phải một phen đại tử (chết lớn),
chết là chết cái vọng tâm này. Dụng công phu như thế, hoặc nửa năm, hoặc
một năm, bỗng nhiên khai ngộ, ra ở ngoài ý muốn của mình. Lúc đó phải
thỉnh cầu bực thiện tri thức chứng minh sự khai ngộ này có đúng không?
Nếu không có thiện tri thức, thì lấy kinh phật để chứng minh. Nếu trong
kinh Phật không có thuyết nào như thế, thì vẫn còn là phàm tình đo
lường, chưa đúng là khai ngộ. Như thế thì vọng tưởng trong tâm đã dứt đi
chẳng ít, tuy chưa liền tiêu về tự tánh mình, mà đã tiêu về chẳng ít.
Cho nên phải đọc tụng nhiều kinh điển đại thừa, bộ kinh này chỗ nào cũng
nói đọc tụng thụ trì, tức là quán chiếu vậy. Lại quán : chỗ có hết thảy
chúng sanh, đến : thực không chúng sanh được diệt độ, văn trên nói hàng
phục, đoạn này sao không đem hàng phục ra nói là ý nghĩa gì? Ðây là
khiến chúng ta đem tâm lượng mở rộng lớn ra đến vô lượng vô biên, vì căn
bệnh lớn của chúng sanh là tâm lượng nhỏ hẹp, vì nhỏ hẹp liền chấp ngã.
Nên Phật khiến đem tâm này mở rộng lớn ra, là giáo hóa một cách kín
đáo, chỗ gọi là dùng đại tâm mà hóa. Nếu ở khoảng công việc tầm thường
hằng ngày, lúc nào cũng quán chiếu như thế, đem lời tâm lượng mở rộng
lớn của Phật nói dời đến phận mình, tức là phương pháp hay khéo để trừ
ngã kiến, bỏ phiền não. Lại xem đoạn văn này, chỗ qui kết ở một câu :
thực vô chúng sanh đắc diệt độ, đó là khiến chúng ta trừ ngã kiến, mà
không trỏ ngay cái ngã kiến, lại đối diện với ngã ở trên phận của chúng
sanh làm sự quán. Vì phàm phu chấp ngã một phút chẳng buông lơi, nếu đem
ngã để làm sự quán thì chẳng thể đắc lực, nên từ phương diện chúng sanh
mà quán, quán nhân duyên tu họp, đương thể tức không, lại quán chúng
sanh cùng một thể, quán chiếu như thế thì trong chỗ chẳng hay chẳng
biết, ngã chấp tự nhiên biến hóa đi, đây là phuơng pháp hay khéo tiêu về
tự tánh mình. Lại quán như : loãn sanh, cho đến phi hữu tướng, phi vô
tưởng, thì có thể thấy hết thảy chúng sanh, không loại nào là chẳng có
sắc, dục, thức. Ba cái này không chuyển đi thì luân hồi vĩnh viễn trong
tam giới. Vì thế biết rằng : dục chẳng thể nào mà không dứt, sắc tướng
chẳng thể chấp trước, tình thức ắt phải chuyển di. Quán chiếu như thế,
thì trong chỗ chẳng hay chẳng biết, 3 cái dục, sắc, thức có thể trừ khử.
Lại quán câu : đều vào vô dư niết bàn mà diệt độ nó. Chúng sanh đã
nhiều như thế, mà như loãn sanh định tánh ngu xuẩn khó giáo hóa, hữu
tưởng, vô tưởng thì cống cao, làm sao có thể diệt độ hết thảy được?
Nhưng phật là vô duyên đại từ, chỉ cần nó tiếp gần với ta, thì ta phải
độ hết. Quán chiếu như thế nầy, tự mình ở trong loài người, trên chưa tu
đến phi tưởng, phi phi tưởng, dưới so với loài loãn sanh, thấp sanh thì
cao sáng hơn, vậy phải nên học phật, thành phật, quán như thế thì vô
thượng tâm tự nhiên có thể nổi dậy, vọng tâm tự nhiên có thể chuyển di.
Lại quán 1 câu : thực không có chúng sanh được diệt độ, ở dưới câu : vô
lượng, vô số, vô biên chúng sanh, thì có thể thấy được còn một chúng
sanh nào chưa độ, tức là nguyện của ta vô tận. Quán lời Phật dạy như
thế, lý chẳng lìa sự, sự chẳng lìa lý, đây là lý và sự 2 cái dung hội.
Câu : ta đều khiến vào vô dư niết bàn mà diệt độ nó, là khiển trừ chấp
không, câu : thực vô chúng sanh đắc diệt độ, là khiển trừ chấp hữu, 2
bên đều khiển là già (che) cả 2 bên. Hai bên cùng làm, là chiếu cả 2
bên, đây là già, chiếu đồng thời. Thứ tu quán nầy liền có thể chứng quả
tịch chiếu đồng thời. Câu : hết thảy chúng sanh đều diệt độ nó, là đại
bi, câu : thực không có chúng sanh được diệt độ, là đại trí. Ðây là bi
và trí dung hội có thể đắc phật quả chẳng trụ sanh tử, chẳng trụ niết
bàn. Câu : ta đều khiến vào vô dư niết bàn mà diệt độ nó, là tu phước,
câu : thực không có chúng sanh được diệt độ, là tu tuệ, đây là tu cả 2
phước và tuệ, có thể chứng quả lưỡng túc tôn.
Hai chữ kim cương
tức là dứt hoặc. Hoặc chẳng ngoài kiến tư, kiến tư tức là ngã tướng,
kinh nầy dứt ngã tướng, chính có tác dụng rất lớn. Hóa trừ ngã kiến tức
là chuyển thức thứ 7 làm bình đẳng tánh trí, đều vào vô dư niết bàn mà
diệt độ nó là chẳng nổi dậy sự phân biệt, tức là chuyển thức thứ 6 làm
diệu quán sát trí. Thực không có chúng sanh được diệt độ, tức là chuyển
thức thứ 8 làm đại viên kính trí. Cho nên văn dưới câu : hết thảy chư
phật và chư phật a nậu đa la tam miệu tam bồ đề pháp đều từ kinh nầy ra,
há chẳng phải là thành phật ở ngay đoạn kinh nầy ư? Hết thảy kinh điển
đại thừa nói : người phát tâm đại thừa, tuy chưa thể tự độ mà trước phải
độ tha, đây là đại bi. Nhưng độ người tức là độ mình, thứ đạo lý nầy
nếu quán chiếu được rõ ràng, thì phật pháp xem ra giống như quảng đại vô
biên, mà thực ra thân thiết có ý vị, xem ra giống như là cao sâu, mà
vốn nó bình dị thiết thực. Ðem đoạn kinh nầy để vào trong tâm, lúc nào
cũng quán chiếu, gởi tâm mình vào một chỗ, thì vọng tưởng tiêu trừ lần
lần, chỉ ngay mấy câu nầy mà thành phật đã có dư rồi! Lại quán đoạn kinh
văn nầy chẳng nói hàng phục, tức là hàng phục, đây là muốn cho chúng ta
phát khởi nguyện nầy, kiên cường chí mình thì ngã chấp, ngã kiến, hết
thảy trừ bỏ, hàng phục ngay ở trong đó, tự nhiên thụ dụng. Mỗi ngày đem
đoạn văn nầy để vào trong tâm, thì thụ dụng vô cùng, nên phải quán chiếu
như thế.
CHẲNG TRỤ Ở TƯỚNG TỨC LÀ TRỤ
Phục thứ Tu Bồ Ðề ! bồ tát ư pháp ưng vô sở trụ, hành ư bố thí.
Dịch nghĩa : Lại nữa, Tu Bồ Ðề ơi, bồ tát ở pháp phải không chỗ trụ, làm ở bố thí,
Phục
: là lại. Thứ : là lần lượt. Chữ pháp bao gồm vạn tượng, hết thảy sự sự
vật vật chẳng kể mắt thấy tai nghe, ngay đến không thể thấy được, không
thể nghe được, mà chỗ tâm mình tưởng đến được cũng gọi là pháp. Gồm thế
gian pháp, xuất thế gian pháp đều bao quát ở trong đó, nên gọi là hết
thảy pháp. Ưng vô sở trụ : chính để đáp ứng câu ưng vân hà trụ. Trụ là
chấp trước, chúng sanh chỗ chỗ chấp trước, chẳng chấp phía đông cũng
chấp phía tây. Thế tôn đáp như thế nầy chính là một gậy nện vào đầu. Bố
thí : là một trong 6 độ cũng gọi là lục ba la mật. Kinh Ðại Bát Nhã đem
lục ba la mật nói ra từng độ một. Kinh nầy chỉ nói bố thí, theo trên văn
tự mà nói là tránh phiền phức, đi tới đơn giản. Bố thí có thể cai quát
hết thảy pháp. Phật pháp phải hành chẳng phải trụ, 2 câu này cũng như
nói: phải nên vô sở trụ mà hành hết thảy pháp. Phàm trong kinh để 2 chữ
phục thứ, tức là văn nầy với văn trên có quan hệ mật thiết.
Ðây
có 2 nghĩa : 1) bổ túc nghĩa văn trên, 2) nói rõ nghĩa văn trên. Văn
trên trả lời về hàng phục, văn nầy trả lời về trụ, xem ra giống như là
một nghĩa khác, mà thực ra chỉ là một việc. Vì văn trên nói hàng phục,
tức là bao gồm nghĩa trụ mà vô trụ, văn nầy nói vô trụ mà trụ, cũng bao
hàm ý hàng phục, 2 nghĩa phát minh lẫn nhau. Lại văn trước nói phát đại
nguyện, văn nầy nói khởi đại hành, nguyện và hành chẳng thể lìa nhau, có
nguyện ắt có hành, có hành ắt có nguyện, vả lại chẳng chia ra trước
sau, phải thấy nó ở hành thì mới chẳng là nguyện trống không, nên nguyện
và hành có quan hệ mật thiết. Ðây là bổ túc văn trước mà nói. Lại văn
trước phát đại tâm diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sanh, mà chưa
nói phương pháp độ sanh, văn nầy chính là nói phương pháp độ sanh, đây
là tiến lên một tầng nữa để nói cho rõ. Ưng vô sở trụ : là đã chẳng chấp
hữu, hành ư bố thí : lại là chẳng chấp không, tức là trung đạo chẳng
rơi vào 2 bên hữu và không.
Nghĩa của lục độ phải nên biết sơ
qua. Lục độ là : bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, bát
nhã. Lục độ nầy chẳng ngoài giới, định, tuệ, để đối trị tham, sân, si.
Bố thí có 3 thứ : tài thí, pháp thí, vô úy thí. Ðem áo cơm, thuốc uống,
các vật dụng hằng ngày bố thí cho người khác thì ắt phải dùng tiền bạc
để mua những đồ đó, nên gọi là tài thí. Vì người khác mà giảng kinh,
thuyết pháp, hoặc in tặng kinh điển, cho đến sách, điển thế gian, chỉ
cần có ích cho người khác, dùng kinh sách nầy để bố thí là pháp thí. Vô
úy thí tức là cứu khổ cứu nạn. Chúng sanh ở trong tai nạn ắt có sợ hãi,
ta đi cứu chúng nó, khiến chúng nó không còn sợ hãi nữa, chỉ làm cách
nào có thể cứu được, ngay đến phải hy sinh thân mạng mình cũng chẳng
màng, gọi là vô úy thí. Ba tức là một, một tức là ba. Như cứu người khổ
nạn khiến cho nó không sợ hãi, thì chẳng ngoài dùng tài thí, pháp thí,
đây có thể thấy lúc thí tài, thì pháp thí, vô úy thí cũng gồm cả trong
đó. Lại vì người khác thuyết pháp là pháp thí. Tặng biếu kinh điển cho
người khác, khiến cho họ tăng trưởng phước tuệ cũng tức là vô úy thí.
Lại chia ra thí, có nội thí, ngoại thí, cho đến cứu cánh thí, như chỗ
nói trong kinh Hoa Nghiêm, danh mục rất nhiều, hợp lại là một. Tu bố thí
là phá tâm bỏn sẻn, tham lam. Tham ắt bỏn sẻn, bỏn sẻn ắt tham, nó có
thể tạo bao nhiêu nghiệp, ở lâu dài trong biển khổ sanh tử, cho nên phải
phá nó.
Giới là giới luật. Chữ trì và chữ thủ nghĩa không
giống nhau. Nắm giữ chắc chắn, một khắc chẳng buông lơi là trì. Giới có
sự khác nhau của kẻ tại gia, xuất gia. Tại gia có tam qui, ngũ giới, bồ
tát giới, và tam muội xoa giới của mật tông. Xuất gia có tam qui, sa di
giới, tỳ kheo giới, bồ tát giới. Ngũ giới tuy chỉ có năm điều : sát
sanh, vọng ngữ, trộm cướp, dâm dục, uống rượu, mà là căn bản của hết
thảy giới, ngay đến giới xuất gia cũng căn cứ năm giới nầy, chỉ phân
tích riêng có tường tận mà thôi. Bồ tát giới của người xuất gia có 10
trọng 18 khinh, Phật vì người xuất gia chế định, cũng hứa cho người tại
gia thọ giới nầy, bất quá phải nên tự mình xem xét kỹ có thể thọ nổi thì
mới thọ được. Nếu không thì phật đã chế ra bồ tát giới cho ưu bà tắc,
ưu bà di, so với bồ tát giới của kẻ xuất gia giản tiện hơn, giới nầy có 6
trọng 28 khinh, cho nên kẻ tại gia nên thọ giới nầy thì thích hợp hơn.
Vì
giới là nền móng của học phật, rất là trọng yếu, như cất căn nhà, nếu
trước không làm cho nền móng vững chắc thì chẳng thể được, nếu chẳng như
vậy thì nhà sẽ sụp đổ. Nên kinh nầy nói: kẻ trì giới tu phước ở chương
cú này có thể sanh tín tâm, lấy đây làm thực. Có thể thấy hết thảy Phật
pháp đều xây dựng ở trên giới luật, giới điều tuy nhiều mà chẳng ngoài
hai môn : 1) Chỉ trì, 2) Tác trì.
Chỉ trì là ở phương diện tiêu
cực dụng công, tác trì là ở phương diện tích cực dụng công. Chỉ trì là
kiêng cữ các điều ác. Tác trì là làm hết các điều lành.
Hai câu
trên bị người đời lạm dụng, thực ra là ở trong kinh phật. Kẻ học trước
phải ở một phương diện CHỈ mà trì giới, lại tiến lên ở một phương diện
TÁC mà trì giới, như chẳng sát sanh đã đành là tốt, nhưng chỉ là
chỉ-trì, lại tiến lên mà khuyên người khác cũng giới sát, tức là
tác-trì. Chẳng những giới sát mà phải luôn cả phóng sanh, lại là
tác-trì. Có kẻ nói : tôi có thể giới sát sanh, giới trộm cắp, việc đó há
có thể dễ dàng ư? Như giới sát ắt phải đối với ngay đến ruồi muỗi cũng
chẳng hại sanh mạng nó mới có thể được. Lại như một việc gì chẳng từng
đối với người khác nói cho rõ ràng, mà đã nhận lấy cho là ta làm, liền
phạm giới trộm cắp. Lại như ở cơ quan chánh phủ, vì việc mà lạm dụng 1
tờ giấy viết hay 1 bao thơ của nhà nước cũng là phạm giới trộm cắp. Dâm
giới, phật chế kẻ tại gia chỉ giới tà dâm, đây là pháp môn phương tiện,
thực ra thì ắt phải dứt dâm, vì dâm là căn bản của sanh tử. Giới vọng
ngữ thêm vào ác khẩu, lưỡng thiệt, ỷ ngữ là 4, dùng ác ngôn chửi rủa là
ác khẩu, bày đặt chuyện thị phi là lưỡng thiệt, miêu tả tình cảm của
trai gái là ỷ ngữ, văn nhân rất dễ phạm giới nầy. Phật lúc ban đầu chế
ra căn bản đại giới nguyên chỉ có 4 giới là sát, đạo, dâm, vọng, sau vì
rượu có thể làm cho loạn tánh nên mới thêm giới nầy, 4 giới trước là
tánh giới, 1 giới sau là già giới, nên tửu giới có lúc có thể khai, như
vì bịnh có lúc phải dùng rượu để trị thì phật cũng hứa cho dùng. Trì
giới phải hiểu rõ lý khai và già. Khai thì không già, già thì không
khai. Có lúc hứa cho khai, khai thì chẳng phạm giới. Cho nên phải đem
khai và già ra phân biệt rõ ràng, nếu không thì trì giới chẳng thể viên
mãn. Phật định ra giới luật so với luật pháp ở thế gian lại càng nghiêm
mật, như chỉ thọ giới sơ bộ, thì chẳng cho phép xem đọc các giới luật
nói trên, xem thì là ăn trộm pháp. Ðem người xuất gia ra mà nói, thì sa
di chẳng được phép xem tỳ kheo giới, tỳ kheo cũng chẳng được phép xem bồ
tát giới, vì phép trì giới có khác nhau, nên nếu chẳng thọ giới đó thì
không được xem.
Giới luật của kẻ xuất gia, người tại gia chẳng
được xem, là vì giới luật của kẻ xuất gia đã hết sức rườm rà nặng nề,
như tỳ kheo có 250 giới, tỳ kheo ni có 384 giới. Tại sao người tại gia
không được xem? Ðây là khổ tâm của phật, sợ rằng người tại gia vì đó mà
tạo ác nghiệp. Vì chúng sanh đều phạm một thứ bịnh lớn, trách người thì
nhiều, trách mình thì ít, tỳ kheo giới thực rất khó trì, hơi một chút là
phạm giới, sợ cư sĩ xem đó tự mình đã chẳng thọ giới, mà trách móc trở
lại kẻ xuất gia quá đỗi. Lại phật chế ra giới luật chẳng giống với pháp
luật thế gian chỉ có điều lệ, văn kiện; mà như nói một giới điều nào,
trước đem lý và sự thực phải nên trì nói rõ ra ở phía trước, rồi mới
định ra điều nầy. Lúc bấy giờ trong cửa Phật có rất nhiều đệ tử trình độ
đã cao còn chưa tránh khỏi phạm giới, sợ kẻ mới học cho là đệ tử cao
túc của phật mà còn phạm thì chúng ta có thể khoan thứ, nên phật chẳng
chịu cho xem. Trì giới thì tham sân si đều bị phá trừ, như phân biệt ra
mà nói thì giới sát sanh phần nhiều là trị sân, giới trộm cắp phần nhiều
là trị tham, giới dâm phần nhiều là trị tham si, giới vọng ngữ phần
nhiều cũng trị tham si, giới tửu thì trị cả tham sân si. Lúc ban sơ trì
giới phải chú trọng ở sự thực, nếu sau khi thọ bồ tát giới mà trong tâm
có động niệm tức là phạm giới rồi. Nhẫn nhục cũng dịch là an nhẫn, nhẫn
nhục là một thứ an nhẫn. Chữ nhẫn nầy chẳng thể giải nghĩa là nhẫn nại,
mà có nghĩa là thuận thụ, người khác làm nhục ta là việc rất chẳng thể
nhẫn nhục, nhục mà còn có thể nhẫn, thì việc nào cũng có thể nhẫn được
hết. Nên đem nhẫn nhục mà bao gồm những việc khác nữa. Lại nhẫn chẳng
những đối với nhục mà nói, trong kinh phật còn có pháp nhẫn, vô sanh
pháp nhẫn. Như phật thuyết pháp chúng ta có thể chiếu theo lời phật dạy
mà thực hành, không sai một mảy may là pháp nhẫn. Lại như lý sanh vốn vô
sanh, chúng ta có thể hiểu rõ, có thể thực hành không sai một chút, là
vô sanh pháp nhẫn. Nhẫn nhục là để phá trừ tâm sân. Tinh tiến là tiến
tới, có 2 nghĩa là tinh tế và tinh mật. Tuy tiến tới mà cũng chẳng theo
mù quáng ấy là tinh tế. Lần từng bước tiến tới mà chẳng liệp đẳng ấy là
tinh mật. Tinh tiến là phá trừ giải đãi (trễ biếng). Thiền định là tiếng
gọi đôi cả Phạm lẫn Hán, tiếng Phạm là thiền na, tiếng Hán là Ðịnh, sở
dĩ gọi đôi là để khiến cho người ta biết là định của phật môn, chẳng
phải định của ngoại đạo. Cũng như chữ sám hối. Sám là tiếng sám-ma trong
tiếng Phạm, hối là tiếng Hán, sở dĩ gọi đôi, là nói rõ sự sám hối của
nhà phật có nhiều thứ phương pháp lễ bái v v... khác với sự hối quá, ăn
năn tội lỗi phổ thông, 2 cái chẳng giống nhau. Gởi tâm một chỗ lâu rồi
được định, được định tức gọi là tam muội, Thiền định là đối trị tán
loạn, hôn trầm, trạo cử v. v ... Bát nhã là dịch âm để tiêu biểu rõ
chánh trí trên tánh thể phát sanh ra, chẳng giống với thế trí biện
thông. Thế trí biện thông là 1 trong 8 nạn, sợ lộn xộn với chữ trí tuệ
của thế gian, nên chẳng dịch là trí tuệ, mà dùng chữ bát nhã, bát nhã là
đối trị ngu si. Nói lục độ thực ra chỉ là giới, định, tuệ, còn ba độ
kia là bù giúp cho ba học này. Tuy nói lục độ mà chủ chốt là bát nhã,
nên bát nhã không phát sanh thì 5 độ kia cũng chẳng thể gọi là ba la
mật. Cho nên phật nói 5 độ là cái chân, mà bát nhã là con mắt. Bố thí
cho đến thiền định thì thế pháp cũng có. Sự tinh vi quảng đại của phật
pháp có thể phổ độ chúng sanh lìa hết thảy khổ, liễu thoát 2 vòng sanh
tử, cho đến chẳng trụ sanh tử, chẳng trụ niết bàn, nếu không có bát nhã
chánh trí thì không thể thực hành được thành công. Nên nếu không rõ bát
nhã thì chẳng thể vào cửa phật. Trong kinh ở lục độ chỉ đem bố thí ra
nói, vì lục độ có thể nhiếp vạn hạnh, bố thí lại có thể nhiếp 5 độ kia.
Bố thí trừ tài thí ra, như pháp thí có thể nhiếp tinh tiến, thiền định,
bát nhã. Vì phật pháp rất trọng định tuệ, trên cái nhân là chỉ quán,
trên cái quả là định tuệ. Người thuyết pháp ắt phải có công phu chỉ
quán, công phu tinh tiến, mới có thể vì người khác thuyết. Như vô úy thí
có thể nhiếp trì giới, nhẫn nhục. Trì giới là kiêng cữ các điều ác, làm
hết các điều lành, quyết chẳng phạm vào người khác, an nhẫn thuận thụ,
người khác không sợ mình tức là vô úy thí.
Bực cổ đức giải
nghĩa đoạn kinh văn nầy đều nói bố thí có thể nhiếp lục độ vạn hạnh, nên
phật chỉ nói bố thí, đó là cai quát thu nhiếp hết thảy pháp. Nhưng nói
bố thí tức là hết thảy pháp cũng có thể được, thí dụ như pháp thí khiến
cho người ta biết trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, bát nhã,
tức là gồm cả 5 độ. Vô úy thí khiến cho người ta liễu sanh thoát tử, có
thể không sợ hãi, mà liễu sanh thoát tử cũng ắt phải thực hành 5 độ kia.
Chẳng những như thế, bất cứ đem một độ nào ra nói cũng có thể nhiếp
khắp các độ khác. Như trì giới ắt phải thực hành bố thí v. v... 5 độ
kia. Nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định cũng thế, đều có thể nhiếp hết
thảy pháp. Lại nếu 5 độ mà lìa bát nhã ra đều chẳng có thể thấy nó ở chỗ
thực hành. Có thể thấy bát nhã là rất sâu, rất cao, là gốc của các độ.
Nhưng tại sao phật không đem bát nhã ra nói, chỉ đem riêng bố thí ra
nói? Là vì trong Ðại Trí Ðộ Luận nói: “hết thảy pháp chẳng sanh, mà do
bát nhã sanh ra”, đây có thể biết công phu thực hành hết thảy pháp mà có
thể chẳng chấp tướng tức là bát nhã. Nên nếu không đem bố thí ra nói
thì chẳng được, vì bố thí là thực hành. Có thể thấy kẻ tu phật pháp
chẳng những hiểu nghĩa lý phật dạy mà thôi, ắt phải thực hành thì mới có
thể được. Vì có thực hành, nên chỉ có bố thí mới có thể nhiếp hết thảy
pháp. Không tu hành hết thảy pháp thì làm sao có thể độ chúng sanh? Mà
kẻ tu hành hết thảy pháp mà còn chấp tướng cũng chẳng thể độ chúng sanh.
Chưa thể tự độ, trước phải độ tha, đây là câu nói thường ngày
của kẻ học đại thừa, nhưng ắt phải hỏi tự mình quả nhiên đã có tư cách
độ tha chưa? Nếu quả nhiên chưa thể dụng công thiết thực, mà chuyên môn
làm những việc độ sanh thì chẳng tránh khỏi hướng ngoại tìm cầu, nên Ðại
Luận nói: “Nếu bồ tát phát tâm, liền đi độ sanh, không có chỗ như thế”.
Thế thì làm sao có thể được? Phải nên trước phát đại tâm mà tu hành hết
thảy pháp. Cứu cánh từ chỗ nào mà bắt đầu tu? Ấy là phải trước thực
hành bố thí. Bố thí chẳng những là đầu của lục độ, cũng là đầu của tứ
nhiếp pháp (tứ nhiếp pháp là: bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự). Phật
mặc áo ăn cơm chỗ nào cũng cùng với chúng sanh giống nhau, chẳng ngoài
tứ nhiếp pháp. Chúng sanh tánh cang cường, chẳng dễ gì nghe theo, nên ắt
phải đem ngay cái nó cần dùng mà bố thí cho nó. Lại dùng lời nói dịu
dàng khả ái khiến cho nó ưa vui nghe. Lại chẳng kể gì là thế gian pháp
nó muốn làm, cũng làm lợi cho nó, như cầu con được con, cầu tài được tài
v.v... Lại cùng với nó làm việc chung nhau, rồi sau chúng sanh mới có
thể được ta nhiếp thụ. Nên đoạn nầy nối khít vào đoạn độ sanh ở trên mà
trỏ bảo phương pháp thực hành vậy. Và bố thí tức là hết thảy phật pháp.
Phật pháp từ đầu đến cuối chẳng ngoài một chữ XẢ, bố thí tức là XẢ. Suy
ra thì trì giới là xả tham sâm si, nhẫn nhục là xả sân, tinh tiến là xả
giải đãi, hôn trầm, trạo cử, thiền định là xả tán loạn hôn trầm, bát nhã
là xả 2 bên (hữu, không) và ngã chấp, pháp chấp. Lục độ không độ nào là
chẳng phải xả. Thế nên biết rằng bố thí là một tức là hết thảy, là suốt
đầu, suốt cuối của sự tu hành, thông suốt đến triệt để. Kinh văn ở đoạn
dưới độ chúng sanh chỉ nói bố thí, thiệt là nắm giữ chỗ yếu. Tiểu thừa
cũng có công phu thực hành xả, nói nó tức thực hành mà tức xả, văn này ở
dưới chữ hành thêm vào chữ ư tức là coi trọng sự bố thí. Trước nói bố
thí chẳng ngoài một chữ xả là nói theo chiều ngang. Thực ra từ bực dưới
học lên tới trên, theo chiều dọc mà nói cũng chẳng ngoài một chữ xả. Như
nghe kinh là xả sự vui chơi của thế gian mà tới học phật, trời và người
xả dục giới liền lên sắc giới, xả sắc giới liền lên vô sắc giới, xả ngã
chấp liền chứng A la hán, xả pháp chấp tức là bồ tát, ngay đến cái xả
cũng xả luôn tức là thành phật, nên theo chiều dọc mà nói, thì bố thí
cũng là công phu triệt để.
Phật thuyết pháp là viên âm, đủ hết
mọi phương diện, hành bố thí ở trên bề mặt mà xem là chẳng thủ phi pháp,
nhưng bố thí là xả, tức là chẳng thủ pháp, nên đem một độ bố thí ra để
nói ấy là 2 bên chẳng chấp, kinh nầy chẳng kể câu nào cũng đều thế. Hoặc
nghi ngờ rằng : đã chẳng thủ pháp, lại chẳng thủ phi pháp, kẻ học mà
hành động liền mắc vào lỗi của câu này, thế thì làm sao mà thực hành?
Thực ra thì chẳng khó. Phải biết, chúng ta đi thực hành bố thí, tức là
chẳng chấp 2 bên, lúc thực hành trước phải chẳng trụ ở không, là hành ở
pháp. Phật nói: thà rằng chấp hữu như núi Tu Di, chẳng thể chấp không
như hột cải nhỏ. Cho nên ắt trước phải bít cửa không lại, chuyên tâm tu
pháp, ở trên pháp gắng sức tức là không có tướng đoạn diệt. Chỉ cần một
mặt thực hành, một mặt chẳng để vào trong tâm tức là hai bên chẳng chấp.
Thế nhưng có chỗ làm mà làm bố thí tức là trụ, tức là chấp, chẳng qua
là công đức hữu lậu, chẳng những là chẳng phải công đức, lại còn vì thế
mà đọa lạc. Chữ xả dùng theo danh từ mới bây giờ là hy sanh. Ở đời làm
người nếu vì xã hội hy sanh ắt có thể vì chung mà quên riêng, vì nước mà
quên nhà. Có thể biết một pháp bố thí bao quát hết thảy, nên phật pháp
chẳng những kẻ xuất thế gian nên học, mà ngay ở thế gian làm người cũng
phải biết.
Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp, bố thí.
Dịch nghĩa: Chỗ gọi là chẳng trụ sắc bố thí, chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp bố thí.
Sở
vị nghĩa là trỏ chỗ đã nói trước. Sợ người ta hoài nghi cứu cánh không
trụ ra sao, mà tu hết thảy pháp? Phật bảo dùng chỗ ta nói trước đây,
chẳng trụ ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới, cho đến a nậu đa la tam
miệu tam bồ đề v.v... Nay nói tóm tắt là đem lục trần : sắc, thanh,
hương, vị, xúc pháp ra để nói. Lục trần là cánh cửa CẢNH, HÀNH, QUẢ trên
tu hành, đem ra nói có thể nhiếp hết thảy pháp. Chỗ thấy muôn hình
tượng của nhãn căn đều là sắc, chỗ nghe của nhĩ căn là thanh, chỗ hửi
của tỵ căn là hương, chỗ nếm của thiệt căn là vị, chỗ tiếp xúc của thân
căn là xúc, sự phân biệt khởi tâm động niệm của ý căn có lúc đối với
sắc, thanh, hương, vị, xúc mà nổi dậy, cũng có khi đối với chẳng phải
sắc, chẳng phải thanh, chẳng phải hương, chẳng phải vị, chẳng phải xúc
mà nổi dậy, chủng loại nó hết sức nhiều, không biết lấy gì đặt tên, nên
đặt là pháp. Tên của lục trần có 2 nghĩa : 1 là nói nó vô lượng vô biên,
nhiều như vi trần, 1 là có nghĩa nhiễm ô, chúng ta một khi dính vào
liền bị nó làm dơ.
