Một khoa lớn thứ tư nầy đều là thuyết cảnh giới của như lai, nên gọi
là cứu cực, có nghĩa là cứu xét cái vô trụ cùng tận, đến đây mà cùng
cực, chỗ gọi là chứng, là chứng cái nầy vậy. Một khoa cứu cực thứ bốn
này lại mở ra làm hai: ban đầu tỏ rõ bình đẳng pháp giới, sở dĩ hiển hết
thảy pháp tánh vốn vô ngã, tức là để kết thành khoa trước nghĩa bồ tát
thông đạt vô ngã pháp, thứ nhì tỏ rõ các pháp không tướng thì qui kết
đến trên bất sanh bất diệt. Từ khai kinh đến đây sở dĩ khiến ly tướng ly
niệm để trừ ngã chấp, đều là vì khiển trừ phân biệt chấp trước. Phân
biệt chấp trước là tâm sanh diệt. Khiển trừ tâm sanh diệt là vì chứng
tánh thể bất sanh bất diệt. Ðây là huyệt tổng kết của một bộ thậm thâm
bát nhã. Ba khoa nầy đều thu nhiếp khít nghĩa thị pháp bình đẳng mà tới,
ý ở dạy cho kẻ nghe pháp phải ở trên pháp pháp đầu đầu tiến thủ lý bình
đẳng, thì có thể ở trên pháp pháp, đầu đầu được thấy tự tánh. Khoa đầu
tỏ rõ không thánh không phàm chính là hiển không có cao hạ, nhứt chơn
pháp giới bình đẳng, bình đẳng há có sự sai biệt thánh phàm. Nghĩa nầy
đem ở trên độ sanh để thuyết minh rất tiện, nên theo độ sanh để tỏ rõ.
Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà, nhữ đẳng vật vị như lai tác thị niệm: ngã đương độ chúng sanh. Tu Bồ Ðề! Mạc tác thị niệm.
Dịch
nghĩa: Tu Bồ Ðề ơi, ở ý ông ra sao, các ông chớ bảo như lai làm niệm
nầy: ta phải độ chúng sanh. Tu Bồ Ðề ơi, đừng làm niệm nầy.
Tôn
chỉ lớn của khoa nầy cùng với một khoa vô pháp khả thuyết ở trước giống
nhau. Chỗ không giống là chẳng qua khoa trước đem pháp chỗ thuyết ra để
nói, nay thì đem chúng sanh chỗ độ ra để nói. Thế nhưng thuyết pháp
nguyên vì độ sanh, độ sanh liền phải thuyết pháp, tôn chỉ lớn giống
nhau. Trước ở trong vô pháp khả thuyết chỗ dẫn các nghĩa cuốn mười Kim
Quang Minh Kinh thuyết minh lý do phật chẳng làm niệm đều thông với khoa
nầy. Tóm lại, phật chẳng khởi tâm động niệm mà có thể tùy cơ ứng duyên
để độ chúng sanh, chẳng ngoài hai lý: 1) Vì sức đại bi đại nguyện huân
tập từ xưa thành ra chủng tử, nên có thể hễ có cảm liền ứng. 2) Vì đầy
đủ hai trí, thành ba thân như tấm gương lớn tròn ánh sáng chiếu khắp,
nên có thể chỗ ứng chẳng lầm. Ðầy đủ hai thứ lý do nầy cho nên chẳng
giống phàm phu phàm có chỗ làm ắt phải làm niệm. Mạc tác thị niệm: là
răn khắp hết thảy mọi người, chẳng phải là chuyên đối với đại chúng
đương lúc hội bát nhã nầy mà nói. Vì chưng tác thị niệm là lấy phàm tình
đo lường thánh cảnh, há chẳng những phỉ báng phật, mà tự mình vẫn mê ở
trong ổ vọng tưởng, vĩnh viễn không có hy vọng thành thánh, nên răn
chúng nó khẩn thiết. Tóm lại câu nói: "mạc tác thị niệm" chẳng phải chỉ
khiến chẳng thể lấy sự thấy luân hồi đo lường biển viên giác, thực là
khiến người học phật ắt phải dứt vọng niệm. Khai kinh liền khiến bồ tát
hàng phục niệm nầy nên nói: "thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả". Nửa bộ
sau cũng mở miệng liền nói: "vô hữu nhứt chúng sanh thực diệt độ giả".
Nay lại đem cái độ sanh của phật ra nói, khiến hết thảy bồ tát phụng làm
mực thước. Văn trên tuy đã từng hai lần nói: "chúng sanh phi chúng
sanh", nhưng là riêng theo chúng sanh mà nói, nay thì theo cả thánh lẫn
phàm nói gồm chung để tỏ rõ bình đẳng pháp giới, nghĩa nầy chẳng giống
trước. Hoặc nói: Kinh Pháp Hoa nói rằng: "Ta bắt đầu ngồi ở đạo tràng,
quán tưởng ở dưới cây, cũng đi kinh hành, ở khoảng ba, bảy ngày tư duy
việc như thế nầy: ta chỗ đắc trí tuệ vi diệu rất đệ nhứt. Chúng sanh các
căn ngụ độn, chấp trước ham thích, ngu si làm cho mù mịt, những loài
như thế làm sao có thể độ được?" Do câu nầy mà xem thì rành rành có
thánh có phàm, sao nói là không có thánh, không có phàm? Vả phật ở độ
sanh và chỗ thuyết pháp đều đã từng tư duy kỹ lưỡng mà sau mới thuyết,
tư duy tức là niệm, sao kinh nầy nói vô niệm? Phải biết, có thánh có
phàm là theo tướng mà nói, không có thánh không có phàm là theo tánh mà
nói, cho nên kinh nầy nói tức phi, lại nói thị danh. Ðến như nghĩa tư
duy, phải chia ra hai tầng thuyết minh lý của nó, để tránh sự hoài nghi:
1) Phàm chỗ phật thuyết, có chỗ tùy nghi mà thuyết, gọi đó là
quyền thuyết, cũng gọi là chẳng liễu nghĩa, có chỗ cứu cánh mà thuyết
gọi đó là thực thuyết, cũng gọi là liễu nghĩa. Như dẫn các câu trong
kinh Pháp Hoa ở trên tức là tùy nghi quyền thuyết. Vì xem biết căn của
hết thảy chúng sanh ngu độn, ngu si mù mịt, tham trước cái vui ngũ dục,
cùng với thanh tịnh trí, vi diệu pháp của phật chứng đắc chẳng thể ứng
với nhau, những loài như thế làm sao độ được? Bèn bất đắc dĩ trước vì
chúng nó từ cạn đến sâu thuyết tam thừa pháp. Nhưng thuyết tam thừa thực
là nhứt thừa, chỗ gọi là khai quyền hiển thực là vậy. Kinh nầy ở đây
chính tỏ rõ bình đẳng pháp giới, đều là thuyết cứu cánh như thực, nên
câu nói phần nhiều có nối liền hai chữ như lai mà nói. Như lai là nghĩa
chư pháp như. Sao gọi là như? Là chân như vậy. Sao gọi là chân như? Là
cảnh giới ly niệm vậy. Há có thể dẫn quyền thuyết để chứng minh thực
thuyết. Vả chỗ gọi là quyền cũng tức là quyền của thực, nên tuy nói tư
duy, thực ra thì tức tư duy mà không tư duy, phàm đọc kinh phật thứ nhứt
nên hiểu rõ nghĩa nầy. Ngay như phật thường tự xưng là ngã, há có thể
vì sự xưng tùy nghi của phật mà bảo như lai có ngã tướng, ngã kiến. Lại
như kinh nầy thuyết pháp vô thượng thậm thâm nầy, mà ngài mặc áo, xin
ăn, thị hiện giống như phàm phu, há có thể nhân đó bèn nghi phật là phàm
phu. Trưởng lão chỗ nào cũng thay chúng sanh thỉnh vấn, há có thể xem
một cách ngu ngốc cho là trưởng lão thực chẳng hiểu rõ bát nhã. Thế gian
có nhiều người cho Quán Thế AÂm bồ tát là thân đàn ông, là thân đàn bà,
mà hoài nghi. Pháp thân đại sĩ vốn không có tướng, chỗ ngài hiện thân
ra đều là tùy cơ ứng duyên, chỗ bảo là nên lấy thân nào đắc độ, liền
hiện thân đó để cứu độ nó. Kinh Lăng Nghiêm, Pháp Hoa nói rõ nghĩa nầy,
há có thể xem giống như phàm phu cố chấp là trai hay là gái. Ngay đem
nhân trước của đại sĩ ra nói, ngài nhiều kiếp siêng năng tu hành, thân
nào mà chẳng có, cũng há có thể đem thân một đời của ngài ra để khái
quát thân nhiều kiếp ư? Trong kinh phật, những việc giống như thế, cho
đến những câu nói trái ngược với nhau rất nhiều, rất nhiều, đều phải
lĩnh hội như thế.
2) Tư duy là nghĩa làm sự quán. Làm sự quán
cũng dịch là tư duy tu. Hai bài tụng dẫn ra trong kinh Pháp Hoa ở trên,
là thừa tiếp một câu: "ngã dĩ phật nhãn quán" trong văn trên của bài
tụng nầy mà tới, chỗ nói của hai bài tụng nầy là bảo quán chiếu căn cơ
của chúng sanh mà thôi. Phải biết, lúc làm sự quán chẳng phải không có
niệm, chẳng phải có niệm, kẻ biết chút ít làm sự quán bèn có thể hiểu rõ
cảnh giới ở trong đó, cùng với suy nghĩ vọng tưởng tuyệt nhiên chẳng
giống nhau, há có thể hiểu lầm tư duy là làm niệm ư?
Tóm lại mà
nói: có chúng sanh có thể độ, có pháp có thể thuyết là theo bên tướng
mà nói, phật làm sự quán nầy chính là chỗ gọi tịch mà thường chiếu. Thế
nhưng chính đương lúc hiện sự tướng như thế tức là rốt ráo chẳng thể
đắc, nên lại nói không có pháp có thể thuyết, không có chúng sanh có thể
độ, thì lại là theo tánh mà nói. Tuy quán mà cũng không chỗ quán, chiếu
mà thường tịch. Cho nên đem hai bài tụng dẫn ra trong kinh Pháp Hoa
cùng với chỗ thuyết ở đây hợp laị mà xem, chính là nghĩa tánh và tướng
viên dung tịch và chiếu đồng thời, lại cũng tức là nghĩa tức thực của
quyền, tức quyền của thực, phải thông đạt như thế. Nếu chấp một cái,
nghi một cái liền là chấp tướng nghi tánh, chấp tánh nghi tướng, chấp
tịch nghi chiếu, chấp chiếu nghi tịch, đây chính là tri kiến của phàm
phu, chính chỗ gọi là độn căn, ngu si mù mịt, cùng với trí tuệ vi diệu
đệ nhứt chẳng thể ứng với nhau. Nên học phật ắt phải khai phật tri kiến,
phật tri tức là tri hết thảy chẳng thể đắc, tri hết thảy tức không tức
giả, phật kiến tức là chẳng chấp nhứt dị, nếu chấp một bên nghi một bên,
chính là chấp nhứt, chấp dị. Nên muốn thông đạt lý vi diệu của phật
pháp, nếu chẳng đem phàm tình tục kiến quét sạch cho không còn nữa, thì
ắt chẳng thể vào được vậy.
Hà dĩ cố? Thực vô hữu chúng
sanh, như lai, độ giả. Nhược hữu chúng sanh như lai độ giả, như lai tắc
hữu ngã nhân chúng sanh thọ giả.
Dịch nghĩa: Vì cớ
gì? Thực không có chúng sanh, như lai, kẻ độ. Nếu có chúng sanh, như
lai, kẻ độ thì như lai có ngã nhân chúng sanh thọ giả.
Hai chữ
thực vô: là triệt để, có nghĩa là thực không có lý làm niệm. Tại sao bảo
thực không có lý nầy, nghĩa nó rất nhiều, nay nói sơ lược bốn nghĩa:
1)
Nếu có niệm độ sanh liền có chúng sanh sở độ, có ngã năng độ, năng và
sở là tướng đối đãi, tức là phân biệt, tức là chấp trước. Phật chứng
bình đẳng nhứt chân pháp giới nên gọi là như lai. Nếu có phân biệt chấp
trước, sao gọi là như lai? Nên bảo như lai làm niệm nầy, thì thực không
có lý. Ðây là theo bình đẳng pháp giới để tỏ rõ nghĩa, lại cũng là theo
bên như lai mà nói. Lại theo bên chúng sanh mà nói:
2) Sao gọi
là chúng sanh? Chẳng qua là ngũ uẩn nhóm họp lại mà thôi, là pháp duyên
sanh, duyên sanh thể không. Nếu có niệm độ sanh há chẳng phải là không
hiểu rõ duyên sanh, chấp pháp ngũ uẩn là thực có ư? Có pháp chấp liền có
ngã chấp, há như lai đã từng có ngã pháp hai chấp như thế ư? Nên bảo
như lai làm niệm nầy: "ta phải độ chúng sanh", thì thực không có lý. Ðây
là theo duyên sanh thể không để tỏ rõ nghĩa.
3) Chúng sanh sở
dĩ thành chúng sanh vì cớ có niệm, chúng sanh sở dĩ đắc độ vì cớ vô
niệm, thế nên gọi là độ sanh là chỉ khiến ly niệm mà thôi. Nếu phật độ
sanh mà có niệm, thì phật tự mình còn chưa độ, sao có thể độ sanh ư? Nên
bảo như lai làm niệm nầy: "ta phải độ chúng sanh" thì thực không có lý.
Ðây là theo ly niệm gọi là độ để tỏ rõ lý.
4) Phật độ chúng
sanh chẳng quan là tăng thượng duyên của chúng sanh, mà chúng sanh tự
mình phát tâm lớn, hành nguyện lớn thực là cái nhân làm chủ. Nếu không
có nhân làm chủ thì tuy có tăng thượng duyên, chúng sanh cũng không theo
đâu mà được độ. Thế nên chúng sanh đắc độ thực chúng sanh tự độ mà
thôi! Phật không có cái kiến là phật độ chúng sanh. Nên bảo như lai làm
niệm nầy: "ta phải độ chúng sanh" thì thực không có lý. Ðây là theo nhân
thân, duyên sơ để tỏ rõ nghĩa. Tóm bốn nghĩa nầy nên mới có chúng sanh,
như lai, độ giả, còn phật thực không có niệm nầy vậy. Câu nầy là giải
thích xuôi cái cớ của nó. Dưới chữ "nhược", lại nói trái lại để giải
thích cái cớ của nó. Hữu có nghĩa là hữu niệm. Nếu có niệm nầy liền rơi
vào năng và sở, năng độ là ngã tướng, sở độ là nhân tướng, sở độ chẳng
chỉ một người là chúng sanh tướng, niệm nầy nối tiếp chẳng dứt là thọ
giả tướng. Nếu có một niệm thì bốn tướng đầy đủ. Như lai chính khiến bồ
tát phát tâm trừ bốn tướng nầy, mà bảo như lai có bốn tướng là vu cáo,
phỉ báng như lai, có thể bảo là hết sức vậy. Cho nên răn dạy một cách
thiết yếu là chớ nên làm niệm nầy. Trong nầy chính là phá lời nói tà
quấy bảo là như lai làm niệm, nên chỉ theo bên như lai để tỏ rõ nghĩa
không có năng, không có sở, không có ngã, ý ở chỗ khiến người học ở bình
đẳng pháp giới thực không có cái ngã.
Tu Bồ Ðề ! Như
lai thuyết hữu ngã giả tắc phi hữu ngã, nhi phàm phu chi nhân dĩ vi hữu
ngã. Tu Bồ Ðề ! Phàm phu giả như lai thuyết tắc phi phàm phu.
Dịch
nghĩa: Tu Bồ Ðề ơi, như lai nói có ngã tức là chẳng phải có ngã, mà
người phàm phu cho là có ngã. Tu Bồ Ðề ơi, phàm phu, như lai nói tức là
chẳng phải phàm phu.
Bản lưu thông có thêm một câu "thị danh
phàm phu". Người đời Ðường viết kinh, kinh bản đời Nam Tống và trong chú
sớ của các vị cổ đức đều không có. Khoa nầy là giải thích rõ cái sở dĩ
nhiên của vô năng độ, vô sở độ, chữ ngã ở trong nầy nếu chỉ hiểu theo
nghĩa ngã của ngã nhân đã đành cũng có thể được, nhưng là nghĩa nông
cạn. Phải biết, chữ ngã nầy là thừa tiếp văn trên chữ ngã của câu "ngã
đương" mà tới, vì chưng là trỏ phật nói. Ngã là chẳng phải ngã, ý hiển
bình đẳng pháp giới phật tức chẳng phải phật, chính là tỏ rõ ý không có
thánh. Vì tên gọi là phật là hiển phật chứng quả mà thôi, nên gọi là như
lai cũng vì hiển phật chứng tánh mà thôi. Nhứt chân pháp giới ly danh
tuyệt tướng, làm gì có thứ văn tự nầy. Vả chăng nhứt chân pháp giới, hết
thảy chư phật, hết thảy chúng sanh là tên khác nhau của tánh đồng thể.
Vì nó đồng thể nên nói là nhứt như, nên nói bình đẳng không có cao hạ,
nếu trong nầy có chữ phật liền có cao hạ, liền chẳng phải bình đẳng,
liền có danh tướng, liền chẳng phải là không tịch. Nên y theo nghĩa như
mà nói, chỗ gọi là có phật có thánh, tức là chẳng phải có phật có thánh.
Nhưng phàm phu chỉ biết thủ tướng, chẳng đạt nhứt chân pháp giới, cho
là có phật có thánh. Bình đẳng pháp giới phật con không tồn tại, há có
năng độ có thể nói ư? Vả chăng đã là bình đẳng đồng thể chẳng những
không có thánh mà thôi, lại há có phàm. Nên chỗ gọi là phàm phu, theo
nghĩa như mà nói. liền chẳng phải là phàm phu. Phàm phu còn không tồn
tại, há có sở độ có thể nói ư? Không cao không hạ, bình đẳng, bình đẳng,
đó gọi là tánh thể nhứt như (đủ thấy người sau thêm bậy vào câu thị
danh phàm phu, thật là vẽ rắn thêm chân).
Không có thánh, không
có phàm chính là cái sở dĩ nhiên của không có cao hạ, nên nói bình
đẳng. Tánh thể vốn nó bình đẳng như thế, sở dĩ phật nói trên không có
phật đạo có thể thành, dưới không có chúng sanh có thể độ, vì chưng độ
tức là không độ, thành tức là không thành. Cho nên nói: "bình đẳng chân
pháp giới, phật chẳng độ chúng sanh", cho nên phật nhãn xem hết thảy
chúng sanh vốn là phật, đây đều là theo nghĩa tánh thể bình đẳng mà nói.
Vì cớ gì nói nghĩa bình đẳng? Vì khiến bồ tát phát tâm thông đạt nghĩa
nầy. Phải lấy tâm vô năng, vô sở, vô pháp, vô ngã tu hết thảy thiện
pháp, thì mới có thể chứng như thế. Do đó có thể biết người tu hành tuy
phải phát nguyện chuyển phàm thành thánh, nhưng phát nguyện xong liền
phải đem cái niệm phàm và thánh liệng bỏ đi. Nếu chẳng liệng bỏ đi nổi,
thì thánh và phàm vĩnh viễn cách nhau. Vì cớ gì? Vì thánh mà thành ra
thánh, phàm mà thành ra phàm chính là do một đằng vô niệm, một đằng hữu
niệm. Vì khởi niệm liền có cao hạ, liền chẳng phải bình đẳng. Cổ nhân
khai thị tu hành có một câu rất hay là: "chỉ thẳng tới thực hành", thẳng
tới là tuyệt nhiên không có ý ngó ngàng gì nữa. Người thực hành chỉ
phải hiểu rõ đạo lý, nhận đúng phương hướng, liền thẳng tới thực hành,
chuyển phàm chẳng chuyển phàm, thành thánh chẳng thành thánh, cho đến
hết thảy sống chết, lợi hại v.v... hết thảy chẳng quải niệm. Như thế
liền cùng với đạo ứng với nhau, cùng với tánh ứng với nhau, mau có thể
thành tựu. Nếu chẳng như thế thì trái lại chẳng thể thành tựu được. Cổ
nhân lại có câu cảnh sách rằng: "Thẳng tới lò hương nơi miếu cổ", có
nghĩa là muôn niệm nguội lạnh như tro tàn. Thánh phàm còn chẳng quải
niệm, thì những cái khác có thể biết được.
Tu Bồ Ðề ! Ư
ý vân hà? Khả dĩ tam thập nhị tướng quán như lai phủ? Tu Bồ Ðề ngôn:
như thị như thị , dĩ tam thập nhị tướng quán như lai.
Dịch
nghĩa: Tu Bồ Ðề ơi, ở ý ông ra sao, có thể lấy 32 tướng quán như lai
chăng? Tu Bồ Ðề thưa: như thế như thế, lấy 32 tướng quán như lai.