Bất trụ tức là chẳng chấp, một khi có chấp
thì tâm không thanh tịnh. Như đem bố thí ra mà nói, nếu có chỗ làm mà
làm, tranh thể diện của mình tức là trụ ở sắc, lại muốn cho người khác
biết mình làm là trụ ở thanh, lại muốn cho mọi người hửi được danh tốt
của mình, tức là trụ ở hương, muốn cho người người trong miệng khen
mình, tức là trụ ở vị, vì muốn được quả báo về sau tức là trụ ở xúc, nếu
hữu tâm mà làm là trụ ở pháp. Cho nên trong tâm không có chỗ nào trụ
mới là ba la mật. Ba la mật, tiếng Ấn-Ðộ chỗ nào cũng dùng, cũng như ở
Trung-Hoa nói “Ðến nơi”. Văn trên câu “bồ tát ư pháp” là trỏ hết thảy
pháp, đây thì chỉ đem riêng lục trần ra nói là có rất nhiều diệu nghĩa ở
trong đó. Ở đây phải dùng phép quán chiếu, từng bước, từng bước một, đó
là sự quán từ ngoài vào trong, từ thô đến tế.
1. - Phật chẳng nói hết thảy pháp mà chỉ nói lục trần, là thực khiến cho lũ chúng ta biết hết thảy pháp chẳng nên trụ.
2. - Vì sao hết thảy pháp chẳng nên trụ? Phải biết, một khi trụ liền bị nhiễm ô.
3.
- Phật đem lục trần ra nói, lý nầy hết sức sâu. Tại sao? Nói sắc là có
nhãn căn ở đó, nói thanh là có nhĩ căn ở đó, cho đến nói pháp trần là có
ý căn ở đó, căn cảnh đối nhau, đem lục trần ra nói tức là làm gồm đủ
lục căn, kẻ cạn thấy cạn, chỉ chẳng trụ ở cảnh, kẻ sâu thấy sâu liền có
thể chẳng trụ ở tâm. 4. - Căn là căn, trần là trần, làm sao giao thiệp?
Môi giới ở khoảng giữa căn và trần là lục thức, thức chẳng sanh thì căn
và cảnh chẳng giao thiệp, chỗ gọi là tâm bất tại thì xem mà chẳng thấy,
nghe mà chẳng nghe thấy, ăn mà chẳng biết mùi vị. Ý phật nói, chẳng
những cảnh giới chẳng thể trụ, ngay đến thức cũng chẳng thể trụ, khiến
kẻ học biết cái gốc tai họa trụ cảnh là thức, tức là tâm phân biệt, phải
ở lúc khởi tâm động niệm mà hạ thủ, chẳng trụ ở thức. Như thế một bước
tiến lên một bước, liền có thể tiêu về tự tánh.
Khởi tâm động
niệm làm cách nào để lưu ý, nay đem bố thí ra mà nói thì phàm khởi tâm
động niệm không ngoài 3 thứ : 1. - Vì tự thân mình, 2. - tưởng người
khác báo ơn mình, 3. - tưởng được quả báo. Bố thí chẳng ngoài tài thí,
pháp thí (vô úy thí bao gồm ở pháp thí), thường thường tự mình trước cảm
thấy xả chẳng được, tức là có 1 cái ngã ở đó. Phải biết, tài và pháp
chẳng ngoài lục trần nên chẳng thể trụ ở cái này. Ở lúc khởi niệm dụng
công phu phải đem tự thân mình gạt ra ngoài, ngõ hầu ngã chấp có thể
phá. Sau khi bố thí, mà hy vọng người khác trả ơn mình, phải biết sự trả
ơn này chẳng ngoài lục trần, chẳng thể trụ ở cái này, nên phải đem niệm
hy vọng báo ơn gạt ra ngoài. Bố thí hy vọng đắc quả, quả báo cũng không
ngoài lục trần, cái nầy chẳng thể trụ, nên phải đem niệm quả báo gạt ra
ngoài.
5. - Quán chiếu nhiều lần như thế mà ngã kiến vẫn còn
thì sao? Thì lại phải tiến lên mà quán chiếu đạo tam luân đều không. Bố
thí thì có kẻ cho (năng thí), kẻ nhận (sở thí) và vật để bố thí. Ta nay
quán chiếu kẻ cho, kẻ nhận đương thể tức không, vì cớ gì? Vì đều là nhân
duyên sanh ra. Kẻ cho, kẻ nhận đã không, vật để bố thí cũng không, đây
gọi là tam luân thể không.
Có thể ở chỗ này dụng công phu khẩn
thiết, phá trừ 2 thức thứ 6 và 7, thì ngã kiến tự nó tiêu mất, chứng
được tự tánh. Có người nói: bố thí thì ba phương diện đầy đủ, sao gọi nó
là luân (bánh xe)? Họ chẳng biết rằng đây thực có ý sâu : một là vận
hành, phật nói bố thí là khiến cho độ người, bánh xe có nghĩa là độ. Kẻ
tu hành tùy thời bố thí có thể đem phiền não cán nát, bánh xe có nghĩa
là cán. Chỗ này nói chẳng trụ sắc thanh hương vị xúc pháp mà hành bố
thí, tức là khiến chúng ta hiểu rõ đạo tam luân thể không, tài thí là
lục trần, pháp thí là pháp trần đều là pháp nhân duyên sở sanh, đã biết
đương thể tức không, lại hà tất trụ? Ðã quán chiếu tam luân thể không,
thì đã đành là chẳng trụ.
Tu Bồ Ðề ! Bồ tát ưng như thị bố thí bất trụ ư tướng.
Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi ! Bồ tát phải như thế bố thí, chẳng trụ ở tướng .
Hai
chữ như thị là trỏ văn trên câu “sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ
thanh hương vị xúc pháp bố thí” mà nói. Chẳng trụ ở tướng, chẳng phải là
đoạn diệt, chẳng trụ là xả. Nhưng xả có thể cứu cánh hay không, chẳng
trụ một mảy may nào cũng chẳng phải là dễ nói. Nên kinh Hoa-Nghiêm chia
xả ra làm nhiều thứ, sau rốt nói cứu cánh xả, phải ở trong tâm không còn
chấp một chút gì, không rơi vào 2 bên mới là cứu cánh. Ðây nói bất trụ ư
tướng là gồm cả 2 bên, là nói đã chẳng trụ pháp tướng cũng chẳng trụ
phi pháp tướng. Sao có thể biết chữ tướng này có thể gồm luôn chữ phi
tướng, thì có thể dùng văn trên để chứng minh. Ưng vô sở trụ là chẳng
trụ pháp tướng. Hành ư bố thí là chẳng trụ phi pháp tướng. Chỗ gọi là
bất trụ sắc thanh hương vị xúc pháp bố thí là chẳng trụ hữu, bồ tát ưng
như thị bố thí là chẳng trụ không. Phải biết, chẳng trụ, không phải là
đoạn diệt, chẳng trụ tức là hành, trụ thì chẳng thể hành, hành thì chẳng
thể trụ. Kẻ tu bồ tát đạo đã đành chẳng thể trụ ở lục trần, nhưng nếu
đoạn diệt thì chẳng thể độ chúng sanh, chúng sanh chính trụ ở cảnh giới
lục trần, cho nên phải từ chỗ đó mà độ nó. Văn trên : ưng vô sở trụ hành
ư bố thí, văn dưới liền nói : ưng như thị bố thí bất trụ ư tướng. Ý
phật muốn nói :bồ tát phải như chỗ ta nói 2 bên chẳng chấp, hành ở trung
đạo. Có thể thấy vô sở trụ chẳng phải là không hành; chẳng trụ tướng
không phải là lời nói trống rỗng, phải ở trong khoảng thực hành, chẳng
chấp hữu, chẳng chấp không mới hợp. Phá tướng của trọn bộ kinh nên ra ở
chỗ nầy. Phật ý muốn nói; chẳng phải dạy ông là chẳng trụ ở pháp, mà dạy
ông là chẳng trụ ở tướng của pháp.
Tu hành đã đành phải lìa
trần cảnh, nhưng chẳng trụ lục trần, có dễ gì nói? Nên bổn-chỉ của tu
hành là chẳng trụ, nhưng lúc hạ thủ lại chẳng thể diệt cảnh, ví như niệm
Phật, quán tưởng tượng Phật là sắc cảnh, thiên nhạc, nước, chim là
thanh cảnh, hoa sen thơm sạch là hương cảnh, phạn tự kinh hành là vị
cảnh, chỉ thụ các điều vui là xúc cảnh, ức niệm Di-Ðà là pháp cảnh. Nên
hai chữ chẳng trụ phải nhận cho rõ ràng, quyết chẳng phải là đoạn diệt,
đoạn diệt tức là không, lại cũng tức là phi pháp, Bố thí nhiếp hết thảy
pháp tướng, cũng nhiếp phi pháp tướng, nên gọi là bất trụ có nghĩa là :
chẳng trụ pháp, chẳng trụ phi pháp. Người đời xả tánh mạng cũng là xả,
chẳng qua là trụ tướng mà thôi ! Như tận trung báo quốc, sát thân thành
nhân, nhiều lắm chẳng qua thành ra một vị thần. Nếu lúc xả tánh mạng lại
có tâm lợi kỷ, tâm sân hận, thì hoặc có thể đọa lạc xuống. Thanh niên
trai gái vì ái tình mà xả tánh mạng cũng dễ bị đọa lạc, hoặc vì sân hận
mà xả thân thì có thể đọa lạc xuống địa ngục. Ðịa ngục có giường sắt,
cột đồng, bao nhiêu thứ y báo thảm khốc, chính là vì lòng từ bi thương
chúng sanh mà đặt ra. Gồm những cái trên đều là trụ tướng. Nếu lại tồn
tại đoạn diệt tướng mà xả tánh mạng như hạng người tiêu cực, cảm giác
thế gian chẳng có thể lưu luyến, tự mình quyên sanh, đây tức là trụ ở
phi pháp tướng, trầm trệ ở cái không, chẳng thà chẳng xả còn hơn, vì
đoạn diệt chìm vào trong cái không, hoặc cũng có thể đến đọa lạc xuống,
nên xả chẳng nên trụ pháp cũng chẳng nên trụ phi pháp. Bồ tát vì chúng
sanh mà xả mạng cũng có nhiều, nhưng nếu trụ ở tướng độ sanh thì cũng
chẳng thành Phật, nên văn dưới trong kinh này có câu : hằng hà sa đẳng
thân mạng bố thí, chẳng bằng thụ trì 4 câu kệ, để so sánh hằng hà sa
đẳng thân mạng bố thí nếu chẳng phải là bồ tát thì chẳng làm nổi, phàm
phu không có nhiều thân mạng như thế, mà còn chẳng bằng thụ trì 4 câu kệ
vì người khác nói, thì được phước nhiều hơn, vì thụ trì, tụng, nói, thì
có thể thành Phật.
Tu hành chẳng được thụ dụng không ngoài hai
bịnh : 1) chẳng nắm được chỗ yếu, 2) chẳng rõ đạo lý, nếu có thể nắm
được chỗ yếu và hiểu rõ đạo lý thì tự mình có thể thụ dụng. Chẳng có thể
lìa tu hành mà nói tánh, nếu chẳng như thế thì chỉ nói một cách trống
không. Chẳng thể lìa tánh mà tu hành, nếu chẳng như thế là tiến lên một
cách mù quáng. Kinh nầy chỗ nào cũng nói tánh, mà chỗ nào cũng bao gồm
cả thực hành. Phát đại nguyện, hành đại hành mới có thể vào cửa Phật,
khoa trước nói hàng phục tức là phát đại nguyện, khoa nầy hành ư bố thí
tức là hành đại hành, ắt vô sở trụ hành ư bố thí mới là đại hành. Có
nguyện mà không hành thì nguyện là hư nguyện, từ nguyện đến hành thì
nguyện là trọng yếu, mà hành lại càng trọng yếu. Không có đại nguyện thì
đại hành chẳng thể nổi dậy, ngay đến có hành cũng là hành mù quáng. Thế
nào mới là đại nguyện, thế nào mới là đại hành? Ắt phải đại bi đại trí
thì mới có thể. Sở hữu nhứt thiết chúng sanh chi loại, dai linh nhập vô
dư niết bàn nhi diệt độ chi, là đại bi. Như thị diệt độ vô lượng, vô số,
vô biên chúng sanh, thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả, biết chúng sanh
là đồng thể, không cái gì gọi là Phật, không cái gì gọi là chúng sanh,
là đại trí. Bi và trí đầy đủ mới có thể phát đại nguyện, hành đại hành.
Bồ tát ư pháp ưng vô sở trụ, bịnh của phàm phu là chỗ nào cũng chấp
trước, có thể chẳng chấp trước tức là đại trí, hành ư bố thí tức là đại
bi. Không có đại bi thì đại nguyện chẳng thể phát ra, không có đại trí
thì đại nguyện chẳng thể thực hành. Bi, trí, nguyện, hành không cái nào
là chẳng đại mới là bồ tát ma ha tát, ắt viên mãn đầy đủ như thế mới là
vô thượng bồ đề. Văn trên ở đại nguyện thì trước nói đại bi, ấy là chẳng
trụ không. Trụ không liền chẳng thể phát đại nguyện. Văn nầy ở đại hành
thì trước nói đại trí, ấy là chẳng trụ hữu, trụ hữu liền chẳng thể hành
đại hành.
Phàm phu đối với hết thảy việc đều chẳng phóng hạ
được (buông xuống). Tại sao chẳng phóng hạ được? Là tại có cái ngã. Phật
chỉ nói bố thí, mới hạ thủ liền phá ngã, lại tiến lên một bước nữa, ở
trên cảnh giới mà phá. Rồi lại tiến lên, ở trên khởi tâm động niệm mà
phá. Khoa trước nói phát đại tâm, chỗ nào cũng là chẳng trụ, đó là giáo
hóa một cách thầm kín, để hóa ngã kiến đi. Phàm phu cái niệm vị ngã rất
nặng, nay vì chúng sanh nên đem cái ngã liệng bỏ đi. Chẳng kể loài loãn
sanh cực ngu, loài vô tưởng cực cao, ắt hết thảy khiến vào vô dư niết
bàn mà diệt độ nó, đây tức là hóa trừ tâm phân biệt, chính là đối với 2
thức thứ 6 , 7 mà cho thuốc trị. Phàm phu sở dĩ luân hồi lục đạo chẳng
thể lìa ra được, cũng là tại 2 thức 6, 7 nó khiến như vậy. Nay chuyển di
nó liền thành ba-la-mật. Phát tâm phải quảng đại, nếu không quảng đại
thì chẳng thể hóa trừ ngã kiến, tu hành ắt phải tinh mật, trước phải
phát tâm quảng đại thì mới có thể tu hành tinh mật. Nên ắt trước phải
quán hết thảy chúng sanh là duyên sanh, và vốn tịch diệt, và đồng thể,
trước phải biết tập-quán của mình là nặng, mà chuyển-di ngầm nó, thì mới
có thể tu hành. Phát đại tâm tại sao lại nương theo hàng phục kỳ tâm mà
nói? Khởi đại hành tại sao lại nương theo ưng vô sở trụ mà nói? Ðây tức
là muốn hàng phục thì phải trước biết căn bịnh nó ở chỗ nào. Biết chúng
sanh sở dĩ thành chúng sanh là ở Dục, Sắc, Thức, nên môn phát tâm nói
loại nói nầy. Theo đó mà dụng công thì 2 thức thứ 6, 7 tự nhiên có thể
hóa trừ. Nói tu hành một cách tinh mật là trỏ ngay : ưng vô sở trụ. Có
thể biết tu hành đã đành là phải hành mà chẳng phải trụ, làm thứ công
phu nầy chính khiến cho thức 6, 7 không còn chỗ nào tồn tại, thì chân
tâm tự nhiên hiển lộ. Ðây là chẳng trụ mà trụ, nên văn dưới nói : ưng
như sở giáo trụ. Phật dạy người ta: chỗ có hết thảy chúng sanh, đều
khiến vào vô dư niết bàn mà diệt độ nó, đó là bồ tát phát tâm chưa tự
độ, trước độ tha. Thực vô chúng sanh được diệt độ là khiến người ta biết
duyên sanh bình đẳng, đồng thể, độ tha là tự độ, cũng là tự tha cùng
độ. Nhưng phật rốt cuộc chẳng nói tự độ bởi ngã chấp của chúng ta nặng,
nên không nói. Ðộ chúng sanh phải độ ra sao? Phải bắt đầu hành, bố thí
là phá chấp ngã của thức thứ 7, phá phân biệt tâm của thức thứ 6, đây rõ
ràng là tự độ, Nên phát tâm phải đại, tự độ thì trước phải độ tha, độ
tha tức là tự độ. Nói đến tu hành, trước phải trừ căn bịnh của mình, độ
tha trước tự độ, tự độ tức là độ tha, thế thì bố thí một phương diện là
tự độ, mà trên thực tế là độ tha, đây là tinh ý của Phật chỉ nói : hành ư
bố thí.
Cổ nhân nói một câu: “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”
có thể thông suốt trọn bộ kinh, thực ra thì chẳng kể câu nào cũng đều có
thể quán thông. Như câu “bất trụ ư tướng”, gồm cả phi tướng, chẳng rơi
vào 2 bên, hành ở trung đạo, sao lại chẳng thể thông suốt trọn bộ kinh?
Hay khéo của phật pháp đại thừa, có thể tùy theo người ở khắp các phương
diện mà lĩnh hội, nên gọi là viên dung. Chẳng những thấy cạn, thấy sâu
bởi người ta có chỗ thấy chẳng giống nhau, ngay đến thấy sâu cũng lại có
chỗ thấy không giống nhau. Chữ tướng ở văn trước là theo trên NGÃ TƯỚNG
mà nói, chữ tướng của câu văn này, là theo pháp tướng và phi pháp tướng
mà nói. Kinh nầy thường thường văn sau chẳng khác gì để chú giải văn
trước. Bất trụ ư tướng lại là để chú giải bất trụ sắc thanh hương vị xúc
pháp bố thí. Có người ngờ kinh Kim Cương ý nghĩa trước sau trùng điệp,
đó là chẳng khéo đọc kinh Kim Cương. Nếu biết sự liên quan của văn sau
với văn trước, thì chẳng những không trùng điệp, mà lại thấy mạch lạc nó
thông suốt. Ðọc đoạn kinh văn nầy lại phải dụng công ở sự quán chiếu,
phật pháp chỗ nào cũng chẳng lìa quán chiếu, ắt phải thời thời khắc khắc
suy nghĩ thì mới có thể được. Phải biết, bất trụ ư tướng là triệt để.
Từ lúc bắt đầu thực hành cho đến lúc thành phật đều là chẳng trụ ư
tướng. Nếu ở lúc bố thí hãy còn tồn tại một chút tâm thấy bố thí cho là
tốt, thì trong chỗ chẳng hay chẳng biết đã rơi vào lục trần, cho nên nếu
không làm sự quán thì không được. Như không tồn tại cái tâm thấy bố thí
là tốt, mà vẫn còn cảm thấy có sự bố thí nầy tức là trụ ở pháp, nên nếu
không làm sự quán thì ngay đến trụ, mà tự mình cũng chẳng biết. Lại
quán : hành ư bố thí, là khiến cho chúng ta thành phật, nếu chẳng làm sự
quán chiếu thì làm sao có thể thành? Ưng như thị bố thí cũng là phật
nói một câu pháp. Như lúc làm bố thí mà trong tâm có “ưng như thị bố
thí” lại cũng tức là trụ ở pháp. Chúng ta việc gì cũng chiếu theo lời
phật dạy để hành, trong tâm như không có một việc đó, thì mới là chẳng
trụ pháp tướng. Trong tâm tuy như không có việc đó mà vẫn cứ tinh tiến
đi thực hành thì mới là chẳng trụ phi pháp tướng. Ưng như thị bố thí còn
là ở phía ngoài, bất trụ ư tướng là day về phía trong tìm cầu. Ðây
chính là chỗ cần yếu để dụng công phu.
Lại quán bất trụ ư
tướng, trong tâm tuy không có việc đó, nhưng còn tồn tại cái tâm nầy thì
lại vẫn là trụ tướng. Nên lúc làm sự quán, trong tâm theo từng tầng
từng tầng một mà vào chỗ tinh tế. Cảnh và tâm, pháp và phi pháp, chẳng
chấp hai bên, chiếu cả 2 bên, tâm mình tuy đã vào chỗ tinh tế, nhưng vẫn
còn ở trên đối đãi. Phải biết, sự thấy của đối đãi chưa quên thì chưa
thể ra khỏi thế gian. Hết thảy cảnh giới thế gian không cái nào là chẳng
đối đãi, như sống chết, già trẻ, trên dưới, dài ngắn v. v ... không cái
nào chẳng là tâm phân biệt. Nên xuất thế pháp ắt phải lìa bỏ tâm phân
biệt, ở trên tuyệt đối làm sự quán. Chuyển quan niệm của phàm phu đến
cảnh giới tuyệt đối tức là Chứng Tánh. Chứng tánh phải cần VÔ NIỆM, vì
niệm là tâm phân biệt. Có tâm phân biệt liền rơi vào đối đãi, rơi vào
đối đãi liền thời thời khắc khắc đi phân biệt, mà bị ý thức che lấp đi,
nên ắt phải quán đến VÔ NIỆM mới có thể được. Nhưng trong lòng nếu còn
tồn tại 2 chữ vô niệm thì vẫn là trụ tướng. Ắt phải không luôn cả cái
niệm vô niệm, làm sự quán một cách tế mật, ngõ hầu tánh đức mới viên
minh, mới là thiệt chẳng trụ tướng. Phật nói: “kẻ có thể quán vô niệm
tức là day về phật trí”, thế nên biết rằng quán vô niệm chẳng phải một
lúc mà có thể tới được. Chỉ nên day về đó mà tiến tu, nên gọi là day về
phật trí. Niệm tức là quán, quán tức là niệm. Có thể quán vô niệm, nói
một cách khác là khiến chúng ta niệm cái vô niệm. Niệm cái vô niệm ắt
phải dùng tư duy, tư duy ắt có thể chuyển tâm phân biệt, tâm phân biệt
là hướng ngoại tìm cầu, tư duy là hướng nội tìm cầu cảnh giới thắng
diệu. Ðương lúc khởi tâm động niệm, phải trừ khử tâm phân biệt, lại y
theo phương pháp của phật hướng nội tư duy. Ðây là niệm cái vô niệm, như
niệm phật cũng thế, lâu ngày tương ứng, liền có thể vô niệm.
TRƯNG THÍCH CỚ CỦA NÓ
Hà dĩ cố ? Nhược bồ tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lượng.
Dịch nghĩa : vì cớ gì? Nếu bồ tát chẳng trụ tướng bố thí, phước đức của nó chẳng thể suy nghĩ đo lường.
Trưng
là đem ra mà nói, lại đem nghĩa trước ra nói mà tự mình hỏi, tự mình
đáp. Phước đức : tức là phước tuệ song tu, phước tuệ như hai bánh xe của
chiếc xe, không thể nghiêng một bên. Có người hỏi: Phật đã dạy người ta
chẳng trụ, sao lại còn dạy người ta tu phước? Ðây là sự hiểu sai lầm,
nếu không tu phước thì dẫu thành bồ tát, thành phật đi độ chúng sanh, mà
chúng sanh cang cường, chưa chắc có thể độ được. Cho nên trước cùng với
chúng sanh kết duyên, kinh này sở dĩ chỗ nào cũng nói tu phước, mà thực
hành chỉ nói bố thí, tức là khiến người ta phước tuệ song tu.
Tư
: là suy nghĩ, lượng : là đo lường, nghĩa là chẳng thể dùng tâm tư để
suy nghĩ, chẳng thể dùng số mục để đo lường. Bất trụ tướng bố thí : bất
trụ tướng là chẳng trụ ở pháp, lại cũng là chẳng chấp hữu, bố thí là
chẳng trụ phi pháp, lại cũng là chẳng chấp không. Chẳng trụ tướng mà bố
thí, bố thí mà chẳng trụ tướng, hai bên chẳng chấp, như thế là cảnh giới
của Phật, nên sự lớn của phước đức chẳng thể tư lượng. Phước đức này là
trỏ thành Phật mà nói, văn trên phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề
tâm, tức là tâm thành Phật, cùng với câu này đối nhau. Có thể thấy bất
trụ tướng bố thí là pháp môn thành Phật. Vô thượng thậm thâm vi diệu
pháp tức là trỏ bát nhã cực thâm cực tế, nên kinh này câu câu như lột bẹ
chuối, chẳng dễ gì hiểu rõ. Kẻ thuyết phải nhiếp tướng quán tâm, kẻ
nghe cũng phải nhiếp tướng quán tâm mới có thể được. Kinh văn chỗ nào
cũng nói bất trụ tướng, mà lại chỗ nào cũng nói phước đức, chính là
nghĩa chẳng rơi vào hai bên. Bất trụ tướng không phải là phước đức chẳng
thể tư lượng, ắt phải bố thí mà bất trụ tướng thì mới là phước đức
chẳng thể tư lượng.
Ðại thừa Phật Pháp nói trần, nói sát, nói
ngang, nói dọc, mặt nào cũng đều viên, chỗ rất cần yếu là phá chấp, một
khi có chấp liền rơi vào hai bên, nếu chẳng chấp hữu thì cũng chấp
không, chẳng phải là trung đạo. Nghe pháp, xem kinh cũng phải xem đủ mọi
mặt, nếu chấp một bên liền chẳng được thụ dụng. Phật nói liễu nghĩa,
chẳng nói bất liễu nghĩa, nói được triệt để còn sợ kẻ nghe chẳng hiểu
rõ, nếu nói chẳng triệt để thì làm sao có thể khiến cho người ta hiểu
rõ. Kẻ nghe cũng phải như thế, nếu không thì lý của bát nhã chẳng được
hiểu rõ. Nên phải nói đủ mọi mặt, lại nói mà chẳng nói, để sót lại một
điểm nhường cho kẻ nghe suy tưởng lấy, nếu đem đạo lý rất sâu, mỗi mỗi
nói ra hết, thì kẻ nghe chẳng còn dụng công phu. Nên từ xưa các vị tổ sư
Thiền tông lúc khai thị người học thường lưu lại nửa câu chẳng nói ra,
đợi cho người học tự mình ngộ lấy, nếu không thì kẻ nghe chỉ chuyên môn
làm việc sao viết bài giảng nghĩa, mà tự mình chẳng ở trong đó gắng sức,
thì có chỗ nào dùng đâu? Xem văn trên kinh nầy rõ ràng nói chẳng trụ
lục trần mà hành bố thí, vì nếu trụ ở cảnh thì tâm không thanh tịnh,
phải không làm một cái gì mới có thể được. Nhưng chỗ này lại nói phước
đức chẳng thể tư lượng, há chẳng phải ý nghĩa câu văn trên và câu văn
dưới xung đột ư? Phước đức chẳng phải là tướng ư? Tại sao chỗ nào cũng
nói chẳng trụ, mà lại chỗ nào cũng nói phước đức ư? Phải biết, văn trên
dạy người ta chẳng trụ lục trần là dạy người ta chẳng chấp trước, mà
chẳng phải là diệt hết lục trần, văn dưới có câu “ư pháp bất thuyết đoạn
diệt tướng” có thể chứng minh. Vì tu hành là có cảnh giới, chẳng phải
là không cần cảnh giới, nhờ cảnh mới có thể khởi tu. Bố thí mà giảng
phước đức, tức là tỏ bày cho người ta phương pháp hạ thủ. Nên dạy người
ta học phật ắt phải nhờ ở cảnh thì mới có thể hạ thủ. Tự mình học Phật
cũng ắt phải nhờ cảnh mới có thể hạ thủ. Kinh nầy nói chẳng trụ lục
trần, mà kinh Di Ðà tả trọn vẹn lục trần của cực lạc thế giới, xem ra
giống như trái nhau, thực ra thì giống nhau. Lại chính có thể thấy sự
cao của cảnh giới tịnh độ. Chúng sanh khổ não khởi tâm động niệm chẳng
lìa lục trần. Sự vi diệu của pháp môn tịnh độ là cải biến tâm của chúng
sanh, mà quán tưởng lục trần của cực thế giới, tức là chẳng trụ không,
do đó mà thoát ly lục trần nơi ngũ trược ác thế nầy, tức là chẳng trụ
hữu. Nên Phật pháp trị cái tâm, chẳng chú trọng hàng phục, mà chú trọng
chuyển di, khiến tâm chúng sanh chuyển về lục trần của cảnh giới Phật,
liền thoát ly lục trần của ngũ trược ác thế. Phương pháp hạ thủ chẳng
chấp hai bên tức là ở chỗ nầy.
THÍ DỤ CHO RÕ
Tu
Bồ Ðề ! Ư ý vân hà ? Ðông phương hư không, khả tư lượng phủ ? Phất dã
Thế Tôn ! Tu Bồ Ðề ! Nam tây bắc phương tứ duy thượng hạ hư không khả tư
lượng phủ ? Phất dã thế tôn.
Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi ! Ở ý
ông ra sao ? Phương đông hư không có thể suy nghĩ, đo lường chăng ? Thưa
thế tôn chẳng thể. Tu Bồ Ðề ơi ! Phương nam, tây, bắc, phương đông nam,
tây nam, đông bắc tây bắc, phương trên phương dưới hư không có thể suy
nghĩ đo lường chăng ? Thưa thế tôn, chẳng thể.
Chữ bất trong
câu phất dã thế tôn bực cổ đức chú kinh đọc là chữ phất, trong sách đọc
chữ không có âm như thế. Vì hồi xưa dịch kinh ở văn chữ Phạm không có
chữ nào tương đương để dịch, nên thường thường dùng chữ gần giống mà đọc
sang một âm khác để phân biệt, cũng là khổ tâm của người dịch kinh. Chỗ
nầy chẳng đọc chữ bất có nghĩa là “chẳng” ấy là biểu minh không phải
chỉ có nghĩa là phủ-định, nó gồm có nghĩa tuy phải mà chẳng phải. Ðại
khái nếu văn dưới mà không giải thích thì mới giải nghĩa là phủ định,
nay văn dưới có giải thích, thì chẳng hoàn toàn giải nghĩa là phủ định.