Ðây
là một khoa theo tánh và tướng tỏ rõ chẳng phải một chẳng phải khác, là
con mắt khẩn yếu của trọn bộ kinh, mà nghĩa chia ra sâu kín, nếu chẳng
theo từng tầng phân tích ra kỹ lưỡng thì không dễ gì hiểu rõ. Quán và
kiến chẳng giống nhau. Theo như lai hiện thân mà nói gọi là kiến (thấy),
theo người học tu quán mà nói gọi là quán. Vì chưng ý câu hỏi nầy là:
có thể quán tưởng ứng thân hữu tướng tức là quán tưởng pháp thân vô
tướng chăng? Một cái có tướng, một cái không có tướng thì đã đành là
chẳng thể được. Thế nhưng ứng thân nguyên từ pháp thân hiển hiện ra, cái
vô của vô tướng vốn chẳng phải là rốt ráo không có, chỗ gọi là thực
tướng vô tướng vô bất tướng là vậy. Vậy thì lại chưa từng chẳng thể
được. Tuy thế, nếu chấp cho là có thể được, thì chẳng tránh khỏi thủ
tướng mà có cái lỗi trước hữu. Nhưng nếu chấp cho là chẳng thể được, thì
lại chẳng tránh khỏi diệt tướng, mà có cái lỗi rơi vào cái không. Thử
xem chỗ đáp của trưởng lão, có thể tăng thêm chỗ thấy chẳng ít, lại nghe
chỗ khiển trừ của phật, khiến người ta mở rộng tâm và con mắt rất
nhiều. Phải biết, từ khai kinh đến đây khiển đãng từng tầng, từng tầng,
nhiều lần nói tức phi, thị danh, đều là vì đề phòng người học trước ở
một bên. Chỗ nầy tỏ rõ tánh và tướng chẳng phải một chẳng phải khác,
chính là thuyết minh cái sở dĩ nhiên chẳng nên trước ở một bên.
Ư
ý vân hà: là lời thăm nghiệm chỗ thấy. Trước đã nhiều lần thăm nghiệm,
nay lại thăm nghiệm là vì chỗ nầy chẳng nói kiến (thấy) mà nói quán, ý
hỏi rất vi tế khác xa với trước. Vì chưng chính sợ người học nghe được
nghĩa chư pháp như và thị pháp bình đẳng, sống sượng lờ mờ, chưa thể đi
sâu vào tinh vi mà tự cho là nhứt như bình đẳng, thì sai một hào ly lầm
bằng ngàn dậm, nên lại phải thăm nghiệm nó, mà khai thị nó. Muốn nói lời
đáp có hai yếu nghĩa ắt phải trước tỏ rõ:
1) Trên hội bát nhã
phật khiến trưởng lão chuyển dạy lại bồ tát, có thể thấy trưởng lão đã
cùng phật tâm tâm in nhau lâu rồi, nghĩa thú của bát nhã sớm đã biết
sâu. Kinh nầy cố ý hiển thị chẳng biết, là vì cớ trưởng lão thay chúng
sanh thỉnh pháp.
2) Lý thậm thâm vốn không thể nói ra, nay bất
đắc dĩ ở trong cái không thể nói ra mà nói, một người một thời chẳng thể
nói hai kiểu nói, cho nên gởi vào hai người, dùng thể vấn đáp nói ra,
thì nghĩa thú thậm thâm so sánh dễ hiển rõ. Y theo hai nghĩa trên, nên
chỗ thuyết của trưởng lão không khác gì phật thuyết, người đương cơ
trong hết thảy các kinh đều phải xem như thế, chẳng những kinh nầy như
thế mà thôi đâu. Ðây là yếu nghĩa, chẳng thể nào mà không biết.
Câu
như thị như thị ; nếu hiểu là ưng chịu, bằng lòng thì chẳng những xem
trưởng lão một cách nông cạn, mà tôn chỉ sâu trong kinh bao gồm cũng
chẳng hiển ra mà mờ mịt đi. Sao gọi là coi trưởng lão nông cạn ư? Như
lần đầu phật hỏi "khả dĩ thân tướng kiến như lai phủ?" Trưởng lão liền
đáp: "thân tướng tức phi thân tướng". Lần thứ nhì hỏi: "khả dĩ tam thập
nhị tướng kiến như lai phủ?". Lại đáp: "tức phi thị danh". Lần thứ ba
hỏi: "phật khả dĩ cụ túc sắc thân kiến phủ? Như lai khả dĩ cụ túc chư
tướng kiến phủ?" Ðều đáp là: "bất ưng", tại sao ở đây bỗng nhiên lại
chấp tướng như thế? Trưởng lão cố nhiên là thay mặt chúng sanh, thế
nhưng đã tỏ rõ, bỗng nhiên lại mê muội thì ở lý chẳng hợp, cho nên câu
như thị thực chẳng phải là lời ưng chịu, bằng lòng, đây nói về lý. Như:
là nghĩa chư pháp như, thị: là hết thảy đều thị. Trước đã nói rồi ư:
trong nửa bộ trước không có một lời đáp nào là như thị, nửa bộ sau chỗ
đáp như thị đều bày tỏ tinh nghĩa. Như trong tỏ rõ ngũ nhãn, mỗi lần đáp
đều nói như thị, đây là tỏ rõ nhục nhãn chẳng phải nhứt định là nhục
nhãn, cho đến phật nhãn chẳng phải nhứt định là phật nhãn. Tóm lại ngũ
chẳng phải nhứt định là ngũ, nhứt chẳng phải nhứt định là nhứt, chẳng
thể chấp như vậy. Chính chỗ bảo là: chư pháp nhứt như, hết thảy đều thị,
ý hiển chỉ như thì đều thị chẳng như thì đều chẳng phải thị, nên mỗi
lần đáp đều nói: như thị. Thứ nhì hỏi: thuyết thị sa phủ? Cũng đáp như
thị, đây là tỏ rõ như lai thuyết thị sa là lấy nghĩa như thuyết thị,
chẳng giống sự thuyết thị của phàm phu. Lại hỏi phước đức nhân duyên,
cũng đáp như thị, đây là tỏ rõ pháp pháp đều là duyên sanh, thể hội được
duyên sanh tánh không thì pháp pháp đều như, pháp pháp đều thị, nên
dưới lại tiếp rằng: "thử nhân dĩ thị nhân duyên đắc phước thậm đa," ý
hiển chỉ vì nó duyên sanh mới có phước đức nhiều có thể đắc, cũng chỉ vì
nó duyên sanh nên chẳng chấp trước tướng duyên sanh mà hội về tánh nhứt
như. Thì tuy pháp pháp đều là duyên sanh cũng là pháp pháp đều là phật
pháp. Ngoài những cái đó, đều chẳng đáp như thị. Ðến đây lại đáp như
thị, ý cũng giống trước, mà nói đi nói lại hai lần là khiến người ta
phải coi trọng chữ như. Ắt phải có thể như mà sau mới thị. Ý nó vì chưng
bảo rằng 32 tướng cũng là một của chư pháp, chư pháp đều là chân như
thì há 32 tướng chẳng phải là chân như, nhưng ắt phải hiểu được nghĩa
như mới thị. Vì cớ gì: Vì lĩnh hội được tánh và tướng nhứt như, đã chẳng
diệt tướng cũng chẳng chấp tướng, thì quán 32 tướng ứng thân tức là
quán như lai pháp thân. Nếu trái với nghĩa như, thế ắt chấp tướng để
quán tánh, nếu không thì diệt tướng để quán tánh, như thế thì không có
một cái nào thị vậy. Như thị như thị dĩ tam thập nhị tướng quán như lai,
phải đọc luôn một câu. Tóm lại để tỏ rõ y chiếu nghĩa như, lấy 32 tướng
quán như lai thì thị vậy. Bởi ý của trưởng lão bảo: quán chẳng giống
như kiến, lúc trong tâm làm sự quán 32 tướng, vốn là tướng của vô tướng,
như lai hiện 32 tướng cũng là tướng tức phi tướng. Nay hiểu rõ cái
tướng vô tướng của như lai mà làm sự quán thì đã chẳng phải thủ tướng
cũng chẳng phải diệt tướng, chính hợp với nghĩa thực tướng, vô tướng, vô
bất tướng, lại cũng cùng với nghĩa chư pháp như hợp, nên nói: như thị
như thị dĩ tam thập nhị tướng quán như lai, ý hiển đã nhứt như thì quán
tướng tức là quán tánh.
Ý đáp của trưởng lão thực là rất sâu,
thực là rất viên, thực cùng với tôn chỉ của phật tương ứng, mà văn dưới
như lai lại đả phá bài xích để khiển đãng trưởng lão, vì nghĩa chỗ
trưởng lão tỏ rõ đã đành là đúng, nhưng ở trong đó có lý vi tế, chẳng
thể nào không nhận cho rõ, và phân biện cho rành, nếu không như thế thì
thế ắt đến sống sượng lờ mờ, chưa thấy mà bảo là thấy, nhận cái kiệu
trên yên con lừa làm ông cha mình đi xuống sườn núi. Nghĩa nầy thực quan
hệ khẩn yếu, là chỗ một lũ người học rất dễ lộn xộn, nên phật và trưởng
lão một đằng hỏi, một đằng đáp để hiển rõ tôn chỉ sâu ẩn vi nầy, khiến
cho người học chẳng đến nỗi nhận lầm.
Phật ngôn: Tu Bồ
Ðề ! Nhược dĩ tam thập nhị tướng quán như lai giả, chuyển luân thánh
vương tắc thị như lai. Tu Bồ Ðề bạch phật ngôn: Thế tôn ! Như ngã giải
phật sở thuyết nghĩa, bất ưng dĩ tam thập nhị tướng quán như lai.
Dịch
nghĩa: Phật nói: Tu Bồ Ðề ơi, nếu lấy 32 tướng quán như lai, thì chuyển
luân thánh vương tức là như lai. Tu Bồ Ðề thưa phật rằng: Thưa thế tôn,
như tôi hiểu nghĩa chỗ phật nói, chẳng nên lấy 32 tướng quán như lai.
Ý
phật vì chưng bảo: ông nói như thị như thị dĩ tam thập nhị tướng quán
như lai, mới nghe thì rất đúng. Thế nhưng chỗ nguồn gốc nếu chưa nhận
cho rõ, sợ rằng giống như phải mà lại chẳng phải. Vì cớ gì? Vì 32 tướng
há chỉ như lai hiện ra tướng nầy ư? Chuyển luân thánh vương cũng có đủ
tướng nầy, thế nhưng tướng của luân vương là do phước nghiệp mà tới,
chẳng giống với như lai là do pháp thân hiển ra. Nay vội vàng sống sượng
nói rằng: như thị như thị dĩ tam thập nhị tướng quán như lai, thì luân
vương cũng là như lai, há chẳng phải là lầm lớn ư? Phải biết, lời nói
của phật đã đành là nói cái tướng sở quán, ý thực ra là khai thị cho
người năng quán. Vì chưng lấy luân vương nghiệp thức chưa không, vì nhân
phước nghiệp cũng có 32 tướng, đủ thấy tướng đều hư vọng, chẳng đủ làm
bằng cứ. Thế nhưng nếu người quán mà nghiệp thức đã không, thì há chỉ 32
tướng của luân vương chẳng thể che đậy, ngay đến quán sắc thân ngũ uẩn
của chúng sanh cũng có thể thấy rõ pháp thân, mà chẳng thấy có ngũ uẩn.
Nếu hoặc chẳng như thế, thì tuy cùng với như lai gặp mặt cũng chỉ quán
tướng, mà chẳng thể quán thấy pháp thân. Phật nói lời nầy chính vì kẻ
mới phát tâm tu quán, vô minh chưa phá được mảy may nào, còn đang ở
trong nghiệp thức. Nếu nghe thuyết nhứt như, đều thị, thị pháp bình đẳng
mà chẳng đo lường, phân chia ra, vội vàng bảo quán tướng tức là quán
tánh, chẳng biết là chỗ quán đó chính là thức mà chẳng phải tánh. Hết
thảy người học phải ở trong chỗ nầy khán nghiệm kỹ lưỡng. Làm sao khán
nghiệm? 1) Bác địa phàm phu từ vô thủy bất giác tự động, đến nay lâu rồi
đã tánh và tướng chẳng một. Vì cớ gì chẳng một? Do ở thủ tướng. Vì cớ
gì thủ tướng? Do ở nghiệp thức. Nên ắt phải không hết thảy các tướng,
dẹp dứt tình thức, mới đủ để nói tánh tướng nhứt như. 2) Phật thuyết
nghĩa như là khiến thể nhận nhứt chân pháp giới, trừ phân biệt chấp
trước mà vô ngã, nên phải tự xét mình có phân biệt không, có chấp trước
không, nếu còn phân biệt chấp trước vi-tế tức là nghiệp thức, sao nói
quán tướng tức quán tánh ư? Tóm lại, nhứt như bình đẳng chỉ có chư phật
mới có thể cứu cánh. Ắt phải đã chẳng chấp thực, vả lại tướng hư cũng
mất, thẳng đến một niệm chẳng sanh, luôn cả cái chẳng sanh cũng không,
mới là nhứt như mà bất dị. Cho nên chỗ gọi là chư pháp nhứt như là chỉ
thấy cái tánh nhứt như, chẳng thấy cái tướng của chư pháp. Chẳng những
thế, liền phải tuy nhứt như bình đẳng, mà cũng không chỗ nào gọi là nhứt
như bình đẳng, mới là chân nhứt như, chân bình đẳng, há kẻ nghiệp thức
chưa không chỗ có thể tự phụ một cách tầm bậy. Nay nói: dĩ tam thập nhị
tướng quán như lai, rõ ràng tồn tại có năng quán, sở quán, tức là phân
biệt chấp trước, nghiệp thức y nguyên, mà nói là như thị như thị, biết
đâu rằng sớm đã chẳng phải như, không có một chút thị nào vậy. Cổ kim
biết bao nhiêu người tu hành, niệm thô mới ngừng chút ít liền bảo đã
chứng tam muội, tập khí vẫn còn liền bảo cứ mặc cho nó tự nhiên, đó đều
là lấy hỗn lạm làm viên dung, ít có người nào chẳng đọa lạc. Xem kinh
văn nầy, thiệt là ở trên đỉnh đầu châm xuống một mũi kim. Chỗ phá của
thế tôn, trưởng lão nguyên đã hiểu rõ, nên được cơ hội liền xoay chuyển
lại, mà lời đáp trước cũng là biết trước bịnh của chúng sanh, cho nên
dùng lời sống sượng để đáp, đợi thế tôn phá xích, khiến cho hết thảy
chúng sanh đều được tự mình khám, tự mình phá, chẳng đến nối hỗn lạm.
Phàm
nêu lên câu: Tu Bồ Ðề bạch phật ngôn, đều là tỏ ý trịnh trọng, ở đây
cũng thế, ý khiến người học ở một phen phá xích nầy chẳng thể sơ sót xem
qua loa. Giải sở thuyết nghĩa: có nghĩa là nghe biết Luân Vương cũng
đồng một tướng nầy, tướng chẳng đủ làm bằng cứ, liền giải được chư pháp
nhứt như, ắt phải mất hết các tướng mà sau mới có thể được. Trưởng lão
giải như thế, chính khiến người học phải giải như thế. Bất ưng: là ý
hiển rõ chẳng phải là tuyệt đối không thể được, nếu tình thức của nó đã
không, thì hữu tướng giống như vô tướng, vô tướng có ngại gì hữu tướng,
mà chẳng phải kẻ còn chút ít tình thức chỗ nên hỗn lạm vậy, nên nói bất
ưng, câu nầy chính là răn dạy người học một cách khẩn thiết. Tóm lại,
phật thuyết nhứt như bình đẳng là khiến nhứt dị đều chẳng thể chấp, nay
lấy tướng để quán tánh thì rõ ràng là chấp nhứt, còn gọi được là nhứt
như ư? Chuyển Luân thánh vương lấy thập thiện để giáo hoá thế gian,
chẳng đợi dùng binh đao mà oai phục bốn phương, là người đại phước đức
đệ nhứt ở nhân thế thì tự nhiên có thất bảo xuất hiện, tùy ý tự tại. Thứ
nhứt là luân bảo, vương cưỡi luân (bánh xe) nầy tuần hành bốn phương,
vì thế gọi là Chuyển Luân thánh vương. Luân có bốn thứ: vàng, bạc, đồng,
sắt, được luân bằng vàng thì gọi là kim luân vương, làm vua bốn châu
lớn, ngân luân vương làm vua ba châu đông tây nam, đồng luân vương làm
vua đông nam hai châu, thiết luân vương làm vua một châu tức là cõi Nam
Diêm Phù Ðề. Vì có phước đức lực đầy đủ 32 tướng, nhưng thiếu thanh tịnh
phân minh, nhân vì do phước nghiệp hữu lậu mà thành, chẳng giống với
phật do vô lậu pháp thân hiện ra.
Nhĩ thời thế tôn nhi thuyết kệ ngôn:
Nhược dĩ sắc kiến ngã,
Dĩ âm thanh cầu ngã.
Thị nhân hành tà đạo,
Bất năng kiến như lai.
Dịch nghĩa: Lúc bấy giờ thế tôn nói câu kệ rằng:
Nếu lấy sắc để thấy ta,
Lấy âm thanh để cầu ta.
Người nầy làm tà đạo,
Chẳng thể thấy như lai.
Nhĩ
thời là lúc phật phá và trưởng lão giải vừa xong, nêu lên hai chữ nầy
là khiến người học phải cùng với khoa trên đồng thời thể hội, vì chỗ
thuyết trong kệ chính là cái cớ sở dĩ nhiên của chỗ phá, chỗ giải. Chữ
"sắc" là trỏ bao gồm hết thảy sắc tướng, 32 tướng cũng nhiếp ở trong đó.
Hai chữ "ngã" trỏ như lai mà nói, tức là tánh. AÂm thanh: bao gồm
thuyết pháp âm thanh ở trong đó, chính là bảo chẳng thể chấp thủ các
thuyết nhứt như bình đẳng ở trên day về trong văn tự âm thanh tìm cầu.
Thấy sắc là nhãn thức, nghe tiếng là nhĩ thức, đem hai thức để khái quát
các thức khác. Tóm lại, thấy, nghe, giác tri tuy thể của nó là tánh,
nhưng chúng sanh từ vô thủy đến nay đã biến nó thành thức. Nay nếu lấy
sắc để thấy, lấy âm thanh để tìm cầu thì hiển nhiên là việc dùng của
nghiệp thức, chấp trước cảnh tướng lục trần. Bèn muốn lấy cái đó để thấy
pháp thân, lấy cái đó để cầu pháp thân, thì rõ ràng là vọng kiến, rõ
ràng là day ra ngoài tìm cầu, tri kiến của người nầy đã rất chẳng chánh,
còn muốn thấy pháp thân như lai ư? Nên như lai bài xích nó rằng: thị
nhân hành tà đạo, bất năng kiến như lai. Vì cớ tánh chân như chẳng phải
là cảnh giới nghiệp thức phân biệt chấp trước. Kết thành ý: muốn quán
nhứt như, nếu chẳng không hết tình thức thì chẳng thể được.
Hoặc
hỏi: trong kinh phật mỗi hay khiến người ta quán phật tướng hảo là sao?
Phải biết, đây là phương tiện. Chỗ bảo là phương tiện gồm có hai nghĩa:
chúng sanh chỗ nào cũng trước tướng, nên nay bỏ cái nhiễm, quán cái
tịnh, đây là một phương tiện. Ðã biết quán tịnh, liền lại khiến đi tới
cứu cánh, như chỗ thuyết trong nầy, đây là phương tiện thứ hai, vì bước
bước dẫn người ta vào chỗ thắng, gọi đó là phương tiện. Cho nên trong
Thập Lục Quán Kinh chỗ rất cần yếu là mấy giòng văn: "tâm nầy là phật,
tâm nầy làm phật". Hiểu rõ được hết thảy duy tâm, thì biết tuy quán
tướng hảo mà chẳng chấp cho là thực, tình thức phân biệt chấp trước của
người nầy đã khiển trừ rồi. Cho nên người niệm phật tuy quán tưởng thấy
Di Ðà hiện ra, Cực lạc hiện ra cũng chẳng thể trước là vì thế. Vì cớ gì?
Vì tướng do tâm làm ra, tự tánh thanh tịnh tâm vốn vô tướng, vô bất
tướng, tướng và bất tướng lại chẳng cần để niệm vào. Lý nầy chẳng thể
nào mà không biết. Phải biết, để niệm vào tức là phân biệt, tức là chấp
trước. Ở trên khiển tướng đã khiển đến chỗ cùng cực, cũng tức là chỗ
tổng qui kết từ vô pháp phát tâm đến đây ở nửa bộ kinh sau. Vì chưng lúc
phát tâm liền chẳng thể thủ trước bồ đề pháp, vì có chỗ thủ chút ít tức
là trước sắc tướng, tức là day ra ngoài tìm cầu, tức là chẳng phải
chánh tri, chánh kiến, tức là pháp chấp ngã chấp, tức là cùng với tánh
không tịch trái nhau, há có thể thấy như lai? Cho nên khiến bồ tát thông
đạt vô ngã pháp là vì thế. Nếu chẳng thế thì tu một cách mù quáng,
luyện một cách mù quáng, đi vào tà đạo, muốn nấu cát để thành cơm, vĩnh
viễn chẳng thể đạt đến mục đích. Vì tu hành là lấy thấy như lai làm mục
đích, cho nên phải thông đạt vậy. Thế nhưng khiển tướng chỉ là chẳng thể
thủ trước mà thôi, nếu hiểu lầm là diệt tướng, thì lại rất chẳng phải,
nên mới có văn của khoa dưới.
Thứ nhì là văn một khoa khiển
diệt tướng, tỏ rõ "chẳng phải dị" nay trước nói yếu chỉ của nó. Một khoa
nầy chẳng những ở trong nửa bộ sau có sức nặng ngàn cân, tức là từ khai
kinh đến đây chỗ thuyết các nghĩa bất ưng thủ phi pháp, phi phi pháp,
cho đến đã thuyết tức phi, lại thuyết thị danh v.v...,thẳng đến chỗ nầy
mới nói rõ cái sở dĩ nhiên của nó, nên ở trong trọn bộ kinh cùng với một
khoa tỏ rõ "chẳng phải nhứt" ở trên cùng là then chốt khẩn yếu. Phải
biết, nửa bộ trước là đối với kẻ mới muốn phát tâm mà thuyết, cho nên
không và hữu đều khiến chẳng trước để hợp trung đạo. Phàm chỗ thuyết tức
phi thị danh, hơi của lời nói đó đều gồm chiếu cố cả hai bên, đã chẳng
thể trước hữu, lại chẳng thể trước không. Chỗ gọi là thị danh là bao gồm
có ý danh tướng tuy là giả, nhưng chưa từng là chẳng phải. Ðến nửa bộ
sau là đối với kẻ đã phát đại tâm tu đại hành, và có thể chẳng thủ hết
thảy pháp tướng mà thuyết. Nhưng sợ người này riêng một mình thủ trước
bồ đề pháp tướng, thì rốt cuộc làm lụy cho không tịch, rốt cuộc chẳng
thể chứng tánh, mà chấp này rất vi tế rất khó trừ. Nên chỗ thuyết ở nửa
bộ sau đều day về trước bên hữu khiển trừ một cách thống thiết, tuy có
lúc tức phi, thị danh đều thuyết, nhưng hơi của lời nói phần nhiều chú
trọng ở bên tức phi, bao gồm có pháp tướng tuy thị, rốt cuộc là giả
danh. Vì là giả danh cho nên ý tức phi ắt đợi khiển trừ được đến không
còn một hạt bụi nào, không còn vướng một tơ hào nào. Rồi sau lại quay
đầu trở lại thuyết chẳng nên trước không, cho nên nói có sức nặng ngàn
cân. Ðây chính là ý tông hạ chỗ bảo: "ở trên đầu cây sào trăm thước lại
tiến lên một bước nữa". Vả chỗ thuyết chẳng nên trước không, ở nửa bộ
trước chỉ thuyết cái đương nhiên của nó, nếu không có câu: "ư pháp bất
thuyết đoạn diệt tướng" ở đây vì đó điểm tỉnh thì chẳng những lý của nó
chưa rõ, cũng không có qui kết, mà tinh thần của trọn bộ kinh cũng chẳng
đoàn tụ. Cho nên nói khoa trên và khoa nầy là then chốt trọng yếu của
trọn bộ kinh, vì nó là chỗ qui kết các nghĩa từ khai kinh đến đây. Tuy
thế nửa bộ sau, sau khi khai chương đã chuyên khiển chấp hữu, khoa trên
tuy là tổng qui kết của khiển hữu, nghĩa uẩn sâu kín, nhưng lý vốn nhứt
quán, còn dễ thuyết minh. Chỉ có khoa nầy bỗng nhiên xoay chuyển, lại
ánh sáng con mắt bắn ra bốn phía, tinh thần, ngữ khí của khoa nầy quán
chú thẳng tới nửa bộ trước, nên trong một câu cai quát nhiều nghĩa,
thiệt giống như xem nghiêng một bên thì thành ngọn núi, mà xem ngang thì
thành dãy núi, mặt mặt đều phóng quang minh, đều thành sắc thái lạ,
chẳng biết từ chỗ nào mà bắt đầu nói. Nay muốn thuyết minh nghĩa lý từng
mặt, phải trước nói tông chỉ lớn của nó. Tông chỉ lớn đã hiểu rõ thì
mặt mặt so sánh cũng dễ hiểu rõ.
Phải biết, tánh là thể của hết
thảy pháp, tướng là bề mặt, sở dĩ kẻ tu hành nguyên vì chứng tánh, cho
nên chẳng nên chấp trước tướng bề mặt, đây là lý nhứt định. Thế nhưng có
bề trong cũng phải có bề mặt, nếu chỉ có chủ thể mà tuyệt nhiên không
có bề ngoài, thì chủ thể cũng cô lập mà vô dụng. Sở dĩ kẻ tu hành muốn
chứng tánh thì đã chẳng nên chấp thủ tướng, lại cũng chẳng nên đoạn diệt
tướng, đây cũng là lý nhứt định. Thí dụ như xây cất nhà thì rường cột
là chủ cán, là thể, cửa, cửa sổ, cửa ngõ, vách tường cho đến gạch ngói,
vôi, đá, v.v... là bề mặt là tướng. Tự nhiên trước phải chú trọng rường
cột, nếu chỉ biết thủ trước tướng bề ngoài mà chẳng biết chú trọng thể
chủ cán thì làm sao có thể được? Thế nhưng chỉ có rường cột làm chủ cán,
mà tuyệt nhiên không có cửa, cửa sổ, cửa ngõ, vách tường, thì còn có
thể gọi tên là cái nhà chăng? Cất nhà như thế, thì tu hành cũng thế. Xem
thí dụ nầy thì lý chẳng nên chấp tướng, cũng chẳng nên phế bỏ tướng có
thể hiểu rõ. Ðây là tôn chỉ rất trọng yếu của phật thuyết khoa nầy.
Tu
Bồ Ðề ! Nhữ nhược tác thị niệm: Như lai phất dĩ cụ tức tướng cố đắc a
nậu đa la tam miệu tam bồ đề ! Tu Bồ Ðề ! Mạc tác thị niệm: như lai phất
dĩ cụ túc tướng cố đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Dịch
nghĩa: Tu Bồ Ðề ơi, ông nếu làm niệm nầy: như lai chẳng lấy tướng cụ
túc cho nên đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Tu Bồ Ðề ơi, đừng làm
niệm nầy: như lai chẳng lấy tướng cụ túc cho nên đắc a nậu đa la tam
miệu tam bồ đề.
Như trên đã nói, có thể biết một khoa khiển trừ
diệt tướng nầy, nghĩa và ý sâu rộng vậy. Thế nhưng chẳng những sâu rộng
mà thôi, lại còn bao gồm nhiều nghĩa ẩn kín, đầu mối lại nhiều, hết sức
chẳng dễ gì nói ra. Nói đã chẳng dễ, thì lĩnh hội khó, có thể biết
được. Nhưng đã là then chốt trọng yếu thì dứt khoát chẳng thể nào mà
chẳng dùng tâm tinh tế lĩnh hội. Ngay như mới nêu lời răn ra, mở miệng
liền kỳ lạ. Sao gọi là như lai bất dĩ cụ túc tướng cố đắc vô thượng bồ
đề? Phải biết, bề mặt nói cụ túc tướng, thực ra gồm kín đáo nghĩa tu
phước đức, vì cụ túc tướng do tu phước đức mà tới. Trong kinh phật phép
đặt câu kiểu nầy rất nhiều, chỗ gọi là ảnh hiển lẫn nhau là vậy. Lấy văn
tự để nói: mạc tác thị niệm, như lai bất dĩ tu phước đức cố đắc vô
thượng bồ đề, há chẳng thẳng mau, đúng rõ ư? Nay chẳng nói như thế mà
lấy cụ túc tướng để nói, vì có hai tầng ý sâu: 1) Vì dẫn khởi văn dưới:
bất thuyết đoạn diệt tướng để đối chẳng chấp thủ tướng ở văn trên, hiểu
rõ nghĩa chẳng trước hai bên. Vả trên nói như lai, dưới nói cụ túc
tướng, có thể hiển nghĩa tánh tuy vô tướng mà cũng vô bất tướng. 2) Nói
một cái cụ túc tướng, kẻ nghe có thể lĩnh hội trong câu nầy có bóng dáng
tu phước đức, nếu chỉ nói tu phước đức thì kẻ nghe chưa ắt có thể tưởng
đến là nói cụ túc tướng, đây gọi là nói một cách hay khéo. Tóm lại một
câu nói như thế có quan hệ cả hai phía mà nói ra, vì văn trên nói luân
vương cũng có 32 tướng mà là do tu phước tới, đã phá xích xong rồi. Sợ
người ta hiểu lầm kẻ chứng tánh chẳng cần tu phước, lại vì trên nói:
"lấy sắc thấy ta là hành tà đạo", sợ người ta hiểu lầm là kẻ thấy như
lai ắt phải diệt tướng. Nay lập thuyết như thế nầy, thì hai thứ hiểu lầm
đều khiển trừ, cho nên nói là hay khéo. Chữ "thị" trong câu nhữ nhược
tác thị niệm là trỏ văn dưới, câu bất dĩ cụ túc tướng v.v..., chính là
sợ kẻ nghe lời nói trên sanh ra hiểu lầm mà làm niệm nầy. Trưởng lão là
kẻ đương cơ, là đại biểu cho chúng sanh, nên phật chỉ day về trưởng lão
phát ra lời nói, kỳ thực là bảo khắp mọi người.
Câu "đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề" phản ảnh gồm nhiều nghĩa, phải theo từng tầng nói ra:
1)
a nậu đa la tam miệu tam bồ đề có nghĩa là vô thượng chánh đẳng giác,
nhưng cũng thu nhiếp nghĩa phật và như lai. Sao bảo là nhiếp nghĩa như
lai? Như lai là bình đẳng pháp thân không có cao hạ, thể dứt tuyệt đối
đãi, nên nói là vô thượng. Ðã là bình đẳng nên nói là chánh đẳng, bất
giác thì chẳng thể chứng, nên nói là chánh giác. Sao bảo là nhiếp nghĩa
chữ phật? Phật là giác nên nói là chánh giác. Tự giác, giác tha không
hai không khác, nên nói là chánh đẳng, giác đã viên mãn đến vị cứu cánh
nên nói là vô thượng. Nên vô thượng chánh đẳng giác có thể là tên gọi
chung của tánh đức như lai, quả đức phật. Ở đây chẳng nói là phật, chẳng
nói là như lai, mà đem danh từ gọi chung ra để nói ấy là hiển hai
nghĩa: a) vì câu trên nói hiển ra là cụ túc tướng, mà ẩn đi bao gồm tu
phước đức, nếu theo một mình phước đức tu nhân đắc quả mà nói thì phải
dùng chữ phật để gọi. Nếu theo một mình cụ túc tướng của tướng tuy chẳng
phải là tánh mà cũng chẳng phải ly tánh mà nói thì nên dùng chữ như lai
để gọi. Nay câu trên đã có đủ hai nghĩa ẩn và hiển, cho nên dùng tên
gọi chung bao gồm luôn cả tánh đức và quả đức. b) Nói đắc a nậu đa la
tam miệu tam bồ đề chính là vì dẫn khởi phát a nậu đa la tam miệu tam bồ
đề ở văn dưới mà tới, vì chưng muốn nhờ quả chứng để tỏ rõ nhân phát
tâm. Nhờ quả để tỏ rõ nhân, sở dĩ mở rõ nghĩa chân thực của nửa bộ sau
lúc khai chương chỗ nói: "thực vô hữu pháp phát a nậu đa la tam miệu tam
bồ đề". Lúc khai chương, trước nói nghĩa không có pháp phát bồ đề, nối
tiếp tỏ rõ nghĩa không có pháp đắc bồ đề, một cái phát, một cái đắc đối
nhau mà nói. Trong nầy cũng một cái phát, một cái đắc đối đãi nhau mà
nói chính là để bổ túc nghĩa lúc khai chương chỗ nói. Sao gọi là bổ túc?
Vì chưng mở rõ trước chỗ gọi là pháp tức là nhiếp phi pháp, trước chỗ
bảo là vô pháp là hai bên chẳng trước, pháp và phi pháp đều không có,
như thế mới là phát bồ đề. Nếu chỉ hiểu được một mặt chẳng thủ pháp, thì
không tránh khỏi rơi vào cái không, còn có thể gọi là phát vô thượng bồ
đề ư? Ở trong nầy đắc và phát đều nói, cho nên là yếu chỉ lúc khai
chương chỗ thuyết đều nhau rọi lẫn nhau thành thú. Do đây lại đủ chứng
minh dưới chữ bồ đề ở câu nói trên đã không có chữ tâm, thế thì ở trong
văn nầy dưới câu phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề há có thể để thêm
một chữ tâm vào, ấy là kẻ chẳng hiểu rõ tôn chỉ của kinh sống sượng lạm
thêm vào, há chẳng phải là lầm to?
2) Nói một chữ đắc lại có
nghĩa tinh diệu, vì chưng chữ đắc nầy, là châm đối khoa trên chữ quán mà
nói. Châm đối chữ quán mà nói chữ đắc là để tỏ rõ nghĩa quán thì chẳng
nên thủ tướng, đắc thì chẳng nên phế tướng. Vì cớ gì? Ðạo tu quán chú
trọng ở kiến tánh, quán tướng há có thể kiến tánh? Nửa bộ trước đã
thuyết được rõ rõ ràng ràng: "nhược kiến chư tướng phi tướng tắc kiến
như lai", nên muốn thấy như lai ắt phải có thể thấy chư tướng tức là phi
tướng mà sau mới có thể được. Nay nói lấy 32 tướng quán như lai gồm
chưa thể thấy tướng tức là phi tướng, thì sao có thể thấy như lai ư? Rất
là lờ mờ vậy, nên phá xích nó rằng: "hành tà đạo, chẳng thể thấy" để tỏ
rõ tánh và tướng chẳng phải là một. Khoa nầy chẳng nói quán mà nói đắc
là theo tu nhân chứng quả mà nói, lại cũng theo tánh và tướng tương đắc
mà nói. Vì cớ gì? Vì tánh và tướng chẳng tương đắc thì chẳng gọi là
chứng quả. Ý hiển rõ nếu có thể chẳng trước ở tướng, thì tướng cũng có
ngại gì với tánh, nên tương đắc vậy. Tóm lại tánh là trong, tướng là
ngoài. Theo trong và ngoài mà nói thì tánh và tướng chẳng phải một, nếu
theo ngoài ắt có trong, trong ắt có ngoài, trong ngoài hợp nhứt mà nói,
thì tánh và tướng chẳng phải khác. Cũng như người mua căn nhà, phải xem
rường cột của nhà nầy, nếu chỉ xem tướng ngoài mà nói rằng xem tướng
ngoài tức là xem rường cột, há chẳng phải là chuyện tức cười ư? Nhưng
chỉ có rường cột, mà cửa, cửa sổ, cửa ngõ, vách tường, tướng ngoài hết
thảy đều không có, thì tuy được cái nhà này cũng như không được. Tu hành
cũng thế. Theo quán mà nói, ắt phải chẳng thủ tướng, theo đắc mà nói,
ắt phải chẳng phế bỏ tướng. Hiểu rõ thí dụ nầy, thì lý nhứt dị đều chẳng
nên chấp sẽ có thể thấu suốt triệt để. Lại có thể thấy chỗ phật thuyết
pháp mỗi lời nói đều có mực thước, chữ chữ đều bao gồm diệu lý. Thiệt sợ
rằng người học tâm thô, khí phù, ở đạo lý tánh và tướng phi nhứt phi dị
nhai nuốt một cách sống sượng chẳng thể tiềm tâm lĩnh hội kỹ lưỡng. Nay
xem như chỗ nói trên, thế tôn đã đem sự hành bố trong tánh tướng viên
dung vì hết thảy người học vạch ra rõ rõ ràng ràng. Nếu có thể thể-hội
thâm thiết, thì tự mình có thể đã chẳng thủ tướng, lại chẳng thủ phi
tướng, lại có thể hành bố, lại có thể viên dung, sự sự đều hợp trung
đạo, pháp pháp chẳng trái với tự tánh.
3) Chỗ nói ở phía trước
lại có nghĩa phản ảnh lẫn nhau mà hiển ra, chẳng thể nào mà không biết.
Tại sao nói như thế? Khoa trên nói quán là theo bên nhân mà nói, là tỏ
rõ kẻ tu nhân chẳng thể thủ tướng, chẳng thể tu phước hữu lậu. Phải
biết, tu nhân đã chẳng thể thủ tướng, thì chứng quả lại sao có thể thủ
tướng, thế nhưng chẳng phải là phế bỏ tướng. Lúc ở nhân vị chẳng thể tu
phước hữu lậu, vì cớ tu nhân vô lậu mới có thể chứng quả vô lậu. Khoa
nầy nói đắc là theo bên quả mà nói, là tỏ rõ chứng quả chẳng phải là phế
bỏ tướng, cũng chẳng phải không do tu phước mà tới. Phải biết, chứng
quả đã chẳng phải là phế bỏ tướng, thì tu nhân há lại nên phế bỏ tướng,
nhưng chẳng thể thủ trước mà thôi. Quả chẳng phải là không do tu phước
mà tới, thế nhưng ở lúc nhân vị chỉ chẳng nên tu phước hữu lậu mà thôi,
há khiến tuyệt đối chẳng tu phước ư? Nhân quả nhứt như nên phản ảnh lẫn
nhau, hiển ra lẫn nhau để tỏ rõ.
4) Khoa trên và khoa nầy hai
khoa đối chiếu nhau mà xem lại có yếu nghĩa. Khoa trên ý ở văn trường
hàng, như nói: luân vương cũng có 32 tướng mà không phải như lai, ấy là
tỏ rõ nghĩa tu phước mà không tu tuệ thì chẳng thể đắc vô thượng bồ đề
quả. Khoa nầy khẩn thiết răn dạy đừng làm niệm chẳng tu phước mà đắc bồ
đề, là tỏ rõ nghĩa chỉ tu tuệ không tu phước thì cũng chẳng thể đắc vô
thượng bồ đề quả. Trong bốn câu kệ ở khoa trên mắng, bài xích lấy sắc
thanh thấy như lai là hành tà đạo, ấy là tỏ rõ nghĩa thấy tánh chẳng nên
thủ tướng. Khoa nầy khẩn thiết răn dạy đừng làm niệm lấy chẳng cụ túc
tướng đắc bồ đề, ấy là tỏ rõ nghĩa thấy tánh cũng chẳng phải phế bỏ
tướng. Từ điều thứ nhứt đến điều thứ bốn nầy hợp lại mà xem, đã đem nhân
nhân quả quả của lý tánh, sự tu, cho đến tánh tướng phi nhứt phi dị,
lại hành bố, lại viên dung nói ra rất tế mật, rất tròn vẹn, thế nhưng
những nghĩa bao gồm còn chẳng chỉ ở đây.
5) Khoa trên nói quán,
khoa nầy nói niệm. Quán và niệm là một nghĩa. Hợp hai khoa lại nói, ý
hiển rõ tướng và chẳng phải tướng, phước và chẳng phải phước, hai bên
chẳng trước là chánh quán chánh niệm. Nếu chỉ thủ một bên tức là chẳng
phải chánh quán, chánh niệm. Vì cớ gì? Vì chẳng hợp trung đạo. Nên khoa
trên thủ tướng liền lấy hành tà đạo mắng, bài xích nó, khoa nầy thủ phi
tướng lại lấy mạc tác thị niệm răn dạy nó.
6) 32 tướng là ứng
thân, ứng thân sanh diệt vô thường, tiện ở tỏ rõ nghĩa tánh và tướng
chẳng phải một, nên khoa trên khiển trừ thủ tướng, thì đem 32 tướng ra
nói. Cụ túc tướng tức là chỗ nói cụ túc chư tướng phía trước, ấy là báo
thân. Nhưng theo tướng mà nói thì gọi là báo thân, theo tánh mà nói tức
là pháp thân báo đắc, ở chỗ tiện cho tỏ rõ nghĩa tánh và tướng chẳng
khác, nên ở đây khiển trừ diệt tướng thì đem cụ túc tướng ra nói. Phải
biết, nói như thế cũng là phản ảnh hiển ra lẫn nhau để tỏ rõ nghĩa. Vì
cớ gì? Vì 32 tướng chẳng nên thủ, thì có thể biết cụ túc tướng cũng
chẳng nên thủ, cụ túc tướng chẳng nên diệt, thì có thể biết 32 tướng
cũng chẳng nên diệt. Chia ra mà nói chỉ vì tiện ở hiểu rõ nghĩa chẳng
một khác mà thôi.
7) Trong câu "bất dĩ cụ túc tướng đắc bồ đề"
lại bao gồm tinh nghĩa. Phải biết, sự thành của cụ túc tướng là do phước
tuệ tu cả hai mà tới, chẳng những tu phước mà thôi. Sao gọi là tu cả
hai? Là lúc tu phước liền biết chẳng trước tướng. Biết chẳng trước tướng
tức là tuệ, vì thế mới có thể thành cụ túc tướng, đắc vô thượng bồ đề.
Ðây cùng với luân vương khác xa, bởi phước nghiệp của luân vương gọi là
hữu lậu, không có gì khác, vì cớ tu phước trước tướng, nên chỉ có thể
thành 32 tướng, chỉ đắc quả luân vương. Do đây có thể biết trong nầy tuy
là nói chẳng diệt tướng, thực ra gồm có nghĩa chẳng thủ tướng ở đó, thế
cho nên nó có thể cùng với tánh chẳng khác. Tầng nầy là nghĩa tinh diệu
của khoa nầy, vậy nên đem cụ túc tướng ra để tỏ rõ chẳng phải khác, tôn
chỉ là ở đó. Vì cớ gì? Vì chẳng khác tức là nhứt như, ắt tướng và phi
tướng, hai bên chẳng thủ mới gọi là nhứt như. Như chỗ nói khoa trên là
chỉ biết chẳng thủ một bên phi tướng, sao gọi là nhứt như ư?