Hư không vô tướng mà chẳng cự các tướng phát huy, câu nói nầy phải nhớ
cho kỹ. Con mắt bình thường cho hư không là hết thảy không có gì cả, đó
chỉ là ngoan không của tiểu thừa. Thực ra thì hư không bao la muôn
tượng, chỗ nói hư không trong đại thừa chính trỏ bao la muôn tượng mà
nói, trong đó có vô số tướng thì mới hiển ra cái lớn của hư không. Chỗ
nói chữ KHÔNG của phật đều phải nên lĩnh hội như thế, phải biết không
cái gì là chẳng dung nạp ở trong hư không, mới là đệ nhứt nghĩa không,
chỗ gọi là không mà chẳng không. Bất khả tư lượng chẳng phải là nói nó
vô tướng chẳng thể tư lường, mà chính là nói nó không cái gì là chẳng
dung nạp mới là bất khả tư lượng. Ðem một phương đông ra nói, lại phải
nam, tây, bắc, tứ duy, trên dưới ra nói chẳng phải là văn nói suông,
chính là hiển thị lời phật thuyết : tùy theo 1 pháp nào đem ra để nói
đều gồm cả 10 phương. Phật thuyết pháp mặt nào cũng đều viên, chẳng thể
từ một mặt mà xem, như kinh Hoa Nghiêm chuyên phát biểu nghĩa trùng
trùng vô tận. Vì lời phật thuyết pháp là từ trong tánh hải vô lượng vô
biên chảy ra, nên trùng trùng vô tận, hư không chẳng thể tư lường. Nếu
cho là chỉ thí dụ phước đức, thì vẫn là chỉ xem một mặt, thực ra là thí
dụ bất trụ tướng bố thí vậy.
Nhưng Phật lấy hư không làm tỷ dụ
mà chỉ nói phương đông cũng đã có thể hiểu rõ, tại sao lại còn nói 4
phương trên dưới, đây có 5 nghĩa:
1) Tùy ý đem một pháp ra nói,
thể nó tức là không, đều chẳng nên trụ tướng, tuy hư không cũng vậy. 2)
Phải biết, đông nam, tây bắc, tứ duy, trên dưới đều là giả danh, từ
phía đông ngó ra thành phương tây, từ phương nam ngó ra thành phương
bắc, vốn không nhứt định. Có thể biết hết thảy pháp cũng đều là giả danh
không có pháp nhứt định có thể được, cho nên chẳng thể trụ pháp.
3)
Ðã đành mười phương đều là giả danh, giả danh là tướng nên chẳng thể
trụ. Ngã và chúng sanh cũng là giả danh cũng chẳng thể trụ. Thế thì hết
thảy pháp đều là đồng thể, ở trên tánh thể nguyên là một, lĩnh hội như
thế mới là tâm, phật, chúng sanh 3 cái không sai biệt, phước đức không
thể tư lường như thế, bất trụ tướng bố thí như thế, tức là cảnh giới
phật, sự lớn của phước đức há phàm tình có thể dòm thấy ư?
4)
Mười phương đều ở trong hư không, thực ra đều ở một niệm trong tâm, tuy
nói thập phương mà chẳng ngại cùng một hư không, tuy cùng một hư không
mà chẳng ngại thập pháp giới. Khiến người ta lĩnh hội nhân quả đồng thời
chẳng ngại một pháp giới, một pháp giới chẳng ngại nhân quả.
5)
Ðem 10 phương ra nói thì cái lý hư không tuy vô tướng mà chẳng cự các
tướng phát huy, tự rõ. Theo đó mà quán chiếu, là không hữu đồng thời,
tuy không hữu mà viên dung tự tại, thì mới có thể hiểu rõ nghĩa bố thí
bất trụ tướng, bất trụ tướng phước đức bất khả tư lượng.
Ðem hư
không ra làm thí dụ, mà lại đem đông tây nam bắc, tứ duy trên dưới ra
nói là chẳng phải văn nói chơi, thực quan hệ yếu nghĩa, xin chớ bỏ qua
chẳng lưu ý:
1) 10 phương đều ở trong hư không, là khiến cho biết rằng 10 pháp giới, cùng ở một niệm trong tâm của mỗi người.
2) Tùy ý đem 1 phương nào ra nói đều là hư không, là cho biết tùy ý đem một pháp nào ra nói, thể của nó là không.
3)
Thế thì đông, nam, tây, bắc, tứ duy, trên dưới đều là giả danh, ấy là
cho biết rằng ngã, nhân, chúng sanh, cho đến hết thảy pháp đều là giả
danh.
4) Ðã đều là giả danh, cho nên hư không nguyên là MỘT, ấy
là cho biết rằng ngã, nhân, chúng sanh cho đến phật, bao nhiên thứ sai
biệt là theo tướng của giả danh mà nói, còn theo tánh thể mà nói là MỘT,
cho nên nói: tâm, phật, chúng sanh 3 cái không sai biệt, cho nên nói:
nhứt chân pháp giới. Phải biết, chúng sanh vì không đạt nhứt chân pháp
giới, bất giác tự mình động mà có vô minh.
5) Tuy có 10 phương
mà chẳng ngại cùng một hư không, tuy cùng một hư không mà chẳng ngại có
10 phương, là cho biết rằng 10 pháp giới nhân quả đầy rẫy, mà chẳng ngại
cùng một tánh không. Tuy cùng một tánh không mà chẳng ngại 10 pháp giới
nhân quả đầy rẫy. Ðây là hiển-phát lý hư không vô tướng mà chẳng cự các
tướng phát huy. Như thế là không hữu đồng thời, còn mất tự tại, mới là
hư không chẳng thể tư lượng, mới có thể đủ để thí dụ cái phước đức chẳng
thể tư lường của bố thí mà chẳng trụ tướng, chẳng trụ tướng mà bố thí.
Nếu chỉ nói hư không, thì chỉ là cái không nghiêng lệch thôi, há là đệ
nhứt nghĩa không của bát nhã, lại sao đủ để nói hư không chẳng thể tư
lượng ư? Cho nên nói hư không ắt phải gồm nói đông tây nam bắc, tứ duy,
trên dưới là lý ở chỗ đó. Phải nên biết như thế. Biết như thế là chánh
tri.
Tu Bồ Ðề ! Bồ tát vô trụ tướng bố thí, phước đức diệc phục như thị bất khả tư lượng.
Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, bồ tát không trụ tướng bố thí, phước đức cũng lại như thế chẳng thể suy nghĩ đo lường.
Mười
phương hư không vô tướng mà chẳng ngại các tướng phát huy chính là bố
thí chẳng trụ tướng. Chẳng trụ tướng mà bố thí, chính giống như hư không
chẳng thể tư lường. Bồ tát có thể như thế, hữu mà chẳng hữu, không mà
chẳng không, mới là bội trần hợp giác. Văn trên nói bất trụ tướng bố
thí, chỗ này chữ bất đổi ra chữ vô, có ý rất sâu, vì thiện nam tử, thiện
nữ nhân đã phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm, có tư cách thành
phật, nên dạy nó bất trụ tướng bố thí. Chỗ nầy dạy nó dùng công phu tu
hành, ắt phải đạt đến thiệt có thể vô trụ, không còn một tơ hào nào trụ
chưa dứt hết, thì mới có thể được.
Tu Bồ Ðề ! Bồ tát đãn ưng như sở giáo trụ.
Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, Bồ tát chỉ phải như chỗ dạy mà trụ.
Qui
kết đến vô trụ mới là chính trụ, chính là trỏ ưng vô sở trụ, lại trả
lời câu : ưng vân hà trụ. Văn trên đều nói : bất trụ, vô trụ, đây bỗng
nói như sở giáo trụ, có nghĩa bảo là phải y theo lời dạy của phật nói mà
trụ, thì rõ ràng là trụ mà vô trụ, chẳng phải là đoạn diệt. Xem 2 chữ
đãn ưng (chỉ phải), thì có thể thấy trừ y theo cái bất trụ, vô trụ của
phật nói ra, thì không có trụ nào khác. Lại gồm có ý hàng phục, hàng
phục tức là hàng phục cái trụ nầy. Lại đãn ưng có nghĩa là : phải như
chỗ phật dạy trụ ở cái chẳng trụ 2 bên mà trụ, mới là chính trụ. Trụ lại
có nghĩa là chủ, chỉ nên y theo chỗ dạy của phật chẳng trụ 2 bên để tu
hành, vốn lấy bất trụ làm chủ, chẳng như thế thì không phải là đại thừa
phật pháp. Hai khoa phát ly tướng tâm, và bất trụ ư tướng nầy phát minh
lẫn nhau. Trước nói hàng phục là gồm ý vô sở trụ, đây nói bất trụ là gồm
ý hàng phục, nên hàng phục và bất trụ, hai việc là một. Tu hành hạ thủ
tức là một chữ XẢ. XẢ chẳng được tức là chấp hữu, ngã kiến. Phật nói XẢ
là phá ngã chấp. Ngã chấp nầy có thể xả một phần liền phá được một phần,
phá đi từng tầng, từng tầng, đến chỗ cứu cánh xả, thì ngã chấp mới phá
hết. Ðẳng giác bồ tát còn có một phần pháp chấp chưa phá, ắt phải lên
đến phật quả mới cứu cánh xả. Nên Phật pháp từ đầu đến cuối chỉ 1 chữ
XẢ, XẢ chính là chẳng trụ không, chẳng trụ hữu, tức là tâm ly tướng. Tâm
lượng lớn đến vô lượng vô biên, mới là a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Nếu tâm lượng nhỏ hẹp, thì sao có thể xả? Phật chẳng nói trụ, thành phật
còn chẳng trụ phật tướng. Nên tổ sư Thiền Tông hoàn toàn dùng phương
pháp kinh Kim Cương, đối với người học chỉ nói nửa câu, mà chẳng nói rõ,
khiến kẻ học phải suy nghĩ, nghĩ thế nầy cũng chẳng phải, nghĩ thế kia
cũng chẳng phải, đem vọng niệm của mình đả phá cho tan tành, bỗng nhiên
thoát ra, chính là diệu trụ.
Tu Bồ Ðề ! Ư ý vân hà ? khả dĩ thân tướng, kiến như lai phủ ?
Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi ! Ở ý ông ra sao ? Có thể lấy thân tướng thấy như lai chăng ?
Bực
cổ đức nói: “Ðến câu: bồ tát đãn ưng như sở giáo trụ mà ngừng, thì đại
nghĩa của 1 bộ kinh Kim Cương đã hết, phía dưới là từng lớp, từng lớp
một đoạn dứt nghi.” Ðoạn nghi đã đành là đúng, nhưng ý nghĩa còn chưa
đầy đủ. Hai chữ thân tướng chỗ giải nghĩa xưa, đều trỏ 32 tướng ứng hóa
thân mà nói, như thế thì 32 tướng ở văn dưới há chẳng trùng điệp ư ? Một
chữ một câu trong kinh Kim Cương đều có ý sâu, quyết không có sự trùng
điệp. Hai chữ thân tướng nầy phải đem “bản thân của chúng sanh” ra mà
nói. Hai chữ như lai là trỏ “pháp thân của chúng sanh vốn có” mà nói.
Văn trên chỗ nào cũng nói bất trụ tướng. Bất trụ là ắt phải khiến người
ta hội tướng về tánh. Tâm của chúng sanh gọi là như lai tạng, là nói
chúng sanh vốn đầy đủ pháp tánh, chẳng qua tàng chứa ở trong nhân ngã,
pháp ngã. Phật dạy bất trụ tướng tức là khiến chúng sanh tự mình thấy
như lai còn tàng chứa, giải thích như thế thì thân thiết hơn. Ý phật như
là bảo : chúng sanh chúng mầy, có thể ở ngay thân tướng mà thấy bổn
tánh của mầy chăng ? Khoa nầy là đem lý đã nói ở trên lại thuyết minh
cái sở dĩ nhiên của nó. Bao nhiên đạo lý văn trên nói, chỗ rất cần yếu
là day qua trở lại tỏ bày rõ cái bất trụ ư tướng, mà đều qui kết ở một
câu : khả dĩ thân tướng kiến như lai. Văn trên bồ tát bất trụ tướng bố
thí, kỳ phước đức bất khả tư lượng, phật đã nói rõ cái cớ của nó, nhưng
còn chưa thuyết cái sở dĩ nhiên của nó. Vì bất trụ ư tướng, điểm chốt
yếu là chứng tánh. Hết thảy phàm phu từ vô thủy đến nay, chỉ nhận biết
được 1 cái tướng, nên hướng ngoại tìm cầu, bội giác hợp trần, đem bổn
lai diện mục quên đi mất.
Văn trên nói chẳng trụ pháp tướng,
chẳng trụ phi pháp tướng. Pháp là trỏ hết thảy sự sự vật vật. Cái thân
túi da thúi của chúng ta đây là cái rất chấp trước trong hết thảy sự
vật, từ vô thủy đến nay chấp cái túi da thúi nầy làm thân tướng, nhận
giả là chân, có biết đâu nó là vô thường, sanh diệt. Ngay đến kẻ kiến
giải hơi cao, biết thân nầy như huyễn, nhưng vẫn còn chấp cái mừng giận
vui buồn đã phát ra cho là tình, chưa phát ra chưa động cho là tánh. Họ
cho là quan năng của tâm là suy nghĩ, suy nghĩ thì có thể bẩm thọ, suy
ra cái gốc của nó chẳng được, mà chỉ cho là bẩm thọ ở trời, nên họ nói :
“thiên mạng gọi là tánh”, người thế gian đều thấy hiểu như kiểu đó.
Kiến giải trên hoàn toàn không giống với phật pháp. Kẻ kia chỗ nói là
không động tác, chính là cái tướng mà phật pháp nói. Cái bất động chỗ
phật nói thì vô luận là sự hằng thẩm tư lường của thức thứ 7, thứ 8, ở
trên biểu diện cũng đều là động tác khởi diệt, mà chỉ có tánh thì chẳng
động, ngay đến mừng giận buồn vui cũng là động tác khởi diệt. Nếu lầm
cho là chưa phát ra là tánh, thì ắt bị nó trói buộc. Ở nơi thế gian,
trên từ bực thánh nhân, dưới đến người ngu dốt hoàn toàn là chấp theo
kiểu đó, tóm lại chẳng ngoài sự sanh diệt. Cho nên phải nhận thức được
chủ nhân ông của cái bất sanh bất diệt nầy, thì mới có thể chẳng bị
tướng chuyển, mà tướng bị ta chuyển, chẳng chạy theo sanh diệt vô
thường, liền có thể liễu sanh thoát tử. Phật khiến người ta chẳng trụ
tướng, chỗ dụng công phu cần yếu là ở chỗ nầy, Phật phát ra ngàn muôn
lời nói, chỗ nói nào cũng chẳng ngoài chỗ nầy. Kinh nầy ngay ban đầu
liền nói chẳng trụ tướng, là khiến chúng ta nhận cho rõ điểm nầy. Chấp
tướng là chấp hữu, chẳng chấp tướng là chấp không, là bịnh chung của hết
thảy phàm phu. Tiểu thừa thì trái với phàm phu. Tiểu thừa hiểu rõ thân
tướng là huyễn, ngay đến mừng giận vui buồn chưa phát ra cũng là tướng,
chứng được thiên không mà liễu sanh tử, ra ngoài tam giới. Nhưng lại
được một bịnh, bịnh chấp không, cái không nầy vẫn là tướng. Ðại Thừa
Khởi Tín Luận nói : “không là không cái vọng niệm”, ắt phải ngay đến
mừng giận buồn vui chưa phát ra của khởi tâm động niệm cũng không luôn,
liền trụ ở vô tướng. Cho thiên-không là liễu sanh tử, biết đâu chấp
không, lại là trụ ở phi pháp tướng, nên phật mắng là chẳng hợp. Phải
biết: có thể ắt có dụng, có tánh ắt có tướng.
Từ trước đến nay
nói sự chấp trước của phàm phu chẳng ngoài cái theo tướng mà tìm cầu,
chỉ cần phải biết tướng là hư vọng liền có thể được. Lại như chấp không
là rơi vào đoạn diệt, vì tánh và tướng không phải là một, tánh là tánh,
tướng là tướng, thể là thể, dụng là dụng, nên chẳng thể diệt tướng. Diệt
tướng thì như vật có đáy mà không có bề mặt. Tánh và tướng lại là chẳng
khác, tướng là biểu hiện của tánh, tánh là căn bản của tướng. Có căn
bản mà chẳng biểu hiện là có thể mà không có dụng, nên phật chẳng trụ
niết bàn. Vì cớ gì? Vì hết thảy chúng sanh chính chấp tướng nầy, nếu
phật không biểu hiện tướng nầy ra thì chẳng thể độ tha. Nên chứng tánh
thể nguyên là để khởi hành, như tiểu thừa, phật mắng là mầm lụi giống
hư, rơi vào cái hố vô vi. Văn của khoa nầy chính là để phát huy lý đó,
để cho biết cái sở dĩ nhiên của phật khiến người ta chẳng trụ pháp
tướng, lại chẳng trụ phi pháp tướng. Phật dạy người tu hành nguyên vì độ
chúng sanh, nếu rơi vào hố vô vi, thì sao có thể độ được? Nên bát nhã
phải ở chỗ 2 bên chẳng trụ, ắt chẳng trụ hữu, chẳng trụ không mới có thể
xứng tánh. Lại tánh là vô tướng vô bất tướng. Vô tướng nên chẳng thể
chấp hữu, chẳng thể trụ pháp. Vô bất tướng nên chẳng thể chấp không,
chẳng thể trụ phi pháp. Chính vì tánh là vô tướng, vô bất tướng nên phàm
phu chấp một bên hữu, thấy chẳng được tánh, tiểu thừa chấp 1 bên vô,
cũng chẳng thấy được tánh. Ngàn kinh muôn luận, không cuốn nào là chẳng
thuyết minh lý nầy, chú sớ của các vị đại đức cũng không cuốn nào là
chẳng phát huy lý nầy. Nên chữ thân tướng ở câu nầy, chẳng thể cho là
nói phật thân, ắt phải đem trên thể-tướng của bổn thân chúng sanh ra mà
nói. Trên đến phật, dưới đến hết thảy chúng sanh đều là tướng nầy. Phật
chứng được pháp thân nên gọi là như lai, hết thảy chúng sanh mừng giận,
buồn vui, khởi tâm động niệm vốn là bất giác. Nhưng có thể thành phật
cũng vẫn là cái tâm của chúng sanh nầy, nên tâm nầy tức là như lai,
chẳng qua bị vô minh che đi, nên gọi là như lai tạng mà thôi. Phật hỏi
lời nầy là thử thăm dò xem Tu Bồ Ðề và đại chúng, cho đến chúng sanh đời
vị lai, cứu cánh câu văn trên ta nói bất trụ tướng, làm sao có thể ở
trên tướng mà thấy tánh ư? Như trả lời là có thể thấy như lai thì trụ ở
pháp tướng, tức là phàm phu. Như trả lời là chẳng thể thấy như lai, là
trụ ở phi pháp tướng tức là tiểu thừa.
Phất dã thế tôn ! Bất khả, dĩ thân tướng đắc kiến như lai.
Dịch nghĩa : Thưa thế tôn, chẳng thể. Không thể, mà có thể lấy thân tướng được thấy như lai.
Từ
xưa đến nay đọc kinh Kim Cương, bất khả dĩ thân tướng đắc kiến như lai,
đọc luôn thành một câu. Tôi trì tụng kinh nầy hơn 40 năm nay. Trước đây
mười mấy năm bỗng nhiên ngộ đến chỗ câu này phải chia ra làm 2 câu để
đọc, nhưng còn chưa dám quyết. Sau đọc ngài Nam Nhạc đại sư giảng kinh
Pháp Hoa: “duy phật dữ phật nãi năng cứu tận chư pháp thực tướng, sở vị
chư pháp như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị
tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bổn
mạt cứu cánh” có 3 thứ câu đứt đoạn ngắn, mới dám quyết định chia làm 2
câu. Nhưng phương pháp nầy chỉ có kinh của không tông, và kinh của đại
sư La Thập dịch là có thể dùng nó. Giải thích xưa thì thân tướng đương
nhiên là không, là theo trên pháp thân mà nói; ứng, hóa thân cũng là
huyễn tướng, cho nên nói chẳng có thể được thấy như lai. Nhưng nghĩa nầy
có chỗ chưa hết, nếu chiếu theo như thế mà giải thích, thì là trụ ở phi
pháp tướng. Phải biết : chữ phất trong câu phất giã thế tôn, là nghĩa
phải mà không phải, không phải mà phải, chẳng thể giải nghĩa hoàn toàn
là phủ định. Ðã trả lời là chẳng có thể, lại trả lời là có thể, nên là
cả 2 cái đều rõ. Vả chăng nếu quả nhiên toàn là phủ định, thì câu dưới
cần gì thêm vào chữ đắc. Ý của Tu Bồ Ðề cho rằng : Chẳng thể lấy tướng
làm tánh, đem thân tướng để thấy như lai, nhưng tướng do tánh hiện ra,
thì cũng được lấy thân tướng để thấy như lai, nên văn dưới lại có câu :
như lai sở thuyết thân tướng để nói thêm cho rõ. Nếu đem câu trên đọc
làm luôn 1 câu thì ở trên sự thực, trên nghĩa lý, trên văn tự có bao
nhiêu thứ nói ra chẳng thông. Nếu trả lời: chẳng thể lấy thân tướng thấy
như lai, như thế thì Tu Bồ Ðề vẫn còn chỉ ngộ tướng là tướng, tánh là
tánh, vẫn là kiến giải của tiểu thừa rơi vào thiên không, chẳng phải là
đệ nhứt nghĩa không, thì sao có thể gọi là giải không đệ nhứt? Huống chi
8 hội bát nhã trước đều là Tu Bồ Ðề đương cơ, và đã từng thay thế tôn
tuyên thuyết cái lý 2 bên chẳng chấp, tại sao đến đây trái lại chẳng
hiểu rõ ư? Ðây là cùng với sự thực không hợp. Trong phát-khởi-tự kinh
nầy, thế tôn ở chỗ mặc áo, ăn cơm, thị hiện đại không tam muội, đại
chúng chẳng biết, mà Tu Bồ Ðề đã ngộ được lý nầy, mở miệng ra liền tán
thán hi hữu thế tôn, như lai thiện hộ niệm chư bồ tát, thiện phó chúc
chư bồ tát, thì rõ ràng là thấy được như lai thị hiện tướng phàm phu,
thấy được tướng chẳng chướng ngại tánh, tại sao trải qua sau khi thế tôn
2 phen khai thị, mà vẫn chỉ thấy được một bên, tánh và tướng chẳng dung
hội? Thế thì 2 chữ hi hữu của văn trước liền không có lai lịch, 2 câu
như lai thiện hộ niệm cũng không có ý vị, đây là cùng với nghĩa lý chẳng
hợp. Lại theo cách đọc như thế, ấy là hoàn toàn phủ định, thì chỉ cần 1
câu “phất dã thế tôn” là xong, lại hà tất thừa ra câu thân tướng kiến
như lai, lại cần gì thêm vào chữ đắc? Ðây là chỗ trên văn tự chẳng hợp.
Hà dĩ cố ? Như lai sở thuyết thân tướng tức phi thân tướng.
Dịch nghĩa : Vì cớ gì? Như lai chỗ nói thân tướng, tức là chẳng phải thân tướng.
Như
lai sở thuyết thân tướng tức phi thân tướng là chiếu cả hai bên. Tánh
là thể của tướng, tướng là dụng của thể. Tướng nếu không có tánh thì
chẳng dụng, tánh nếu không có tướng thì chẳng hiển hiện. Lìa tướng ra
thì không có gì gọi là tánh, lìa tánh ra thì không có gì gọi là tướng,
chỉ xem có chấp trước hay không chấp trước mà thôi ! Chấp tướng thì
tướng liền làm chướng ngại mà chẳng được thấy tánh, nên trả lời là chẳng
thể. Nếu chẳng chấp trước thì ngay ở tướng có thể thấy tánh, tướng như
bề ngoài của vật, tánh như bề trong của vật, nếu bề ngoài của vật như
pha lê trong suốt, thì liền có thể thấy bề trong của nó, nên trả lời là :
lấy thân tướng thấy như lai. Vì không chấp trước là không rơi vào hai
bên, chẳng ắt phải như tiểu thừa diệt sắc, tỏ không, diệt tướng, thấy
tánh, tức là câu : chẳng nói đoạt diệt tướng ở văn dưới. Lý của bát nhã
trọn vẹn ở chỗ nầy, phải nên quán chiếu, dùng công phu cho kỹ lưỡng.
Theo tướng mà nói là thân tướng. Theo tánh mà nói thì thể nó là không,
tánh vốn vô tướng. Theo tướng mà nói thì tướng là tướng, tánh là tánh.
Tướng là hư vọng, tánh là chân thực, nên nói chẳng thể. Theo tánh mà nói
thì tướng vốn thể nó là không, tánh có thể dung tướng, lý chân thực
liền hiển ra, cần gì phải lìa tướng hư vọng mới thấy được tánh chân
thực, nên nói : được thấy như lai. Nếu có thể biết tướng là không, liền
được thấy tánh. Giải thích như thế, mới cùng với Tu Bồ Ðề đương cơ thỉnh
pháp hợp với nhau. Ðại chúng thấy phật mặc áo ăn cơm, thị hiện tướng
phàm phu liền chấp tướng phàm phu, chẳng thấy như lai. Tu Bồ Ðề do tướng
thấy tánh, biết phật chẳng trụ tướng liền thấy như lai. Nên đây chính
là sự giải thích rõ cả hai bên.
Phật cáo Tu Bồ Ðề : phàm sở hữu tướng dai thị hư vọng.
Dịch nghĩa : phật bảo Tu Bồ Ðề : gồm chỗ có tướng đều là hư vọng.
Kẻ
kết tập kinh để câu : Phật cáo Tu Bồ Ðề là chỉ-thị nghĩa lý của văn
dưới trọng yếu, câu nầy tức là ấn hứa, dưới đây lại suy rộng ra nói. Hồi
nãy một bên hỏi một bên trả lời chỉ nói về thân tướng, thực ra thì gồm
chỗ có tướng đều là hư vọng, ông nói chẳng thể, rất đúng, vì tánh vốn
chẳng phải tướng. Chữ vọng nầy là nghĩa rộng, hư vọng cũng như hư giả.
Ðã biết là hư giả thì phải hồi quang phản chiếu, chẳng thể hướng ngoại
tìm cầu ở nơi tướng, phải mau mau quay về tánh. Tánh vốn chân thực, há
có thể lấy hư giả thấy chân thực ư? Biết thế thì bịnh của phàm phu có
thể tránh khỏi, chẳng đến nổi rơi vào luân hồi.
Nhược kiến chư tướng phi tướng, tắc kiến như lai.
Dịch nghĩa : Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, liền thấy như lai.
Chư
tướng là hết thảy tướng, tức là phàm sở hữu tướng. Chỉ phải hiểu rõ một
cách triệt để hết thảy tướng đều là hư vọng, liền chẳng đuổi theo cái
vọng, liền biết có cái chân. Nên thấy chư tướng phi tướng thì tướng
chẳng thể che lấp tánh, liền thấy như lai, cần gì phải diệt tướng, ngay ở
tướng có thể thấy tánh vậy. Ông trả lời là được thấy như lai rất đúng.
Chữ kiến cũng có công phu, phải thiệt có thể thấy chư tướng phi tướng
thì mới có thể được. Nếu chỉ nói cái lý, liền chẳng thể thấy như lai.
Chữ tắc từ xưa đến nay các kinh đều chép là tức, nay theo người nhà
Ðường viết kinh viết là tắc, tắc và tức vốn có thể thông dụng. Phàm sở
hữu tướng đã là hư vọng đều chẳng nên trụ, nên trên nói pháp tướng, nói
phi pháp tướng là bao gồm hết thảy tướng. Phật nói chẳng trụ tướng tức
là khiến người ta thấy như lai. Nếu chấp ứng hóa thân liền chẳng thể
thấy pháp thân, nên chẳng trụ tướng là khiến người ta thấy tánh. Lại
chẳng trụ tướng là chẳng chấp trước, chẳng chấp trước là chẳng bị tướng
chuyển, trái lại tướng lại bị ta chuyển. Nên chỉ cần hiểu rõ tướng là hư
vọng, không cần đoạn diệt tướng, vả lại cũng chẳng thể đoạn diệt tướng,
vì tướng vốn do tánh hiện ra.
Phật khiến người ta đối với các
pháp ở thế gian chẳng thể chấp trước, lại cũng chẳng thể chán ghét, phàm
phu chấp tướng là trụ pháp tướng mà sanh phiền não. Người tu hành chán
ghét thế gian pháp, lại là trụ phi pháp tướng mà sanh phiền não. Phải
biết, tánh là vô tướng mà vô bất tướng, chẳng thể đoạn diệt. Chúng ta
dụng công trước phải quán chiếu, lâu ngày mới có thể chiếu-trụ, sau rốt
mới có thể chiếu-kiến. Y theo lời phật nói 2 bên chẳng chấp mà tu hành,
thực hành đi, thực hành trở lại, đến lúc công phu thuần thục càng ngày
càng thâm thúy thêm lên mới là bát nhã ba la mật, mới là thiệt thấy chư
tướng phi tướng, tức là chỗ trong Tâm kinh nói : chiếu kiến ngũ uẩn đều
không, độ hết thảy khổ ách. Chữ sắc trong tâm kinh tức là chữ TƯỚNG
trong kinh nầy, thụ tưởng hành thức tức là mừng giận vui buồn, khởi tâm
động niệm, quán chiếu đến chỗ đều không, mới là chư tướng phi tướng. Ðều
không tức là tam không, chẳng phải là cái không của tiểu thừa, nên lại
nói : sắc bất dị không, không bất dị sắc, nói như thế thì sắc và không
còn là 2 cái, nên lại nói : sắc tức thị không, không tức thị sắc, đây là
không hữu đồng thời, cùng với câu : phàm sở hữu tướng dai thị hư vọng,
nhược kiến chư tướng phi tướng tắc kiến như lai, thông với nhau. Phàm sở
hữu tướng dai thị hư vọng cùng với : không tức thị sắc thông, hết thảy
là giả danh, thể của nó là không vậy. Nhược kiến chư tướng phi tướng tắc
kiến như lai, cùng với : sắc tức thị không thông. Sắc tức không thì có
thể thấy rằng không chẳng ở ngoài sắc, cần gì phải diệt sắc để tỏ rõ cái
không, nên nói tắc kiến như lai. Kiến như lai tức là kiến tánh. Chẳng
chấp tướng liền có thể độ hết thảy khổ ách. Khổ ách vô lượng, đem cái
lớn ra mà nói là phần đoạn sanh tử của phàm phu, biến dịch sanh tử của
tiểu thừa. Phàm phu thân có dài, ngắn, mạng có thọ yểu, lưu chuyển trong
vòng sanh tử, gọi là phần đoạn sanh tử. Tiểu thừa chứng được cái tánh
vô tướng, đã được cái thể, vốn có thể hiện tướng, nhưng tiểu thừa sợ khổ
chẳng chịu nhập thế độ sanh, trong tâm nổi dậy vi tế sanh diệt, phật
gọi là biến dịch sanh tử. Nếu kiến như lai liền có thể độ thứ khổ ách
nầy, độ khổ ách do ở chỗ kiến như lai, kiến như lai do chiếu kiến, nên
dụng công cần nhứt là phải làm sự quán chiếu.
Kinh văn khoa nầy
nếu tiêu về tự tánh mình, thì lúc gặp hết thảy tướng, công phu bước thứ
nhứt là quán : phàm chỗ có tướng đều là hư vọng, đến như sắc thanh
hương vị xúc pháp thì quán chư tướng phi tướng. Hoặc nghi ngờ rằng ở
chốn trần lao chẳng dễ gì làm sự quán chiếu, thì tôi xin đem ngay thành
phố Thượng Hải ra mà nói : chúng ta trọn ngày nghe thấy tiếng xe chạy ầm
ầm, tiếng người nói ồn ào, bao nhiêu thứ tiếng huyên náo. Phải biết,
những thứ tiếng nầy đều nổi dậy rồi diệt mất chẳng ngừng, lũ chúng sanh
đi qua đi lại nườm nượp nầy đều vội vàng bận rộn ở manh áo miếng cơm,
chẳng do mình tự chủ. Nhưng đó thực ra thì chẳng phải là tiếng xe, tiếng
người, bao nhiêu thứ tiếng huyên náo đó là tiếng vô thường, khổ, không,
vô ngã, thể của nó là không. Nhưng rõ ràng là tiếng, mà làm sự quán như
thế, thì lại phải chẳng chấp hữu, chẳng chấp không, mới là tiếng của
bát nhã ba la mật đa. Nên kinh văn chẳng kể câu nào cũng đều có thể làm
sự quán, đi đứng nằm ngồi chẳng lìa cái đó, thì thụ dụng vô cùng. Y theo
văn tự, bắt đầu quán chiếu như thế thì trước ta phải đọc kinh, đó là
kinh chuyển ta. Ðến như làm sự quán là ta chuyển kinh. Kinh chuyển ta là
lấy kinh để chuyển di phàm tình. Ta chuyển kinh lại là công phu trọng
yếu. Kinh văn khoa nầy là thuyết minh cái sở dĩ nhiên của văn trên, tức
là tổng kết những câu : hàng phục kỳ tâm, ưng vô sở trụ, v v ..., nên y
theo văn nầy mà quán chiếu, cùng với quán chiếu văn trên không khác.
Phàm sở hữu tướng dai thị hư vọng nhược kiến chư tướng phi tướng tắc
kiến như lai, kiến như lai tức là kiến tánh, kiến tánh tức là cái sở dĩ
nhiên của bất trụ tướng. Kiến tánh, kiến được một phần là sơ địa bồ tát,
là bất thoái chuyển ư a nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm, kiến được cứu
cánh là thành phật, tức là cái sở dĩ nhiên của phước đức chẳng thể tư
lường ở văn trên. Thành phật, kiến tánh, pháp thân hiển hiện khắp đầy hư
không là cái sở dĩ nhiên dùng hư không làm thí dụ của văn trên, Phải
biết kinh nầy nói đi rồi nói trở lại đều là nói vô trụ. Văn trên bất trụ
ư tướng là giải thích ưng vô sở trụ, vì thế phật mở miệng là nói ngay
hàng phục kỳ tâm trước hết. Sở hữu nhứt thiết chúng sanh dai linh nhập
vô dư niết bàn nhi diệt độ chi, là dạy chúng ta chẳng trụ, diệt độ vô
lượng chúng sanh thành phật là chỉ thị chúng ta chẳng trụ pháp tướng.
Sau nói bồ tát ưng vô sở trụ, cũng là dạy người ta chẳng trụ pháp tướng.
Hành ưng bố thí là dạy người ta chẳng trụ phi pháp tướng.
Tuy
lại nói : đãn ưng như sở giáo trụ, ý tứ vẫn là dạy người ta trụ ở vô
trụ, tức là chỗ bực Cổ đức nói : chỉ cầu vọng ngừng nghỉ, chẳng lại tìm
chân, chân là chân tâm lại là chân như. Ưng là như như bình đẳng. Tại
sao lại như như bình đẳng? Vì tánh thể vốn nó như thế. Có tánh thể nầy
liền có thể hiện ra tướng, nên kẻ chứng đắc chẳng thể nào còn tồn tại
cái chân tâm nầy, nếu mà tìm cái chân tức là thức thứ 6, 7, liền thành
ra vọng. Cổ đức gọi là chấp dị, chấp dị có nghĩa là chia chân vọng ra
làm hai, chẳng phải bình đẳng, nên phật mới nói : ưng như ngã sở giáo
trụ, để hàng phục vọng tâm. Phàm phu đều là vọng tâm, ắt phải trừ vọng
tâm từng phần từng phần, thì chân tâm mới hiện ra từng phần từng phần.
Chỉ cầu vọng ngưng nghỉ, chẳng lại tìm chân, là ý nầy vậy. Phàm sở hữu
tướng dai thị hư vọng, một khi trụ tức là vọng, nên văn trước mở miệng
liền nói hàng phục mà chẳng nói trụ, tại sao lại nói : nhược kiến chư
tướng phi tướng tắc kiến như lai, đây là nói sự lợi ích của chẳng trụ,
nếu có thể thấy chư tướng phi tướng, thì liền thấy được chân tánh. Ðây
tức là tổng kết văn trên chẳng nói trụ mà nói hàng phục, đãn ưng như sở
giáo trụ. Như thế có thể biết phép hành văn của kinh Kim Cương bao la
như ngựa trời đi trên không, mà thuyết lý thì như mũi kim sợi chỉ hết
sức tế mật, chỗ nào cũng khai mà chỗ nào cũng kết. Ðọc văn khoa nầy như
ngọn núi lạ đột nhiên đứng sừng sững xem giống như cùng với văn trên
chẳng nối tiếp, thực ra là tổng kết của văn trên. Chính như mấy lần núi,
mấy giòng sông, tầng tầng bao bọc chỗ chỗ có long mạch đi qua đi lại,
chỗ chỗ có huyệt kết. Ðem văn tự ra mà nói thì một mặt nói, một mặt lại
tảo trừ đi hết, đây chính là chẳng trụ pháp tướng, chẳng trụ phi pháp
tướng, thiệt là xứng đáng với văn tự bát nhã. Lúc đọc kinh nầy, lúc
giảng kinh nầy ở văn trên, phải đem văn dưới thu nhiếp vào, ở văn dưới
phải ngó lại văn trên như câu : phàm sở hữu tướng dai thị hư vọng là
cùng với câu văn dưới : nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã v. v.
4 câu kệ, chiếu ưng lẫn nhau, câu : nhược kiến chư tướng phi tướng tắc
kiến như lai, cùng với câu văn dưới : ư pháp bất thuyết đoạn diệt tướng
cũng thông suốt lẫn nhau.
Lại nói rõ khoa “SỞ DĨ” nầy có 4 yếu nghĩa:
1)
Ở trên chỉ lấy hư không thí dụ phước đức chẳng thể tư lường, là để giải
thích rõ cái cớ ưng bất trụ tướng hành bố thí. Ở đây lại nói rõ : nếu
chẳng trụ tướng thì có thể thấy như lai tánh thể, đó là phước đức sở dĩ
như hư không, chẳng thể tư lường vậy.
2) Phía trên nói chẳng
trụ tướng, là đề phòng kẻ chẳng hiểu rõ ngờ là diệt tướng, ở đây lại nói
rõ là chẳng chấp thủ mà không phải là đoạn diệt tướng của nó, chỗ gọi
là : nhược kiến chư tướng phi tướng tắc kiến như lai, đây là cái sở dĩ
của bất trụ tướng.
3) Phía trên nói nhân hành phải chẳng trụ
tướng, là để phòng nghi ngờ chẳng những chúng sanh đều có thân tướng tứ
đại, ngũ uẩn khổ quả, mà ngay đến thế tôn cực quả cũng hiện trượng 6, 8
thước, 32 thân tướng, thế thì làm sao chẳng trụ? Nay nói rõ nó đều chẳng
có thể trụ là theo quả đức mà nói, trụ thì chẳng thể thấy như lai là
theo khổ quả mà nói, vì trụ thì chẳng thể thấy như lai tạng vốn đầy đủ.
Ðây là cái sở dĩ của đãn ưng như sở giáo trụ, và cũng là cái sở dĩ của
ưng bất trụ tướng.
4) Tiểu thừa tánh và tướng chẳng dung hội,
đã lấy âm thanh sắc tướng làm phật, họ tự tu lại rơi vào chấp vô vi. Nay
nói rõ phải chẳng chấp sắc tướng mà thấy như lai, tự tu cũng chẳng nên
nghiêng về không, chỉ chẳng chấp tướng thì sắc tức là không, tướng tức
là tánh, tánh tướng viên dung, vô ngại tự tại, đây chính là cái sở dĩ
thế tôn thuyết pháp bát nhã, khiến được từ tiểu thừa chuyển hướng qua
đại thừa.
SANH TÍN
Tu Bồ Ðề bạch phật ngôn : thế tôn ! Phả hữu chúng sanh đắc văn như thị ngôn thuyết chương cú sanh thực tín phủ ?
Dịch
nghĩa : Tu Bồ Ðề thưa phật rằng : thưa thế tôn, có nhiều chúng sanh
được nghe ngôn thuyết chương cú như thế nầy, sanh ra thực tín chăng ?
Kinh
nầy phàm để câu Tu bồ Ðề bạch phật ngôn là để trịnh trọng việc đó, vì
chỗ nói đều đạo lý rất cần yếu. Phải có nghĩa là nhiều. Như thị là trỏ
văn trên chỉ-thị rõ ràng 1 khoa mà nói. Ngôn thuyết là pháp của văn trên
nói. Chương cú là chẳng phải 1 chương 1 câu. La Thập đại sư tùy thuận
thành ngữ của Trung Quốc, người Hán giải thuyết về kinh học phần nhiều
gọi là chương cú, ấy là trỏ đạo lý chỗ văn trên nói mà nói. Thực tín
chẳng phải là sự tin lờ mờ, hời hợt, tức là có thể hiểu rõ nghĩa chân
thực của ngôn thuyết chương cú như thế. Chỗ hỏi nầy của Tu Bồ Ðề là chú
trọng ở thực tín, tức là khai thị chúng ta đối với ngôn thuyết chương cú
như thế ắt phải sanh thực tín thì mới được. Ở trên chỗ nói của thế tôn
rất là sâu, hết thảy chúng sanh, kẻ nào nghe được đã đành là sanh tín,
nhưng có thể sanh thực tín có nhiều chăng? Hay không nhiều? Sợ chẳng có
nhiều, vì đạo lý sâu như thế, kẻ sanh thực tín, nếu không có thượng căn
lợi trí thì chẳng thể làm nổi. Nhưng thứ căn khí nầy thì chẳng thấy
nhiều, cứu cánh phải là thượng căn lợi trí ư? Hay chẳng cần phải là
thượng căn lợi trí ư?
Phật cáo Tu Bồ Ðề ! Mạc tác thị thuyết,
Như lai diệt hậu, hậu ngũ bách tuế, hữu trì giới tu phước giả, ư thử
chương cú, năng sanh tín tâm, dĩ thử vi thực.
Dịch nghĩa : Phật
bảo Tu Bồ Ðề : đừng làm lời nói nầy, sau khi như lai diệt độ, 500 năm
sau, có kẻ trì giới tu phước, ở chương cú nầy có thể sanh lòng tin, lấy
đây làm thực.
Kẻ kết tập kinh để câu : phật cáo Tu Bồ Ðề là
hiển thị ý chỗ nói nầy là trọng yếu. Một câu : mạc tác thị thuyết, thế
tôn bịt ngay miệng Tu Bồ Ðề lại, khiến ông ta đừng nói lời nói đó. Chẳng
những hiện tại đại chúng có thể sanh thực tín, ngay đến sau khi như lai
diệt độ đến sau 500 năm, có kẻ có thể trì giới tu phước, liền ở chương
cú nầy có thể sanh tín tâm, còn kẻ khác thì chẳng thể sanh tín tâm. Chữ
thử trong câu dĩ thử nầy cũng là trỏ ngôn thuyết chương cú. Vi thực : là
nói có thể hiểu rõ đạo lý kinh nầy, từ đó dụng công tu hành nên có thể
sanh tín tâm, toàn nhờ cậy ngôn thuyết chương cú nầy làm thực. Xưa nay
bao nhiêu đại văn nhân xem qua Ðại Tạng Kinh chẳng chỉ một lần, hỏi đến
sự tu hành của họ thì không có một chút gì, tức là phạm vào bịnh chẳng
lấy ngôn thuyết chương cú làm thực. Câu dĩ thử vi thực chính là để trả
lời câu hỏi : sanh thực tín phủ của Tu Bồ Ðề. Chỗ hỏi của Tu Bồ Ðề một
là khiến người ta phải sanh thực tín, một là lo đạo lý rất sâu, nếu
chẳng phải là người có đại căn thì chẳng thể thực tín, dụng ý cũng là
đúng.
Nhưng tại sao phật lại bịt miệng ông ta lại? Chỗ nầy gồm
có 3 yếu nghĩa, theo văn dưới có thể xem thấy : 1) là chẳng thể coi rẻ
chúng sanh, sau 500 năm còn có người, huống chi hiện tại? 2) Chẳng thể
ngăn trở thiện niệm của người ta, khiến sanh ra tâm thoái lui, xem văn
dưới câu : ư vô lượng thiên vạn phật sở chủng chư thiện căn, có thể
thấy. 3) Chẳng ắt phải thượng căn lợi trí, chỉ cần 2 hạng người trì
giới, tu phước, thì liền có thể sanh tín.
Nghĩa thứ nhứt thứ
nhì là từ nghĩa thứ 3 sanh ra, vì 2 hạng người trì giới tu phước, trí
tuệ đều chẳng thấy cao. Trì giới tu phước đều là cầu phước báo, họ đối
với pháp môn rất sâu nầy nguyên có ý thoái lui, co rút lại. Nên phật răn
rằng : mạc tác thị thuyết. Ở trên còn là lời nói thô thiển, trong nầy
lại còn có thâm ý. Một lời : mạc tác thị thuyết, chính là đối với người
hoằng dương đại thừa phật pháp mà nói, chẳng những đối với lúc bấy giờ,
lại gồm cả đối với sau nầy những người hoằng dương đại thừa phật pháp mà
nói. Chẳng những răn Tu Bồ Ðề chẳng thể nói lời nói nầy, chúng ta hiện
nay cũng chẳng thể nói lời nói nầy. Bổn ý của phật là phải hết sức hoằng
dương pháp môn bát nhã. Kinh nầy là Tu Bồ Ðề khải thỉnh, 8 hội trước
ông ta còn thay phật tuyên thuyết, thì có thể thấy Tu Bồ Ðề là người
hoằng dương bát nhã. Văn dưới nhiều lần nói : có kẻ nào thọ trì đọc
tụng, vì người khác nói, thì hy vọng hoằng dương bát nhã của phật có thể
thấy ở đây. Nếu tác thị thuyết, há là bổn ý hoằng dương ư? Nhưng hoằng
dương bát nhã thiệt chẳng dễ gì, như bực cổ đức nước Trung Hoa từ nhà
Tống đến nay, thấy pháp môn bát nhã khó tu, nên đều chẳng muốn giảng,
cho là chúng sanh nghiệp sâu chướng nặng, có bao nhiêu thứ chấp tướng,
chẳng dễ gì lãnh hội. Lại sợ người ta nghe pháp môn nầy trái lại rơi vào
cái không nghiêng lệch, thậm chí thành ra ác thủ không nên chẳng thà
chẳng giảng. Thế tôn sớm đã thấy chỗ đó, nên mới đem lời : mạc tác thị
thuyết ra để răn. Giảng bát nhã sở dĩ rơi vào các bịnh không nghiêng
lệch, là kẻ giảng chẳng khéo hoằng dương, không phải là lỗi của kẻ nghe
pháp. Phải biết, bát nhã chính là nòi giống của phật.
Kinh nầy
nói : hết thảy chư phật và a nậu đa la tam miệu tam bồ đề của chư phật
đều từ kinh nầy ra. Nếu chẳng giảng thì đạo lý của bát nhã vĩnh viễn
chẳng thể tỏ rõ, há chẳng phải là dứt nòi giống của phật hay sao? Nên
chẳng thể nào không hết sức hoằng dương, văn dưới sở dĩ có câu : hạ đảm
như lai tam miệu tam bồ đề, là vậy. Các bực đại đức đời gần đây phần
nhiều chẳng giảng bát nhã, mà giảng tam-đế viên dung, thực chẳng dễ gì
hiểu nổi. Phật nói tam đế ở trên hội Pháp Hoa chính là sau khi đã tuyên
thuyết bát nhã. Nên phật dự bị răn : mạc tác thị thuyết, muốn cho Tu Bồ
Ðề hoằng dương pháp môn nầy, có ý nói nếu ông không hoằng dương thì làm
sao có thể khiến cho người ta hiểu rõ, sanh ra thực tín. Ông chỉ lo rằng
chúng sanh chẳng dễ sanh tín mà quên mất việc lớn hoằng dương bát nhã,
thì sao có thể được ư? Chẳng những như thế, nếu ông không hoằng dương là
ngăn trở thiện niệm của người ta, nên phải hết sức hoằng dương. Nhưng
hoằng dương nếu chẳng thận trọng thì cũng chẳng thể được. Phật giảng bát
nhã đã là ở lúc tuổi già, lúc phật mới thành đạo trước nói kinh Hoa
Nghiêm. Vì trong hiền-kiềp. Thích Ca Mâu Ni đã là vị phật thứ 4, cách
Phật lâu đời, chẳng thể đem cảnh giới của Phật nói ra hoàn toàn đầy đủ.
Thế nên liền quay lại giảng kinh A-Hàm, là khiến người ta tu hành một
cách thực tiễn. Ðến lúc căn cơ của người ta lần lần thuần thục, liền
giảng kinh Phương Ðẳng, đem lý của đại thừa thuyết minh, khiến người ta
từ tiểu thừa hướng về đại thừa, rồi kế tiếp đó mới giảng bát nhã. Có thể
thấy pháp môn nầy phải thận trọng, đã phải hoằng dương, lại phải thận
trọng, nên ắt phải lựa chọn căn cơ trì giới tu phước.
Ý phật
muốn nói : ông sợ người ta chẳng dễ sanh thực tín, lại lo kẻ sanh thực
tín chẳng được nhiều, ông chỉ cần y theo chỗ ta nói mà hoằng dương, từ
trên thực tiễn dụng công, thì kẻ nghe chẳng đến nổi lầm lẫn. Chỉ xem
phương pháp của kẻ hoằng dương ra sao, lo gì kẻ nghe chẳng sanh thực tín
ư? Câu : mạc tác thị thuyết rất là cần yếu, kẻ hoằng dương phật pháp
đời vị lai đều phải như thế. Như lai diệt hậu : diệt là diệt độ. Diệt độ
có 2 nghĩa: nghĩa căn bản là trỏ tâm bất sanh diệt, chỗ gọi là: sanh
diệt diệt hết, tịch diệt hiện ra, gọi đó là niết bàn. Sau nầy mượn dùng,
phàm hết thảy phật hay bồ tát viên tịch cũng gọi là nhập diệt. Diệt hậu
là trỏ sau khi hết thảy tướng sanh diệt của phật đã diệt. Ðó là ứng hóa
thân diệt, như lai là pháp thân, thì vì cớ gì lại nói diệt? Ðây có đạo
lý tinh mật sâu xa. Phật muốn chúng ta hiểu rõ, nên đặc biệt nói như lai
diệt là có 3 yếu nghĩa:
1) Báo thân và ứng hóa thân đều là
tướng, diệt là sự diệt của báo thân, ứng thân, như sự diệt của thế tôn
mặc áo ăn cơm, thị hiện tướng phàm phu, là ứng hóa thân diệt. Báo thân
cũng từ pháp thân hiển hiện ra, đã có hiển hiện, liền có nhập diệt, đây
chẳng nói ứng thân, báo thân diệt, là chỉ-thị rõ ràng như lai chẳng lại
hiện trở lại ứng thân báo thân nữa, muốn cho chúng ta cảnh giác. Phải
biết ứng, báo thân như lai hiện ra vẫn còn là sanh diệt, tức là: phàm sở
hữu tướng đều là hư vọng, huống chi cái thân túi da thúi của chúng ta
ư? Lại thân tướng của chúng ta, sanh ra chẳng biết tại sao nó sanh ra,
diệt đi chẳng biết tại sao nó diệt đi, hoàn toàn bị nghiệp lực dắt dẫn,
tự mình chẳng thể làm chủ. Phật thì chẳng như thế, tuy ứng thân, báo
thân là sanh diệt, mà như lai tự mình làm chủ, muốn sanh thì sanh, muốn
diệt thì diệt. Chúng ta đều có như lai tạng, nên mau mau quay trở về bổn
lai diện mục của chúng ta.
2) Chứng được bổn tánh gọi là như
lai, nhưng pháp thân vô tướng làm sao có thể thấy được? Cái có thể thấy
được là cái tướng, ngay đến chỗ thấy của bồ tát là báo thân của pháp
thân hiện ra, chỗ thấy của phàm phu là ứng, hóa thân của pháp thân hiện
ra. Nhưng nếu có thể thấy cái phi tướng của ứng thân, báo thân thì liền
thấy như lai. Nên muốn thấy tánh là từ phi tướng mà thấy, chẳng thể vào ở
đoạn diệt. Cho nên phật cảnh cáo chúng ta, thấy như lai đã chẳng dễ gì,
phải dũng mãnh tinh tiến để mà chứng được. Chúng ta muốn thấy như lai
phải từ trên TÁNH mà tìm cầu. Nói đến tánh thì ta và như lai, tự và tha
chẳng khác, có thể ở trên tánh-thể của tự mình hiểu thấu một chút, tức
là cái cơ thấy như lai.
Báo thân ứng thân của như lai vẫn là
nhập diệt, vẫn là tướng, nhưng chẳng phải là vĩnh viễn, diệt, còn phải
thị hiện. Phải biết báo thân ứng thân vẫn là cái bóng của pháp thân.
Chúng ta biết pháp thân bất diệt, tức là báo thân ứng thân lại có cơ hội
thị hiện. Từ xưa đến nay có người thấy kim thân cao 1 trượng 6, có kẻ
thấy thân phật lớn như núi Tu Di, tức là báo thân phật mà bồ tát thấy
được. Lại như Trí Giả đại sư chú kinh Pháp Hoa xong, tự mình thấy trên
hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa giải tán, đều là chứng được như thế.
Nên
nghĩa thứ nhứt nói như lai chẳng thị hiện trở lại ứng thân báo thân là
khiến chúng ta cảnh giác. Nghĩa thứ nhì là khiến người ta biết: muốn
thấy như lai thì phải ở nơi tự thân mình mà dụng công. Nghĩa thứ ba nói
như lai bất diệt, chỉ cần phải dụng công thì còn có thể thấy được.
Câu
hậu ngũ bách tuế, xưa nay có 3 thứ giải thích: 1) đối với sau khi như
lai diệt độ mà nói, tức là trỏ 500 năm sau khi như lai nhập diệt. 2) Lấy
sau khi như lai nhập diệt 500 năm thứ nhứt làm trước, 500 năm thứ nhì
làm giữa, 500 năm thứ ba làm SAU. 3) Nói sau khi như lai diệt độ 5 cái
500 năm, vì chính pháp, tượng pháp mỗi cái 1.000 năm, mạt pháp 10.000
năm, đây chánh là trỏ 500 năm đầu của mạt pháp. Sau khi như lai diệt độ,
chánh pháp 1.000 năm, 500 năm đầu giải thoát kiên cố, 500 năm thứ nhì
thiền định kiên cố. Chỗ gọi là giải thoát tức là chứng được bát nhã ba
la mật, độ hết thảy khổ ách. Kiên cố có nghĩa là căn khí của chúng sanh
vững chắc, 500 năm thứ nhì căn khí hơi khác, nhưng có thể trụ ở thiền
định. Cái giải thoát, thiền định nầy tức là định tuệ, nên gọi là chánh
pháp. Ðến 500 năm đầu của khoảng 1.000 năm tượng pháp, tuy cũng có kẻ
giải thoát thiền định, nhưng đã rất ít, chỉ chuyên việc giảng lý, chẳng
chú trọng thực hành, nên gọi là đa văn, kiên cố. Phải biết, xem kinh chỗ
trọng yếu là ở làm sự quán, chỉ làm sự nghe nhiều, thì như đếm châu báu
của người khác, tự mình chẳng có một đồng nào, lại gọi là nói ăn mà
chẳng no. Thế tôn bảo A Nan: nhiều kiếp trước ông cùng tu với tôi, đến
nay ông vẫn là thị giả của phật, bịnh của ông là chỗ chỉ chuyên việc
nghe nhiều. Ðến 500 năm thứ nhì dẫu kẻ nghe nhiều cũng rất ít, chúng
sanh chỉ biết sửa cất chùa, xây tháp, nên gọi là tháp tự kiên cố. Một
ngàn năm nầy hình thức của phật pháp là ưa chuộng những cái đó, đã mất
đi bổn ý của phật, chẳng qua chỉ là tượng, tướng mà thôi, nên gọi là
tượng pháp. Ðến 500 năm đầu của thời kỳ mạt pháp, thì phật pháp lại càng
suy sụp, chúng sanh chỉ biết đấu tranh, tức là PHẤN ÐẤU của danh từ
mới. Phật pháp của nước Ấn Ðộ sớm bị diệt vong nguyên nhân là ở thời kỳ
tượng pháp mà đã có nhiều đấu tranh. Nước Trung Hoa cũng vậy, ở khoảng
giữa nhà Ðường, Thiền tông Tịnh-Ðộ tông, Pháp-Tướng tông đều nổi dậy sự
tranh dành môn hộ, nên gọi là đấu tranh kiên cố. Kinh nầy nói hậu ngũ
bách tuế chính là trỏ thời kỳ nầy. Hiện nay thì lại chính là ở sau 500
năm nữa của mạt pháp. Nên Phật nói : ở thời kỳ nầy nếu có người nào có
thể xem kinh chỉ là một số rất ít vậy.
Dĩ thử vi thực : chính là kẻ có thể trì giới tu phước, đây có 4 nghĩa :
1)
Bát nhã là chánh trí tuệ, tuệ do định sanh ra, định do giới sanh ra,
nên muốn nổi dậy bát nhã chánh trí, thì phải bắt đầu từ giới mà dụng
công, nếu không thì chẳng thể từ đâu mà sanh ra định, sanh ra trí được.
Phàm phu có thể trì giới thì mới có thể lìa nhiễm ô ở ngoài, nếu chẳng
trì giới thì tâm chẳng thanh tịnh, chẳng thể nhiếp tâm một chỗ, chẳng
thể làm sự quán, thì làm sao có thể sanh ra bát nhã? Nếu chẳng từ chỗ
trì giới mà muốn sanh ra trí, thì rơi vào ác thủ không, cũng chẳng thể
biết. Nên phước tuệ song tu như xe có 2 bánh, thiếu 1 bánh chẳng thể
được, kẻ tu hành có thể như thế thì mới có thể thành lưỡng túc tôn. Vả
lại phước và tuệ 2 cái phải bình đẳng, chẳng thể 1 cái khinh, 1 cái
trọng. Có người nói : chỉ cần trí tuệ, biết đâu rằng trọng tuệ khinh
phước, tức là khuyết thiếu đại bi, chẳng thể nào được ! Nên chư phật dạy
người ta phát tâm đại bi, kinh nầy mở miệng liền nói bố thí, đủ thấy tu
tuệ thì chẳng thể nào mà không tu phước. Nếu không tu phước thì cùng
với chúng sanh vô duyên, chẳng những vô duyên ngay đến tướng hảo của kẻ
tu hành cũng chẳng thể đầy đủ. Kẻ hoằng dương phật pháp, tướng hảo cũng
quan hệ trọng yếu, nên trong kinh phật chỗ nào cũng nói tướng hảo của
phật bồ tát. Tướng của La Hán chưa được như phật là có lý. Trên nói sau
khi chứng được thể thì phải hiện ra tướng, cũng đều là chúng sanh, nên
chúng sanh thấy kẻ có tướng hảo thì họ dễ thân cận. Pháp môn bát nhã là
khiến cho người ta thành phật, trì giới tu phước là căn cơ để thành
phật.
2) Phải biết, người trì giới ắt ít ham muốn, tự tri túc,
tham dục so sánh ít hơn. Hạng người nầy tu bát nhã mới không sanh ra
bịnh. Vì tu bát nhã thì phải ly tướng, kẻ tham dục nhiều quyết chẳng thể
nào ly được tướng. Kẻ tu phước ắt tin sâu nhân quả, người đời muốn được
danh được lợi thì phải noi theo thế pháp mà cầu, còn hạng người nầy thì
chiếu theo phật pháp để cầu, nên kẻ tin sâu nhân quả quyết chẳng đến
nỗi nghiêng về tướng đoạn diệt. Chẳng trụ ở tướng, thì kẻ trì giới rất
thích nghi, chẳng vào đoạn diệt tướng, thì kẻ tu phước rất thích nghi.
Như kẻ nhiều tham dục một khi nghe bát nhã thì sanh ra nhiều bịnh. Có kẻ
hiểu chẳng trụ tướng một cách quanh co, cho là làm điều ác cũng chẳng
hề gì, buông lời cao đàm hùng luận, không cái gì là chẳng làm, trái lại
họ cho là được sâu lý bát nhã, thậm chí sát sanh, dâm loạn mà đều cho là
chẳng trụ tướng. Nên phật chẳng lấy thứ người nầy, ắt lựa người ít ham
muốn, tự tri túc.
3) Văn trước nói phát tâm hành bát nhã thì
phải hành bố thí, bố thí tức là xả, 2 thứ người nầy có thể xả được, là
vì trì giới có thể xả dục vọng của thế gian, tu phước có thể xả tài sản,
tinh thần của mình để làm tài thí, pháp thí, vô úy thí cho người khác,
đây chính là hợp với đạo lý bát nhã.