Tổng
hợp các nghĩa nói trên, thì nghĩa của khoa nầy liền có thể hiểu rõ, đều
là sợ người ta nghe nói khiển tướng ở trên bèn nghiêng về bên không,
hiểu lầm là vô tướng tuyệt đối, thì cùng với thực tướng vô tướng vô bất
tướng trái nhau, liền chẳng phải là nghĩa chư pháp như, liền chẳng phải
là thị pháp bình đẳng, liền chẳng đắc quả vô thượng bồ đề, mà chẳng thấy
như lai. Cho nên răn dạy một cách khẩn thiết là mạc tác thị niệm vì nếu
tác thị niệm là tà kiến, chẳng phải chính kiến. Bàn về nghĩa lý, bàn về
ngữ khí chỉ một câu mạc tác thị niệm nầy ở nghĩa đã đủ. Nay lại nối
tiếp nói hai câu: như lai bất dĩ cụ túc tướng cố, vì chưng nói lắp lại
để làm sáng tỏ, khiến cho người ta biết chú trọng hai câu nầy là yếu
nghĩa, chẳng thể bỏ qua. Nên mạc tác thị niệm phải đọc liền với hai câu
dưới, nếu đến chữ niệm mà chấm câu liền thấy hai câu dưới trùng điệp.
Tôi thấy một bản in đời đầu nhà Thanh, lầm chấm dứt câu ở chữ niệm, lại
sợ hai câu dưới trùng điệp bèn bỏ chữ phất đi, mà chép là: như lai dĩ cụ
túc tướng cố đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, đây là sai lầm lớn.
Phải biết có một chữ phất là bao gồm có ý tuy chẳng nên thủ tướng cũng
chẳng nên phế bỏ tướng ở trong đó, hơi câu nói là chiếu cả hai bên, viên
dung hoạt bát bao nhiêu? Nếu bỏ chữ phất đi, thì hơi câu nói liền trước
ở một bên thủ tướng, dính cứng đần độn, khác xa nhau một trời một vực.
Ðại Trí Ðộ Luân nói: "Bát nhã như lửa lớn tụ, bốn mặt chẳng thể rờ
đụng", há có thể để một câu nói đần độn vào? Thử xem văn tự của kinh
nầy, đem văn tự ra mà bàn cũng là ngòi bút tuyệt diệu hữu thần, nếu
không phải đại sư La Thập dịch thì chẳng được đến như thế. Lấy bản dịch
của người khác đem ra so sánh có thể tự biết.
Tu Bồ Ðề ! Nhữ
nhược tác thị niệm, phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề giả, thuyết chư
pháp đoạn diệt. Mạc tác thị niệm, hà dĩ cố? Phát a nậu đa la tam miệu
tam bồ đề giả ư pháp bất thuyết đoạn diệt tướng.
Dịch nghĩa: Tu
Bồ Ðề ơi, ông nếu làm niệm nầy, kẻ phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề
nói các pháp đoạn diệt. Ðừng làm niệm nầy, vì cớ gì? Kẻ phát a nậu đa la
tam miệu tam bồ đề ở pháp chẳng nói tướng đoạn diệt.
Nghĩa
kinh của khoa nầy rất là khúc chiết, tinh tế, phải tiềm tâm lĩnh hội nó.
Bản lưu thông chép dưới chữ bồ đề đều có chữ tâm, người đời Ðường viết
kinh đều không có chữ tâm, chẳng nên thêm vào. Khoa nầy chính là thuyết
minh cái sở dĩ nhiên của một khoa bày tỏ răn dạy ở trên. Một đoạn: nhữ
nhược tác thị niệm, đến chư pháp đoạn diệt, là thuyết minh cái sở dĩ
nhiên của tác thị niệm ở văn trên. Một đoạn dưới: câu hà dĩ cố là thuyết
minh cái sở dĩ nhiên của mạc tác thị niệm ở văn trên. Nghĩa chính của
khoa trên đến đây mới hiển ra. Nhữ nhược tác thị niệm tức là bảo rằng
làm một cái niệm: như lai bất dĩ cụ túc tướng cố đắc vô thượng bồ đề.
Chữ pháp ở trong câu: "thuyết chư pháp" thừa tiếp khít với câu cụ túc
tướng, vì cụ túc tướng là do tu phước mà thành. Làm sao tu phước? Là làm
rộng các pháp lục độ. Thế nên nếu nói bất dĩ cụ túc tướng thì không
khác gì nói chẳng cần dùng tu pháp lục độ, há chẳng phải là thuyết thành
chư pháp đoạn diệt ư, nên nói chư pháp đoạn diệt. Khoảng giữa lại có
một câu phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, là làm sao? Phải biết, thế
tôn ở lúc khai chương nửa bộ sau đã từng nói vô pháp phát bồ đề, sợ rằng
kẻ chưa thể hiểu sâu nghĩa nầy nghe được sau nầy lại nói: ngã ư a nậu
đa la tam miệu tam bồ đề nãi chí vô hữu thiểu pháp khả đắc, vả khoa trên
nói: "nhược dĩ sắc kiến ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến như
lai", thế ắt hiểu lầm rằng nghĩa vô pháp phát bồ đề chỗ nói phía trước
ta đã biết rồi. Kẻ đắc bồ đề đã không có chút pháp, vả rõ ràng khai thị
dĩ sắc kiến là tà đạo, sắc là tướng, thì có thể thấy như lai đắc vô
thượng bồ đề trọn vẹn cùng với cụ túc tướng không liên quan gì. Ðây là
do lai của "tác niệm bất dĩ cụ túc tướng cố đắc bồ đề". Nếu tác niệm nầy
liền có niệm thứ nhì rằng: cục túc tướng là do hành pháp lục độ, siêng
tu phước đức mà tới, chỗ gọi là trăm kiếp tu tướng hảo là vậy. Nay đắc
bồ đề đã cùng với cụ túc tướng không liên quan, vả rõ ràng khai thị kẻ
đắc bồ đề không có chút pháp thì kẻ phát bồ đề cũng ắt không nên có chút
pháp, chỉ nên nhứt tâm xu hướng vào tánh không tịch mà thôi, phàm các
pháp lục độ, chỗ gọi là tu phước đức, tu tướng hảo trọn vẹn chẳng có thể
để ở trong tâm, đây là sở dĩ khai thị vô pháp phát bồ đề vậy. Người tu
hành nếu hiểu lầm như thế thì cùng với tôn chỉ của phật trái ngược nhau,
đi vào tà đạo, thế ắt một pháp nào cũng chẳng tu. Vì cớ gì? Vì thuyết
thành chư pháp đoạn diệt, còn được bảo là phát vô thượng bồ đề ư? Nên
răn dạy một cách khẩn thiết bằng: "mạc tác thị niệm". Do đây có thể biết
phật thuyết khoa nầy chính là thuyết minh cái sở dĩ nhiên làm sao mà
tác niệm, mà phật trong lúc khiển trừ thủ tướng bỗng nhiên quay đầu lại
thuyết một khoa lớn khiển diệt tướng nầy, lại chính là mở rõ nghĩa chân
thực của vô pháp phát bồ đề nói ở phía trước. Sự quan hệ trọng yếu của
khoa nầy, cũng rõ ràng, nên hồi nãy nói là nghĩa rất khúc chiết, tinh
tế, phải tiềm tâm lĩnh hội. Phàm thuyết lý đến chỗ tinh thâm cần phải
phân biện cho kỹ, nếu chẳng như thế thì thế ắt sai đi hào ly thì lầm đến
ngàn dặm, đi vào tà đạo mà chẳng tự biết, rất là nguy hiểm. Thế nên học
phật sở dĩ phải khai viên giải, mà lấy thân cận bực thiện tri thức làm
việc gấp. Dưới câu hà dĩ cố, chính tỏ rõ cái sở dĩ nhiên của bất ưng tác
thị niệm, ý nói rằng: trước nói vô pháp phát bồ đề là nói chẳng nên tồn
tại một niệm rằng đây là vô thượng bồ đề, để trừ cái bịnh thủ trước
pháp tướng của nói, sao từng đã nói đoạn diệt pháp tướng ư? Nên nói:
"phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề giả, ư pháp bất thuyết đoạn diệt
tướng". Lúc trước nói vô pháp phát bồ đề, đã nói ra rõ ràng rằng kẻ phát
a nậu đa la tam miệu tam bồ đề chỉ nên sanh khởi trách nhiệm độ sanh
vốn phải làm cho trọn, tuy trọn hết cũng giống như tâm chưa trọn hết, há
là nói đoạn diệt các pháp ư? Sau lại nói: "nhược bồ tát tác thị ngôn:
ngã ưng diệt độ vô lượng chúng sanh tắc bất danh bồ tát" cũng là nói
chẳng thể tồn tại một cái tâm ta có thể hết trách nhiệm, há là nói đoạn
diệt các pháp ư? Phật đắc bồ đề không chút pháp nào có thể đắc, là nói
tuy đắc mà không tồn tại có sở đắc, cũng chẳng phải là đoạn diệt các
pháp. Chứng pháp thân, đắc bồ đề ắt phải phước tuệ tu cả hai, vì phước
tuệ tu cả hai mới có thể bi và trí đầy đủ, sao có thể nói cụ túc tướng
tuyệt đối không liên quan gì ư? Bèn rốt cuộc hiểu lầm như thế, thật là
lầm lớn, lầm lớn ! Phải biết thế tôn đại từ, vì ở phía trên tới đây hết
sức khiển tướng, chỉ sợ kẻ sống sượng chưa thể hiểu sâu, khó tránh khỏi
hiểu lầm như thế, nên mới răn bảo một cách khẩn thiết như thế mà thôi.
Răn bảo như thế, chẳng những là mở rõ nghĩa chân thực của vô pháp phát
bồ đề, vả lại ý ở khai thị người học muốn chứng nghĩa bình đẳng pháp
thân, chư pháp như, ắt phải ngừng nghỉ hết cuồng tâm, một niệm chẳng
sanh rồi sau mới có thể được. Vì cớ gì? Vì động niệm liền có phân biệt
chấp trước, nên nói: mạc tác thị niệm. Do đó mà nói, dưới chữ bồ đề ở
trong câu nầy, chẳng thể nào thêm vào một chữ tâm, hiển nhiên có thể
thấy.
Nói tóm lại, từ khai kinh đến đây chỗ nói các nghĩa nếu
không có văn hai khoa lớn riêng biệt khiển tình chấp nầy thì khó lĩnh
hội triệt để, thế thì cũng không từ chỗ nào mà diễn thuyết. Phải biết,
từ khai kinh đến đây diễn thuyết bao nhiêu thứ đạo lý hai bên đều khiển,
đều là nhiếp thủ nghĩa của hai khoa lớn ở đây mà nói, nên hai khoa lớn
nầy là khoa trọng yếu của trọn bộ kinh, vì nghĩa của nó có thể thông
suốt trọn bộ kinh.
Ngay như nửa bộ trước, mở miệng liền nói:
"diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sanh, thực vô chúng sanh đắc diệt
độ giả," là nói độ hết chúng sanh mà không trước tướng, chẳng phải nói
chẳng độ một chúng sanh nào mà là tướng đoạn diệt. Lại nói: "ư pháp ưng
vô sở trụ hành ư bố thí," là nói lúc làm bố thí chẳng nên trụ tướng,
không phải là chẳng làm bố thí mà thành tướng đoạn diệt. Chỗ bảo là phải
hàng phục như thế, là chấp trước và đoạn diệt hai bên đều phải hàng
phục, không phải là hàng phục một bên. Chỗ bảo là đãn ưng như sở giáo
trụ, tức là hai bên hàng phục, hai bên chẳng trụ. Chẳng trụ ở một bên
nào như thế, thì tự có thể đắc chỗ nên trụ, cũng tức là như chỗ dạy mà
trụ, nên nói: "nhược tâm hữu trụ tắc vi phi trụ." Cho nên thế tôn thị
hiện tướng giống như phàm phu trần lao tức là biểu thị chẳng chấp trước
cụ túc tướng 32 tướng, mà lại chẳng đoạn diệt tướng. Ðây gọi là nhứt
như, đây gọi là bình đẳng, sở dĩ kinh nầy có công đức vô biên, mà kẻ có
thể tín tâm bất nghịch tức là hạ đảm như lai tăng phước diệt tội, sẽ đắc
bồ đề. Mà nghĩa nầy rất sâu, ắt phải hiểu sâu, nếu chẳng thế, thì nếu
không kinh sợ mà hồ nghi thì cũng sống sượng mà cuồng loạn. Không những
thế, trước nói thông đạt vô ngã pháp giả là chẳng những phải thông đạt
lý chẳng thủ pháp tướng, lại phải thông đạt lý chẳng diệt pháp tướng. Vì
cớ gì? Nếu thủ pháp tướng liền trước ngã, nhân chúng sanh, thọ giả, nếu
thủ phi pháp tướng cũng lại tức là trước ngã, nhân, chúng sanh, thọ
giả. Ắt phải ở hết thảy pháp tướng đã chẳng thủ, lại chẳng diệt, mới có
thể chứng được pháp tánh bình đẳng nhứt như mà vô ngã, ấy là kẻ thiệt có
thể thông đạt vậy. Nên được hai khoa lớn nầy, trọn bộ kinh liền dung
hội lại thành một mảng nghĩa sâu kín tuyên bố ra hết. Cho nên khoa dưới
lấy "tri nhứt thiết pháp vô ngã, đắc thành ư nhẫn" thu thúc viên mãn.
Trong
hai khoa lớn tỏ rõ phi nhứt phi dị nầy, lại có một nghĩa cực trọng yếu,
nghĩa này ra sao? Tức là phi thường phi đoạn. Một khoa tỏ rõ phi nhứt
là nói phi thường. Ứng hóa thân 32 tướng tùy thời hiển hiện, là sanh
diệt phi thường. Vì nó phi thường nên cùng với tánh thường trụ phi nhứt.
Một khoa tỏ rõ phi dị là nói phi đoạn. Cụ túc tướng tức là pháp thân
báo đắc nên phi đoạn. Vì nói phi đoạn nên cùng với tánh thường trụ phi
dị. Tuy thế đây là còn căn cứ nghĩa tùy nghi mà nói, nếu y theo cứu cánh
liễu nghĩa mà nói thì ba thân: pháp, báo, ứng đều là phi thường, phi
đoạn. Văn trong hai khoa lớn rõ ràng nói như lai là trỏ pháp thân mà
nói, rõ ràng nói cụ túc tướng là trỏ báo thân mà nói, rõ ràng nói 32
tướng là trỏ ứng thân mà nói. Ba thân nói ra đều, để tỏ rõ chẳng nên thủ
tướng, chẳng nên diệt tướng, bởi vì nhân nó phi thường cho nên chẳng
nên thủ, nhân nó phi đoạn cho nên chẳng nên diệt. Có thể thấy tôn chỉ
của kinh rành rành là hiển nghĩa ba thân phi thường phi đoạn, há có thể
sơ sót mà chẳng nói ra ư? Nghĩa nầy cũng là yếu nghĩa của bát nhã, chẳng
thể nào mà chẳng tỏ rõ. Vì cớ gì? Vì nghĩa phi thường phi đoạn tỏ rõ,
thì nghĩa phi nhứt phi dị có thể nhân đó mà càng rõ. Nghĩa phi nhứt phi
dị nếu được thấu rõ, sau mới kiến viên mà tri chánh. Thế nhưng nghĩa nầy
rất chẳng dễ gì tỏ rõ, trong các kinh luận đại thừa tuy nhiều lần nói
ra, mà nói ra rất tường tận, rất thấu triệt không chỗ nào hơn cuốn 10
Kim Quang Minh Kinh. Nay sẽ dẫn ra để nói, tôi tưởng các ông cũng nguyện
nghe.
Kinh Kim Quang Minh nói: "Y pháp thân nầy, ma ha tam
muội chẳng thể nghĩ bàn mà đắc hiển hiện. Y pháp thân nầy đắc hiện hết
thảy đại trí. Thế nên hai thân y ở tam muội, y ở trí tuệ mà đắc hiển
hiện". Ma ha có nghĩa là lớn, tam muội là định. Ðại định đối đại trí mà
nói, đại trí tức là đại tuệ. Ðịnh tuệ từ pháp thân tuyệt đối hiển hiện
ra, nên đều nói là lớn, đều nói là lớn là tỏ rõ định tuệ đều bẳng nhau.
Tỏ rõ định tuệ đều bằng nhau là hiển tịch chiếu đồng thời. Ðịnh tuệ là
theo công phu tu mà nói, tịch chiếu là theo tánh đầy đủ mà nói. Lúc tịch
mà chiếu, lúc chiếu mà tịch, chẳng phải chỗ lời nói, tâm suy nghĩ có
thể tới, tức là ly danh tuyệt tướng, nên nói chẳng thể nghĩ bàn. Câu nầy
gồm suốt đại trí. Hai thân là báo thân, ứng thân. Vì chưng bảo pháp
thân tánh thể vốn lý danh tuyệt tướng, tịch chiếu đồng thời, nhưng nếu
không tu thì chẳng chứng được. Thế nhưng nếu chẳng phải tánh thể vốn đầy
đủ, thì công phu tu định tuệ không từ đâu mà hiển hiện, nên nói y pháp
thân nầy đắc hiện đại định đại trí. Ðây là nghĩa trên bề mặt. Ở bề trong
là khai thị ắt phải ly danh tuyệt tướng, y bổn tịch để tu định, y bổn
chiếu để tu tuệ, công phu tu định tuệ viên mãn đều bằng nhau liền có thể
tịch chiếu đồng thời, tức là chứng đắc pháp thân. Kịp đến pháp thân
chứng đắc, thì tướng của báo ứng hai thân liền lại hiển hiện, nên nói:
"thế nên hai thân y ở tam muội trí tuệ hiển hiện". Xem nghĩa đoạn kinh
nầy, có thể biết ắt phải ly danh tuyệt tướng để tu định tuệ mới có thể
chứng tánh của pháp thân, nhưng cũng chẳng đoạn diệt tướng của báo, ứng
hai thân. Báo, ứng hai thân kinh đó dịch ra danh từ có hơi khác. Thông
thường chỗ gọi là báo thân, kinh đó dịch là ứng thân. Thông thường chỗ
gọi là ứng thân, kinh đó dịch là hóa thân. Trong hết thảy kinh luận và
sách vở của bực cổ đức, thứ danh từ khác nhau nầy thường thường gặp
phải, người mới học rất khó phân biện, nhưng nếu xem kỹ tôn chỉ của kinh
liền biết chỗ trỏ mà được hội thông, cũng chẳng cần sợ khó.
Kinh
đó lại nói: "Pháp thân tam muội trí tuệ như thế, qua hết thảy tướng,
chẳng trước ở tướng, chẳng thể phân biệt, chẳng phải thường, chẳng phải
đoạn, đó gọi là trung đạo". Ðây là tỏ rõ pháp thân chẳng phải thường,
chẳng phải đoạn. Pháp thân tam muội trí tuệ: là ý hiển định tuệ viên mãn
đầy đủ tức là pháp thân, chẳng phải ngoài cái đó lại có pháp thân riêng
biệt. Vì chưng tam muội trí tuệ tức là trỏ pháp thân mà nói. Chẳng thể
hiểu lầm pháp thân, tam muội, trí tuệ là ba cái khác nhau. Xem phía
trước chỗ dẫn ra: y ư pháp thân v.v... của kinh đó có thể hiểu rõ. Vì cớ
gì? Từ xưa đến nay đều nói báo thân, ứng thân từ pháp thân hiện ra, mà
kinh đó nói hai thân y tam muội trí tuệ đắc hiện, thì đủ chứng tam muội
trí tuệ tức là pháp thân. Cho nên bổn tánh của phàm phu chỉ gọi là phật
tánh, có lúc gọi là pháp thân ở triền, pháp thân ở chướng, chưa từng có
chỗ nào chỉ gọi là pháp thân, chính vì phàm phu không có định tuệ, hoặc
tuy có mà chẳng đầy đủ. Ðã chưa chứng nhứt chân pháp giới, chưa có thể
tịch chiếu đồng thời, sao có thể gọi là pháp thân? Thế thì đã phải định
tuệ đầy đủ mới gọi là pháp thân, thì có thể thấy pháp thân chẳng ngoài
định tuệ đầy đủ. Bố câu dưới câu: "qua hết thảy tướng" tỏ rõ nghĩa cực
tinh. Qua là vượt qua, qua hết thảy tướng cũng như nói vượt ra ngoài
tướng. Ðã nói qua hết thảy tướng, lại nói chẳng trước ở tướng, là tại
sao? Câu qua hết thảy tướng là tỏ rõ nó vô tướng. Tánh thể lớn mà không
có ngoài, lại cũng nhỏ mà không có trong, vượt ra hết ngoài vòng đối đãi
nên không có tướng. Câu chẳng trước ở tướng là tỏ rõ nó vô bất tướng.
Vì nó vô bất tướng, bèn có chẳng trước có thể nói. Vì chưng tánh tuy
chẳng phải tướng, mà hết thảy tướng đều từ tánh hiện ra, tuy từ tánh
hiện ra, mà tánh vẫn vượt ra ở ngoài tướng, nên chẳng trước. Hai cầu nầy
tỏ rõ nghĩa lẫn nhau, vì nó vượt qua nên nó chẳng trước, vì nó chẳng
trước cho nên biết nó vượt qua vậy. Hợp nghĩa của hai câu nầy chính sở
dĩ hiển tánh và tướng chẳng phải một. Vì cớ gì? Vì tánh tuy tùy duyên
hiện tướng mà vẫn vượt qua chẳng trước tướng. Chỗ bảo là chẳng trước ở
đây, là nói nó pháp nhĩ chẳng trước. Làm sao thấy như thế? Vì tướng đều
sanh diệt vô thường, mà tánh thì tự nó vẫn thường trụ, chẳng nhân có tùy
duyên hiện tướng liền bị tướng sanh diệt nầy làm trở ngại, có thể biết
nó vốn chẳng trước, nên tánh và tướng chẳng phải một. Hai câu nầy cũng
là thuyết minh pháp thân cùng với báo, ứng hai thân chẳng phải một. Câu
chẳng thể phân biệt, sở dĩ hiển tánh và tướng chẳng phải khác, cũng tức
là nói pháp thân cùng với báo ứng hai thân chẳng phải khác. Vì cớ gì
chẳng thể phân biệt mà chẳng khác? Kinh đó tự tỏ rõ nghĩa nầy rằng: "Tuy
có phân biệt, mà thể không phân biệt, tuy có ba số mà chẳng phải ba
thể". Vì chưng báo, ứng hai thân chỉ có tướng mà không có thể, thể chỉ
có pháp thân mà thôi, sở dĩ số tuy có ba, mà thể chẳng phải ba, tướng
tuy có khác, thể thì không khác. Nên lời nói chẳng thể phân biệt là theo
thể mà nói, nhưng cũng là lời nói liên quan đến cả hai, vì nó lúc nào
cũng hiện ra tướng phân biệt mới có chỗ có thể nói là chẳng thể phân
biệt. Cho nên câu chẳng phân biệt, một mặt đã đành hiển thể nó không có
khác biệt, mà một mặt lại hiển nó hiện tướng không ngừng nghỉ. Do đây có
thể biết giới hạn chẳng phải một, chẳng phải khác. Vì chưng lấy tánh
dung tướng thì chẳng phải khác, tánh và tướng đem ra đối nhau thì chẳng
phải một, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, nối tiếp khít ba câu mà
tới. Lúc hiển hiện ra, thể tuy không khác biệt mà dụng thì có tướng khác
biệt, nên nói chẳng phải thường. Nhưng tướng tuy chẳng phải thường mà
tánh của pháp thân vẫn lại vượt qua hết thảy tướng, chẳng trước ở tướng,
nên nói chẳng phải đoạn. Hoặc nói: Từ xưa đến nay nói pháp thân thường
trụ, vì nó thường trụ mới gọi là pháp thân, nên nói pháp thân chẳng phải
đoạn, nghĩa nó dễ tỏ rõ. Pháp thân tuy hiện các tướng báo, ứng, nay nói
chẳng phải thường cũng là theo tướng mà nói. Thế thì làm sao gọi là
pháp thân chẳng phải thường? Nghĩa nầy rốt cuộc khó hiểu rõ. Xin trả lời
rằng: chỗ gọi là pháp thân thường trụ là chỉ riêng theo pháp thân mà
nói. Thế nhưng chứng đắc thể của pháp thân thường trụ bất sanh bất diệt
rồi, nếu trụ ở thể mà không hiện tướng thì chẳng thể cùng với chúng sanh
tiếp gần, lấy gì lợi ích chúng sanh ư? Nên chư phật chư bồ tát vì cớ
lợi ích hết thảy chúng sanh thường hiện tướng sanh diệt của báo thân và
các thân ứng hoá, mà chẳng trụ trước pháp thân. Ðem cái có thường trụ
pháp thân mà chẳng trụ ra để nói, nên nói pháp thân chẳng phải thường.
Thế nhưng tuy chẳng trụ, nhân nó thường ở trong đại định nên tướng chỗ
hiện ra, mặc cho nói sanh diệt phừng lên, mà sự thường trụ của pháp thân
vẫn thế. Chỗ gọi là qua hết thảy tướng, mà chẳng trước ở tướng thực do ở
đó, nên lại nói pháp thân chẳng phải đoạn. Phải biết, pháp thân chẳng
phải thường chính chỗ bảo là chẳng trụ niết bàn, pháp thân chẳng phải
đoạn chính chỗ bảo là chẳng trụ sanh tử. Hai bên chẳng trụ cho nên nói:
gọi là trung đạo. Pháp thân hai bên chẳng trụ là nói nó đã chẳng trước ở
pháp thân, lại chẳng trụ trước ở các thân báo, ứng, đây chính là cảnh
giới tịch chiếu đồng thời, nếu chẳng phải công phu định tuệ đến viên mãn
đầy đủ thì chẳng thể đến cảnh giới nầy. Kinh nầy mở miệng liền khiến
phát đại nguyện, tu đại hạnh, trừ ngã chấp của nó là vì thế. Vì ngã chấp
chưa hoá, ắt phân biệt chấp trước. Có chút phân biệt chấp trước liền
chẳng thể hai bên chẳng trụ, lại há có thể định tuệ đồng đều, thì cảnh
giới tịch chiếu đồng thời sao có thể đạt đến ư?
Kinh đó lại
nói: "Hoá thân là thường chuyển pháp luân, chỗ chỗ tùy duyên, phương
tiện nối nhau, vì cớ chẳng đoạn tuyệt cho nên nói là thường. Vì cớ chẳng
phải là bổn, vì có đại dụng đầy đủ chẳng hiển hiện, nên nói là vô
thường". Kinh đó dịch ứng thân là hoá thân, đây là tỏ rõ ứng thân chẳng
phải thường, chẳng phải đoạn. Cho nên nói là thường: cũng như nói cho
nên nói chẳng phải đoạn, vì ứng thân tùy duyên thường hiện chẳng đoạn,
nên nói chẳng phải đoạn. Vô thường: cũng như nói chẳng phải thường.
Chẳng phải là bổn: ấy là nói ứng thân chẳng phải là thể của bốn tánh.
Các thân báo ứng đều là tướng dụng của bổn tánh hiển hiện ra, cho nên
chẳng phải là bổn. Dụng do bổn hiện ra, chẳng phải là do dụng hiện ra.
Hai thân báo ứng đã là dụng rồi, chẳng thể lại hiển dụng, nên nói đại
dụng đầy đủ chẳng hiển hiện. Câu nầy chính tỏ rõ báo ứng là tướng, tướng
là pháp sanh diệt, nên nói là chẳng phải thường.
Kinh đó lại
nói: "ứng thân là từ vô thủy đến nay nối nhau chẳng dứt, là pháp bất
cộng của hết thảy chư phật, vì cớ có thể nhiếp trì. Chúng sanh vô tận,
dụng cũng vô tận, thế nên nói là thường. Vì cớ chẳng phải là bổn vì dụng
đầy đủ chẳng hiển hiện nên nói là vô thường". Ðây là tỏ rõ báo thân
chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, vì kinh đó dịch báo thân là ứng
thân. Pháp bất cộng như thập lực, tứ vô uý v.v... chỉ có chư phật có, bồ
tát cũng chưa đầy đủ, nên nói là bất cộng. Nhiếp trì có hai nghĩa: pháp
bất cộng nầy là trí dụng của báo thân, nhiếp trì ở báo thân, đây là một
nghĩa. Báo thân đủ trí dụng nầy bèn có thể nhiếp trì chúng sanh, đây là
hai nghĩa, nên nối tiếp nói rằng: chúng sanh vô tận, dụng cũng vô tận.
Tổng
hợp nghĩa kinh dẫn ở trên mà xem, chẳng phải một, chẳng phải khác vì có
ba nghĩa. Pháp thân là thể, báo, ứng thân là dụng, nên chẳng phải một.
Nếu lấy thể thu dụng, thì không thể phân biệt, nên chẳng phải khác, đây
là một nghĩa. Mà pháp thân chẳng phải thường là thường mà chẳng phải
thường, hai thân chẳng phải đoạn là đoạn mà chẳng phải đoạn, nên cái
chẳng phải thường của pháp thân là cái chẳng phải đoạn của hai thân, đây
là tánh và tướng sở dĩ chẳng phải khác. Cái chẳng phải đoạn của pháp
thân là rốt ráo chẳng phải đoạn, cái chẳng phải thường của hai thân là
rốt ráo chẳng phải thường, nên cái chẳng phải đoạn của pháp thân, là cái
chẳng phải thường của hai thân, đây là tánh và tướng sở dĩ chẳng phải
một. Tại sao nói thế? Cái chẳng phải thường của pháp thân là theo nối
tiếp nhau hiện ra tướng mà nói. Kinh nói chẳng thể phân biệt, là tỏ rõ
nó nối tiếp nhau hiện tướng, mà thể chỉ là pháp thân. Nối tiếp nhau hiện
tướng, nên nói là chẳng phải thường, Thể chỉ là pháp thân nên, nói
thường mà chẳng phải thường. Cái chẳng phải đoạn của pháp thân là theo
bản thể thường trụ mà nói. Kinh nói: "qua hết thảy tướng, chẳng trước ở
tướng", chính tỏ rõ nó là bản thể thường trụ. Vì nó là bản thể thường
trụ, cho nên tuy hiện tướng mà có thể vượt qua chẳng trước tướng. Thường
trụ bản thể, nên nói chẳng phải đoạn, hiện tướng mà lại vượt qua chẳng
trước, nên nói chẳng phải đoạn ấy là rốt ráo chẳng phải đoạn. Hai thân
kia thì chẳng thế, cái chẳng phải thường của hai thân kia là theo chẳng
phải là bản thể mà nói. Kinh nói: Vì cớ chẳng phải bản, đã chẳng phải là
bản-thể, nên nói chẳng phải thường ấy là rốt ráo chẳng phải thường, nên
nói cái chẳng phải đoạn của pháp thân là cái chẳng phải thường của hai
thân, tánh và tướng sở dĩ chẳng phải một là vậy. Vì cớ gì? Vì một cái là
bản thể thường trụ, một cái là chẳng phải bản thể. Cái chẳng phải đoạn
của hai thân là theo hiện tượng nối tiếp nhau mà nói. Kinh nói vì cớ nối
tiếp nhau chẳng dứt, đã hiển hiện nối tiếp nhau, nên nói chẳng phải
đoạn. Nên nói cái chẳng phải thường của pháp thân là cái chẳng phải đoạn
của hai thân, tánh và tướng sở dĩ chẳng khác vậy. Vì cớ gì? Vì cùng là
theo hiện tướng nối tiếp nhau mà nói. Ðây lại là một nghĩa của chẳng
một, chẳng khác. Lại nữa, cái tên ba thân chẳng phải thường chẳng phải
đoạn là chẳng phải khác. Mà cái sở dĩ nhiên của pháp thân chẳng phải
thường chẳng phải đoạn cùng với hai thân chẳng phải thường chẳng phải
đoạn thì chẳng phải một. Ðây lại là một nghĩa chẳng phải một, chẳng phải
khác. Tóm lại, nói một có nhiều thứ một, nói khác có nhiều thứ khác. Vả
trong cái một có cái khác, trong cái khác có cái một, thế nên nói một
nói khác đều là chẳng phải, nói chẳng phải một chẳng phải khác cũng là
chẳng phải. Nói một, nói khác là phải, mà nói chẳng phải một chẳng phải
khác, cũng là phải. Thế thì chẳng phải có thể nói, cũng chẳng phải không
thể nói, chấp thì đều chẳng phải, chẳng chấp thì đều phải. Phải thấy
như thế, phải biết như thế. Thấy như thế là viên kiến, biết như thế là
chánh tri.
Hoặc nói: do chỗ dẫn kinh ở trên mà xem, có thể thấy
báo, ứng hai thân cùng là tướng sanh diệt, cùng chẳng phải là bản, tại
sao kinh nầy theo ứng thân để tỏ rõ chẳng phải một, theo báo thân để tỏ
rõ chẳng phải khác? Phải biết, sự nối tiếp nhau của ứng hoá thân là sau
khi chứng pháp thân phương tiện tùy duyên chỗ hiện ra, vả chăng luân
vương cũng có thân nầy. Mà tánh thể pháp thân thì thường trụ chẳng biến,
nó là chẳng phải một rất hiển rõ, cho nên theo 32 tướng của ứng hoá
thân để tỏ rõ chẳng phải một. Còn như báo thân là cùng với pháp thân
thành tựu cùng một lúc, nên kinh nầy nói "vì cớ lấy tướng cụ túc đắc vô
thượng bồ đề" chính tỏ rõ nó thành tựu tướng cụ túc tức là chứng đắc vô
thượng bồ đề. Phải để mắt vào chữ "vì cớ". Vả như kinh Kim Quang Minh tỏ
rõ nghĩa báo thân rằng: "ứng thân (tức là báo thân) là từ vô thủy đến
nay nối tiếp nhau chẳng dứt". Câu nối tiếp nhau chẳng dứt, thì báo thân
và ứng thân chỗ giống nhau, đây là tỏ rõ nó cùng với pháp thân chẳng
phải một. Câu: từ vô thủy đến nay, chỉ có riêng báo thân mới có, tức là
tỏ rõ nó cùng với pháp thân chẳng khác. Phải biết, pháp thân có thể nói
là vô thủy, còn báo thân thì phải sau khi dứt hết vô minh bèn mới chứng
đắc, nay nói từ vô thủy đến nay là tại sao? Nghĩa nầy rất tinh, phân
tích ra kỹ lưỡng thì mới rõ. Vì chưng báo thân có hai thứ tên: một là tự
thụ dụng báo thân, hai là tha thụ dụng báo thân. Kinh nầy nói cụ túc
tướng, kinh Kim Quang Minh nói nối tiếp nhau chẳng dứt, nói chúng sanh
vô tận, dụng cũng vô tận, đều là theo bên tha thụ dụng mà nói.
Nhưng
ắt phải nghĩa của tự thụ dụng rõ, thì nghĩa của tha thụ dụng mới rõ.
Nay trước nói tự thụ dụng. Tự thụ dụng báo thân chẳng phải là cái gì
khác, tức là trỏ nội chứng viên trí tự lợi mà nói, giả danh là thân mà
thôi. Trí nầy đã đành do công phu tu hành mà hiện ra, nhưng thực là tánh
thể vốn có đầy đủ, nếu chẳng vốn có đầy đủ thì tu cũng chẳng hiện ra.
Thí dụ như quẹt nước thì chẳng thể ra lửa, nấu cát sao có thể thành cơm.
Thế thì tánh thể vô thủy, trí nầy lại cũng vô thủy, nên tự thụ dụng báo
thân là vô thủy. Lại theo tha thụ dụng mà nói, thì tự thụ dụng, tha thụ
dụng danh từ tuy có hai, kỳ thực là một. Vì chưng theo viên trí nội
chứng tự lợi mà nói thì gọi là tự thụ dụng, theo đại dụng hiện tướng lợi
tha mà nói thì gọi là tha thụ dụng. Ðã nói là viên trí thì ắt có đại
dụng, nếu không có đại dụng thì sao có tên là viên trí? Một cái trong,
một cái ngoài, giống như có hai, thế nhưng trong ngoài hợp nhứt mới được
gọi là thân, nên tên tuy là hai mà thực là một. Vả chăng trí là tánh
đầy đủ, thì dụng sao lại chẳng phải là tánh đầy đủ, nên tha thụ dụng báo
thân cũng là vô thủy. Tóm các nghĩa trên thì báo thân và pháp thân
chẳng phải khác, nghĩa nầy rõ ràng. Nên theo tướng cụ túc của báo thân
để tỏ rõ chẳng phải khác. Nếu bàn một cách xác thực, thì ngay đến ứng
hoá thân cũng có thể bảo là vô thủy. Tại sao nói thế? Ứng hoá thân là tu
bao nhiêu thứ pháp, thông đạt việc của tục đế, công hành viên mãn, đắc
đại tự tại, nên có thể tùy theo ý của chứng sanh hiện ra bao nhiêu thứ
thân. Thế nhưng làm sao thông đạt việc của tục đế? Vì cớ do ở thông đạt
trí của chân đế. Có thể thấy sự nhiếp ở trí, vậy nên báo thân vô thủy,
ứng thân cũng lại vô thủy, thế thì vì cớ gì riêng lấy ứng thân để tỏ rõ
chẳng phải một? Vì báo thân thì thân thiết với pháp thân, còn ứng thân
thì so sánh sơ hơn. Sao gọi là thân sơ? Tha thụ dụng là chỗ hiện ra của
tướng, dụng, là bề ngoài, tự thụ dụng là trí tuệ chỗ có đầy đủ, là bề
trong. Thế nhưng cái hiện ra của tướng dụng tức là hiện ra ở trí tuệ, mà
cái đầy đủ của trí tuệ tức là đầy đủ ở lý thể. Vả chăng lý trí nhứt
như, cũng không có sự chia ra năng đủ sở đủ, sự sai biệt năng hiện sở
hiện. Nên chẳng kể tự hay tha thụ dụng, thực cùng với lý thể ám hợp làm
một, nên thân thiết, thân thiết nên chẳng khác. Sao gọi là sơ? Ứng hoá
thân tuy cũng đầy đủ lý trí, cũng không có sự phân biệt năng đủ sở đủ,
năng hiện sở hiện, nhưng chuyên thuộc về tướng hiện ra ở ngoài cho nên
sơ, sơ cho nên chẳng phải một, thử xem chỗ nói trong kinh Kim Quang Minh
liền có thể thấy rõ. Kinh đó tỏ rõ nghĩa báo thân đã nói là vô thủy,
lại nói là nhiếp trì, pháp bất cộng, đem nhiếp trì ở trong ra để nói, là
tỏ rõ nó cùng với pháp thân thân thiết. Kinh đó tỏ rõ nghĩa của ứng,
hoá thân thì nói rằng chỗ chỗ tùy duyên phương tiện, đem tùy theo ngoài
để nói, chính là tỏ rõ nó cùng với pháp thân sơ. Tóm lại hiểu rõ được
nghĩa chẳng phải thường chẳng phải đoạn, thì nghĩa của chẳng phải một,
chẳng phải khác mới được triệt để, ngay đến các nghĩa chư pháp nhứt như,
thị pháp bình đẳng cũng đều triệt để. Vì cớ gì? Vì ba thân đều chẳng
phải thường, chẳng phải đoạn, mà chẳng phải khác, nên nhứt như. Nhưng
chẳng phải thường chẳng phải đoạn lại mỗi cái có chỗ chẳng giống nhau,
mà chẳng phải một, nên tuy nhứt như mà không ngại gì có các pháp. Vả lại
trong cái một có cái khác, trong cái khác có cái một, nên sai biệt là
trong cái bình đẳng hiện ra sai biệt, bình đẳng là trong cái sai biệt
hiện ra bình đẳng, cũng chẳng cách biệt, cũng chẳng lộn xộn, hành bố
chẳng ngại viên dung, viên dung chẳng ngại hành bố. Ðây gọi là viên
trung, già và chiếu cùng một lúc, còn và mất tự tại vậy, há chỉ hai bên
chẳng trước mà thôi đâu? Mà công phu tu hành nắm chỗ yếu chỉ ở chỗ chẳng
thủ tướng, chẳng diệt tướng, lấy tánh làm trung khu. Kịp đã chứng đắc
tánh thể không tịch, vì sức huân tập bèn cũng chẳng thủ chẳng diệt, tùy
cơ ứng duyên, đại dụng vô tận. Há chỉ tướng chẳng trụ, tánh cũng chẳng
trụ, ngay đến cái chẳng trụ cũng chẳng trụ, mà trung khu của đại viên
kính trí vẫn như thế. Ðây gọi là lấy vô ngã, nhân v.v... tu hết thảy
thiện pháp, đắc vô thượng bồ đề, đây gọi là kim cương bát nhã ba la mật,
sở dĩ truyền tâm ấn của phật vậy. Thông đạt lý nầy để niệm phật liền
được lý nhứt tâm, liền sanh thường tịch quang tịnh độ, tôi nguyện cùng
các ông cố gắng.
Khoa nầy bảo hết thảy đều vô ngã, nay chẳng
qua theo một pháp chẳng thụ phước đức để tỏ rõ nghĩa của nó mà thôi. Như
lý vô thánh vô phàm, phi nhứt phi dị ở trên cũng là pháp pháp đều như
vậy. Nhưng theo độ sanh và tánh tướng để nói, là vì lấy nó so sánh dễ
lĩnh hội mà thôi. Chẳng theo việc gì khác, chỉ riêng theo chẳng thụ
phước đức mà nói, là thừa tiếp văn trên. Cụ túc tướng văn trên phản ảnh
bao gồm tu phước đức, là tỏ rõ kẻ đắc vô thượng quả chẳng phế bỏ tu
phước. Khoa nầy thừa tiếp khít nghĩa trên mà mở rõ ra rằng: tu phước sao
có thể phế bỏ, nhưng phải chẳng thụ, chẳng trước mà thôi. Lại bổ túc
luôn rằng: chẳng thể nghe được chẳng phế bỏ tu phước đức mà lại sanh
tham trước. Nên được khoa nầy thì nghĩa của khoa trên lại càng viên mãn.
Tu Bồ Ðề ! Nhược bồ tát dĩ mãn Hằng Hà sa đẳng thất bảo bố thí.
Dịch nghĩa: Tu Bồ Ðề ơi, nếu bồ tát lấy đầy Hằng Hà sa những thất bảo bố thí.
Bản
lưu thông chép là trì dụng bố thí, sách của ông Liễu và bản đời Tùy đều
không có hai chữ trì dụng, vì thất bảo bố thí đã gồm có trì dụng ở
trong đó. Nửa bộ sau so sánh hiển công của kinh chỉ một hai chỗ, nhưng ý
chẳng ở so sánh hiển, chẳng qua mượn để dùng vào chỗ khác: 1) Mượn để
chấm dứt một đoạn. 2) Mượn để hiển rõ nghĩa khác. Như trong nầy đã mượn
bố thí phước đức hiển thành kẻ chẳng thụ phước đức là đắc vô ngã nhẫn.