4) Tu pháp môn nầy phải
trước đem 1 môn phi pháp tướng bịt lại, trì giới, tu phước chính là bít
phi pháp tướng lại. Chỉ phải lại ở trên pháp tướng quán chiếu lâu ngày, ở
nơi pháp tướng chẳng chấp thủ, thì liền có thể thành tựu. Nên phật lựa 2
thứ người nầy, có thể thấy rằng trì giới tu phước ấy là trỏ ngay người
học pháp môn bát nhã. Lại cũng tức là đối với chúng ta nói : nếu muốn
học bát nhã thì phải kiêng cữ các điều ác, làm hết các điều lành. Không
làm ác là giới, làm lành là phước, thực hành một cách thiết thực, đem
nền móng xây dựng cho vững chắc thì mới có thể được. Hai thứ người này
là người hết sức cẩn thận những điều nhỏ nhặt, lại có thể buông xả hết
thảy, nếu không thì chẳng thể học bát nhã. Có thể sanh tín tâm, là vì
tín là cửa để vào đạo, ắt phải thực hành như thế mới có thể vào cửa đạo,
nếu không thì chỉ nói mà chơi, chẳng thể vào cửa đạo. Có người nói :
trì giới tu phước là căn bản để tu bát nhã. Trước phải bít cái không
nghiêng lệch lại, đã đành là như thế, nhưng vẫn còn có chỗ nghi ngờ.
Trong kinh rõ ràng nói lấy đây làm thực, 2 thứ người nầy rốt cuộc trí
thức chẳng đủ, thì làm sao có thể hiểu rõ yếu nghĩa chân thực của kinh
nầy ư? Ðây có nghĩa lý rất cần yếu. Tạo sao vậy? Là vì họ được phật gia
hộ. Thứ người nầy là căn cơ mà phật đã lựa định, nếu có thể y theo lời
phật dạy trì giới tu phước mà thực hành, ắt được phật gia hộ, liền có
thể lấy đây làm thực. Kẻ học phật nhứt định phải đi đứng nằm ngồi thời
thời, khắc khắc cầu tam bảo gia hộ, chẳng kể công phu tu pháp môn nào
đều phải như thế. Ngay lúc giảng kinh cũng phải đem tri kiến bình thường
liệng ra một bên, cầu tam bảo gia hộ, nếu lìa quan niệm nầy tức là chưa
nổi dậy tín tâm. Ngay đến niệm phật, trong lúc niệm nếu chẳng đem tri
kiến lúc bình thường liệng bỏ đi hết, trong tâm không có một cái gì, chỉ
chuyên ý cầu Di Ðà gia hộ thì chẳng thể được. Nhưng lại có người cho
rằng nếu làm như thế thì bắt chước kẻ ngu phu ngu phụ cũng được rồi, tại
sao lại còn nói phải học kinh điển đại thừa ư?
Ðây có 2 nghĩa:
1) Hiểu rõ kinh điển thì công phu càng thêm thù thắng, đem đạo lý chứa
trong 8 thức điền, một khi tương ứng thì tam minh, lục thông có thể phát
sanh ra trong một lúc. 2) Quả nhiên thiệt có thể tin, thì nên học tín
tâm kiên định của ngu phu ngu phụ. Khốn nỗi trên thế gian nầy người bực
trung thì nhiều, họ chẳng chịu ở bực ngu, nên nhứt định phải khiến cho
họ hiểu lý.
Bực cổ đức viết sách, mở đầu phần nhiều có lời nói :
cầu tam bảo gia hộ. Bực đại bồ tát làm luận, trước bài luận cũng có câu
: vì cớ thừa Phật oai thần lực. Ðây là chân thực chẳng hư, chẳng phải
là tánh ỷ lại, cũng chẳng phải là mê tín. Nếu không có thứ quan niệm nầy
thì hãy còn có một cái ngã kiến tồn tại, đem tánh linh của mình che lấp
đi, thì viết sách làm luận, sao có thể triệt để. Nên nếu chẳng đem ngã
kiến hoàn toàn liệng ra một bên, thì chẳng thể được. Thế gian pháp như
Khổng Tử, động nói một câu gì, thì bèn qui ở trời, cũng là được ý nầy.
Học giả từ đời Hán trở về sau đều chẳng biết được lý nầy.
Ðương
tri thị nhân bất ư nhứt phật, nhị phật, tam tứ ngũ phật nhi chủng thiện
căn, dĩ ư vô lượng thiên vạn phật sở chủng chư thiện căn.
Dịch
nghĩa : Phải biết người nầy chẳng phải ở một phật, hai phật, ba bốn năm
phật mà trồng căn lành, đã ở chỗ vô lượng ngàn muôn phật trồng các căn
lành.
Khoa trên trì giới tu phước đến câu dĩ thử vi thực, khoa
nầy chính là làm chú giải cho khoa trên. Thị nhân : là trỏ kẻ trì giới
tu phước, trỏ rõ người nầy mà chẳng nói lũ người nầy, thì có thể thấy
trì giới tu phước tuy nói là 2 việc, thực ra là một việc, 2 việc đều
chẳng thể thiếu. Nhứt phật đến nhị phật thời gian đã hết sức dài xa,
chẳng biết bao nhiêu kiếp, huống chi tam tứ ngũ phật, có thể thấy người
nầy thiện căn trồng được hết sức xa, mà thế tôn lại nói còn chẳng chỉ
ngừng ở đó, mà đã ở thiên vạn phật sở chủng chư thiện căn, vả ở trên
thiên vạn lại thêm 2 chữ vô lượng, thì thời gian lâu dài là bất khả
thuyết, bất khả thuyết. Người nầy chẳng những tu 1 thiện mà tu cả chư
thiện. Chư thiện là trỏ lục độ vạn hạnh mà nói, có thể thấy người nầy ở
bát nhã đã tu được hết sức lâu dài. Chủng thiện căn chính là đối trì
giới tu phước mà nói. Chủng thiện căn của người nầy đã hết sức sâu, là
căn của chư thiện căn hợp thành, thiện là chỗ gọi : khó làm nổi, rất
đáng qúi. Thế tôn ở vô lượng sự đời quá khứ đều biết hết, nên thuyết nầy
là chân thực chẳng hư.
Ðem con mắt phàm phu của chúng ta ra mà
xem, thì người nầy trì giới tu phước đã hợp với sự vi diệu của đạo, tại
sao? Văn trên thế tôn đối Tu Bồ Ðề, mở miệng ra nói: sở hữu nhứt thiết
chúng sanh chi loại dai linh nhập vô dư niết bàn nhi diệt độ chi, như
thị diệt độ vô lượng vô số, vô biên chúng sanh thực vô chúng sanh đắc
diệt độ giả, đây là phát đại tâm thì trước phải độ chúng sanh, tức là
chẳng rơi vào bên không, thứ đến vô chúng sanh đắc diệt độ là chẳng trụ ở
tướng. Thứ nhì nói đại hành ưng vô sở trụ, trước nói chẳng trụ tướng,
sau nói hành ư bố thí. Nếu trụ mà chẳng hành tức là rơi vào bên không.
Hai đoạn văn nầy thế tôn đinh ninh răn bảo : ắt chẳng rơi vào bên không
thì mới có thể phát tâm tu hành. Người nầy hạ thủ liền trì giới tu phước
há chẳng phải cùng với chỗ nói của thế tôn trước chẳng rơi vào bên
không ám hợp ư? Lại trong phát khởi tự, thế tôn muốn nói bát nhã thì
trước thị hiện phàm phu, mặc áo cầm bình bát v. v ... tức là trì giới,
lại khiến cho chúng sanh sanh ra tâm hổ thẹn tức là tu phước. Người nầy
trì giới tu phước, há chẳng phải cùng với bổn ý của thế tôn ám hợp ư? Có
thể thấy rằng : nếu chẳng phải kẻ từ lâu đời đến nay đã chủng thiện căn
thì chẳng có thể ám hợp như thế với sự vi diệu của đạo.
Xem
câu nói của thế tôn giống như là hết sức tán thán người nầy, thực ra là
khuyến khích chúng ta, khiến chúng ta nghe ngôn thuyết chương cú nầy
liền phải thực hành, nên đối với Tu Bồ Ðề có lời răn: mạc tác thị
thuyết. Nghĩa là : nếu theo như lời nói của Tu Bồ Ðề, thì người đời sau
ắt cho là bát nhã khó tu, đến nỗi suy cao thánh cảnh. Kỳ thực ra thì
không khó, tức là bắt đầu thực hành ngay ở trì giới tu phước, đây là đại
từ đại bi của thế tôn. Tu Bồ Ðề há chẳng biết phát tâm tu hành thì phải
chẳng rơi vào bên không, chẳng qua ông ta thay chúng sanh thỉnh vấn mà
thôi, đó cũng là đại từ đại bi vậy. Lũ khổ não chúng sanh chúng ta ngày
nay được nghe ngôn thuyết chương cú này cũng là hi hữu, cũng là kẻ ở vô
lượng thiên vạn phật sở chủng chư thiện căn. Nếu chẳng như thế thì ở bát
nhã thậm thâm vi diệu chẳng thể được nghe, ngay đến nghe cũng giống như
chẳng nghe. Chúng ta đã ở thời kỳ lại sau 500 năm, đấu tranh lại càng
kiên cố, rốt cuộc có thể đến nơi đây đọc tụng thọ trì, ắt là kẻ chẳng
muốn cạnh tranh, ít có ham muốn, tri túc, có tư cách trì giới, thế thì
chúng ta chẳng nên tự khinh rẻ mình một cách tầm bậy, kẻ nào đã trì giới
lại càng nên dụng công, lại cầu kiên cố, kẻ nào chưa trì giới nên chiếu
lời huyền ký của phật mà trì, thì chư phật ắt đại hoan hỉ, cho là trồng
được thiện căn, nảy mầm ở đây. Chúng ta có tư cách nầy, lại có thế tôn
gia hộ, sao chẳng tự mình gắng sức ư ? Dĩ thử vi thực, đã hiểu rõ nghĩa
chân thực, lại có thể tu hành, trong lục độ chẳng kể độ nào đều qui kết
về tu phước. Bố thí chẳng cần nhứt định phải phá sản, chỉ lượng theo sức
mình, xả một số tài sản làm việc ích lợi cho người khác tức là tài thí.
Vì người khác thuyết pháp, hoặc tống người khác kinh điển tức là pháp
thí, cũng chẳng phải là việc khó thực hành. Lại khuyên người ta học
phật, ắt phải khuyên người ta trì giới tu phước, thấy kẻ không trì giới
thì lại càng phải khuyên nhủ họ. Lại thấy kẻ đã trì giới mà còn chưa
biết bát nhã, lại càng phải khuyên họ, khiến họ hiểu rõ bát nhã, đây là
phước đức lớn chẳng thể tư lường. Tại sao? Vì là thiệu long phật chủng.
Lại phải khuyên người ta mau mau tu tập tịnh độ, cầu sanh tây phương.
Phải biết, bát nhã và tịnh độ quan hệ rất sâu. Trước đã nói kẻ học bát
nhã, phải trước chẳng trụ tướng. Chẳng trụ tướng mới có thể ở ngay văn
tự bát nhã khởi quán chiếu, quán chiếu công sâu mà hiện thực tướng bát
nhã, đó tức là TÁNH. Tu hành hạ thủ trước phải quán chiếu, sau hết phải
hiện thực tướng, như thế rất là chẳng dễ gì! Ở trong ta bà thế giới nầy
có bao nhiêu thứ ác nó dẫn dụ, thì làm sao có thể hiện ngay thực tướng?
Nên đại bồ tát tu hành phát nguyện tu 3 a tăng kỳ kiếp, chẳng biết trải
qua bao nhiêu là luân hồi. Vị nầy thiện căn đã đành là dầy, nhưng đến
thời gian lâu dài ngàn vạn phật, vô lượng kiếp mà vẫn còn là bực có thể
sanh tín tâm, thì có thể thấy là nghiệp chướng vẫn còn sâu nặng; nên ắt
phải phát nguyện cầu sanh tây phương thì mới có thể được.
Lại
như văn trên phát đại tâm, sở hữu nhứt thiết chúng sanh chi loại dai
linh nhập vô dư niết bàn nhi diệt độ chi, thứ độ sanh nầy, trên đến phi
phi tưởng thiên, dưới đến địa ngục, chúng ta tuy phát đại tâm này, mà
làm sao có thể độ được? Chỗ nầy thực khiến chúng ta trước phải quán
chiếu cái lý duyên sanh bình đẳng. Muốn mãn nguyện nầy, nếu trước chẳng
chứng tánh thì chẳng thể được, mà muốn chứng tánh thì chẳng thể nào
chẳng cầu sanh tây phương. Sanh tây chẳng phải vì tự liễu, mà nguyện vì
độ chúng sanh, thì mới cùng với bổn nguyện của Di Ðà hợp nhau, vì cớ mãn
đại nguyện thì có thể chứng tánh. Nên Phổ Hiền Hành Nguyện Phẩm nói :
“Hư không vô tận, thế giới vô tận, chúng sanh vô tận, thì nguyện của ta
cũng vô tận”. Ðây chẳng phải cùng với nguyện quảng độ chúng sanh ở kinh
nầy hoàn toàn giống nhau ư?
Như thế có thể thấy pháp môn bát
nhã cùng với pháp môn tịnh độ là một, mà chẳng phải hai, ắt phải có đại
nguyện nầy thì Di Ðà mới lại tiếp dẫn vãng sanh, mà chẳng phải là tự
liễu. Có pháp môn vãng sanh thì mới có thể thành tựu pháp môn bát nhã.
Người nầy trì giới tu phước cũng hết sức chẳng dễ gì, đã thân cận trải
qua bao nhiêu phật, chỉ trồng căn lành. Có thể thấy thành tựu pháp môn
bát nhã phải thân cận Di Ðà, thì thực tướng bát nhã mới có thể hiện ra.
Vĩnh Minh thiền sư nói: “chỉ được thấy Di Ðà, lo gì chẳng khai ngộ”, nên
kẻ học bát nhã phải mau mau tu pháp môn niệm phật. Kẻ tu pháp môn tịnh
độ cũng phải mau mau tu pháp môn bát nhã. Nếu chẳng hiểu rõ đệ nhứt
nghĩa nầy, mà chỉ niệm phật, sợ rằng chỉ sanh vào hạ phẩm. Nên kẻ đề
xướng pháp môn tịnh độ chẳng thể chỉ nói niệm phật mà thôi. Phải biết,
tu tịnh độ chính vì mãn đại nguyện, chỉ niệm phật thôi, sanh ở hạ phẩm
thì chẳng thể mãn đại nguyện. Câu kệ của Vĩnh Minh thiền sư : “không
thiền có tịnh độ, muôn người tu muôn người đi, chỉ được thấy Di Ðà, lo
gì chẳng khai ngộ”. Câu kệ nầy chỉ có thể khuyên người ngu, chẳng thể
khuyên người lợi căn. Người đời bỏ qua câu “được thấy” chỉ chú ý câu
“muôn người tu muôn người đi” cho là chẳng ắt cần y chiếu sự tu quán của
kinh Quán Vô Lượng Thọ, đây là sai lầm. Trong Quán Vô Lượng Thọ kinh
nói rõ đệ nhứt nghĩa chính là bát nhã, nếu chỉ sanh hạ phẩm thì chẳng
thể thấy phật.
Văn thị chương cú, nãi chí nhứt niệm sanh tịnh
tín giả, Tu Bồ Ðề, như lai tất tri, tất kiến, thị chư chúng sanh đắc như
thị vô lượng phước đức.
Dịch nghĩa : Nghe chương cú nầy cho
đến kẻ một niệm sanh tịnh tín. Tu Bồ Ðề ơi, như lai biết hết, thấy hết,
các chúng sanh nầy được vô lượng phước đức như thế.
Văn thị
chương cú, là nhứt định trỏ người trì giới tu phước. Chữ văn nầy tương
ứng với chữ văn trong câu “đắc văn như thị ngôn thuyết chương cú” ở văn
trên. Nghe được ngôn thuyết, chương cú như thế, lấy đây làm thực, thì
mới có thể sanh tín. Hai chữ tịnh tín là trỏ thực tín. Sao gọi là tịnh?
Tức là tín tâm thanh tịnh tắc sanh thực tướng ở văn sau. Chữ tịnh nầy
chẳng phải đối với chữ nhiễm mà nói, mà là cái tịnh tuyệt đối. Không,
hữu 2 bên đều chẳng chấp nên là thực tướng. Nãi chí : là lời nói cao lên
một bực nữa. Sanh tịnh tín : là kẻ có tịnh niệm nối tiếp nhau, hay kẻ
có nhiều tịnh niệm, hạn độ tối thiểu là một niệm sanh tịnh tín mà chẳng
có nhiều niệm, lại cũng chẳng niệm niệm nối tiếp nhau. Hai chữ nãi chí
nầy bao quát bao nhiêu người công phu chẳng giống nhau, nên văn dưới gọi
là chư chúng sanh. Nhưng chẳng kể công phu cạn hay sâu, như lai cũng
biết hết, thấy hết.
Nhứt niệm : là khởi tâm động niệm. Sanh là
chỗ ngài Long Thụ nói : hết thảy pháp bất sanh mà bát nhã sanh. Có thể
thấy rằng nếu chẳng mười phần dụng công thì chẳng thể sanh được. Vả một
niệm tương ứng, là gốc của tịnh niệm nối nhau. Tịnh niệm nối nhau là từ
một niệm tương ứng mà tới. Một niệm thanh tịnh nầy không người nào có
thể biết được, chỉ có như lai là có thể biết, có thể thấy. Vì tịnh tâm
không có tướng, chẳng phải nhục nhãn, thiên nhãn chỗ có thể thấy. Nhưng
thuyết nầy còn chẳng phải là nghĩa căn bản, phải biết câu nầy là lời chú
giải của câu : sanh tịnh tín. Như lai : là pháp thân, người nầy một
niệm tương ứng, liền cùng với như lai tâm tâm ấn nhau, ánh sáng ánh sáng
chiếu nhau. Nên như lai biết hết, là biết ở trong tánh, chính là ngộ
triệt phật tánh. Như lai thấy hết là ánh sáng của tánh chiếu ra, chính
là bắt đầu mở phật nhãn. Công phu nầy thật là hiếm có, nên cổ nhân nói :
“một niện tương ứng với một niệm là phật”, đã là phật thì phước đức có
thể suy nghĩ đo lường được ư?.
Hai khoa nầy để chú giải cho câu
: năng sanh tín tâm, dĩ thử vi thực. Bắt đầu từ câu : đương tri thị
nhân, đến câu : dĩ ư vô lượng phật, sở chủng chư thiện căn, là thuyết
minh cái nhân trì giới tu phước. Từ câu : Văn thị chương cú, đến câu :
đắc như thị vô lượng phước đức là thuyết minh cái quả của trì giới tu
phước. Thế tôn hết sức tán thán người nầy chính là khuyến khích chúng ta
phát vô thượng tâm, phát đại nguyện, khởi đại hạnh, mà được vô lượng
phước đức. Lại từ câu : Tu Bồ Ðề mạc tác thị thuyết, đến câu : đắc như
thị vô lượng phước đức, chính là để chú giải khoa trước, trỏ rõ từ đoạn :
ưng như thị hàng phục kỳ tâm, đến tắc kiến như lai. Ðoạn văn trên là
thuyết cái lý, còn ở đây thì đem người nầy ra để chứng thực. Phải biết,
chỉ có người trì giới tu phước mới có thể sanh tín như thế, sanh tịnh
tín như thế, được vô lượng phước đức như thế. Văn nghĩa kinh nầy chỗ nào
cũng ứng với nhau, mạch lạc thông suốt như thế.
Hà dĩ cố ? Thị
chư chúng sanh vô phục ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả
tướng, vô pháp tướng diệc vô phi pháp tướng.
Dịch nghĩa : Vì
cớ gì? các chúng sanh nầy không còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng
chúng sanh, tướng thọ giả, không có pháp tướng, cũng không có phi pháp
tướng.
Ðây là giải thích chính diện cái cớ sanh tín, được
phước. Tại sao có thể sanh tịnh tín? Tại sao có thể được vô lượng phước
đức? Phải là trừ bỏ tâm phân biệt thì mới có thể được, phân biệt đã trừ
thì chánh tín tự nó hiện ra, tức là chỗ Long Thụ nói: hết thảy pháp
chẳng sanh, chỉ bát nhã sanh. Người nầy tuy chưa thể bát nhã hoàn toàn
hiện ra, nhưng đã sanh tịnh tín, cùng với như lai tâm tâm ấn nhau, ánh
sáng ánh sáng chiếu nhau, liền được vô lượng phước đức, đây chính là
chẳng dễ gì. Bởi phân biệt vọng tưởng đã trừ, bèn có thể chẳng còn ngã
tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Câu thị chư chúng
sanh bao gồm rất rộng. Văn trên câu nhất niệm sanh tịnh tín giả, là trỏ
kẻ trình độ rất thấp mà nói. Lại còn có kẻ nhiều niệm ứng nhau, tịnh
niệm nối tiếp nhau, nên mới nói : chư chúng sanh. Chữ phục trong câu vô
phục, phải nên chú ý, là nói người nầy ngã chấp đã không, chẳng còn có
trở lại. Hai câu vô pháp tướng là nói người nầy không có pháp chấp.
Bốn
tướng do chấp ngã tướng mà nổi dậy. Kinh phật nói 4 tướng, ý nghĩa rất
nhiều. Nay đem nghĩa nào khế hợp với kinh nầy ra giảng, có 2 nghĩa rộng
và hẹp. Nghĩa hẹp là trỏ chấp sắc thân ngũ uẩn, đây là ngã tướng. Phàm
phu đều mắc bịnh chấp nầy, hết thảy quên đi chẳng được, không những hiện
tại, còn tính đến vị lai, sau khi chết hoặc thăng thiên, hoặc thăng đại
phạm thiên, chỗ gọi là Bổ-Ðặc Gia-La, vì thế nổi dậy bao nhiêu thứ vọng
tưởng, Pháp Tướng tông gọi là biến kế sở chấp. Vị lai và hiện tại là
đối đãi, ở một phương diện đối đãi mà xem là nhân tướng. Từ thân nầy nổi
dậy bao nhiêu thứ thịnh suy khổ vui, là chúng sanh tướng. Lại tính toán
ngũ uẩn sắc thân, mạng căn chẳng dứt là thọ giả tướng. Ðây là ngay trên
ngũ uẩn của tự mình mà tính toán phân biệt bao nhiêu thứ. Nghĩa là rộng
tính toán cái ngã có bao nhiêu thứ phân biệt, đối đãi với ngã là nhân,
chẳng phải một người là chúng sanh, sự tính toán nầy nối tiếp nhau chẳng
dứt là thọ giả. Một khi nổi dậy sự chấp trước, liền có năng chấp, sở
chấp. Năng là ngã, sở là nhân, bao nhiêu thứ phân biệt là chúng sanh
tướng. Năng chấp, sở chấp chẳng dứt là thọ giả tướng. Phải biết, 4 tướng
là từ ngã kiến mở ra. Mở ra là 4 tướng, hợp lại là ngã tướng. Thế tôn
tại sao mở ra mà nói, là có diệu nghĩa ở trong đó. Ngã kiến là phân
biệt, chấp ngã là thức 7, nổi dậy phân biệt là thức thứ 6. Bát nhã là
chánh trí, muốn cho thực tướng bát nhã hiện ra, nếu chẳng đem 2 thức 6, 7
chuyển di đi thì chẳng được. Thức thứ 6, 7 chuyển thì 5 thức trước và
thức thứ 8 cũng đồng thời chuyển. Nên thế tôn nhiều lần nói 4 tướng. Bốn
tướng không, tức là ngã chấp không, lại gọi là nhân không.
Ngã
tướng là từ trên thân mình nổi dậy sự chấp, pháp tướng là từ trên pháp
nổi dậy sự chấp, vô pháp tướng là pháp chấp không, cũng gọi là pháp
không. Phi pháp tức là vô, tức là không, diệc vô phi pháp tướng là cái
không cũng không, lại gọi là trùng-không, lại gọi là câu-không. Bát nhã
hiển lý tam không, lấy khiển trừ chấp làm chủ. Sau khi nhân ngã không mà
lại chấp pháp không, vẫn là chẳng thể được, nên ắt phải trùng trùng
khiển nó, ngay cả cái không cũng phải không luôn, người xưa gọi là cái
không tận cùng đến đáy. Cái không nầy khác xa với cái không nghiêng
lệch, nên gọi là thắng-nghĩa-không, lại gọi là đệ-nhứt-nghĩa-không. Ðây
là giải thích khoa trên: đã sanh tịnh tín liền có thể đến tam không. Tam
không bao gồm rất nhiều nghĩa lý, nó rộng vô lượng, nó sâu không đáy.
Phổ Hiền hành nguyện chỗ gọi là thậm thâm giáo hải. Y theo tam không mà
nói, thì không có 4 tướng là ngã không, không có pháp tướng là pháp
không, không có phi pháp tướng là không không. Thực ra tức là trừ 2 chấp
ngã, pháp, cho nên cái chấp vô pháp tướng mà không, đó là trùng thứ
nhứt, cái chấp diệc vô phi pháp tướng cũng không, đó là trùng thứ nhì.
Hai cái hợp lại đều là pháp chấp, cùng với văn trên 4 tướng tức là ngã
pháp 2 chấp đối nhau mà nói. Người nầy sanh tịnh tín là ngã pháp 2 chấp
điều khiển. Nhưng ngã pháp 2 chấp do phân biệt mà nổi dậy là thô chấp.
Còn có câu sanh ngã pháp hai chấp, là tế chấp từ khởi tâm động niệm mà
tới, đây gọi là tùy-miên, lại gọi là trụ địa vô minh. Người nầy chỉ có
thể trừ phân biệt ngã pháp 2 chấp, mà chưa thể trừ câu sanh ngã pháp 2
chấp.
Lại bao gồm 1 thứ yếu nghĩa: chia ra mà nói là tam không,
hợp lại mà nói là không ngã pháp 2 chấp. Nhưng lại có thể từ không hữu 2
bên mà nói: phi pháp tướng là không, thuộc bên không, ngã, pháp nói
chung thuộc bên hữu. Người nầy sanh tịnh tín, lại có thể chẳng chấp 2
bên. Bên hữu gọi là tục đế, bên không gọi là chân đế, trong nầy lại gồm
cả nhị đế. Trong các kinh khác, phật nói tam đế, có đệ nhứt nghĩa đế,
bát nhã khiển chấp, nên chỉ nói nhị đế. Phải biết già, chiếu đồng thời
tức là hợp với trung đạo, nên nói nhị đế, thực ra gồm cả tam đế. Khiển 2
bên tức là già 2 bên, già 2 bên tức là chiếu 2 bên, lại còn phải già
chiếu đồng thời. Người nầy còn chưa đến trình độ nói trên, chỉ có thể
chẳng chấp 2 bên, xem kỹ văn trong kinh thì có thể biết. Phàm lời phật
nói đều suốt đầu suốt cuối, chẳng thể xem một cách sơ qua. Ngay đến văn
trên : sanh tịnh tín đắc vô lượng phước đức, cũng có cạn có sâu. Nói tóm
lại thì người nầy chỉ mới trừ thô chấp, chưa trừ tế chấp. Cho nên phật
càng nói càng sâu để tỏ rõ người nầy trừ chấp còn là bước đầu, lại phải
thêm nhiều công phu nữa. Nhưng người nầy đến chỗ nầy đã chẳng dễ gì, chỉ
một niệm tương ứng đã khác thường rồi. Phàm người dụng công thường có
thứ cảnh giới nầy : cảm thấy trong tâm trống không, nhẹ nhàng, lâng
lâng, có lúc đến nửa tháng hoặc nửa năm, đều là thứ cảnh tượng nầy.
Phải
biết, thứ công phu nầy, chỗ sai biệt còn xa, chẳng thể tự mình cho là
đủ, nếu không sẽ sanh ra 2 bịnh : đối với nghĩa kinh thì lấy sâu làm
cạn, đối với tự mình thì lấy cạn làm sâu, có biết đâu hãy còn xa với bát
nhã. Như trong kinh nầy chỗ trỏ : người nầy phân biệt ngã chấp đã trừ,
tham sân si tuy chưa trừ khử hết, nhưng đã hết sức mỏng manh, nên lại
còn phải gắng thêm công phu. Chúng ta dụng công, liền có thể tự mình xem
xét, đo lường, cứu cánh cùng với chỗ nói trong kinh có hợp hay không.
Nói đến đây, nhân tưởng đời xưa có một đoạn nhân duyên. Hai cha con vua
Túc-Tông Ðại-Tông nhà Ðường bình định loạn An Lộc Sơn. Vua Ðại Tông hết
sức hoằng dương phật pháp. Mật Tông Bất Không tam tạng cũng ở thời kỳ
nầy tới Trung Quốc, nên phật giáo cực thịnh hành trong một thời. Vua Ðại
Tông một bữa cùng với Tông Quốc-sư đàm luận phật pháp, quan hầu Ngư
Triều AÂn ở bên cạnh liền sàm sỡ hỏi : “phật nói hết thảy chúng sanh đều
là phật, thì vô minh từ đâu mà nổi dậy?”. Quốc sư liền trả lời : “Ngươi
chẳng đáng để hỏi câu nầy”. Triều AÂn xấu hổ quá, nhưng vì có vua Ðại
Tông ở bên, nên lặng yên không dám hó hé, chỉ sắc mặt lộ ra giận dữ.
Tông quốc-sư liền nói : “Vô minh từ đó mà nổi dậy”. Chúng ta ở đây có
thể thí nghiệm. Giả tỉ như gặp người nào tới chửi mắng ta, ta có thể
sanh sân hận không? Như gặp các thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, ta
có thể chẳng khởi niệm không? Như gặp lúc nghèo túng ngày nay không
kiếm đâu ra cơm ăn, trong tâm có thể chẳng lo buồn không? Ắt ta phải coi
như là vô sự, thì mới có thể được, nếu không thì liền chấp ngã tướng,
nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng.