Lại mượn công thù thắng của vô ngã, để kết thúc nghĩa văn trước chỗ nói:
bồ tát ưng thông đạt vô ngã pháp. Trong nửa bộ trước sở dĩ nói vô số
bảo thí, cho đến lấy vô số mạng thí đều chưa gọi là bồ tát, mà trong nầy
riêng đem bồ tát ra để nói, ắt có ý sâu có thể biết được, đọc nối liền
văn dưới liền rõ ràng đây là văn cùng phản ảnh hiển lẫn nhau. Vì chưng
khoa nầy tuy chỉ nói bảo thí, ý bao gồm có: người nầy đã biết hết thảy
pháp vô ngã nên gọi là bồ tát, nhưng còn chưa thành nhẫn, nên chưa bằng
bồ tát sau mà thôi. Làm sao mà biết được như thế? Thử xem văn dưới rằng:
thử bồ tát thắng tiền bồ tát sở đắc công đức. Trong nửa bộ trước chẳng
kể bảo thí hay mạng thí, đều hết thảy nói phước đức mà chưa nói công
đức, còn chỗ nầy thì nói: bồ tát trước chỗ được công đức. Bồ tát trước
lấy thất bảo bố thí, đem công đức ra để gọi thì ắt người nầy đã biết ly
tướng tu tuệ, chẳng phải là người chỉ biết trước tướng tu phước có thể
so sánh, vì thế mới nói là công đức, gọi là bồ tát. Kẻ có ngã ắt chẳng
thể ly tướng, nên biết ý nầy bao gồm người nầy đã biết hết thảy pháp vô
ngã. Huống chi trước nói: nhược bồ tát thông đạt vô ngã pháp giả, như
lai thuyết danh chân thị bồ tát. Thế thì nếu chẳng phải biết pháp vô
ngã, thì quyết chẳng gọi người nầy là bồ tát. Tóm lại khoa chẳng thụ
phước đức nầy trong lời văn một chữ, một câu, một tên gọi đều bao gồm
nghĩa cực tinh, chẳng thể sơ sót bỏ qua. Hằng Hà sa đẳng thế giới: có
nghĩa là thế giới bằng với cát sông Hằng, cũng như nói vô số thế giới.
Dĩ: có nghĩa là dùng, mãn: là sung mãn, có nghĩa là dùng sung mãn vô số
thế giới thất bảo hành bố thí. Khoa nầy chẳng qua dẫn một việc bố thí
nhiều phước để mở lời văn chẳng thụ ở khoa dưới.
Nhược phục hữu nhân tri nhứt thiết pháp vô ngã, đắc thành ư nhẫn, thử bồ tát thắng tiền bồ tát sở đắc công đức.
Dịch nghĩa: Nếu lại có người biết hết thảy pháp vô ngã, đắc thành ở nhẫn, bồ tát nầy thắng bồ tát trước chỗ được công đức.
Văn
trên bồ tát thí thất bảo đã phản ảnh có ý biết pháp vô ngã. Ðắc nhẫn bồ
tát ở câu nầy cũng phản ảnh có ý thí thất bảo. Xem các câu bất thụ
phước đức, sở tác phước đức ở văn dưới thì bồ tát nầy làm bố thí, phước
đức lớn hiển nhiên có thể thấy. Vì người nầy làm phước đức lớn mà chẳng
thụ, cho nên gọi nó là đắc thành ư nhẫn. Nếu chẳng thế thì đắc nhẫn hay
không, từ chỗ nào mà biết được? Nên khoa nầy và văn khoa trên phản ảnh
hiển lẫn nhau, quyết chẳng có nghĩa gì nghi nữa. Nghĩa nầy đã tỏ rõ liền
biết tôn chỉ của kinh chẳng phải là không coi trọng phước đức, chỉ phải
chẳng trước, chẳng thụ mà thôi. Thế thì hai câu tri nhứt thiết pháp vô
ngã, đắc thành ư nhẫn ở trong nầy, tôn chỉ của kinh cũng xu hướng chú
trọng ở đắc nhẫn. Tôi đã thấy mấy nhà chú thích vì chưa tỏ rõ nghĩa phản
ảnh hiển ra, bèn đem câu thành nhẫn xem thành văn không trọng yếu, vì
thế bảo bồ tát trước chỉ biết tu phước, còn bồ tát nầy thì biết pháp vô
ngã, nên công đức thắng bồ tát trước, đây là tu phước chẳng bằng tu tuệ
v.v..., như thế làm mất rất lớn tôn chỉ của kinh. Vì cớ gì? Vì nếu như ý
trên, thì ở phía trước răn dạy khẩn thiết chớ làm niệm chẳng dùng tu
phước mà đắc bồ đề, là làm sao? Thật là rất lầm, rất lầm!
Hết
thảy pháp chẳng ngoài cảnh, hành, quả, Cảnh là ngũ uẩn, lục căn, lục
trần v.v..., hành là lục độ vạn hạnh v.v..., quả là trụ, hạnh, hướng,
địa, cho đến vô thượng bồ đề v.v... Vô ngã là hết thảy các pháp nhiễm
tịnh chẳng ngoài nhân quả. Nhân quả tức là duyên sanh, duyên sanh thể
không, nên trong hết thảy pháp vốn không có cái ngã. Phải biết chỗ gọi
là ngã, không có gì khác, tức là chúng sanh vô minh, bất giác, ở trong
hết thảy pháp vọng sanh ra kiến phân biệt chấp trước, là vậy. Mà hết
thảy pháp tánh vốn nó không tịch, làm gì có cái ngã nầy. Vì nó vốn không
có, cho nên phải trừ nó đi. Chữ tri trong câu "tri nhứt thiết pháp vô
ngã" tức là giải, có nghĩa là lĩnh hội được hết thảy pháp tánh vốn nó
không tịch. Vì chưng năm chữ "nhứt thiết pháp vô ngã" là lý, một, chữ
"tri" là trí. Ðắc thành ư nhẫn: có nghĩa là lý hết thảy pháp vốn nó
không tịch, vô ngã cùng với trí biết được lý đó đã có thể ám hợp làm
một. Nhẫn: là nhẫn khả, có ý là khế hợp không gián đoạn, cũng như nói
hợp nhất. Lý và trí hợp nhất, tỏ rõ là ngã chấp của người nầy đã hóa,
công phu tu hành đến đây gọi là thành. Làm sao mà thành? Do ở huân tu,
nên nói đắc thành. Ðắc thành cũng như nói huân tu được thành tựu. Nếu
không có công phu tu hành tinh tiến tới nơi, thì làm sao có thể thành,
cho nên hai câu nầy, câu trên là giải, câu dưới là hành. Hợp lại mà xem
là tỏ rõ bồ tát nầy giải hành thành tựu, cho nên chỗ đắc công đức thắng
hơn bồ tát trước. Lại nữa, câu trên tri là tuệ, câu dưới nhẫn là định,
hợp lại tức là định tuệ đồng đều. Vì nó định tuệ đồng đều cho nên giải
hành thành tựu, cho nên chỗ được công đức thắng hơn bồ tát trước. Vì bồ
tát trước giải, hành, định, tuệ, công phu tu hành của nó còn chưa thể
đạt đến chỗ ám hợp làm một, ấy là trí biết rõ, và lý hết thảy pháp vô
ngã của người nầy còn chưa làm đến yên ổn mà chẳng dời đổi địa vị, cho
nên chẳng bằng. Nghĩa của chữ nhẫn cũng như nói: yên ổn, chẳng dời.
Từ
trong khoa lớn thứ ba nêu lên: nhược bồ tát thông đạt vô ngã pháp giả,
như lai thuyết danh chân thị bồ tát, từ đó về sau đến đây mới là qui
kết. Có thể biết chỗ nói ở trên đều là pháp vô ngã, mà khiến bồ tát
thông đạt. Nhưng ắt phải công phu làm đến đắc thành ư nhẫn mới là chân
thực thông đạt, thiệt là bồ tát. Nên chẳng thể đem hai chữ thông đạt
hiểu theo nghĩa tỏ rõ lý. Phải biết, giải đã đành ở trước hành, nhưng
nếu chẳng như pháp thực hành đích xác có kinh nghiệm thì sao có thể giải
sâu? Trước nói hành từ giải mà ra, giải nhân hành mà thành, hai câu nầy
là chân thuyên của thông đạt, thông đạt như thế mới đắc thành ư nhẫn.
Tu Bồ Ðề ! Dĩ chư bồ tát bất thụ phước đức cố.
Dịch nghĩa: Tu Bồ Ðề ơi, vì cớ các bồ tát chẳng thụ phước đức.
Bản
lưu thông trước chữ Tu Bồ Ðề có câu: hà dĩ cố, sách ông Liễu, bản ông
Tuệ đều không có. Trong bản nầy đã có chữ cố, đã hiển giải thích rõ ý
văn trên, cần gì thêm vào hà dĩ cố nữa. Tôi đã từng thấy mấy nhà chú
giải bảo khoa nầy là giải thích cái cớ công đức thắng hơn trước của văn
trên, ấy là rất lầm. Văn trên đã tự thuyết minh công đức thắng hơn trước
vì người nầy thành nhẫn, cần gì lại còn giải thích nữa. Phải biết, khoa
nầy là lấy nghĩa chẳng thụ, giải thích rõ cái cớ thành nhẫn mà thôi.
Thành nhẫn tức là chứng. Khoa nầy giải thích rằng lấy gì gọi là chứng?
Chẳng thụ là chứng. Vì chưng lời nói thành nhẫn chính là khai thị người
học công phu ắt phải làm đến như thế mới có thể vô ngã, cho nên phải
giải thích cái sở dĩ nhiên của thành nhẫn. Nếu công đức thắng hơn trước
nguyên là lời nói thêm, thì cần gì đặc biệt giải thích nữa, huống văn
trước đã thuyết minh rồi ư? Làm sao chẳng thụ? Khoa dưới mới tỏ rõ nghĩa
nầy, nay cũng chẳng ngại gì nói ra yếu chỉ của nó: chỗ gọi là chẳng
thụ, không có gì khác, tức là làm rộng bố thí lục độ mà như vô sự, đây
nếu chẳng phải kẻ thiệt có thể quên cái ngã thì chẳng làm nổi, đó là
công phu tu hành của người nầy đã sắp đến lúc thành tựu, cho nên nói đắc
thành. Chư bồ tát, không phải là thực có chỗ trỏ bồ tát nào, cũng như
nói hết thảy bồ tát. Dĩ: nghĩa là nhân vì, ý bảo phàm là bồ tát, nhân vì
người nầy tu phước mà chẳng thụ, mới ở vô ngã thành nhẫn, bồ tát nầy
lại cũng chẳng thụ như thế, nên nói thành nhẫn. Văn trên nói: sở đắc
công đức, văn đây nói: bất thụ phước đức chính là tỏ rõ nhân vì chẳng
thụ phước đức nên chỗ làm phước đức hết thảy thành ra công đức vô lậu.
Trên
dẫn văn về sự chẳng nói dùng đầy vô số thế giới thất bảo bố thí, mà ắt
nói là bằng với cát sông cũng có tinh nghĩa. Vì chưng tỏ rõ tự mình
chẳng thụ, mà xem vô số thất bảo bố thí kia cũng giống như cát bùn mà
thôi, thật là rất tinh tế, làm sao đủ nói ra được ư? Ðây là sở dĩ người
nầy có thể chẳng thụ, nếu xem là rất nhiều, rất thịnh thì đã tâm bị cảnh
chuyển. Tâm mà có cảnh gọi đó là thụ. Nay nói chẳng thụ chính tỏ rõ nó
tâm không, không có cảnh. Thử nghĩ xem, đây cũng là diệu quán của kẻ
muốn chẳng thụ chẳng trước.
Tu Bồ Ðề bạch phật ngôn: Thế tôn, vân hà bồ tát bất thụ phước đức?
Dịch nghĩa: Tu Bồ Ðề thưa phật rằng: Thưa thế tôn, làm sao bồ tát chẳng thụ phước đức?
Trưởng
lão thỉnh hỏi vì chưng có ba ý: 1) Ðã tu phước đức rồi, mà lại chẳng
thụ thì ban đầu cần gì tu, sợ kẻ chẳng hiểu ý sanh ra hiểu lầm, đây là
một ý của thỉnh hỏi. 2) Chẳng thụ là cự mà chẳng nạp chăng? Phước đức
đến là lý nhân quả nhứt định, há có thể cự mà chẳng nạp? Thế thì sao gọi
là chẳng thụ ư? Ðây là ý thứ hai của thỉnh hỏi. 3) Trên nói đắc nhẫn do
ở chẳng thụ, nhưng làm sao có thể chẳng thụ ư? Trưởng lão thỉnh hỏi là ý
ở khiến cho đại chúng hiểu rõ triệt để, đều có thể đạt đến chỗ chẳng
thụ, đây là ý thứ ba của thỉnh hỏi. Nên nêu lên câu: "Tu Bồ Ðề bạch phật
ngôn", khiến cho biết sự cần yếu của thỉnh hỏi nầy phải ở khoa dưới để ý
thể hội.
Tu Bồ Ðề ! Bồ tát sở tác phước đức bất ưng tham trước, thị cố thuyết bất thụ phước đức.
Dịch nghĩa: Tu Bồ Ðề ơi, bồ tát chỗ làm phước đức chẳng nên tham chấp, thế cho nên nói chẳng thụ phước đức.
Câu
đầu nói làm phước đức, khiến cho biết tuy chẳng thụ, mà nên làm. Chẳng
thể vì lời nói chẳng thụ, mà hiểu lầm là tu phước đức có thể trì hoãn.
Phải biết, làm phước đức tức là tu lục độ là từ tâm đại bi mà ra. Chư
phật như lai lấy tâm đại bi làm thể, vì chúng sanh mà nổi dậy đại bi, vì
đại bi sanh tâm bồ đề, làm sao có thể trì hoãn ư? Ý hỏi tầng thứ nhứt
có thể giải thích vậy. Câu thứ hai, thứ ba nói chẳng nên tham trước, nên
nói chẳng thụ, khiến cho biết chỗ gọi là chẳng thụ, không phải là cự mà
chẳng nạp, ấy là chẳng tham trước mà thôi. Chẳng tham trước: có nghĩa
là phước đức có hay không tuyệt nhiên chẳng để tâm niệm vào. Vì chưng
hiểu rõ nếu cầu phước đức mà tu lục độ, đó gọi là tham trước, đó là lợi
ích cho tự mình, không phải là lợi ích cho chúng sanh, thì chẳng phải là
tâm đại bi, chẳng phải là vô thượng bồ đề, cho nên chẳng nên. Biết như
thế thì ý hỏi tầng thứ nhì có thể giải thích. Làm phước đức là chẳng
trước không, là đại bi, chẳng tham trước là chẳng trước hữu, là đại trí.
Bi trí đầy đủ, không hữu chẳng trước đó gọi là trung đạo. Vả trước là
trụ, chẳng nên tham trước tức là ưng vô sở trụ, hợp với câu trên tức là
ưng vô sở trụ hành ư bố thí, chính là phản ảnh lại chỗ nói ở đầu cuốn
kinh. Vả lại tu phước chẳng trước cũng tức là ý chỗ nói hồi đầu tiên:
"độ hết thảy chúng sanh mà không chỗ độ", đều là chỗ để hàng phục ngã
chấp. Tôn chỉ kinh nầy ở vô trụ, hàng ngã, nên nói đến lúc thành chứng
thì qui kết đến vô trụ, hàng ngã. Tinh thần, nghĩa thú thẳng tắp đến
suốt đáy, một sợi tơ cũng chẳng rối. Thế thì văn trên sao không nói ngay
rằng: vì cớ chư bồ tát chẳng tham trước phước đức, há là chẳng ngay
thẳng mau lẹ rốt ráo, vì cớ gì trước đã chẳng nói thụ, lại lấy chẳng
trước để giải thích nó? Phải biết, khoa nói trên chẳng thụ là khai thị
làm sao mà là thành nhẫn, vì thành nhẫn tức là chẳng thụ. Ðại Trí Ðộ
luận nói: "Hết thảy chẳng thụ đó là chính thụ". Chính thụ là tam muội,
cũng gọi là định, cũng gọi là nhẫn. Thế thì lời nói chẳng thụ là lời nói
cần yếu để chú thích cho thành nhẫn, há có thể chẳng đặc biệt nêu ra.
Ðến như khoa này nói chẳng trước tức là khai thị làm sao mà chẳng thụ,
nói một cách khác khoa trên tuy trước đã trỏ bảo cảnh giới thành chứng
ấy là hết thảy chẳng thụ, khoa nầy lại bảo bằng phương pháp thành chứng
chẳng ngoài đầu cuốn kinh chỗ nói: "ưng vô sở trụ hành ư bố thí", làm
sao chứng, làm sao tu, chỉ thị cực thân thiết, cực nắm chỗ yếu, nên
chẳng thụ, chẳng trước hai cái nói ra đều không thể thiếu. Vả chăng,
phải biết người tu hành hết thảy đều chẳng nên trước, kịp đến công phu
chẳng trước đã thuần thục liền thành chẳng thụ. Nên chẳng thụ cũng là
hết thảy chẳng thụ, nay chẳng qua chỉ đem phước đức để tỏ rõ nghĩa mà
thôi. Vì chưng sở dĩ thụ là do ở trước, sở dĩ trước là do ở tham, sở dĩ
tham là do ở có ngã, mà chỗ tham của ngã không gì hơn cái phước, nên
theo phước đức mà nói. Biết thế thì ý hỏi tầng thứ ba có thể giải thích.
Tóm lại bình đẳng pháp giới vốn từ xưa đến nay hết thảy pháp vô ngã,
người học trước phải mở chánh tri nầy. Biết như thế rồi, liền hành như
thế. Làm sao hành? Ban đầu chỗ nói: "ưng vô sở trụ hành ư bố thí", trong
nầy chỗ nói: "sở tác phước đức bất ưng tham trước" là vậy. Nói một cách
khác, tức là tu rộng hết thảy pháp mà như vô sự, lâu ngày công phu
thuần thục thì tâm như hư không, tuy hết thảy pháp phừng lên, thực hành
nó chẳng chán chẳng mệt mà quên nó đi như không có gì hết, đây gọi là
chẳng thụ. Chẳng thụ là hình dung người nầy nhứt tâm thanh tịnh, chẳng
nhiễm mảy bụi. Vả chăng tự nhiên như thế, mà không phải là cưỡng chế,
thường hằng như thế mà không phải là ngẫu nhiên, thì bi trí đầy đủ, định
tuệ đều bằng nhau, phân biệt chấp trước của ngã tướng ngã kiến hoá trừ
hết sạch. Ðến địa vị nầy, không biết gọi là gì, gọi là đắc thành ư nhẫn.
Nhưng đây còn là cảnh giới bồ tát mà chẳng phải phật. Cho nên nối tiếp
đây mà tỏ rõ chư pháp không tướng, vốn nó chẳng sanh. Nếu đến chỗ một
niệm chẳng sanh, cái chẳng sanh cũng không có luôn, thì tùy thuận mà vào
như lai bình đẳng pháp giới. Nghe yếu chỉ nầy phải tĩnh tâm suy nghĩ
kỹ.
Kinh văn từ đây trở về sau chính là chỗ từng giọt nước một
trở về nguồn, nên nghĩa chỗ nó bao gồm rất rộng rất sâu, rất vi tế. Nếu
chỉ giải thích lời văn, bị văn câu chấp, ắt nói ra chẳng triệt để, thì
lại làm sao nghe được triệt để. Chỉ có trước đem chỗ bao gồm yếu chỉ
phát huy thấu triệt, thì lúc nói đến đoạn văn nầy liền có thể mấy câu mà
xong. Ðây cũng là một thứ phương pháp giảng diễn nghĩa lý cao sâu vậy. Ở
trên chỗ nói muôn lời ngàn câu nay dùng một lời để tóm lại là: Vô Trụ
mà thôi! Sao gọi là vô trụ? Tức là chẳng trụ ở tướng. Vì cớ gì chẳng trụ
tướng? Tức là nếu tâm thủ tướng ấy là trước ngã, nhân, chúng sanh, thọ
giả. Phải biết, muốn chẳng trụ tướng ắt phải tâm mình chẳng thủ, chẳng
thủ chính là phá cái ngã. Mà phá ngã chính là chứng nhứt chân pháp giới
nhứt như bình đẳng, một pháp giới nầy tức là pháp thân thường trụ chẳng
động, gọi là như lai là cái nầy. Tóm lại nghĩa chỗ nói ở trọn bộ kinh,
chẳng ngoài tám chữ "Bất thủ ư tướng, như như bất động", chẳng qua nói
đến đoạn sau chót mới đem tám chữ nầy chỉ điểm rõ ra. Vì cớ nầy, nghĩa
kinh của một khoa lớn chư pháp không tướng là dung hội chỉ thú của trọn
bộ kinh để nói ra rốt ráo trệt để, chỗ gọi là giọt nước về nguồn là vậy,
cho nên chỗ nói của nó càng viên càng diệu. Ngay như trọn bộ kinh đều
nói vô ngã, đến đây thì nói: cái vô ngã nguyên không có. Vô ngã còn
không có, thì vô trụ cũng không trụ, chẳng thủ cũng chẳng thủ. Vì cớ gì?
Vì hết thảy pháp vốn chẳng sanh, vả lại cũng không chỗ nào gọi là chẳng
sanh. Vì cớ gì? Vì pháp tức là chẳng phải pháp, tướng tức là chẳng phải
tướng, như thế thì sau mới cứu cánh vô ngã, mà cái vô ngã cũng không
có. Do đây có thể biết phía trên chỗ nói các nghĩa không thánh, không
phàm, chẳng một chẳng khác, ấy là tức thánh phàm mà không thánh phàm,
chính là một khác mà chẳng phải một khác, quên cái là chẳng thụ mà gọi
là chẳng thụ. Thế nên tuy pháp không thánh không phàm, mà không ngại gì
thành thánh thành phàm, tuy thành thánh thành phàm, mà vẫn y nguyên
không thánh không phàm. Một khác v.v... cũng đều như thế ! Thế thì không
chỗ nào gọi là hai bên, không chỗ nào gọi là trước, không chỗ nào gọi
là trung. Vì cớ gì? Một còn không tồn tại, làm gì có hai, lại làm gì có
bên, làm gì có trung ư? Mà chẳng phải rốt ráo không có, tuy đầy rẫy có
muôn loài, mà có tức là không có. Vì cớ gì? Vì vốn chẳng sanh, đây gọi
là như như, đây gọi là bất động, đây gọi là chẳng thủ. Vì chưng sanh ra
tâm chẳng thủ tức là thủ, sanh ra tâm chẳng động thì tâm nó sớm đã động,
sanh ra tâm như như thì còn có gì là như như, sanh ra tâm trừ ngã thì
ngã kiến ngã tướng nghiễm nhiên. Nếu không biết day về trong nầy tiến
thủ, thì dẫu rằng khiến siêng năng cực khổ tu hành, rốt cuộc là đi vòng
quanh, chỉ thêm dây nhợ ra mà thôi ! Tóm lại, chỗ nói ở một khoa lớn nầy
chính là cực lực phát huy "bất thủ ư tướng, như như bất động" đến chỗ
cứu cánh, tức là dắt dẫn người học quán chiếu chỗ thâm bát nhã, lại cũng
tức là khiến hết thảy chúng sanh đắc chỗ đại tự tại. Kinh văn đã ánh
mắt bắn ra bốn phía, phía nào cũng long lanh, thì kẻ nghe cũng nên ánh
mắt bắn ra bốn phía, phía nào cũng long lanh, chẳng thể xem chết ở dưới
câu văn, theo văn tự mà chuyển. Phải ngưng thần của mình, trống không
tâm của mình, chữ chữ, câu câu day về chỗ chưa động niệm mà thể hội. Nếu
dính dây một chút tướng phan duyên, tướng danh tự, thì không có chỗ
vào.
Hồi nãy chỗ tôi nói phải day về trong nầy tiến thủ, nay
tôi chẳng từ chối đầu mối lan man dây nhợ, lại nói trở lại cho tỏ rõ
nghĩa của "không tướng", gồm có hai nghĩa: vốn vô tướng, chẳng thủ
tướng, vì chưng một khoa lớn nầy chính là nói lý thể, lại cũng chính là
nói công phu tu hành. Người tu hành phải trước hiểu rõ lý thể vốn nó vô
tướng, cho nên phải chẳng thủ tướng. Vả chăng thể đã vô tướng, nên kẻ tu
chẳng thủ tướng đều phải chỗ nào lúc nào cũng quán chiếu lý thể chư
pháp vốn nó vô tướng, đây gọi là: trọn vẹn tánh khởi tu, trọn vẹn tu ở
tánh. Thế thì muốn học sự hành vô trụ của bát nhã, cần gì phải nhứt định
từ đầu mà khởi tu ư? Liền có thể theo ngay chư pháp không tướng khởi
tu, nên nói phải day về trong nầy tiến thủ. Phải biết, đại thừa viên
giáo cũng có thứ tự lần lượt, mà cũng không thứ tự lần lượt. Nên Thiền
Tông nói: "trực chỉ, hướng thượng". Hướng thượng có nghĩa là xu hướng
nguồn gốc. Trực chỉ là cắt bỏ cành lá đi, một con mắt ngó nhứt định vào
chỗ nguồn gốc, đi thẳng vào, là vậy. Nếu đem câu nầy xem một cách ngu
ngốc, cho là chỉ có pháp môn khán thoại đầu có thể quán chiếu như thế mà
thẳng vào, còn niệm phật và tu các pháp mô khác liền chẳng có thể làm
công phu quán chiếu nguồn gốc nầy, ấy là tự mình làm mất cái hay cái
lợi, còn gì quá hơn nữa.
Phàm kinh liễu nghĩa, không câu nào là
chẳng triệt để, không pháp nào là chẳng suốt đầu suốt đuôi, cho nên chỗ
thuyết lý tức là chỗ thuyết tu, vả lại thẳng suốt luôn đến chỗ chứng
quả. Chỗ bảo là giáo, lý, hành, quả tuy chia làm bốn, nhưng nếu chấp
nhứt định là bốn việc thì há ngoài hành quả ra riêng có giáo lý, thế thì
còn đủ gọi là giáo lý ư? Vì cớ đó, trong kinh liễu nghĩa, lời nói nào
cũng có thể chứng đạo, câu nào cũng có thể nhập môn. Ðem kinh A Di Ðà ra
nói, như hai câu: "chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn," đã đành lời
nói có trước có sau, câu chấp trì là chỗ hạ thủ, câu nhứt tâm là công
hiệu của chấp trì. Nhưng nếu chẳng thể thể-hội nhứt tâm để khởi tu thì
rốt cuộc chẳng thể làm đến được chấp trì. Thế thì nhứt tâm bất loạn há
có thể chỉ xem như là công hiệu ư? Ðem kinh nầy ra mà nói, câu câu nói
về lý, câu câu nói về tu, tức là không một câu nào chẳng thể thông suốt
trọn bộ kinh, há chỉ riêng một khoa nầy là như thế, nên tùy đem ra một
câu nào đều có thể theo đây mà ngộ đạo. Xưa Lục Tổ của Thiền Tông nhân
nghe câu: "ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" mà đắc triệt ngộ, người sau
bèn chấp nhất định cho là trong trọn bộ kinh chỉ có một câu đó là rất
diệu, đây chính là câu tục ngữ nói: xoay chuyển theo gót chân người khác
vậy. Nếu là người linh lợi, biết được đại thừa phật thuyết là pháp ấn,
liền có thể tùy đem ra một câu để ấn nó ở sự sự, pháp pháp. Nói một cách
khác, tức là sự sự pháp pháp đều day về trên pháp ấn nầy mà lý hội nó,
như thế mới là người biết dụng công, thì đi đứng ngồi nằm chẳng ly cái
này, dễ được chân thực thụ dụng vậy. Huống chi một khoa lớn nầy, câu câu
nói ra đích xác là nguồn gốc của tâm. Chỗ chứng của phật là chứng cái
này. Nếu cho đây là cảnh giới như lai, chẳng phải kẻ mới học có thể tới,
có lẽ nào người học chẳng phải phản chiếu nguồn gốc của tâm ư? Như thế
là lầm lớn, còn đợi gì nói nữa ! Phản chiếu nguồn của tâm đã đành không
phải là việc dễ, nhưng chẳng day về đầu nguồn của tâm quán chiếu, mà tìm
nhánh, kiếm lá thì làm sao tu được tốt. Có thể quán vào trên đầu nguồn
của tâm chút ít thì hết thảy công phu tu có thể cởi mở ra dễ dàng. Cũng
như học cách làm văn, nếu học tập được ít nhiều ngũ kinh, tứ thư, chư
tử, và văn của người đời Tần đời Hán, thì lúc làm văn cũng cao hơn kẻ
khác. Tu hành lại cũng như thế, phải nên biết như thế. Cổ đức nói:
"chẳng thể cao suy thánh cảnh tự mình sanh thấp hèn", thật là lời nói
khẩn yếu.
Tu Bồ Ðề ! Nhược hữu nhân ngôn như lai nhược lai nhược khứ, nhược tọa, nhược ngọa, thị nhân bất giải ngã sở thuyết nghĩa.
Dịch
nghĩa: Tu Bồ Ðề ơi, nếu có người nào nói như lai nếu lại, nếu đi, nếu
ngồi, nếu nằm, người nầy không hiểu nghĩa chỗ ta nói.
Câu chư
pháp không tướng là đại thừa pháp ấn, các câu bất lai bất khứ cũng đều
là pháp ấn, pháp ấn có nghĩa là hết thảy pháp đều có thể dùng nghĩa nầy
ấn định, nay chẳng qua theo thánh hiệu của như lai mà tỏ rõ để làm thí
dụ thôi. Phải biết, lại đi v.v... đều là sự tướng đối đãi, muốn chứng
thể tuyệt đối ắt phải mất hết các đối đãi, không cái tướng hư vọng của
nó đi. Vì cớ gì? Vì hết thảy pháp tánh vốn nó chẳng phải tướng, đây là
theo tánh thể để tỏ rõ chư pháp vốn không tướng. Nếu theo công phu tu
nói về chư pháp không tướng, tức là không cái tướng của chư pháp, tức là
ý làm mất tướng mà vào thể.
Như lai vốn là tên gọi của tánh
đức, mà người nầy chấp trước chữ lai, thì có lai ắt có khứ. Ðã có lai
khứ, lại liên tưởng đến tọa ngọa, đây là tỏ rõ nếu trước một tướng thì
càng dẫn càng nhiều, muôn tướng đầy rẫy, vĩnh viễn chẳng được thanh
tịnh, để chỉ thị đọc kinh nghe pháp chẳng thể trước tướng văn tự. Người
nầy là kẻ hoàn toàn ở ngoài ngõ, nghe nói như lai, trong tâm bèn nghiễm
nhiên như có một cái lai, khứ và hành, trụ, tọa, ngọa v.v... tướng tướng
chẳng một. Bốn chữ "nhược" hình dung tâm người nầy đuổi theo tướng mà
chuyển, nổi lên, diệt mất chẳng ngừng, in như là con mắt ngó thấy, thần
tình như vẽ ra vậy. Làm lời nói nầy là kẻ dùng phàm tình đo lường thánh
cảnh, hoàn toàn chưa hiểu rõ nghĩa của như lai, nên nói: "thị nhân bất
giải ngã sở thuyết nghĩa". Chữ ngã là trỏ như lai. Có nghĩa là chẳng
hiểu nghĩa chỗ tỏ rõ của hai chữ như lai. Cũng có thể trỏ phật, chỗ
thuyết pháp của phật không chỗ nào là chẳng khiến người ta ly tướng
chứng tánh, cho đến ngữ ngôn văn tự đều chẳng thể chấp. Người nầy hoàn
toàn không biết tánh, chấp trước danh tự ngôn ngữ, thế nên ở nghĩa phật
nói không lĩnh hội được một chút nào, cho nên nói: "bất giải ngã sở
thuyết nghĩa". Mắng nhiếc người nầy chẳng giải, chính là muốn cho người
ta giải sâu nghĩa thú của không tướng.
Hà dĩ cố? Như lai giả, vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh như lai.
Dịch nghĩa: Vì cớ gì? Như lai là không từ chỗ nào lại, cũng không đi chỗ nào, cho nên gọi tên là như lai.
Như
lai tức là pháp thân. Pháp thân thường trụ chẳng động, không chỗ nào
gọi là lai, khứ. Pháp thân ở khắp hết mọi chỗ, cũng không cần gì lai
khứ, thấy có lai khứ là ứng, hoá thân mà thôi. Thân ứng, hoá là duyên
sanh pháp, có nghĩa là tùy duyên cơ cảm của chúng sanh mà sanh khởi. Nói
một cách khác, tức là bảo cái thân thị hiện nầy đều là từ trong con mắt
của chúng sanh xem thấy như thế mà thôi, như lai đã đành chưa từng
động, đây gọi là duyên sanh. Làm sao hiểu rõ nó như vậy? Thử nghĩ xem,
phật đã thị hiện ra, vì cớ gì chúng sanh có kẻ thấy có kẻ thông thấy, vì
cớ gì có lúc thấy có lúc không thấy? Vì chưng được thấy hay không, đều
xem chúng sanh tâm của nó ra sao, tâm thanh tịnh thì phật hiện ra, bèn
gọi đó là lai, tâm ô trược thì ẩn đi bèn gọi đó là khứ. Tâm tịnh tâm
trược hoàn toàn do chúng sanh, nên sự ẩn hiện của ứng, hoá thân cũng
hoàn toàn do chúng sanh, cho nên nói: tùy duyên sanh khởi. Thế nhưng có
duyên cũng ắt có nhân, nhân nó ra sao? Tức là chỗ nói trước: từ thiện
căn lực, và thành tựu hai trí, cho nên tùy cảm thì hiện mà chẳng khởi
tâm làm niệm, cho nên tuy tùy phương thị hiện mà như vô sự, pháp thân
vẫn y nguyên chẳng động, ban đầu chẳng trụ ở tướng lai khứ vậy. Thế
nhưng tuy pháp thân chẳng động, mà thường hằng thị hiện ứng, hoá thân từ
xưa đến nay chẳng đoạn tuyệt, cũng chẳng trụ ở thể chẳng động, đây gọi
là như như bất động, tỏ rõ nó tuy như như mà là bất động, tuy bất động
mà là như như. Cho nên tuy thấy có lai có khứ, thực ra thì bất lai bất
khứ, tuy bất lai bất khứ, mà không ngại gì thấy có lai khứ. Trong nầy
nói: vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ chẳng phải là bảo rốt ráo không lai
khứ, mà là nói lai cũng không chỗ lai, khứ cũng không chỗ khứ, hai chữ
"sở" rất cần yếu, vô sở là không có chỗ, hình dung pháp thân vốn khắp
hết thảy chỗ, há lại có chỗ lai chỗ khứ ư? Ðã là lai khứ mà không có chỗ
lai khứ, thì có thể thấy rằng tuy lai khứ mà thực chưa từng lai khứ,
chưa từng lai khứ mà hiện ra có lai khứ. Ý nầy tức là trụ mà vô trụ, vô
trụ mà trụ, là cực vị-trí của ly tướng. Vì cớ gì? Tướng của lai khứ và
tướng của bất lai khứ đều ly, nên nói cực vị-trí vậy. Tóm lại, lai khứ
là từ trên bất lai bất khứ mà thấy, bất lai bất khứ là từ trên lai khứ
mà thấy, chẳng những ly hết cái tướng hữu tướng, lại ly hết luôn cái
tướng vô tướng. Vì chưng chân như, thực tướng vốn nó như thế. Chân như
là không thể khiển, gọi là chân, cũng không thể lập, gọi là như, thực
tướng là tuy vô tướng mà cũng vô bất tướng, cho nên kết nó là: "cố danh
như lai", danh là giả danh, chẳng những lai là giả danh, như cũng là giả
danh. Vì cớ gì? Vì chân như mà nói là lai, tức là bảo nó chẳng trụ niết
bàn, vì chưng thể của chân như vốn chẳng động. Mà nay nói là lai, thế
thì chỗ gọi là như chỉ là danh mà thôi, thực chẳng trụ ở chân như bất
động vậy. Ðã lai mà nói là như, tức là bảo nó chẳng trụ sanh tử, vì
chưng tướng của lai khứ là sanh diệt, mà nay nói như, thế thì chỗ bảo là
lai cũng là danh mà thôi, thực chẳng trụ ở lai khứ của sanh diệt vậy.
Tóm lại là để tỏ rõ cái cực vô ngã, tùy cảm thì ứng, duyên hội thì hiện
ra, không chút mảy may để tâm mà thôi. Không chút mảy may để tâm có
nghĩa là một niệm chẳng sanh, niệm còn chưa sanh thì tâm sao đã từng
động ư?
Khoa nầy tuy theo pháp thân để tỏ rõ nghĩa, thế nhưng
nghĩa của hai thân báo, hoá cũng đã gồm tỏ rõ. Kẻ khéo thông đạt liền
phải quán trở lại, ngũ uẩn sắc thân của mình, tuy có lai khứ mà phật
tánh vốn đầy đủ, thực bất lai bất khứ liền từ ở trên chỗ lai khứ đều bất
mà khế nhập, tướng lai khứ kia sao đủ để vào niệm ư? Kịp đến khế nhập
tánh-thể, thì mặc cho nó lai, khứ, hiện tướng, có thể được vậy, lại cần
gì phải để vào niệm ư? Thế thì chẳng chấp, chẳng đoạn, già và chiếu đồng
thời vậy. Người niệm phật lại càng phải thông đạt lý nầy, phải biết Di
Ðà lại tiếp dẫn mà ban sơ chưa từng lại, vãng sanh tây phương mà cũng
chưa từng đi. Thế nhưng tuy chưa từng lại đi, mà cũng không ngại gì hiện
lại, hiện đi. Vì cớ gì? Vì chẳng lại chẳng đi là lý thể, có lại có đi
là sự tướng. Lý và sự từ xưa đến nay không hai, tánh và tướng ắt phải
viên dung, nên dẫu rằng chẳng lại chẳng đi, mà không ngại gì có lại có
đi, dẫu rằng có lại có đi, thực ra thì chẳng lại chẳng đi. Cái rất khẩn
yếu tức là lại đi phải ở trên cái chẳng lại chẳng đi mà thể nhận, chẳng
lại chẳng đi tức là ở trên cái lại đi mà làm ra. Ðây là yếu quyết niệm
phật cầu sanh, được yếu quyết nầy thì quyết định vãng sanh, vả lại quyết
định thấy phật. Ai bảo tu tịnh độ không cần học bát nhã, lại nghi bát
nhã làm trở ngại tịnh độ? Lại có yếu nghĩa phải hiểu rõ triệt để: Tướng y
theo tánh mà hiện ra, tánh do tướng mà tỏ rõ. Tánh và tướng hai cái,
một cái trong một cái ngoài từ xưa tới nay chẳng lìa nhau. Thế thì kinh
phật khiến người ta ly tướng là tại sao? Phải biết, chỗ bảo là ly, chẳng
phải là bảo đoạn diệt, chỉ chẳng nên thủ mà thôi. Tánh và tướng hai cái
đã là một cái trong, một cái ngoài mà chẳng thể ly, thế thì riêng chẳng
nên thủ tướng là tại sao? Phải biết, đây nhân vì phàm phu từ vô thủy
đến nay chỉ biết nhận tướng, đuổi theo tướng mà chuyển, thế nên ngã
nhân, nầy kia, cao thấp, dầy mỏng, tinh thô, xấu tốt, bao nhiêu thứ
tướng đối đãi nổi dậy đầy rẫy, lôi kéo ngọn nhánh, dắt dẫn nhau càng
nhiều, bèn đến nỗi phân biệt chấp trước vì đó mà càng ngày càng quá đỗi,
ngã kiến vì đó càng ngày càng sâu, các phiền não của tam độc tham sân
si vì đó mà nối tiếp nhau lớn lên, tăng cao lên, đến nỗi tạo nghiệp vô
cùng, chịu khổ vô biên. Nay muốn cứu nó thì phải dứt tam độc, muốn dứt
tam độc phải trừ ngã kiến, muốn trừ ngã kiến phải chẳng phân biệt chấp
trước, mà muốn chẳng phân biệt chấp trước thì phải ly tướng. Cho nên chỗ
gọi là ly tướng, ý ở trừ ngã kiến phân biệt chấp trước của nó, chẳng
phải bảo là rốt ráo ly vậy, nên nói: chẳng thủ phi pháp tướng, lại nói:
chẳng thuyết đoạn diệt tướng, tức là hiển thị nghĩa chân thực của ly
tướng, khiến cho chẳng đến nỗi hiểu lầm. Tóm lại ly tướng là khiến hồi
quang phản chiếu để chứng tánh, tánh đã chứng đắc, chính phải hiện
tướng. Nhưng muốn sau khi chứng quả chẳng trầm không trệ tịch, lại phải ở
lúc tu nhân quán cái không mà chẳng nghiêng về không, đây sở dĩ đã
khiến chẳng thủ lại khiến chẳng diệt, hai bên chẳng trước mà thôi. Vả
chăng phật lý, phật thuyết, không cái nào là chẳng viên diệu, tuy chỉ
nói chẳng thủ tướng, thực ra đã thông ở tánh. Tại sao nói thế? Vì một
khi có chỗ thủ, liền thành là tướng, mà chẳng phải tánh. Cho nên nhị
thừa nghiêng về bên tánh, phật mắng nhiếc nó rằng: trầm không trệ tịch,
chưa thể thấy tánh, tức là hình dung cái tướng nó thủ trước vậy. Tướng
trầm trệ hiện ra thì tánh chẳng trầm trệ ẩn đi, cho nên nói chưa thấy
tánh. Cho nên một lời nói "chẳng thủ tướng" thông suốt hai bên, phải
lĩnh hội như thế. Ðến như trong nầy, chẳng nói có lai khứ cũng chẳng nói
không lai khứ, chỉ nói: vô sở tùng lai diệc vô sở khứ, chiếu cả hai bên
càng là viên dung. Vì cớ gì? Vì nếu nhất định nói có lai khứ thì
nghiêng về bên tướng, nếu nhứt định nói không có lai khứ lại nghiêng về
bên phi tướng. Nay chiếu cả hai bên mà nói như thế, chính hiển nghĩa
tánh tướng hai cái dung nhau, tánh tướng hai cái dung nhau tức là bình
đẳng nhứt như. Lại như một tên gọi như lai tuy đã gọi là pháp thân, thực
ra đã gồm có hai thân, nếu chẳng thế thì chữ lai không có chỗ thuộc. Sở
dĩ lấy ngay cái danh xưng nầy đã đủ hiển rõ nghĩa tuy có ba số mà chẳng
phải là ba thể. Trước theo chữ như để tỏ rõ nghĩa thì thông ở bên chư
pháp, mà nói "chư pháp như nghĩa". Nay theo chữ lai để tỏ rõ nghĩa thì
thông ở bên bất lai khứ mà nói "vô sở tùng lai diệc vô sở khứ". Ðây đều
là thế tôn tâm nhân từ mỏi miệng dạy dắt người học ở hết thảy pháp của
phật thuyết đều phải hiểu rõ như thế, liền có thể thông đạt tánh tướng
nhứt như, pháp giới bình đẳng. Vì cớ gì? Vì nếu hiểu rõ được tuy bất lai
bất khứ, mà hiện ra có lai khứ, thì có thể biết pháp thân thường hiện
ra các thân báo, hoá mà chẳng đoạn tuyệt, cho nên lúc tu nhân chẳng nên
đoạn diệt tướng. Nếu hiểu rõ được tuy hiện ra có lai khứ mà thực chưa
từng lai khứ, thì có thể biết các thân báo, hoá chẳng thể ly pháp thân
mà riêng có, cho nên lúc tu nhân chẳng nên chấp trước tướng. Hiểu rõ chỗ
nầy thì các nghĩa bất ưng thủ pháp, bất ưng thủ phi pháp, cho đến tức
phi thị danh ở phía trước đều có thể hiểu thấu triệt để. Mà nghĩa nhược
kiến chư tướng phi tướng tắc kiến như lai cũng do đây mà thông đạt. Vì
chưng như mà lai tức là chẳng diệt tướng, lai mà như tức là chẳng trước
tướng. Mà nhược kiến chư tướng phi tướng, ý bảo là: ngay ở các tướng mà
thấy nó chẳng phải tướng tức là chẳng trước, chẳng diệt, tức là cùng với
nghĩa của như lai tương ứng, cho nên có thể thấy như lai. Vả lại như mà
lai ấy là lúc chẳng trước liền chẳng diệt, lai mà như ấy là lúc chẳng
diệt vẫn chẳng trước. Sở dĩ chẳng trụ niết bàn, chẳng trụ sanh tử là
đồng thời, là không trụ ở một chỗ nào. Cho nên người tu hành phải sanh
vô sở trụ tâm, nếu tâm có trụ tức là chẳng phải trụ vậy. Nếu có thể hiểu
rõ như thế mà thông đạt, thì nào tánh nào tướng, hết thảy phân biệt,
hết thảy chấp trước tự nhiên hoá trừ, tự nhiên vô niệm, tự nhiên không
có quải ngại điên đảo, nên mới nói: "lúc hành thâm bát nhã ba la mật có
thể độ hết thảy Khổ". Hết thảy người tu hành nếu có thể lĩnh hội được
nghĩa của khoa nầy, phải quán hết thảy tướng đối đãi đã chẳng thể ly
tánh tuyệt đối mà riêng có, mà tánh tuyệt đối cũng chưa từng ly tướng
đối đãi mà tồn tại riêng một mình, liền có thể ở ngày thường trên hết
thảy sự tướng đối đãi, tuy chẳng ngại gì tùy duyên mà làm, nhưng chẳng
thể tùy duyên mà chuyển. Ý nầy tức là duyên nên liễu (xong), được cơ hội
liền liễu, chẳng nên dây dưa, duyên nên kết cũng không ngại gì kết,
nhưng chẳng phan duyên. Quả nhiên có thể như thế trong sáu thời siêng
năng quán chiếu, tế mật khán nghiệm, tâm giữ được định, chân đứng được
vững, tự mình chẳng bị tướng trói buộc, mà làm mất tướng, vào ở thể. Ðây
là công phu nước cờ thứ nhứt của người học, tức là tùy thuận chân như,
tức là trực chỉ hướng thượng. Chỗ gọi là làm mất tướng, làm mất: có
nghĩa là dung hội, chẳng phải bảo là đoạn diệt, tức là chẳng trước,
chẳng đoạn. Chỗ gọi là vào ở thể là khế nhập tánh thể, tướng dụng vào
thể tức là khế thể, chẳng phải là riêng có thể. Vì cớ gì? Vì tánh thể
vốn vô tướng vô bất tướng, đây gọi là chư pháp không tướng. Không là đệ
nhứt nghĩa không, tức là không mà chẳng không, chẳng không mà không, tức
là chỉ không cái tướng của nó, mà chẳng hoại các pháp. Quả nhiên có thể
như thế, thì mặc cho nó muôn tướng đầy dẫy mà tự mình chẳng bị nó
chuyển động. Chỗ nói ở trên đều từ phương tiện của chư pháp không tướng
mà khởi tu nầy, tuy có sâu có cạn, pháp của nó chẳng một mà vẫn có thể
nhứt quán. Vả chăng chỗ gọi là cạn, thì cũng không cái cạn nào là chẳng
phải sâu, chẳng thể nghe nói nó cạn mà bỏ qua, để cho người hữu duyên
tùy theo ý mình lấy mà thực hành có thụ dụng lớn, quyết chẳng lừa dối
nhau.