Nếu tâm ta trống
không thì đã đành là cũng rất tốt, tuy thế chẳng phải chỉ ngừng ở chỗ
này, lại còn phải thực hành bố thí, lục độ vạn hạnh đều phải làm đủ. Nếu
chỉ tâm trống không cho là xong việc, thì liền chấp phi pháp tướng, nếu
tự mình còn có tâm độ sanh, thì liền chấp pháp tướng. Cho nên biết rằng
người nầy sanh tịnh tín, trừ khử tâm phân biệt thiệt chẳng dễ gì, sở dĩ
như lai biết hết, thấy hết, hứa cho nó rõ ràng giống với tâm của phật,
mở con mắt của phật, được vô lượng phước đức như thế. Ðây chẳng những là
giải thích khoa trên, lại quay lại chỉ thị rõ 1 khoa lớn, vì văn trước
chưa thuyết minh, nên chỗ nầy phải nói ra : câu sở hữu nhứt thiết chúng
sanh chi loại, đến câu ngã dai linh nhập vô dư niết bàn nhi diệt độ chi,
chính là hợp với pháp tướng. Câu thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả,
chính là hợp với phi pháp tướng. Câu nhược bồ tát hữu ngã tướng nhân
tướng, chúng sanh tướng thọ giả tướng tức phi bồ tát, tức là không còn
ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Câu bồ tát ưng
vô sở trụ hành ư bố thí tức là xả, tức là phá ngã, muốn cho chúng ta
trước hết không có ngã tướng, chẳng trụ ở tướng, tức là chẳng trụ bao
nhiêu thứ tướng, tức là không có pháp tướng. Lại lấy hư không 4 phương
trên dưới làm thí dụ, tức là không có phi pháp tướng. Câu nhược kiến chư
tướng phi tướng tắc kiến như lai ấy là dung hội cả 2 bên, vì nếu chỉ
thấy chư tướng là chấp hữu, chỉ thấy phi tướng là chấp không, thấy chư
tướng phi tướng là 2 bên đều dung hội, tức vô tướng vô bất tướng, được
thấy thực tướng, nên nói là tắc kiến như lai, kiến như lai nên được vô
lượng phước đức như thế, tức là phước đức chẳng thể tư lường ở văn trên.
Ý phật bảo rằng người nầy có thể hiểu rõ pháp ta thuyết ở văn trên, trì
giới tu phước, có thể sanh tịnh tín, và lấy đây làm thực thì đã đành là
không có 4 tướng, được vô lượng phước đức như thế. Cũng là khuyến khích
chúng ta muốn tu bát nhã phải hạ thủ như thế, chẳng thể rơi vào bên
không, trước phải đem một phương diện phi pháp bít lại, chân dẫm lên chỗ
thực, tu hành một cách thực tiễn, pháp tướng và phi pháp tướng đều
chẳng chấp là yếu quyết để dụng công .
Hà dĩ cố? Thị chư chúng
sanh nhược tâm thủ tướng, tắc vi trước ngã nhân chúng sanh, thọ giả.
Nhược thủ pháp tướng, tức trước ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Hà dĩ
cố? Nhược thủ phi pháp tướng, tức trước ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả.
Dịch
nghĩa : Vì cớ gì? các chúng sanh nầy nếu tâm thủ tướng tức là trước ngã
nhân, chúng sanh, thọ giả. Nếu thủ pháp tướng tức là trước ngã, nhân,
chúng sanh, thọ giả. Vì cớ gì? Nếu thủ phi pháp tướng tức là trước ngã,
nhân, chúng sanh, thọ giả.
Khoa trên là từ chính diện giải
thích rõ thế nào là tịnh tín, và làm sao được vô lượng phước đức, vì
người nầy đã thấy lý tam không. Không có những tướng ngã, nhân v. v ...
là nhân không, cũng gọi là ngã chấp không, không có pháp tướng là pháp
không, cũng gọi là pháp chấp không, không có phi pháp tướng là ngay đến
cái không cũng không, cũng gọi là câu không, đó gọi là tam không. Bởi
thấy tam không, từ đó tinh tiến, tịnh niệm nối tiếp nhau, bèn chứng
thanh tịnh pháp thân, nên nói được vô lượng phước đức. Khoa nầy gọi là
phản hiển, là lại từ phản diện hiển cái cớ người này ắt ứng với tam
không, để nói rõ hễ còn một chút chấp tướng là còn tâm phân biệt, chẳng
phải tánh thanh tịnh. Vì cớ gì? Vì gồm chỗ có tướng đều là hư vọng, cho
nên chấp tướng là đuổi theo cái vọng, đuổi theo vọng liền mê muội chân
tánh. Chân tánh đã mê thì vẫn là phàm phu khởi hoặc tạo nghiệp, chịu khổ
báo luân hồi, sao có thể được vô lượng phức đức? Do đây có thể biết
dụng ý đã giải thích theo chánh diện, lại phải thêm phản hiển, là muốn
khiến cho chúng sanh mau mau giác ngộ, y theo tông chỉ vô trụ của kinh
nầy, một mặt cần thực hành lục độ, một mặt quán chiếu vô tướng, phát
sanh tịnh tín, để mong chứng được tánh thể tam không, siêu phàm nhập
thánh. Ðây là nghĩa tổng quát ắt phải phản hiển. Nhưng còn có nghĩa khác
biệt, vì phòng ngừa kẻ đọc văn trên nổi dậy sự nghi ngờ. Tại sao nổi
dậy nghi ngờ? Vì ngã, nhân các tướng từ thân kiến mà nổi dậy. Thân là
gốc của khổ, chẳng nên chấp tướng, lý nầy dễ hiểu rõ. Pháp thì chẳng
thế, tự độ, độ tha ắt phải có pháp, như bố thí lục độ há chẳng rõ ràng
là có pháp ư? Có pháp thì liền có tướng của pháp. Nay nói không có pháp
tướng, pháp mà không có tướng, thì pháp nầy cũng ở trong khoảng như có,
như không. Thế thì pháp tướng sao nói có thể không có ư?
2) Nếu
có thân kiến, thế nó ắt phân biệt nhân ngã. Một khi có phân biệt thì
thế nó ắt tạo nghiệp, chịu quả báo. Vì vậy chẳng nên có thân kiến, chẳng
nên phân biệt nhân ngã. Mà pháp vốn chẳng phải thân, thì trong đó làm
gì có nhân ngã. Ngay khiến cho ở trên pháp nổi dậy sự phân biệt, đâu có
phải là phân biệt nhân ngã. Ðến như 2 chữ phi pháp, chẳng khác gì tên
thứ nhì của KHÔNG. Ðã gọi là không thì làm gì có tướng. Thế thì vì cớ gì
pháp và phi pháp, và 4 tướng ngã nhân do thân kiến mà nổi dậy, đều đem
ra bàn cùng một lúc, hết thảy đều nói là không có ư? Vì muốn làm cho dứt
bao nhiêu thứ nghi đó, nên phải từ phản diện thuyết minh thêm vào cho
rõ ràng. Thị chư chúng sanh : là trỏ chúng sanh sanh tịnh tín, thấy tam
không ở trên. Chữ tâm trong câu nhược tâm thủ tướng rất là cần yếu. Phải
biết, tâm vốn vô tướng, chữ tướng chẳng ắt phải chuyên trỏ sắc thân mà
nói, mà là trỏ khắp cả tướng của hết thảy cảnh giới. Tâm vốn không có
tướng, nếu tâm có một thứ tướng là chấp thủ cảnh giới rồi. Nếu chấp thủ
tướng của cảnh giới, há chẳng phải đã mê muội tâm mình rồi ư? Ðây chính
là cách bội giác hợp trần, cho nên thành ra phàm phu. Vì thế lại phải
biết chấp thủ cảnh tướng, là ai chấp thủ? Cũng chẳng phải là ai, mà
chính là ngã. Có thể thấy tâm nếu thủ tướng, liền thành ngã tướng, mà
cái tướng sở thủ là do cái ngã năng thủ mà có, cũng như nhân tướng là do
ngã tướng mà sanh, nên cái cảnh sở thủ liền thành ra nhân tướng. Cái
tướng sở thủ nổi dậy trùng trùng điệp điệp, sanh ra đầy dẫy, liền thành
chúng sanh tướng, tướng nầy chẳng dứt liền thành thọ giả tướng. Do đó mà
nói chẳng kẻ chấp thủ tướng gì liền có năng thủ, sở thủ sanh ra đầy dẫy
chẳng dứt, nên mới nói : nhược tâm thủ tướng, tắc vi trước ngã, nhân,
chúng sanh, thọ giả. Tắc vi nghĩa là ấy là, tức là, một khi thủ ấy là
chấp. Cho nên nếu thủ pháp tướng, thì cũng liền trước ở trên 4 tướng
ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Sao lại nói là pháp chẳng giống thân,
trong đó vô ngã ư? Vì một khi thủ liền có sự phân biệt năng sở, sao có
thể nói được phân biệt trên pháp, chẳng phải là phân biệt nhân ngã? Vả
do đó có thể biết khoa trên chỗ nói không có Pháp tướng ấy là chẳng thủ
trước mà thôi, chẳng phải là rốt cuộc không có pháp, không có tướng. Nếu
rốt cuộc không có, ấy là tướng đoạn diệt. Ðến như phi pháp đã đành là
tên khác của không, không nguyên phi tướng, nhưng đã thủ nó, thì liền có
ngã năng thủ, nhân sở thủ, sanh ra đầy dẫy chẳng dứt. Bốn tướng y nhiên
còn nguyên nên nói : nhược thủ phi pháp tướng tức trước ngã nhân, chúng
sanh thọ giả. Có một cuốn kinh chép, chẳng biết bị ai xóa mất 3 chữ hà
dĩ cố trên câu nhược thủ phi pháp tướng, họ cho là vốn một câu nói thẳng
từ trên xuống dưới, nghĩa và ý đã rõ ràng, nay thêm 3 chữ nầy vào,
khiến cho ý của câu trên trái ngược lại khúc chiết, nghĩa nó chẳng rõ.
Trong
khoảng năm đời vua Gia Khánh có một cuốn kinh in ra tuy chẳng giám bỏ 3
chữ nầy đi, nhưng lại chú thích ở dưới rằng : 3 chữ nầy ở lời chú thích
của ông Mỗ và các bổn chánh đều cho là thừa, chỗ bảo là ông Mỗ đại khái
đều là người trong khoảng nhà Minh nhà Thanh. Do đó có thể chứng minh
câu, chữ kinh nầy có nhiều chỗ khác với bản in xưa, tuy chẳng thể nào
không có sự sai lầm về sao chép, mà thực chẳng tránh khỏi bị kẻ thấy
nông cạn, thêm vào bớt đi bậy bạ thiệt là đáng than thở! May mà những
bổn kinh gần đây lại được người có con mắt tinh đem câu nầy bổ vào. Vì
dùng 3 chữ nầy bao gồm có tinh ý, quan hệ rất khẩn yếu, nên chẳng thể
nào thiếu đi được. Có người nói : 3 chữ hà dĩ cố nầy là nâng nghĩa trên
lên, khiến cho biết nếu thủ phi pháp tướng thì còn là trước 4 tướng,
huống chi thủ ở pháp tướng, ý nầy hãy còn cạn. Vì câu : nhược tâm thủ
tướng tắc vi v.v ... đã giải thích rõ cớ đó rồi, cần gì lại còn phải
nâng lên. Thế thì ý của 3 chữ nầy ra sao? Là vì đề phòng kẻ chẳng hiểu ý
câu nầy tuy nghe : nhược thủ pháp tướng tức trước ngã, nhân, thọ, nhưng
còn chưa rõ làm sao mới là chẳng thủ, chỗ thấy chưa chân thực, hoặc đến
nỗi lầm thủ phi pháp, mà còn tự cho là chẳng thủ pháp, chỗ thấy chưa
chân thực, hoặc đến nổi lầm thủ phi pháp, mà còn tự cho là thủ, mà còn
tự cho là chẳng thủ pháp. Vì thế dùng 3 chữ hà dĩ cố để hỏi và nhắc nhở,
khiến cho nó nghĩ sâu duyên cớ đó mà chẳng thể hiểu lầm. Rồi liền nối
tiếp câu : nhược thủ phi pháp tướng tức trước ngã nhân chúng sanh thọ
giả, liền biết nếu thủ phi pháp thì vẫn là trước tướng như cũ, chẳng
khác gì thủ pháp tướng, cho nên bảo rằng chẳng thủ pháp là chẳng phải
rốt cuộc chẳng thủ ư? Ðã chẳng phải là chẳng thủ, mà thủ thì lại là
trước tướng, có thể thấy chẳng thủ là chỉ khiến chẳng chấp thủ tướng,
dung hội về tánh mà thôi. Ý đó là gì? Ấy là tu rộng lục độ vạn hạnh mà
trong tâm như không có việc đó, lặng yên, ngưng tịch chẳng bị lay động,
đây tức là nghĩa chân thực của bất thủ pháp tướng. Thực hành như thế, đã
chẳng chấp pháp, lại chẳng chấp phi pháp tức là chẳng chấp 2 bên, hợp
với trung đạo.
Thế thì có một câu hà dĩ cố nầy, văn dưới 2 câu
nhược thủ phi pháp tướng, không khác gì làm lời chú giải cho 2 câu nhược
thủ phi pháp tướng ở văn trên. Sự khéo thuyết pháp như thế như thế !
Nếu bỏ đi 3 chữ nầy thì ý của câu nói bằng phẳng, liền chẳng thể hiển ra
nghĩa nầy. Phải biết, hữu là tức không mà hữu, không chẳng phải là cái
không lìa hữu, nên Tâm Kinh nói : sắc tức là không, không tức là sắc. Sở
dĩ kinh nầy chỗ chỗ nói chẳng thủ trước mà chỗ chỗ nói chẳng đoạn diệt.
Lời nói chẳng đoạn diệt tuy ở đoạn sau chót nêu ra, thực ra thì chỗ nói
từ đầu, không câu nào là chẳng gồm có ý chẳng nên đoạn diệt. Như độ
sanh mà không có tướng độ, ban đầu chẳng chỉ nói 1 câu : thực vô chúng
sanh đắc diệt độ mà thôi ư? Câu ưng vô sở trụ hành bố thí, thì ý nầy
càng rõ, mà câu nhược kiến chư tướng phi tướng tắc kiến như lai, lại là
lời nói kết tinh. Chư tướng phi tướng là rõ ràng chẳng thủ, thủ thì chỉ
thấy tướng mà chẳng thấy tánh. Vì chẳng thủ nên thấy tướng tức là phi
tướng mà hội về ở như lai tạng tánh, nên mới nói là thấy như lai. Tóm
lại tướng nguyên chẳng có lỗi gì, lỗi là ở thủ mà thôi, cho nên nếu xả
tướng mà thủ vô tướng, xả vô tướng mà thủ cái vô của năng vô, thủ liền
thành ra tướng, liền che lấp tự tánh, có thể biết được. Chỉ có thể chẳng
thủ thì tuy có tướng mà không hại gì, nếu mà có thủ, thì tuy vô tướng
mà thành che lấp, ban đầu cần gì phải diệt tướng mới kiến tánh ư? Vì cớ
nầy, cho nên chỉ lựa riêng kẻ trì giới tu phước là căn cơ có thể tín, vì
trì giới tu phước đã chẳng chấp không, lấy bát nhã huân tập nó, tuệ
giải một khi mở ra, thì ở pháp chẳng chấp, tự nhiên có thể chẳng trước
hữu, mà lại cũng chẳng trước không, dễ hợp với trung đạo, so với kẻ phát
cuồng tuệ thì khác xa nhau một trời một vực. Nên kinh luận nói : thà
rằng trước hữu như núi Tu Di, chẳng thể trước không như hột cải nhỏ. Ðây
là nói rõ kẻ trước hữu dễ dụng công, kẻ trước không khó cứu chữa. Chữ
thủ ở đây chính cùng với văn dưới chữ xả đối nhau khít khao. Chỗ nầy là
nói rõ chẳng thủ pháp, chẳng phải bảo là có thể thủ phi pháp. Văn dưới
thì nói rõ pháp nên xả, chẳng phải bảo là phi pháp chẳng nên xả. Ý của
câu trên câu dưới chính giống nhau, đều gồm có ý chẳng thể lìa cái hữu
mà nói cái không. Tóm lại, hai bên đều chẳng nên thủ, tức là đều nên xả.
Nên văn dưới liền kết bằng câu : thị cố bất ứng thủ pháp, bất
ưng thủ phi pháp, vẫn là tôn chỉ qui về trung đạo. Lại dùng 3 chữ hà dĩ
cố nầy, còn có một nghĩa, vì khoa trên câu vô phục ngã tướng cho đến
diệc vô phi pháp tướng là nói thẳng từ trên xuống dưới, để tỏ rõ tam
không, như trước đã nói. Khoa nầy trong khoảng câu nhược thủ pháp, nhược
thủ phi pháp dùng câu hà dĩ cố xen cách ra, tức là riêng tỏ rõ nghĩa
không hữu 2 bên chẳng trước, để dẫn 2 câu thị cố ở văn dưới. Hai câu
nhược tâm thủ tướng vốn là tổng luận, câu bất khả thủ tướng là gồm trỏ
cả thân tướng, mà thân tướng thuộc bên hữu cùng với pháp tướng giống
nhau. Phi pháp tướng thì thuộc bên không, câu hỏi nếu chẳng cách ra, mà
vẫn như trước nói thẳng từ trên xuống dưới, thì nghĩa nầy chẳng tỏ rõ,
mà văn dưới 2 chữ thị cố thành ra vô nghĩa, vì không thừa tiếp được câu
trên. Xem đây đủ thấy bản dịch của ngài La Thập là khéo.
Thị cố bất ưng thủ pháp, bất ưng thủ phi pháp.
Dịch nghĩa : Thế nên chẳng nên thủ pháp, chẳng nên thủ phi pháp.
Chữ
cố trong câu thị cố nầy chính là đón văn trên vì nếu thủ pháp tướng,
phi pháp tướng, liền trước ngã, nhân, chúng, thọ, nên 2 bên đều chẳng
nên thủ, lại cũng tướng ứng với câu vô phục v.v... ở trên. Vì chẳng thủ
thì vô tướng, vô tướng mới sanh tịnh tín, là tri kiến của như lai, được
vô lượng phước đức. Tóm lại lời phật nói đây chính là chỉ thị phương
pháp hạ thủ, trước phải khiến 2 bên chẳng thủ, lần lần có thể không các
tướng, tâm địa thanh tịnh. Do đó mà tín, mà giải, mà hành, cho đến cứu
cánh cũng chẳng qua 2 bên chẳng trước. Vì do quán chiếu bát nhã, mà
chứng thực tướng bát nhã. Thực tướng là vô tướng vô bất tướng, đó chẳng
phải là 2 bên chẳng trước ư? Ðây gọi là nhân gồm biển quả, quả suốt
nguồn nhân.
Dĩ thị nghĩa cố như lai thường thuyết : nhữ đẳng tỳ
kheo tri ngã thuyết pháp như phiệt dụ giả pháp thượng ưng xả, hà huống
phi pháp.
Dịch nghĩa : Vì cớ lấy nghĩa nầy, như lai thường
thuyết : lũ tỳ kheo các ông biết ta thuyết pháp như dùng chiếc bè làm
thí dụ, pháp còn nên bỏ, huống gì phi pháp.
Chữ thị trong dĩ
thị, chính là văn trên 2 câu bất ưng thủ pháp, lại cùng với những câu vô
pháp tướng ở dưới hô ứng với nhau. Phiệt dụ giả, là pháp như lai thường
thuyết. Vì nói thuyền bè nguyên vì để đi qua, đã qua thì xả bè, để thí
dụ phật pháp vì độ sanh tử, sanh tử chưa độ thì chẳng thể nào không có
pháp. Ðã đến bờ bên kia, thì pháp cũng vô dụng, đây là bày tỏ ý chẳng
thể chấp pháp, trong kinh A Hàm phật vì các đệ tử thường nói. Câu pháp
thượng ưng xả là nhiếp câu phiệt dụ, lại gồm trỏ văn trên chẳng nên thủ
pháp, liền để dẫn khởi văn dưới hà huống phi pháp. Hà huống phi pháp là
nói rõ cái phi pháp lại càng nên xả. Xả là chẳng thủ, nhưng ý của xả lại
sâu hơn, chẳng những là chẳng thủ mà thôi, mà cái trước kia đã thủ thì
nay cũng phải xả, cứu cánh mà nói, ngay đến 2 chữ bất thủ cũng phải xả.
Sở
dĩ dẫn thường thuyết lấy chiếc bè làm thí dụ là một mặt dùng nghĩa hiện
nay để tỏ rõ thường thuyết, lại một mặt mượn thường thuyết để tỏ rõ
nghĩa hiện nay. Vì bảo rằng lấy nghĩa pháp và phi pháp đều chẳng nên thủ
này, cho nên như lai thường vì tỳ kheo nói thí dụ như chiếc bè, tuy chỉ
nói pháp xả, mà phải biết ngay cả đến phi pháp cũng xả luôn. Vì cớ gì ?
Vì pháp còn nên xả, huống chi phi pháp lại càng nên xả, còn đợi gì phải
nói nữa. Ðây là tỏ rõ không cái nhỏ nào mà chẳng lớn, pháp này bình
đẳng, tức là dùng nghĩa hiện nay để tỏ rõ thường thuyết. Lại để hiển rõ
cái hai bên chẳng thủ của nghĩa hiện nay.
Lời nói tuy sắp ngang
nhau, nhưng phải biết phi pháp lại nên chẳng thủ, thì mới chẳng đến nỗi
trước không, đây là mượn thường thuyết để tỏ rõ nghĩa hiện nay. Ðoạn
văn kinh nầy nghĩa rất sâu xa mầu nhiệm, chẳng phải như trên đã nói mà
thôi. Phải biết, nghĩa hiện nay và thường thuyết có một điểm rất xung
đột nhau, ắt phải hiểu rõ. Vì thường thuyết là khiến pháp chẳng cần dùng
nữa thì xả. Mà nay vì kẻ mới phát đại tâm mà nói, ấy là khiến chính
ngay đương lúc cần dùng mà xả pháp. Có sự xung đột lớn nầy, thế tôn đề
phòng người ta chấp thường thuyết mà ngờ nghĩa hiện nay, hoặc chấp nghĩa
hiện nay mà ngờ thường thuyết, cho nên không thể nào mà chẳng dẫn nghĩa
nầy ra, khiến cho người học vì đó mà hiểu rõ, tuy khác nhau mà thực
giống nhau. Cái nghi ngờ đó là gì? Ngờ là chính lúc cần yếu lại xả pháp,
pháp xả há chẳng phải là không có pháp, không có pháp thì lấy gì để độ,
đây chẳng phải là trái với thường thuyết rồi ư? Bèn lại nói : chẳng nên
thủ phi pháp, thế thì cứu cánh có pháp ư? Hay không có pháp ư? Kẻ chưa
độ có cần dùng pháp ư? Hay không cần dùng pháp ư? Phải biết, nghĩa của
hiện nay nói, ấy là 2 bên có, không đều chẳng thể trước, chỗ gọi là
trung đạo đệ nhứt nghĩa. Phải biết, 2 bên chẳng trước tức là chiếu cả 2
bên. Hai bên chẳng trước đã đành không chỗ nào gọi là có pháp, mà chiếu
cả 2 bên thì cũng không chỗ nào gọi là không có pháp.
Vả chẳng
trước, tức là chiếu cả 2 bên, thì có thể biết chính đương lúc không chỗ
nào bảo là có, tức lại không chỗ nào bảo là không. Chính đương lúc không
chỗ nào bảo là không, có hại gì mà không chỗ nào bảo là có. Ông suy
nghĩ đi, suy nghĩ sâu đi, cứu cánh có pháp ư, hay không có pháp ư? Hay
có tức là không, không tức là có ư? Biết thế thì biết nghĩa hiện nay và
thường thuyết tuy khác nhau mà thực giống nhau. Tuy thế, phật dẫn chiếc
bè ra làm thí dụ, chuyên để giải thích nghi ngờ của sự dị đồng của
thường thuyết và nghĩa hiện nay chăng? Chẳng phải vậy. Ý sâu của phật
thực là vì đề phòng người ta chấp nghĩa hiện nay mà ngờ nghĩa hiện nay.
Cái ngờ đó là gì? Các ông đã xem thấy chưa? Xin xem 2 câu bất ưng thủ
pháp, tuy là kết thúc văn trên, mà cùng với chỗ nói ở văn trên sâu cạn
khác xa. Thế tôn sợ người ta chẳng hiểu rõ, sanh ra chướng ngại, cho nên
dẫn thường thuyết chiếc bè làm thí dụ ra thuyết minh. Nếu chẳng thế,
thì 2 câu thị cố đã kết thúc xong rồi, có thể chẳng cần lại dẫn chiếc bè
làm thí dụ nữa. Ðến như chỗ nói phía trên, 2 bên chẳng trước v.v...,
cho đến đoạn cứu cánh có pháp ư, hay không có pháp ư, chính là mượn
thường thuyết làm tỏ rõ nghĩa hiện nay, để tránh ở chỗ sâu cạn của nghĩa
hiện nay mà nổi dậy nghi ngờ, sanh ra chướng ngại. Thế thì trước phải
nói rõ chỗ sâu cạn của nó là ở chỗ nào? Xin xem chỗ nói đoạn thứ nhứt :
vô phục ngã tướng, cho đến diệc vô phi pháp tướng, là nói về vô tướng.
Ðoạn thứ nhì : nhược tâm thủ tướng, cho đến nhược thủ phi pháp tướng,
cũng là nói về chẳng thủ tướng. Ðến đoạn thứ ba, 2 câu thị cố, là pháp
và phi pháp đều chẳng thủ, mà chẳng phải chỉ là chẳng thủ tướng. Ðoạn
nầy cùng với 2 đoạn trên chỗ chẳng giống nhau, đề phòng người ta nổi dậy
nghi ngờ, sanh ra chướng ngại, là chính ở chỗ nầy. Ông xem đoạn thứ
nhứt nói xong vô tướng, vì muốn dứt nghi ngờ cho người ta, là pháp tướng
chẳng thể không có, và phi pháp vốn là vô tướng, nên mới nói đoạn thứ
nhì hễ thủ thì trước tướng, để cho biết chỗ bảo là không có, ấy là khiến
người ta chẳng thủ tướng, chớ chẳng phải là không có pháp, không có
tướng. Vả chăng đã thủ liền có tướng, cho nên phi pháp tướng cũng chẳng
nên thủ.
Lại đánh thức tỉnh cho họ biết, chẳng thủ pháp tướng,
là lấy chẳng thủ phi pháp tướng làm giới hạn, khiến được hiểu rõ chẳng
phải là tuyệt đối chẳng thủ pháp, mà là tuy thủ các pháp lục độ để tu
hành, mà trong tâm không có tướng pháp lục độ, rồi sau người học mới
chẳng đến nỗi hoặc nghiêng về bên không, hoặc nghiêng về bên hữu, mới có
chỗ hạ thủ chính xác. Phải biết, bát nhã diệu pháp hạ thủ phải nên
triệt để. Thế nào là triệt để? Là phải pháp và phi pháp dù cho bóng của
nó cũng chẳng lưu, thì mới là đúng. Vì gọi là pháp tướng, phi pháp
tướng, thì có thể biết là tướng của pháp, là tướng của phi pháp. Nếu thủ
pháp thủ phi pháp, hễ thủ thì có tướng, còn có thể nói rằng chẳng thủ
tướng ư? Cho nên chỗ nói trước và chỗ nói sau, lý nguyên là nhứt trí,
nhưng lời nói có cạn sâu lần lượt mà thôi! Cho nên ắt phải thuyết đoạn
thứ ba thị cố 2 câu, phải nên triệt để chẳng thủ như thế, mới là chẳng
thủ tướng. Sau rồi vì tâm thanh tịnh, mới có thể chứng vào quả thanh
tịnh pháp thân.
Hỏi : Nói như thế thì pháp phải xả là đích xác
rồi, vả lại lại nói một câu chẳng thủ phi pháp thì tôi cũng hiểu rõ rồi,
cái nầy là dùng để làm giới hạn cho bất ưng thủ pháp, khiến cho biết
rằng pháp tuy chẳng thủ mà nhứt định cũng chẳng thể thủ phi pháp. Nhưng
nếu thuyết nầy như thế, thì ngay y theo biện pháp của pháp lục độ tu
hành mà tâm không có tướng đó, liền chẳng thể thích dụng. Vì cớ gì? Vì
trong nầy chẳng phải nói là chẳng thủ pháp tướng, mà rõ ràng là nói
chẳng nên thủ pháp, thế thì theo chỗ nào mà thực hành ư ?
Trả
lời : Thế tôn chính vì cớ nầy, nên phải nói câu thứ tư, hiển rõ ra một
cái biện pháp tuyệt diệu. Ông xem trong đoạn thứ tư 2 câu nói rất khẩn
yếu : pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp. Hai câu nầy không khác gì
để chú giải 2 câu thị cố ở trên. Ðây chính là chỉ thị cho người học rằng
: ta chẳng phải bảo ông chỉ riêng chẳng thủ pháp, mà bảo ông ngay cả
phi pháp cũng chẳng thủ luôn. Nếu chỉ chẳng thủ pháp, như thế thì biến
thành ra không có pháp, không có pháp thì làm sao tu hành, được độ. Nếu
pháp và phi pháp chẳng thủ đều nhau, đó mới là diệu pháp. Vì chưng dẫn
cái bè làm thí dụ để nói, vì cái bè làm thí dụ tức là pháp. Cho nên một
phương diện là bảo người ta lĩnh hội xả pháp của thường thuyết, đó là
luôn cả xả phi pháp ở trong đó. Khiến cho họ biết pháp và phi pháp đều
phải xả, tức là pháp lấy bè làm thí dụ của như lai thường thuyết. Thì
nay rõ ràng là nói pháp và phi pháp đều chẳng thủ, há chẳng phải tức là
pháp chỗ thuyết ư? Mà một phương diện lại bảo người ta lĩnh hội lấy bè
làm thí dụ của thường thuyết, ấy là nói lúc chưa độ thì chẳng thể không
có pháp, đến lúc độ rồi thì xả bỏ pháp đi, khiến cho biết hiện nay còn
chưa độ, thì sao có thể không có pháp, bèn chẳng đến nỗi hiểu lầm bất
ưng thủ pháp là không có pháp. Huống chi rõ ràng lại nói bất ưng thủ phi
pháp, thì lại càng để đủ chứng minh pháp và phi pháp đều chẳng thủ,
chính là diệu pháp để khai thị chúng ta vậy. Cho nên dẫn bè làm thí dụ,
chính là để tỏ rõ nghĩa nầy.
Hỏi : Làm sao đều chẳng thủ chính là diệu pháp, chỗ nầy làm cho người ta hồ đồ, lộn xộn, vậy thế nào là diệu pháp ?
Trả
lời : Phải biết trong đệ nhứt nghĩa, pháp và phi pháp vốn chẳng thể nói
ra, vả không cái gì gọi là sanh tử, không cái gì gọi là niết bàn, lại
không cái gì gọi là độ. Ngay đến 2 bên chẳng trước, 2 bên chiếu cả hai,
đều thành ra lời nói thừa. Phải dứt hết tình thức, cắt đứt giây nhợ.
Chính đương lúc dứt hết, cắt đứt, vụt chốc bỗng nhiên thẳng tới ngôn ngữ
đạo đoạn, tâm hành xứ diệt, thì sanh diệt đã diệt hết, liền khắp hư
không đều thành bất động đạo trường, khắp hư không đều là tịnh quang
minh võng, liền cùng với thập phương chư phật gặp mặt rồi vậy. Ðến đây
tuy nói là không chỗ nào gọi là độ, mà đã độ một cách bay đi tuyệt tích
như thế rồi. Sau mới chợt hiểu ngay một câu : không chỗ nào gọi là độ,
cũng là diệu pháp để dẫn người ta được độ.
Xin hỏi cái công phu
dứt hết, cắt đứt, tuy muốn chẳng gọi nó là pháp, sao có thể được ư? Mà
pháp, phi pháp đều chẳng thủ há chẳng phải tức là dứt hết, cắt đứt ư?
Hai bên phải bức bách cho khít khao, vì khởi tâm động niệm nếu chẳng
trước bên nầy thì trước bên kia. Phải khiến ngay phân biệt vọng tưởng
không có chỗ nào còn nữa, ví như đánh giặc 2 mặt bao vây lục xét, bức
bách cho giặc không còn chỗ nào đứng vững, thì tự nhiên giặc phải hàng
phục. Ðây là thủ đoạn dùng dao bén chém phăng gai góc lộn xộn đi, nên
mới nói dứt hết tình thức, chặt đứt giây nhợ. Ðây chính là chỗ Long Thụ
bồ tát nói : hết thảy pháp chẳng sanh mà bát nhã sanh. Bát nhã chính
tông là vô trụ, mà 2 bên chẳng thủ tức là lời chú thích đích xác của vô
trụ, đó tức là vô thượng thậm thâm diệu pháp, đó tức là trong kinh chỗ
gọi là a nậu đa la tam miệu tam bồ đề pháp, vì lấy đó làm gốc để tu nhân
thì chứng được a nậu bồ đề quả. Nên có thể hiểu chính cùng với bè làm
thí dụ giống nhau, chẳng phải là không có pháp có thể độ, lại chẳng phải
là chưa độ mà xả pháp. Ông ngờ là làm sao mà độ, cứu cánh lúc độ có
pháp hay không có pháp, há chẳng phải là lời nói mơ ngủ ư?
Hỏi : Phật sao chẳng thuyết minh : bất thủ tức là pháp, mà chỉ khiến cho người ta tự hiểu lấy ư ?
Trả lời : đây cũng có tôn chỉ sâu :
1)
Bất thủ vốn chẳng phải là pháp, không biết lấy gì để đặt tên nó, nên
đặt cho nó tên giả là pháp của vô pháp mà thôi. Như bố thí, bát nhã
v.v... đều là giả danh, không biết lấy gì đặt tên nó, nên hãy gọi nó là
pháp, há thực có vật nầy ư ? Thế pháp, xuất thế pháp không cái nào là
chẳng như thế!
2) Chính vì chúng sanh chỗ nào cũng chấp trước,
nên mới nói 2 bên chẳng thủ để trị bịnh của nó, nếu cho cái đó là diệu
pháp thì liền lại trụ trước rồi. Ðây lại là khổ tâm chẳng nói ra vậy.
Nhưng thế tôn còn sợ người học khởi tâm động niệm, trong chỗ chẳng hay
chẳng biết trụ trước ở đó mà nổi dậy phân biệt, thì vô minh vẫn còn
nguyên, nên càng phải khiển trừ. Cho nên lại phải nói nửa bộ kinh phía
sau, chính là vì việc nầy.
3) Tuy chẳng thuyết minh, mà đề
phòng người ta bàng hoàng không biết xoay trở ra sao, nên dẫn chiếc bè
làm thí dụ để lọt ra một chút tin tức, khiến cho kẻ chân tu cũng được
nhờ đó mà tự mình lĩnh hội. Phải biết, phàm việc gì do tự mình lĩnh ngộ
được mà tới thì có thụ dụng. Tại sao? Vì đương lúc mình lĩnh ngộ, tức là
lúc được thụ dụng, so với do thấy nghe ở phía ngoài mà được thì có ích
lợi hơn. Cho nên bực cổ đức thuyết pháp mỗi hay chẳng thổ lộ tận tình là
vì thế. Vì chưng đề phòng làm bít cái cửa giác ngộ của người ta. Tôi
nay giảng ra như thế nầy, chẳng tránh khỏi trái với cổ huấn, tự mình
biết sâu là có lỗi, có tội.
Nhưng chẳng thể nào mà chẳng giảng,
là cũng có ý sâu : Vì phật pháp suy đồi đã lâu, một hạng người sợ nghe
bát nhã, lại một hạng người đàm luận bát nhã thường thường đi vào đường
tẽ, mà các ông lại nhiệt tâm cầu pháp như thế này, nếu tuyệt đối chẳng
lay cho tỉnh lên một chút, thì lại cũng chẳng thể mở cửa giác ngộ chân
thực cho người ta. Vả lại có chỗ nhờ cậy mà không sợ gì, là có nửa bộ
kinh sau rất thâm thiết đối trị bịnh nầy, chẳng cần phải sợ kẻ nghe mà
trụ ở pháp. Nói đến chỗ nầy, còn có một việc chẳng thể nào mà tôi chẳng
cúng hiến. Phàm muốn lĩnh ngộ nghĩa chân thực trong kinh, thì chỉ ở chỗ
đọc một cách chí thành cung kính. Ðọc thuộc rồi lại phải thường thường
quán chiếu một, hai đoạn trong kinh, hoặc 1, 2 câu, quán chiếu tức là tư
duy. Nhưng thứ tư duy nầy khác xa với tôn chỉ bình thường chỗ gọi là
nghiên cứu. Bình thường nghiên cứu một thứ học vấn, là chuyện lấy phàm
tình để suy nghĩ, đo lường, đây thì chẳng thế. Tuy cũng chẳng lìa văn
tự, nhưng thiết yếu chẳng thể ở trên văn tự cân nhắc, đó là chẳng thủ
pháp. Lại phải đem trọn cả tinh thần chú ý ở kinh nầy, đó là chẳng thủ
phi pháp. Cái nầy tức là tu định, lâu ngày chầy tháng bỗng nhiên ở lúc
một niệm chẳng sanh, ánh sánh của tánh phát hiện lên, đạo lý chân thực
trong kinh tự nhiên vọt hiện ra. Cái nầy tức là tư duy tu, mới là thụ
trì, mới là có thể lĩnh ngộ. Cho nên mới nói, lúc lĩnh ngộ tức là lúc
được có thụ dụng. Ðọc kinh phải đọc cách nầy, thì hai môn học định và
tuệ bèn tu đều. Lại còn phải sám hối nhiều nhiều, cầu tam bảo gia hộ.
Nếu chẳng thế, sợ hoặc nghiệp chướng nặng, chẳng những chẳng thể lĩnh
ngộ, ngay đến quán chiếu cũng làm không được tốt.
Hỏi : Hai bên chẳng thủ tức là pháp môn bát nhã, thế thì các pháp bố thí v.v... có thể chẳng cần thực hành ư ?
Trả
lời : Lầm rồi! Nếu chẳng thực hành bố thí là thủ phi pháp, phải biết
bát nhã là mẹ của bố thí 5 độ, bát nhã sanh thì 5 độ cũng theo đó mà
càng sanh, sự thực hành 5 độ nầy càng hay khéo. Lấy bát nhã quán trí
thực hành 5 độ thì 5 độ đều là ba la mật.
Ðem một pháp ra nói
ắt có tứ cú khác nhau, hoặc nói hữu, hoặc nói vô, hoặc nói diệc hữu diệc
vô, hoặc nói phi hữu, phi vô. Thậm thâm bát nhã thì tứ cú đều khiển
trừ, chỗ gọi là ly tứ cú, tuyệt bách phi là vậy. Vì tự tánh thanh tịnh,
chẳng nhiễm mảy may bụi, nên phải hết thảy đều phi (chẳng phải), mà 4
đoạn trong kinh nầy chính là ly tứ cú. Ðoạn thứ nhứt là lấy vô khiển hữu
(trước hữu liền thành phàm phu, nên phải lấy vô khiển nó). Ðoạn thứ nhì
là nói diệc hữu diệc vô, để khiển cái vô nghiêng lệch (hành lục độ
pháp, là còn cái hữu, trong tâm không có tướng hành lục độ, là còn cái
vô). Cái vô nghiêng lệch là phòng rơi vào đoạn diệt. Ðoạn thứ ba là nói
phi hữu, phi vô, để khiển diệc hữu diệc vô. Vì diệc hữu diệc vô chẳng
tránh khỏi còn có 2 bên, cho nên lấy 2 bên đều chẳng nên thủ, tức là thủ
hữu cũng chẳng phải, mà thủ vô cũng chẳng phải, thì 2 bên chẳng đến nỗi
cách biệt, mà dung thông nhau.
Ðến đoạn thứ 4, chữ pháp trong
câu pháp thượng ưng xả, là trỏ những pháp lục trần mà nói, chữ phi pháp
trong câu hà huống phi pháp là trỏ pháp phi hữu phi vô mà nói. Vì chưng
lấy nghĩa hết thảy pháp chẳng sanh mà bát nhã sanh, chỗ gọi là 2 bên
chẳng thủ, là quán triệt đến suốt đáy. Nên chính ngay lúc độ, phải trước
từ diệc hữu diệc vô mà bắt đầu hạ thủ, để đạt đến phi hữu phi vô. Ðã
được diệt độ thì chẳng những pháp diệc hữu diệc vô bỏ đi, mà ngay cả đến
phi hữu phi vô cũng bỏ luôn nữa, mới thành ra như lai của chư pháp nhứt
như. Ðây đã đành là chỗ thường thuyết của chư phật như lai. Như thế
tôn, ngài cũng vậy, mặc áo ăn cơm, biểu thị giống như phàm phu, tiếng
nói, tướng hảo nghiễm nhiên đầy đủ, đến đây thì sanh tử, niết bàn 2 bên
đều chẳng trụ. Hữu ư ? Vô ư ? Diệc hữu, diệc vô ư ? Phi hữu, phi vô ư ?
Tứ cú đều chẳng thể nói. Hai câu bất ưng thủ pháp, bất ưng thủ phi pháp
là lời nói rất cần yếu.
Các lời nói ở trên đều là 2 bên chẳng
thủ, nên 2 câu nầy chẳng khác gì làm câu kết cho văn trên. Một đoạn lấy
chiếc bè làm thí dụ cũng là hiển rõ diệu pháp của 2 câu nầy, tức là a
nậu bồ đề pháp. Thuyết pháp như trên, chỗ gọi là đệ-nhứt-nghĩa tất đàn,
trong chỗ không thể nói mà phương tiện nói ra. Chỗ kinh nầy thuyết đều
là đệ-nhứt-nghĩa tất đàn, nên kẻ giảng cũng chẳng thể nào chẳng thuyết
như thế. Nhưng viên âm của phật một khi diễn ra thì không nghĩa nào là
chẳng bao gồm, chẳng kể làm một thứ thuyết nào cũng đều có thể được.
Thuyết trên rất cao, nay tôi cũng không ngại vì nhân-tất-đàn mà nói : Vì
nhân, nghĩa là đối cơ, kinh nói : Kinh nầy vì kẻ phát đại thừa thuyết,
vì kẻ phát tối thượng thừa thuyết, căn cơ như thế, cho nên vì những
người đó đốn thuyết. Như nói : không có 4 tướng ngã nhân, đây là thuyết
pháp ngã không, vì độ ngã chấp. Lại nói vô pháp tướng, bất ưng thủ pháp,
pháp thượng ưng xả, đây là thuyết pháp của pháp không, vì độ pháp chấp.
Lại nói : diệc vô phi pháp tướng, bất ưng thủ phi pháp, hà huống phi
pháp, là thuyết pháp của không không, vì độ không chấp. Thuyết pháp rất
nhiều như thế, sao lại ngờ là không có pháp, thì làm sao độ được ư ?
Phải biết nói là không có ngã nhân các tướng, chẳng phải là không có ngã
nhân các tướng, nói là không có pháp tướng, không có phi pháp tướng,
chẳng phải là rốt cuộc không có pháp và phi pháp. Tóm lại, nói không có,
nói chẳng thủ, nói xả, chỉ vì khiển chấp, chẳng phải là bỏ pháp đó đi.
Ba chấp đã khiển, thì tam không đều sáng, ba chướng tiêu hết, mới là
sanh tử, niết bàn 2 bên đều chẳng trụ, sao còn chẳng độ bờ bên nầy,
chẳng lên bờ bên kia ư ? Lại noi theo đối-trị tất-đàn mà nói. Ðối trị là
đối chứng cho thuốc để chữa bịnh của nó. Kinh nói : bịnh của chúng sanh
là ở chỗ chấp trước, nên phật đối với hữu thì thuyết không, đối với
không thì thuyết hữu, không cái nào là chẳng đối với chúng sanh trị bịnh
chấp trước nghiêng lệch của nó, một khi có chấp trước nghiêng lệch liền
cùng với tánh thể chẳng tương ứng, liền là bội giác hợp trần, liền
khiến cho nghiệp chướng sanh ra đầy dẫy, chịu khổ vô cùng tận, nên phải
đối trị. Như trong nầy nói : nên xả pháp, lại nói : lại nên xả phi pháp,
liền biết rằng xả pháp là xả cái bịnh chấp hữu. Lại như đã nói xả phi
pháp, lại nói luôn xả pháp, thì biết rằng chỗ gọi là xả phi pháp, cũng
là xả cái bịnh chấp không của nó. Bịnh đã trừ, thì cái hữu thành ra diệu
hữu, cái không thành ra chân không. Phải biết, gọi là diệu hữu, là rõ
ràng có mà chẳng có, nên diệu hữu tức là chân không. Gọi là chân không,
là rõ ràng không mà chẳng không, nên chân không tức là diệu hữu.
Do
đây mà nói, có thể biết rằng hạ thủ liền khiến 2 bên chẳng thủ, ấy
chính là khiến được : 2 bên chiếu cả 2. Chiếu cả 2 tức là : tinh tinh
tịch tịch, tịch tịch tinh tinh, (danh từ thường dùng trong thiền tông để
diễn tả trạng thái định, tuệ), cũng gọi là tịch chiếu đồng thời. Ðồng
thời tức là tịch mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch, đó tức là tịch
chiếu chân như tam muội, tức là cảnh giới phật. Ðến địa vị nầy há chỉ
diệt phiền não chướng, mà cũng diệt sở tri chướng, há chỉ độ phần đoạn
sanh tử, mà cũng độ biến dịch sanh tử, đó gọi là : giai linh nhập vô dư
niết bàn nhi diệt độ chi. Có thể biết, chỗ nói trong kinh nầy đều là vô
thượng diệu pháp cực viên cực đốn, khiến thẳng tới thành phật. Chẳng kể
tu pháp môn nào, nếu như có thể lĩnh hội ý nghĩa ở trong nầy mà thực
hành thì sự thành tựu ắt mau và cao. Vả chăng pháp nầy thẳng mau, rõ
đúng, nói là khó mà cũng không khó. Các bực thiện tri thức! Phật pháp
khó nghe, nay rốt cuộc đã được nghe, phật ân khó báo, rốt cuộc phải báo,
chỉ ở chỗ chúng ta gánh vác thực hành ngay mà thôi!
Tu Bồ Ðề ! Ư ý vân hà ? Như lai đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề da ? Như lai hữu sở thuyết pháp da ?
Dịch
nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, ở ý ông ra sao ? Như lai đắc a nậu đa la tam miệu
tam bồ đề chăng ? Như lai có chỗ thuyết pháp chăng ?
Câu hỏi
nầy là giải thích một đoạn chứng thành, lại là để giải thích rõ cái sở
dĩ nhiên của 2 câu bất ưng thủ, (làm sao mà 2 bên chẳng thủ, và vì sao
phải 2 bên chẳng thủ), mà đem quả địa chứng thành nhân địa ra nói, để
nói rõ phải nhân quả nhứt trí. Nên thế tôn đem cực quả ra hỏi Tu Bồ Ðề.
Sau khi giải thích rõ, lại đem nhứt thiết hiền thánh để chứng. Nhứt
thiết hiền thánh ngó lên cực quả là nhân, mà ngó xuống người mới phát
tâm là quả. Câu nói trong kinh thường thường nói ở chỗ nầy, mà ý lại ở
chỗ khác, ánh sáng con mắt phóng ra bốn phía. Ngay đến chỗ nầy là lời
hỏi, xem hai chữ DA, thì rõ ràng là trong lời nói bao gồm có vô đắc, vô
thuyết. Nhưng nếu nói vô đắc vô thuyết, thì lại là thủ phi pháp rồi. Còn
nếu nói hữu đắc, hữu thuyết, thì lại là thủ pháp rồi. Nay đem câu nầy
ra hỏi là thử thăm dò kẻ nghe pháp, cứu cánh ở chân thực nghĩa 2 bên
chẳng thủ, có thể lĩnh hội được chăng ? Kinh nầy phàm để 4 chữ : ư ý vân
hà, nói một cách cạn là để thử thăm dò người nghe pháp đối với những
lời thuyết ở trên có hiểu rõ được chăng.
Nói một cách sâu là
chỉ thị những người đọc tụng chúng ta chớ nên hiểu lầm ý của phật, ở
những lời nói dưới đây phải thể hội sâu xa, mới là chánh tri, chánh
kiến, nếu không thì chẳng hợp ý phật. Lời nói của phật hỏi, tự xưng là
như lai, trong lời đáp của Tu Bồ Ðề lại có nhứt thiết hiền thánh, thì có
thể thấy cái bất ưng thủ pháp, bất ưng thủ phi pháp này, chẳng kể thành
hiền thánh, thành như lai, đều nếu chẳng theo pháp môn này thì chẳng
được. Hai câu Như Lai, nối tiếp khít vào hai câu bất ưng thủ pháp, mới
xem đó thì chữ đắc giống như là có đắc, hữu sở thuyết giống như là có
thuyết. Ý của Phật rõ ràng bảo : Như Lai đối với những pháp của Phật
thuyết ra, trong tâm có chỗ thuyết chăng? Pháp này chính là trỏ a nậu đa
la tam miệu tam bồ đề. Như Lai vì sao thuyết pháp? Tức là vì hết thảy
chúng sanh chứng đắc vô thượng Bồ Ðề mới thành như lai, thì đương nhiên
là có đắc. Hai chữ “da” trong lời hỏi, ngoài biểu diện là pháp, mà ở
trong lại gồm có phi pháp. Vì sợ kẻ thô tâm có chỗ hiểu lầm, nên phải
cần Tu Bồ Ðề lại giải thích, chẳng những thử thăm dò đại chúng tới nghe
đối với nghĩa hai bên chẳng trước có thể hiểu rõ chăng, vả lại chỉ thị
cho chúng ta dụng công, nếu chẳng từ hai bên chẳng trước mà hạ thủ thì
chẳng thể được. Kẻ thô tâm liền ngờ rằng Phật ở dưới cây bồ đề thành đạo
há chẳng là đắc quả ư? Phật thuyết pháp 49 năm há chẳng là pháp ư? Làm
sao kêu lũ người mới phát tâm chúng ta chẳng nên thủ pháp? Trải qua Tu
Bồ Ðề giải thích, thế tôn không đắc mà đắc, không thuyết mà thuyết, thì
nghi ngờ nầy liền giải. Tiến lên một tầng nữa mà nói, chẳng nói thế tôn
đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, cũng chẳng nói Phật mà nói Như Lai.
Như Lai là pháp thân, là tánh đức, phật tánh thì mọi người đều có, riêng
phàm phu chứa dấu ở trong vỏ vô minh thôi. Nên nói hai câu nầy, là kêu
chúng ta CHỨNG TÁNH, trên tánh há có chỗ đắc ư? Há có chỗ thuyết ư?
Tu
Bồ Ðề ngôn : Như ngã giải phật sở thuyết nghĩa, vô hữu định pháp danh a
nậu đa la tam miệu tam bồ đề, diệc vô hữu định pháp như lai khả thuyết.
Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề nói : như chỗ tôi hiểu nghĩa Phật nói,
không có pháp nhất định gọi là a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, cũng
không có pháp nhất định như lai có thể thuyết.
Câu trả lời nầy
cực viên, cực diệu, xem giống như chỗ trả lời chẳng phải là chỗ hỏi. Thế
tôn đem một bên người năng đắc, người năng thuyết mà hỏi, trưởng lão
lại đem một bên người sở đắc, người sở thuyết mà trả lời. Hỏi là một bên
mà trả lời là một bên khác, rất là viên diệu. Ý bảo : thế tôn hỏi như
lai hữu sở đắc, hữu sở thuyết, ta còn chưa thành Phật thì chỗ nào mà
biết được? Nên ta bất quá đem một bên pháp sở thuyết, lại y theo nghĩa
của Phật từ xưa đến nay thuyết mà giải đáp sơ lược. Giải đáp như thế, là
theo đúng thân phận mình, ta đã chửa chứng được Phật, thì đã đành chẳng
thể biết, chỉ đem cái lý của thế tôn đã chỉ dạy để lĩnh hội, sẽ chẳng
đến nỗi lầm lẫn. Trưởng lão nói như thế, một phương diện vì tự mình
thiết tưởng, một phương diện khác lại khai thị chúng ta : thế tôn thuyết
hai câu này rất là khẩn yếu, phải chiếu theo tôn chỉ của trưởng lão để
lĩnh hội.
Trong câu trả lời của trưởng lão, chẳng nói Như Lai
mà nói Phật là có ý sâu. Vì chưng bảo lũ thiện nam tử, thiện nữ nhân
muốn chứng vô thượng bồ đề, thì phải chiếu theo Phật đã chứng được
quả-vị mà làm. Vô hữu định pháp, tức là pháp không có nhứt định, nói một
cách đơn giản là pháp chẳng thể chấp trước. Câu diệc vô hữu định pháp
là để làm chú giải cho pháp chẳng thể chấp. A nậu đa la tam miệu tam bồ
đề còn không có một pháp nhứt định nào có thể gọi, là ý trả lời văn trên
hữu sở đắc, hữu sở thuyết đã rõ ràng. Pháp còn không có tên nhứt định,
lại huống gì có sở đắc, lại huống gì có sở thuyết. Phật đối với thiện
nam tử, thiện nữ nhân phát bồ đề tâm, tại sao chẳng thuyết vô thượng bồ
đề, mà thuyết ưng hành ư bố thí, có thể thấy rằng ngoài hết thảy pháp,
không có a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, nên không có định pháp. Thuyết
pháp đều là phương tiện, cho nên cũng không có định pháp có thể thuyết.
Hà dĩ cố ? Như lai sở thuyết pháp dai bất khả thủ, bất khả thuyết, phi pháp, phi phi pháp.
Dịch nghĩa : Vì cớ gì? Như lai chỗ thuyết pháp đều chẳng thể thủ, chẳng thể thuyết, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp.
Hai
cái phi là : phi pháp, phi phi pháp, tức là hai cái đều ly, lại cũng là
2 cái đều già, có nghĩa là đều chẳng phải. Mấy lời nầy của trưởng lão
cực viên diệu, có thể giải thích nhiều cách. Câu văn của kinh phật nên
xem đủ mọi mặt. Phật tự nói : “ta thuyết pháp cùng kiếp chẳng hết”,
huống chi phàm phu chúng ta há chẳng từ nhiều phương diện để lĩnh hội ư?
Không có định pháp, cũng không có định pháp có thể thuyết, tức là đem
văn trên : a nậu đa la tam miệu tam bồ đề mà ngộ được. Trưởng lão tự bảo
mình : ta làm sao ngộ được không có định pháp, cũng không có định pháp
có thể thuyết ư? Nhân vì những pháp của như lai thuyết là vô thượng
giác, là cứu cánh giác. Cứu cánh giác tức là vô niệm. Vì cớ gì? Vì trong
kinh nói : lìa vi tế niệm, chiếu kiến tâm tánh gọi là cứu cánh giác. Có
thể thấy cứu cánh giác tức là vô niệm. Vô niệm thì làm sao có thể thủ?
Vì trong tâm một khi động mới có thể thủ. Năng thủ, sở thủ đều phải
chẳng đắc, nên nói dai bất khả thủ. Thế tôn muốn chỉ thị chúng ta tu
hành, nên không nói thẳng, chỉ nói mí, và miễn cưỡng mà nói. Mà bát nhã
tâm tánh lìa tướng ngôn thuyết, không có năng thuyết, sở thuyết, nên nói
: dai bất khả thuyết. Chúng ta nếu chấp là thiệt có a nậu đa la tam
miệu tam bồ đề có thể chứng là sai lầm rồi, nên mới nói : phi pháp.
Nhưng nếu lại chấp là không có a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, thì lại
sai lầm rồi, nên nói phi phi pháp. Lại chữ pháp, trong câu như lai sở
thuyết pháp, là trỏ hết thảy pháp mà nói, vì hết thảy pháp tức là a nậu
đa la tam miệu tam bồ đề. Chỗ pháp như lai thuyết kêu chúng ta chẳng thể
thủ, nhưng rành rành lại thuyết bao nhiêu pháp kêu chúng ta chẳng thể
thủ phi pháp. Cho nên lũ người nghe pháp chúng ta, pháp và phi pháp đều
chẳng thể thủ. Nên có thể biết rằng người thuyết pháp cũng là bất dĩ mà
thuyết, đối cơ mà thuyết. Ðã là pháp không có định, thì có thể thấy,
chấp pháp là chẳng phải, nhưng rõ ràng là thuyết pháp thì có thể thấy
chấp phi pháp cũng chẳng phải. Hai câu phi pháp, phi phi pháp chính là
để chú giải cho câu bất ưng thủ pháp, bất ưng thủ phi pháp. Tại sao
chẳng nên thủ pháp? Vì chẳng phải pháp. Tại sao chẳng nên thủ phi pháp?
Vì chẳng phải phi pháp. Phi pháp, phi phi pháp lại có thể xoay ngược lại
mà xem, như nói : như lai sở thuyết, phi pháp, phi phi pháp, dai bất
khả thủ, bất khả thuyết.
Trưởng lão bảo : diệc vô hữu định pháp
như lai khả thuyết, riêng đem 2 chữ như lai ra nói là : như lai tức là
pháp thân, pháp thân không có tướng, thì làm gì có thể thuyết. Bao gồm
cái ý ứng, hóa thân có tướng, có thể thuyết, nên nói không có định pháp.
Vô hữu định pháp có nghĩa là chẳng thể chấp định có pháp có thể thuyết,
cũng chẳng thể chấp định không có pháp có thể thuyết. Pháp thân là
tánh, tánh là đại viên giác hải, vô lượng vô biên. Ðem tánh ra mà nói,
thì hết thảy chúng sanh và chư bồ tát đều là nhứt chơn pháp giới. Cho
nên thế tôn thuyết pháp là từ trong đại viên giác hải tự tại chảy ra.
Chúng ta muốn chứng đến đại viên giác hải, phải trước lìa tâm duyên
tướng, thì làm sao có thể thủ, lại phải lìa ngôn thuyết tướng, thì làm
sao có thể thuyết. Lìa ngôn thuyết tướng chính là dứt hết đường ngôn
ngữ, lìa tâm duyên tướng chính là dứt hết chỗ tâm hành. Ðã là diệt hết
chỗ tâm hành, dứt hết đường ngôn ngữ, thì làm sao có thể phân biệt. Nên
mới nói : phi pháp, phi phi pháp.
Trước nói về vô niệm, chính
là phải lìa tâm phân biệt, nên nói bất ưng thủ pháp, bất ưng thủ phi
pháp. Thế tôn chứng được pháp thân như lai, tuy có chỗ đắc mà là không
có chỗ đắc, tuy có chỗ thuyết mà là không có chỗ thuyết. Muốn chiếu cả 2
bên thì trước phải lìa cả 2 bên. Hai câu chỗ thế tôn hỏi cũng tức là
gồm có ý nầy. Như bảo pháp thân còn có chỗ đắc ư? Pháp thân còn có chỗ
thuyết ư? Như lai sở dĩ gọi là như lai, là trước lìa phân biệt. Các ông ở
nhân địa tu hành cũng phải trước lìa phân biệt, sao có thể còn có cái
thấy có chỗ đắc, có chỗ thuyết ư?
Sở dĩ giả hà ? Nhứt thiết hiền thánh dai dĩ vô vi pháp nhi hữu sai biệt.
Dịch nghĩa : Sở dĩ ra sao? Hết thảy hiền thánh đều lấy pháp vô vi mà có sai biệt.
Sở
dĩ giả hà : tức là trỏ ra cái sở dĩ nhiên làm sao 2 bên đều phải PHI.
Hết thảy hiền thánh đều dùng pháp hai bên đều PHI nầy, thì lũ phàm phu
chúng ta sao có thể chẳng dùng. Thập trụ, thập hành, thập hồi hướng, tứ
gia hạnh là hiền, sơ địa đến đẳng giác là thánh. Như lai là cực thánh
nên nói nhứt thiết. Vô vi là niết bàn. Niết bàn là tiếng Phạm, nói cho
đủ là Bát niết bàn, dịch là tịch diệt, hoặc bất sanh bất diệt. La Thập
đem danh từ xưa của Trung Quốc, dịch là vô vi. Huyền Trang Tam Tạng pháp
sư nhà Ðường không tán thành dùng danh từ xưa, vì danh từ xưa và tiếng
Phạm nguyên ý chẳng giống nhau hết, cho nên những danh từ của Huyền
Trang dịch đều là mới đặt ra, để tránh cho độc giả hiểu lầm. Chữ vô vi ở
đây là bất sanh bất diệt, chẳng giống với nghĩa vô vi là thuần thuận
theo tự nhiên, chẳng tạo tác của Lão Tử.
Dùng danh từ mới để
dịch đã đành là thích nghi, nhưng Huyền Trang ở chỗ chẳng đến nỗi hiểu
lầm, cũng chế tạo ra bao nhiêu danh từ mới nữa, thì chúng ta cũng chẳng
tán thành. Vô vi là trỏ tâm của tự tánh thanh tịnh, nguyên lai đầy đủ,
không có tướng tạo tác. Câu vô tu, vô chứng trong kinh phật tức là trỏ
vô vi mà nói. Chỉ cần đem tâm sanh diệt diệt xong, thì tịch diệt liền
hiện ra. Ðến như phương pháp tu hành, tức là phi pháp, phi phi pháp, hai
bên chẳng thủ ở văn trên. Ắt phải hai bên chẳng thủ, đem phân biệt vọng
tưởng trừ hết thì mới có thể được. Nên thành bực hiền, thành bực thánh
đều dùng pháp nầy. Hiền và thánh khác nhau rất xa, ngó lên như lai là
nhân địa, ngó xuống phàm phu là quả vị. Lại cái dưới dưới ngó ở cái trên
trên đều là quả, cái trên trên ngó ở cái dưới dưới đều là nhân, nên nói
là nhứt thiết. Hiền thánh do vô vi nầy mà thủ chứng, cho nên nói dai
dĩ. Như Lai cũng thế, Như Lai phàm có chỗ thuyết đều nương theo tự chứng
vô vi, chẳng thể bảo đó là phi pháp. Nhưng hiền và thánh có khác biệt,
địa vị cạn sâu chẳng giống nhau. Vì thế biết rằng như lai phàm có chỗ
thuyết đều tùy thuận cơ-nghi, chỉ là phương tiện mà chẳng phải thiệt,
chẳng phải bảo đó là phi phi pháp. Chỗ thuyết pháp của thế tôn, không
cái cạn nào mà chẳng sâu, không cái sâu nào mà chẳng cạn, nên dạy kẻ bắt
đầu thực hành là ngay ở chẳng nên thủ pháp, chẳng nên thủ phi pháp mà
dụng công. Ðến lúc cảm quả, công phu cực sâu thì cũng vẫn là pháp nầy.
Chúng ta phải ở chỗ khởi tâm động niệm mà hạ thủ, trước phải quán vô
niệm. Có thể ở lúc động một niệm bèn biết, liền lập tức quán trở lại,
thì liền có thể chiếu trụ, niệm liền không có.
Nhưng chẳng phải
kẻ dụng công lâu ngày thì chẳng thể được. Nên bước đầu phải quán sát.
Quán sát thì chẳng thể nào mà chẳng suy nghĩ sâu. Suy nghĩ sâu thì quán
bao nhiêu niệm nầy từ chỗ nào nổi dậy? Một khi quán, thì nó nổi dậy ở
chỗ không nổi dậy, vốn nó hư vọng. Hễ niệm lại nổi dậy thì lại quán,
dụng công day qua trở lại, thì liền có thể chiếu trụ, liền có thể vô
niệm. Khoa nầy Ðạt Thiên pháp sư phán là sanh tín, rất là xác đáng. Vì
trong kinh văn : năng sanh tín tâm dĩ thử vi thực, và nhứt niệm sanh
tịnh tín, thì rõ ràng là giảng về tín vậy. Như lai nương theo pháp nầy
mà thành như lai, hết thảy hiền thánh đều nương theo pháp nầy mà thành.
Thế thì chúng ta nếu chẳng có thể sanh tín tâm như thế, lấy đây làm
thực, thì chẳng thể được.
Tu Bồ Ðề ! Ư ý vân hà ? Nhược nhân
mãn tam thiên đại thiên thế giới thất bảo dĩ dụng bố thí, thị nhân sở
đắc phước đức ninh vi đa phủ ?
Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, ở ý
ông ra sao? Nếu có người lấy đầy bảy báu ở tam thiên đại thiên thế giới
để dùng bố thí, người nầy chỗ được phước đức phải là nhiều chăng?
Ðây
là sự so sánh thù thắng, đem ngay phước đức, lấy trí tuệ để mà so sánh.
Có người nói : kinh nầy phật dạy người ta chẳng trụ tướng, lại tại sao
chỗ nào cũng lấy phước đức để so sánh? Ðây có 4 thứ yếu nghĩa :
1)
Muốn cho người ta hiểu rõ phước tuệ phải tu cả hai, chuyên tu tuệ chẳng
tu phước thì chẳng thể được. Như giảng kinh thuyết pháp nguyên vì độ
sanh, mà chúng sanh trái lại chẳng ưa nghe lời nói của nhà ngươi, đó là
duyên cớ thiếu khuyết phước đức. Nên phước đức rất cần yếu. Tu cả 2
phước và tuệ tức là muốn cho người ta bi và trí đầy đủ, trí là tuệ, bi
là phước. Chư phật như lai đều lấy đại bi tâm làm thể. Vì chúng sanh mà
nổi dậy tâm đại bi, nên phật pháp đại thừa xây dựng ở trên phần của
chúng sanh. Xem phẩm Phổ Hiền Hành Nguyện liền biết nguyện của Phổ Hiền
là đại bi phát ra, trong có một đoạn rằng : “Hoặc lại có người nào lấy
thâm tín tâm, ở nguyện lớn nầy thụ trì đọc tụng, cho đến viết ra một bài
kệ 4 câu, thì mau có thể diệt trừ 5 nghiệp vào địa ngục vô gián”. Lại
nói “mau được thành tựu vi diệu sắc thân đầy đủ 32 tướng đại trượng
phu”. Thế nên biết rằng chúng sanh nếu có thể viên mãn Phổ Hiền công
đức, thì liền có thể diệt tội được phước, mà tu Phổ Hiền hành nguyện thì
trước phải phát tâm đại bi. Nên bi tức là phước. Chỗ nói phước đức
trong kinh nầy đều do đại bi mà phát ra, chẳng phải là khiến người ta
cầu phước báo ở cõi trời cõi người.
2) Phước đức trọng yếu như
thế, nên phải phát tâm đại bi. Nhưng nếu không có trí tuệ thì không thể
hành bồ tát đạo, nên đại trí lại càng trọng yếu. Cổ nhân nói : “phước và
tuệ như 2 bánh xe”. Có thể thấy như lai ắt phải có 2 bánh xe thì mới có
thể hành giáo hóa. Nhưng sức của 2 bánh xe như tay trái, tay mặt, lấy
tay mặt làm trọng. Phước đức đã đành là cần yếu, mà trí tuệ lại càng cần
yếu hơn. Cho nên mãn tam thiên đại thiên thế giới thất bảo bố thí,
chẳng bằng thụ trì 4 câu kệ, vì người khác nói.
3) Mượn sự so
sánh thù thắng nầy, liền đem văn trước kết thúc. Phật thuyết pháp tuy là
lời nói thẳng tới, mà ở khoảng giữa ắt chỗ chỗ kết thúc, chỗ so sánh
thù thắng của kinh nầy tức là chỗ chương cú kết thúc.
4) Kinh
nầy nhiều lần so sánh sự thù thắng, mỗi lần ắt thêm lên sự thù thắng,
càng so sánh càng thù thắng chẳng phải là văn sau sâu hơn văn trước, sai
khác nhau xa như thế đâu. Bèn đem chúng sanh ra mà nói, là trỏ công
hành của nó càng thắng, thì phước đức càng nhiều. Nhược : là lời nói để
hỏi, chẳng cần thiệt có việc nầy, người nầy. Mãn tam thiên đại thiên thế
giới thất bảo bố thí : ở trong kinh là Ðại-Phạm-Thiên-Vương trong nhân
đời trước làm sự bố thí, như thế chẳng phải là một đời, mà là nhiều đời
nhiều kiếp bố thí, tích chứa lại mới có nhiều như thế. Phật nói : nếu
như có người nầy, thì lúc bấy giờ không làm gì có người nầy, có thể biết
được. Trong kinh phật thuyết : trên thế giới núi hết sức lớn là núi Tu
Di, cũng gọi là Tu Di Lâu, dịch là núi diệu cao. Núi nầy ở vào trong
biển 80.000 do tuần nhô ra ngoài biển 80.000 do tuần (1 Do tuần bằng 40
dặm của Trung Quốc) nên hết sức cao. Núi nầy chẳng phải là đất đá làm
nên, mà là kim, ngân, lưu ly, pha lê 4 món báu làm nên, nên gọi là diệu.
Vây vòng quanh núi nầy có biển lớn gọi là hương thủy hải, ngoài vòng
quanh lại có biển, có núi cộng 7 lần, gọi là thất hương hải, thất kim
sơn. Phía ngoài nữa lại có biển lớn gọi là hàm thủy hải, bao vây phía
ngoài có núi lớn gọi là đại thiết vi sơn. Ngoài núi nầy lại có 4 đại
châu. Một trong 4 đại châu nầy là nam thiệm bộ châu, chỗ chúng ta ở đây.
Người đời lấy 4 châu của trái đất cho là 4 châu của kinh phật, là sai
lầm. Bốn đại châu nầy cũng gọi là tứ thiên hạ, ở nửa chừng núi Tu Di.
Sáu từng dục thiên cùng với nhân đạo rất gần là tứ thiên vương thiên,
cung điện của cõi trời nầy ở ngay nửa chừng núi Tu Di. Tứ Thiên Vương
thống lĩnh nhân đạo, qủi đạo, kiểm tra xem xét thiện ác ở nhân gian là
trách nhiệm của cõi trời nầy. Ở phía trên cõi trời nầy là Ðao Lợi Thiên,
cõi trời nầy cũng ở hư không tức là ở trên đỉnh núi Tu Di, Ngọc Hoàng
của Ðạo giáo, Hiệu-Thiên thượng đế của Nho giáo tức là cõi trời nầy. Từ
cõi trời tứ thiên vương cho đến lục đạo đều thuộc về cõi trời nầy cai
quản.
Lại lên 4 từng trời nữa tức là ở hư không. Sắc giới ở
trên dục giới, có 18 cõi trời chia ra làm sơ thiền, nhị thiền, tam
thiền, tứ thiền, lên cõi trời sắc giới nầy chẳng chỉ là có phước đức mà
thôi, mà phải có đủ định lực. Ðã không còn dâm dục, nhưng vẫn còn sắc
chất, nên gọi là sắc giới. Kẻ lên sơ thiền chẳng ắt phải tu định của nhà
phật, ngay đến định của ngoại đạo cũng có thể lên cõi trời nầy, như đại
la-thiên của đạo giáo cũng là sơ thiền. Kẻ tu định trong phật giáo mà
chưa ra khỏi tam giới cũng ở gởi nơi cõi trời nầy, nên gọi tên chung là
thiền. Ðại-Phạm Thiên-Vương ở cõi trời sơ-thiền quyền cao hơn Thích-Ðề
Hoàn-Nhân. Thích-Ðề Hoàn-Nhân cai quản 1 tứ-thiên-hạ, còn Ðại-Phạm
Thiên-Vương thì cai quản tam thiên đại thiên thế giới. Sa bà thế giới
chỗ Thích Ca giáo hóa cũng lớn như thế. Thế giới của mỗi vị phật cai
quản đều như thế, chẳng qua có sự khác nhau về tịnh và uế. Ngay đến cực
lạc thế giới cũng lớn như thế, nhưng quốc độ nầy bằng phẳng, bảy báu làm
nên, khác xa với quốc độ chúng ta ở đây, vì nhân tâm hiểm ác, nên cảm
ra lồi lõm chẳng bằng phẳng. Chỗ tu phước đức của chúng sanh lớn liền
cảm bảy báu nhiều, chỗ tu phước đức nhỏ liền cảm bảy báu ẩn đi.
Bảy
món báu : vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, xích châu chẳng
phải là món nhân công hiện tại tạo nên được. Người nầy lấy mãn tam thiên
đại thiên thế giới thất bảo bố thí cho chúng sanh cũng chẳng phải sức
người có thể làm nổi. Ninh vi : nghĩa là có thể bảo là. Lời hỏi của thế
tôn hết sức hay khéo, chẳng những thăm dò Tu Bồ Ðề, lại thăm dò luôn
chúng ta. Vì sợ chúng ta hiểu lầm ý bất trụ tướng ở văn trên, cho là đã
bất trụ tướng, thì cần gì phải phước đức? Phải biết rằng người nầy bố
thí mãn tam thiên đại thiên thế giới, tức là cứu độ chúng sanh. Nên chỉ
có thể chẳng trụ tướng, mà chẳng thể chẳng làm bố thí, nếu không thì
chẳng phải là tâm đại bi.
Tu Bồ Ðề ngôn : thậm đa, thế tôn. Hà dĩ cố ? Thị phước đức tức phi phước đức tánh, thị cố như lai thuyết phước đức đa.
Dịch
nghĩa : Tu Bồ Ðề nói : thưa thế tôn, rất nhiều. Vì cớ gì? Phước đức nầy
tức là chẳng phải tánh của phước đức, thế nên như lai nói phước đức
nhiều.
Lời đáp này ý vị sâu xa. Tu Bồ Ðề hiểu rõ ý thế tôn, nên
nói thậm đa. Lại sợ người ta chẳng hiểu rõ, trước đây rành rành nói là
chẳng trụ tướng, nay bỗng nói rất nhiều, so sánh kỹ lưỡng há chẳng phải
là trụ tướng ư? Dưới câu hà dĩ cố, là tự mình giải thích rõ ràng cái sở
dĩ nhiên của câu trả lời thậm đa. Câu văn : thị danh, tức phi, trong
kinh này rất nhiều, đây là chỗ thấy lần thứ nhứt, nên ý câu nói so sánh
rõ ràng hơn. Câu này đặc biệt nói ra một chữ TÁNH, là khiến người ta
hiểu rõ từ đây trở về sau phàm nói TỨC PHI đều là trỏ TÁNH mà nói. Thị
cố thuyết, cũng như nói là THỊ DANH, là khiến cho người ta hiểu rõ từ
đây về sau phàm nói THỊ DANH tức là trỏ TƯỚNG mà nói. Ðem tướng ra mà
nói : danh là danh-tự tướng, ngôn là ngôn-thuyết tướng. Phàm vật lớn
nhỏ, dài ngắn, cao thấp, xa gần, trong ngoài, có đối đãi đều là tướng.
Tướng có biến động, là hư vọng. Tánh thì chẳng động, là không tịch. Nên
đem tánh ra mà nói, thì hết thảy chẳng thể thuyết. Ý Tu Bồ Ðề bảo là :
nếu là tướng của phước đức có thể nói là nhiều, thì tức là chẳng phải
tánh của phước đức. Nếu là tánh của phước đức thì không không tịch tịch,
ngay đến 2 chữ phước đức cũng không nói ra được, còn có chỗ nào mà nói
nhiều hay ít? Từ đây xuống dưới phàm gặp chữ tức phi, thị danh đều phải
giải nghĩa như thế. Chỗ nầy riêng thêm vào 2 chữ như lai, như lai là tên
gọi của tánh thể. Nói phước đức đã là đem tướng mà nói, tại sao lại còn
đem như lai ra nói? Ðây có yếu nghĩa. Vì tánh là trong, tướng là ngoài,
tánh là gốc, tướng là ngọn. Có trong mới có ngoài, có gốc mới có ngọn. Ý
bảo : có tánh của như lai thì mới có phước đức có thể nói. Nếu không có
tánh thì sao có phước đức có thể nói. Thị phước đức tức phi phước đức
tánh, trên biểu diện nói là phước đức, thực ra là chỉ thị chúng ta chẳng
thể trước tướng. Thị cố như lai thuyết phước đức đa, tức là nói có tánh
này thì mới có tướng này, khiến chúng ta hội tướng trở về tánh.
Nhược phục hữu nhân ư thử kinh trung thụ trì, nãi chí tứ cú kệ đẳng, vị tha nhân thuyết, kỳ phước thắng bỉ.
Dịch nghĩa : Nếu lại có người ở trong kinh nầy thụ trì, cho đến 4 câu kệ, vì người khác nói, phước nó thắng kẻ kia.
Khoa
nầy là lời nói của phật, đáng lẽ phải có chữ phật ngôn, hoặc Tu Bồ Ðề,
nay lược đi. Chữ phục trong nhược phục nầy có nghĩa là lại. Ðộc giả hoặc
đến nỗi hiểu lầm cho thụ trì là đọc Kim Cương kinh thì phước liền thắng
hơn Ðại Phạm Thiên Vương. Thực ra phải chú ý 2 chữ THỤ TRÌ. Người nầy
có thể thụ trì kinh nầy, lại có thể bố thí mới thắng hơn Ðại Phạm Thiên
Vương. Thụ là lĩnh nạp, nghĩa là trỏ thiệt có thể lĩnh hội nghĩa kinh mà
được thụ dụng, so với chữ giải lại tiến lên một tầng nữa. Trì là ý vâng
giữ một cách khẩn thiết, một khắc chẳng buông lơi, so với chữ thụ lại
tiến lên một tầng nữa. Ðã thụ trì không thể nào mà chẳng đọc tụng, nên
chỉ dùng 2 chữ thụ trì. Nãi chí là ý lời sơ lược, bảo hoặc thụ trì toàn
bộ, hoặc thụ trì một bộ phận, ít nhất cũng 4 câu kệ.
Kệ vốn là
một thể thơ của Aán Ðộ, vì là văn vần nên khó dịch, nên lúc dịch hoặc có
vần, hoặc không có vần, đổi tên lại là kệ tụng. Nguyên văn Ấn-Ðộ mỗi 4
câu là một chương. Tứ cú kệ nầy chẳng phải nhứt định trỏ 4 câu kệ nào
trong kinh. Bất luận 4 câu nào cũng đều có thể gọi là kệ. Ở trên là tự
lợi; vị tha nhân thuyết ở dưới là lợi tha. Chữ kỳ là trỏ cái phước của
trì thuyết. Thắng bỉ : là hơn người trước. Người trước chỉ làm đến bố
thí, vả lại là tài thí, là tướng của phước đức. Người này đã có thể thụ
trì để tu tuệ, lại có thể làm pháp thí để tu phước, phước tuệ tu cả hai,
bi, trí đầy đủ mới là phước đức tánh, nên hơn kẻ kia.
Hà dĩ cố ? Tu Bồ Ðề ! Nhứt thiết chư phật cập chư phật a nậu đa la tam miệu tam bồ đề pháp dai tùng thử kinh xuất.
Dịch nghĩa : Vì cớ gì? Tu Bồ Ðề ơi, hết thảy chư phật và pháp a nậu đa la tam miệu tam bồ đề của chư phật đều từ kinh nầy ra.
Phật
ở trong kinh Ðại Bát Nhã đã nói rồi. Chẳng kể hết thảy pháp nào đều thu
nhiếp hết ở trong bát nhã, nên Bát nhã ở trong các kinh là rất cần yếu,
mà kinh Kim Cương lại càng là tối cần yếu trong bát nhã. Phàm những yếu
nghĩa trong kinh Ðại Bát Nhã thì kinh nầy đều có đủ. Có thể thấy đọc
kinh nầy chẳng khác gì đọc cả bộ Ðại Bát Nhã, lại chẳng khác gì đọc tam
tạng 12 bộ kinh. Chỗ thuyết của một bộ kinh nầy là pháp vô thượng chánh
đẳng, nên nói : nhứt thiết chư phật, và chư phật a nậu đa la tam miệu
tam bồ đề pháp đều từ kinh nầy ra.
Nhứt thiết chư phật là người
năng chứng, a nậu bồ đề là pháp sở chứng. Chiếu theo đó mà xem thì pháp
môn thành phật ở ngay kinh nầy, mà thành phật cũng ở kinh nầy. Người
nầy có thể thụ trì pháp môn thành phật nầy, bố thí pháp môn thành phật
nầy, nên phước đức cùng kiếp nói không hết. Hà sự bố thí tam thiên đại
thiên thế giới thất bảo có thể so sánh được ư? Ðây là lần so sánh thứ
nhứt của kinh nầy. Ðem sự tích của Ðại Phạm Thiên Vương ra nói, chính là
cân nhắc từng đồng cân, từng lượng, vì kia là sự bố thí thành ra Ðại
Phạm Thiên Vương, còn đây là sự bố thí thành phật. Chỗ phật quản lĩnh
cũng là tam thiên đại thiên thế giới, lấy đây mà so sánh với kia có thể
là bằng nhau. Nhưng Ðại Phạm Thiên Vương còn là phàm phu, còn phật là
bực thánh nhân, là giáo chủ, sao có thể so sánh được? Huống chi Ðại Phạm
Thiên Vương còn chẳng tránh khỏi đại tam tai ư?
Lại còn có yếu
nghĩa nũa : kinh nầy chỗ nào cũng dạy người ta chẳng trụ tướng. Bịnh
của phàm phu là chỗ chỗ trước tướng, chẳng trước ở chỗ nầy, thì trước ở
chỗ kia. Kinh nầy chỗ nào cũng dạy người ta kiến tánh. Nhưng chữ TÁNH
trong kinh nầy, trừ chữ tánh trong câu tức phi phước đức tánh, ngoài ra
không có chỗ nào thấy nữa, vì muốn cho người ta khéo tự mình thể hội,
ngay đến chữ TÁNH cũng chẳng thể chấp trước. Nhứt thiết chư phật đều từ
kinh nầy ra, là trỏ bảo chúng ta học phật phải từ kinh nầy vào. Khoa chỉ
thị đích xác vô trụ sanh tín nầy rất là thích đáng, vì tín tâm là cửa
vào đạo.
Tu Bồ Ðề, sở vị phật pháp giả, tức phi phật pháp.
Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, chỗ gọi là phật pháp tức chẳng phải phật pháp.
Câu
sở vị phật pháp ở đây, chữ phật là trỏ văn trên câu nhứt thiết chư
phật, chữ pháp là trỏ văn trên câu chư phật a nậu đa la tam miệu tam bồ
đề pháp. Ý phật bảo : ta phía trên chỗ nói hết thảy chư phật và chư phật
a nậu đa la tam miệu tam bồ đề pháp, là từ trên danh tướng mà nói phật
và pháp, mà chẳng phải từ trên tánh mà nói phật và pháp. Kinh nầy rành
rành dạy người ta chẳng nên trụ tướng, tức như văn trên chỗ nói 2 câu
nhứt thiết chư phật cũng chẳng thể trước tướng.
Nếu một khi
trước tướng, thì chẳng phải là a nậu đa la tam miệu tam bồ đề pháp. Kết
thúc như thế nầy ở văn trên thì ý nghĩa của bất trụ tướng, hành ư bố
thí, bất thủ pháp, bất thủ phi pháp đều viên mãn. Một khoa chỉ thị đích
xác vô trụ sanh tín ở trên, mở miệng liền khiến quảng độ chúng sanh
thành phật (nhập vô dư niết bàn tức là thành phật), là khai thị chúng ta
phải không trụ ở các tướng ngã, nhân v.v... lại nói : thực vô chúng
sanh đắc diệt độ giả, là phải không trụ ở pháp tướng. Lại nói : ư nhứt
thiết pháp vô trụ nhi hành ư bố thí, là phải không trụ ở phi pháp tướng.
Vì thế lấy 4 chữ : bất trụ ư tướng để tổng kết. Bất trụ ư tướng là chân
thuyên của vô trụ. Sở dĩ phải vô trụ ấy là hàng phục vọng tâm vậy (vọng
tâm là thức, cũng là phân biệt), vọng tâm không là cái gì khác, chỉ là
trước tướng phân biệt mà thôi. Nhưng trong lời hỏi trước trụ, sau hàng
phục, trong lời đáp lại trước hàng phục, sau trụ, mà lúc đáp trụ lại nói
ưng vô sở trụ, lại nói đãn ưng như sở giáo trụ. Mà sở giáo là vô trụ,
thế thì há chẳng phải nên trụ ở vô trụ ư? Ðây lại chỉ thị đích xác là
chỉ phải trừ vọng, chớ lại tìm chân, vì vọng trừ thì chân tự hiện ra. Vả
tánh của chân như thì như như bình đẳng, nếu trụ ở chân bèn thành chấp
dị, chấp thì thành vọng, làm gì có chân. Dị thì chẳng phải là bình đẳng,
làm gì có như.
Cho nên chỉ phải lấy vô trụ để hàng phục vọng
tâm, đó tức là chánh trụ, há có thể cầu chỗ trụ nào khác. Vọng trừ một
phần thì chân liền hiện ra một phần, cần gì phải tìm cái chân nào khác
ư? Nên nối tiếp nói rằng : phàm sở hữu tướng đều là hư vọng, đây là nói
rõ cái lỗi của trụ tướng. Nếu trụ ở tướng tức là đuổi theo cái vọng, sở
dĩ ban đầu nói hàng phục. Lại nói: nếu thấy chư tướng phi tướng thì thấy
như lai, đây là nói rõ ích lợi của chẳng trụ tướng. Nếu có thể chẳng
trụ pháp tướng, phi pháp tướng, bèn thấy chơn tánh. Ðây sở dĩ chỉ nói
hàng phục, chẳng nói trụ, mà hàng phục tức là chánh trụ. Khai thị như
thế thực là đích xác, rõ ràng, nên đem các văn trên đều qui về một tiểu
khoa nên tên là MINH THỊ, là vậy.
Minh thị như thế, để khiến
người ta sanh tín, nên nối tiếp bằng khoa nhỏ sanh tín. Trong khoa nầy
chỉ riêng chọn trì giới tu phước là có thể sanh tín, càng đầy đủ nghĩa
lý tinh thâm. Nói sơ lược có 3 nghĩa : 1) Bát nhã đây gọi là chánh trí
tuệ, mà tuệ từ định sanh, định do giới thành. Nay muốn mở chánh trí, ắt
phải trì giới, nếu không thì chánh trí chẳng sanh, trái lại thành cuồng
tuệ, đi vào đường tà, hết sức nguy hiểm. Hai bánh xe phước và tuệ chẳng
thể thiếu một, 2 bánh xe đều vận chuyển mới thành ra lưỡng túc tôn. Nếu
tuệ nhiều phước ít, thì khuyết thiếu đại bi, chẳng thể nhiếp hóa chúng
sanh. Nên tu bát nhã chánh trí chẳng thể lìa bố thí các độ mà tu riêng,
cho nên trong kinh ban đầu mở ra liền nói độ rộng chúng sanh, lại nói : ư
pháp vô trụ mà hành bố thí, vì lìa phước mà tu tuệ, đã cùng với chúng
sanh vô duyên, tướng hảo cũng chẳng đầy đủ, thì muốn hóa chúng sanh cũng
chẳng nghe sự giáo hóa của mình. Chỗ nầy chúng ta phải nên biết.
2)
Trì giới thì ít ham muốn, tri túc, tu phước ắt phải tin sâu nhân quả.
Nay tu quán chiếu bát nhã, nếu tham dục nhiều thì sao có thể lìa tướng?
Nếu chẳng hiểu rõ nhân quả, lại dễ nghiêng vào tướng đoạn diệt. Kinh nói
: kẻ trì giới tu phước có thể sanh tín tâm, tức là chỉ thị một cách
đích xác cho chúng ta phải nên trì giới tu phước thì mới có thể vào
trong cửa bát nhã, ý khuyên răn rất là thâm thiết. Cái chúng lại phải
nên biết là như thế! Tóm lại trì giới tu phước đã là không có phi pháp
tướng, nên y theo kinh quán chiếu nhân không, pháp không, thì quyết
chẳng đến nỗi đi vào đường tẽ. Quả nhiên có thể một niệm tương ứng, liền
khế hợp với lý tam không, tức là không có các tướng ngã nhân v.v...,
không có pháp tướng, cũng không có phi pháp tướng. Chỗ gọi là không có,
chẳng phải là ngoan không mà là chẳng chấp thủ tướng. Hai chữ bất thủ
lại là chân thuyên của bất trụ tướng. Mà muốn chẳng thủ tướng thì phải
chẳng thủ pháp, chẳng thủ phi pháp. Thủ pháp liền thành pháp tướng, liền
trước ở hữu. Thủ phi pháp liền thành phi pháp tướng, lại trước ở không.
Không, hữu chẳng trước liền thành trung đạo đệ nhứt nghĩa, tức là a nậu
đa la tam miệu tam bồ đề pháp. Ví như thuyền bè, lúc độ thì dùng pháp
nầy, độ xong liền phải xả.
Thế nên tuy đã thành phật, tuy
thuyết pháp độ sanh như phật, cũng là tuy đắc mà chẳng có chỗ đắc, tuy
thuyết mà chẳng có chỗ thuyết. Chẳng thể nhứt định chấp là có pháp, nhứt
định chấp là không có pháp, nên mới nói là không có định pháp. Bốn chữ
vô hữu định pháp nầy lại là chân thuyên chẳng thủ pháp, chẳng thủ phi
pháp. Nhân hiểu rõ vì nó vô định cho nên chẳng nên thủ. Chỗ gọi là chẳng
thủ ấy là chẳng chấp vậy thôi. Tóm lại pháp chỗ Phật thuyết vốn đều
chẳng thể thủ, đều chẳng thể thuyết. Phải ở lúc chỗ tâm hành diệt mất,
đạo ngôn ngữ dứt mất, mà khế hợp vào. Nên thủ pháp, thuyết pháp, thủ phi
pháp, thuyết phi pháp đều chẳng phải, đó gọi là là vô dư niết bàn, mong
lên bực hiền bực thánh không ai là chẳng theo con đướng nầy. Hiểu rõ
được nghĩa chân thực nầy tức là thực tín. Một niệm tương ứng liền được
vô lượng phước đức, vì một niệm tương ứng là gốc của tịnh niệm nối tiếp
nhau. Tại sao phước đức vô lượng, lại lấy một khoa nhỏ so sánh thù thắng
để nói cái sở dĩ nhiên của nó? Nghĩa là chư phật và chư phật vô thượng
bồ đề đều từ kinh nầy ra, là vậy.
Ðây là thuyết minh hết thảy
phật, hết thảy phật pháp đều chẳng ngoài lý vô trụ của kinh này. Nếu
thực tín lý nầy, một niệm thanh tịnh, thì liền có thể thẳng đến a nậu đa
la tam miệu tam bồ đề, phước đức há chẳng vô lượng ư? Nhưng chẳng thể
nhân nghe câu nói nầy mà day về trong văn tự cầu nó. Phải y theo lý
trong kinh nói rõ mà phản chiếu tự tánh. Tự tánh không tịch, ngay cả chữ
phật, chữ pháp cũng đều không có, quả nhiên có thể quán chiếu lâu ngày,
chứng vào tánh không tịch, tức là đã thành tựu vô thượng bồ đề, tức là
thành phật.
Nhưng phật tuy đã thành phật mà rốt cuộc chẳng tự
mình cho là có chút pháp nào có thể đắc, không có chút pháp nào có thể
đắc là chẳng tự cho mình thành phật. Nên nói : Chỗ gọi là phật pháp tức
là phi phật pháp. Suốt từ đầu đến cuối, có một câu để quán thông là VÔ
TRỤ mà thôi. Nhân gồm biển quả, quả suốt nguồn nhân là như thế. Ở trên
là yếu chỉ của khoa thứ nhứt, khai thị vô trụ cũng đã tường tận rồi. Thế
tôn đại từ đại bi muốn cho người ta mở lớn sự viên giải, nên lại đem
nghĩa lý của vô trụ, tiến lên từng tầng, từng tầng mà mở rõ, để mong
giải tuệ mở ra, thì tín căn thành tựu, công phu tu hành cũng nhân đó mà
thêm lớn, ngỏ hầu do quán hành mà tương tợ, mà phần chứng, để đạt đến
cứu cánh.
HẾT CUỐN THỨ HAI