Tu Bồ Ðề ! Nhược thiện nam tử thiện nữ nhân dĩ tam
thiên đại thiên thế giới toái vi vi trần, ư ý vân hà, thị vi trần chúng
ninh vi đa phủ?
Dịch nghĩa: Tu Bồ Ðề ơi, nếu trai lành
gái lành nào lấy ba nghìn đại thiên thế giới đập bể làm bụi nhỏ, ở ý
ông ra sao, những hạt bụi nhỏ nầy có là nhiều chăng?
Vi trần,
thế giới trước tuy đã nói, nhưng văn trong khoa nầy chú trọng ở hai chữ
toái và hợp. Vì nó có thể toái, có thể hợp, đủ chứng tướng của vi trần,
thế giới đều là duyên sanh, đương thể tức không, mà trong pháp tánh vốn
không có những thứ tướng sai biệt nầy, nên tuy chẳng đoạn diệt mà chẳng
thể chấp trước. Vì chưng phía trước tuy nhiều lần nói tức phi, thị danh,
đều là chỉ nói cái đương nhiên của tướng nầy chẳng phải tánh, nay theo
vi trần, thế giới tỏ rõ nó có thể toái, có thể hợp thì là triệt để nói
cái sở dĩ nhiên của nó. Nghĩa nầy đã rõ thì chỗ hết thảy nói tức phi thị
danh, có thể suy ra mà biết.
Dĩ tam thiên đại thiên thế giới
toái vi vi trần: đem ngay câu nói nầy tức là điểm tỉnh phàm phu ngu si
chớ chấp thế giới là thực có. Vì cớ gì? Vì thế giới lớn lao như thế nầy
mà có thể toái (vỡ ra), đủ chứng thế giới là tướng hư huyễn, há thực có
ư? Nếu nó thực có há có thể toái hư? Chỗ gọi là toái ấy là tỏ rõ thế
giới là tướng của vô số vi trần tập hợp lại, trừ vi trần ra thì không có
thế giới nào khác. Kẻ phát bồ đề tâm làm sự quán như thế, quán chiếu
thế giới không cái nào chẳng là vi trần, chẳng thể chấp là thực có, mà
chẳng phải thiệt đập nát làm cho nó vỡ ra vậy. Trên nói thiện nam tử
thiện nữ nhân tức là trỏ người phát bồ đề tâm mà nói. Ư ý vân hà: là lời
nói thăm nghiệm chỗ thấy. Nếu biết số đông nhiều của vi trần là do thế
giới phá vỡ thành ra, thì thế giới là giả hữu thật rõ ràng vậy. Thế
nhưng nếu chấp có đông nhiều vi trần thì lại nhận lầm vi trần là thực
có. Phải biết, thế giới, vi trần lớn nhỏ tuy khác nhau, mà không thực
thì là một. Phật nói toái giới làm trần, nguyên muốn phá cái kiến người
ta chấp thực có thế giới. Nếu cái chẳng phải thực của trần chẳng tỏ rõ,
thì cái chẳng phải thực của thế giới rốt cuộc chẳng thể triệt để tỏ rõ
hết. Vì chưng bổn ý của thế tôn là muốn người ta triệt để hiểu rõ những
cái có ở trên thế gian, lớn đến thế giới, nhỏ đến vi trần không cái nào
là chẳng phải hư vọng, đương thể tức không, chẳng thể chấp trước, chẳng
nên tham luyến, nên phải thăm nghiệm chỗ thấy ra sao. Chữ "toái" ở đây
cùng với chữ "hợp" ở văn dưới, chữ "chúng đa" ở đây cùng với chữ "nhứt" ở
văn dưới xa xa đối nhau, chính là con mắt trong câu văn, chính muốn cho
người ta ở trong nầy lĩnh hội nghĩa chân thực.
Thậm đa thế tôn ! Hà dĩ cố? Nhược thị vi trần chúng thực hữu giả, phật tắc bất thuyết thị vi trần chúng.
Dịch nghĩa: Thưa thế tôn rất nhiều. Vì cớ gì? Nếu là vi trần chúng thực có, phật liền chẳng nói là vi trần chúng.
Trong
bản lưu thông trên chữ thậm đa, có câu Tu Bồ Ðề ngôn, bản xưa không có.
Trả lời thậm đa là theo tướng hư của vi trần mà nói, vả lại biểu thị
người nầy đã hiểu rõ thế giới chẳng phải thực có, một thế giới chẳng qua
là nhiều vi trần mà thôi, há thực có thế giới ư? Lại biểu thị người nầy
lại có thể hiểu rõ vi trần cũng chẳng phải thực có, dưới câu hà dĩ cố
giải thích rõ ý nầy. Ý bảo: thế tôn trước nói thế giới toái làm vi trần,
bèn lúc thăm nghiệm chỗ thấy thì nói vi trần chúng. Ðặc biệt thêm vào
một chữ chúng, chúng là nghĩa tập hợp lại, thế thì vi trần cũng là huyễn
tướng tập hợp lại, thật rõ ràng, vậy thì cùng với huyễn tướng của thế
giới tập hợp mà thành có khác gì, có thể biết nó chẳng phải thực có. Nên
nói: "nhược thị vi trần chúng thực hữu giả, phật tắc bất thuyết thị vi
trần chúng." Do đây có thể thấy sự đáp: "thậm đa" chính sở dĩ hiển ra nó
là huyễn tướng tập hợp lại vậy thôi, nên đáp thậm đa là theo tướng hư
mà nói. Phải biết, giới toái làm trần, số nó nhiều chẳng ai có thể biết
nổi, cần gì phải hỏi nữa, đủ thấy ý hỏi chú trọng ở chữ chúng, mà ý nầy
vừa hay bị trưởng lão dòm thấy, đây gọi là tâm tâm tương ấn, sở dĩ làm
người đương cơ trên hội bát nhã, sở dĩ có thể thay phật dạy bồ tát. Bực
cổ đức khám nghiệm người học thường thường cố ý bày ra nghi trận cũng là
ý nầy. Vi trần làm sao là tướng tập hợp ư? Tức là một vi trần có thể
phân tích ra làm bảy cực vi trần, một cực vi trần có thể phân tích ra
làm bảy lân hư trần. Hư có nghĩa là không, lân hư cũng như số không của
ngôn ngữ hiện đại. Cho nên vi trần là huyễn tướng tập hợp lại chẳng phải
thực có, trưởng lão sao chẳng đem ngay nghĩa nầy ra mà nói, mà ắt ở
trên chữ chúng hiển ra nó chẳng phải thực, là vì cớ gì? Ðây có hai ý
sâu: 1) Vì phật đã nói như thế, nên theo đó để tỏ rõ nghĩa. Theo lời nói
của phật để tỏ rõ nghĩa là chỗ để dạy dắt kẻ đọc kinh nghe pháp, phàm
chỗ thuyết của phật chữ chữ đều đầy đủ tinh nghĩa, phải nên nghe cho kỹ,
chẳng thể sơ sót bỏ qua một chữ. 2) Lúc thời đại phật, bọn ngoại đạo
mỗi đem sự vật trên thế gian phân tích ra từng tầng từng tầng, phân tích
đến chỗ chẳng thể phân tích nổi mà còn chấp là thực có. Chính cũng như
nhà hoá học ngày nay phân tích các vật trên thế giới ra làm bao nhiêu
thứ nguyên chất, ban đầu chẳng thể phân tích, đến lâu ngày lại có thể
phân tích, công của phân tích lâu ngày mà càng tinh vi. Cho đến chỗ bảo
là nguyên-tử điện-tử, nhưng họ vẫn như cũ chấp là thực có. Nhị thừa thì
chẳng thế, biết vi trần có thể phân tích ra lân hư trần, liền biết hết
thảy đều không, thế nhưng ắt phải đợi phân tích mới tin là không, chẳng
bằng đại thừa có thể làm sự quán thể-không. Nay trưởng lão muốn tỏ rõ vi
trần chẳng phải thực, không dẫn thuyết của lân hư trần mà dẫn chữ chúng
của phật thuyết để hiển nghĩa, là đã để tỏ rõ phàm cái gì do tập hợp mà
thành liền biết là không, chẳng thể chấp là thực, Phật đạo sở dĩ khác
xa ngoại đạo. Hãy cứ quán lý liền có thể biết, còn đợi gì phân tích, đại
thừa sở dĩ khác xa nhị thừa. Sở dĩ giả hà chính tỏ rõ nghĩa nầy.
Sở dĩ giả hà? Phật thuyết vi trần chúng tắc phi vi trần chúng, thị danh vi trần chúng.
Dịch nghĩa: Sở dĩ ra sao? Phật nói vi trần nhiều tức là chẳng phải vi trần nhiều, cho nên gọi tên là vi trần nhiều.
Ý
của khoa nầy là: phật đã nói là vi trần chúng, có thể biết vi trần là
pháp duyên sanh. Pháp duyên sanh đương thể tức không, chỉ là tướng hư mà
thôi. Ðây là cái sở dĩ nhiên của vi trần cũng chẳng phải là thực có.
Tắc phi là theo pháp tánh nhứt như, tỏ rõ nó vốn là không. Thị danh là
theo pháp tướng duyên sanh, tỏ rõ nó chẳng phải là không có giả danh.
Nói phật thuyết chính sở dĩ hiển thị giác trí chiếu suốt pháp tánh vốn
không, pháp tướng đều huyễn, ban đầu cần gì đợi phân tích ư? Tóm lại cái
đập bể ra mà tụ nó lại gọi là hợp, cái hợp lại mà tán nó ra gọi là
toái, vốn là huyễn tướng đối đãi thành hình. Cho nên đương lúc nó có tức
là lúc nó không, nhỏ như vi trần có thể hợp có thể toái, hữu tức là
không là như thế, thì lớn như thế giới liền có thể biết được. Nên dưới
lại theo cái lớn để nói, vì chưng phật trước nói giới có thể toái làm
trần, lại đem trần ra mà hỏi cái chúng của nó, chính là muốn cho người
ta tức cái nhỏ mà ngộ cái lớn, vì vi trần vốn không liền có thể suy ra
mà biết thế giới đều không.
Thế tôn ! Như lai sở thuyết tam thiên đại thiên thế giới tắc phi thế giới, thị danh thế giới.
Dịch nghĩa: Thưa thế tôn, như lai chỗ nói ba ngàn đại thiên thế giới tức là chẳng phải thế giới, nên gọi tên là thế giới.
Khoa
nầy thừa tiếp ý hỏi ở trên mà tới. Trên hỏi đã nói giới chẳng phải giới
mà là trần, trưởng lão lại giải thích rõ trần chẳng phải trần mà là
không, thì giới tức là không, có thể biết được, nên nói: tắc phi thế
giới, thị danh thế giới, cớ của nó thấy rõ ở khoa dưới.
Trong
nầy chẳng nói phật thuyết mà nói như lai thuyết là có ý sâu. Bởi tam
thiên đại thiên thế giới gọi là cảnh của ứng thân phật giáo hoá, vì cảnh
nầy là chỗ nương dựa của hết thảy chúng sanh. Pháp thân như lai vì lợi
ích hết thảy chúng sanh, bèn tùy thuận duyên của chúng sanh hiển hiện
ứng thân để giáo hoá chúng nó thôi, ban đầu chẳng trụ trước ở cảnh nầy.
Vì cớ gì? Vì như lai pháp thân ở khắp pháp giới, pháp giới bằng với hư
không, sao có chỗ gọi là tam thiên đại thiên thế giới ư? Nên đem như lai
ra để nói thế giới là chẳng phải thực, là thị danh, Thuyết như thế
chính sở dĩ khai thị chúng sanh phải quán thế giới là chẳng thực, là thị
danh mà chẳng trước. Thế giới chẳng trước thì hết thảy chẳng trước.
Chẳng trước như thế mới có thể khiến pháp thân vốn đầy đủ ra khỏi
chướng. Ðây là ý sâu chẳng nói phật thuyết mà nói như lai thuyết.
Hà
dĩ cố? Nhược thế giới thực hữu tắc thị nhất hợp tướng. Như lai thuyết
nhất hợp tướng tắc phi nhất hợp tướng, thị danh nhất hợp tướng.
Dịch
nghĩa: Vì cớ gì? Nếu thế giới thực có tức là nhất hợp tướng. Như lai
nói nhất hợp tướng tức là chẳng phải nhất hợp tướng, nên gọi tên là nhất
hợp tướng.
Nhất hợp có nghĩa là hợp lại làm một, cũng như
tiếng "trọn một cái" đời bây giờ. Vì chưng kẻ chấp trước tướng tuy nghe
giới có thể toái làm trần, hoặc còn cho là tuy chẳng phải thực có, nhưng
đương lúc nó chưa bể ra, cái tướng hợp mà làm một của nó đã đành rõ
ràng là có. Vì cớ gì? Vì thế giới nguyên là danh từ tổng quát, đã lập
danh từ tổng quát tức là tướng hợp nhứt. Trưởng lão vì già (che) cái
chấp nầy cho nên triệt để phá nó. Ý bảo hồi nãy nói: tắc phi thế giới,
thị danh thế giới là vì cớ gì? Vì phàm thuộc về danh tướng thì không cái
nào là chẳng hư vọng, nên nói tắc phi. Tắc phi có nghĩa là thế giới chỉ
là giả danh, chẳng phải thực có. Chẳng những vì nó có thể đập bể ra mà
biết nó chẳng phải thực có, ngay đến nó chưa bể ra cũng chẳng phải là
thực có. Vì sao? Bốn châu gấp bội lên ngàn lần gọi là tiểu thiên thế
giới, tiểu thiên thế giới gấp bội lên ngàn lần gọi là trung thiên thế
giới, trung thiên thế giới gấp bội lên ngàn lần gọi là đại thiên thế
giới. Có thể thấy danh tướng của thế giới nguyên không có phạm vi nhứt
định, chẳng những cái hợp có thể bể vỡ ra, mà ngay cái hợp lại có thể
hợp lại, sao có thể chấp có nhứt hợp tướng nhứt định ư, nên nói: "tắc
phi nhứt hợp tướng, thị danh nhứt hợp tướng". Nói nó chẳng qua là giả
danh, vì vốn nó không có thực. Ý tỏ rõ ắt phải thực có mới là nhứt hợp
tướng, nay nhứt hợp tướng đã không nhứt định, ấy là theo danh tướng của
thế giới mà xem liền có thể chứng nó chẳng phải thực có, cần gì đợi giới
bể vỡ ra làm trần, trần bể vỡ ra làm không ư? Vậy thì thế giới là đương
thể tức không thật rõ ràng.
Tu Bồ Ðề ! Nhứt hợp tướng giả tắc thị bất khả thuyết, đãn phàm phu chi nhân tham trước kỳ sự.
Dịch nghĩa: Tu Bồ Ðề ơi, nhứt hợp tướng tức là chẳng có thể nói, nhưng người phàm phu tham trước việc nầy.
Ðọc
một khoa phi đa phía trên có thể biết danh từ hợp là vì nó có thể bể ra
mà sau mới có danh từ hợp, vả lại biết cái bể ra vẫn có thể bể ra nữa,
thì nghĩa của chư pháp tánh không đã tỏ rõ vậy. Ðọc một khoa phi nhất ở
trên có thể biết danh từ toái (bể ra) nguyên vì nó hợp mà sau mới có
danh từ toái, vả lại biết cái hợp vẫn có thể hợp, thì nghĩa của chư pháp
duyên sanh đã tỏ rõ. Vả chăng hợp chung lại mà xem, thì tuy là tánh
không mà chẳng ngại duyên khởi, vì nó duyên khởi cho nên biết nó tánh
không. Thế thì chỗ bảo là nhứt hợp tướng bèn là nhứt mà chẳng nhứt định
nhứt, hợp mà chẳng nhứt định hợp, nên nói: "nhứt hợp tướng giả tắc thị
bất khả thuyết". Bất khả thuyết là vì thế giới có thể bể ra, vi trần
cũng có thể bể ra, thì có thể thấy vi trần chẳng khác thế giới. Nếu nói
thế giới thực là nhứt hợp há chẳng phải vi trần cũng thực là nhứt hợp ư?
Thế nhưng thế giới chẳng phải là thế giới mà là vi trần, vả lại vi trần
chẳng phải là vi trần mà là vốn không vậy. Do đây có thể biết nhứt hợp
tướng của thế giới lại cũng vốn không, há chẳng phải là nhứt tức phi
nhứt, hợp tức phi hợp ư? Ðây là theo tướng để tỏ rõ không thể nhứt định
nói chẳng phải nhứt hợp, nhứt định nói thiệt là nhứt hợp, cho nên bất
khả thuyết. Tu hành vốn vì chứng tánh, như trên chỗ tỏ rõ nhứt tức phi
nhứt, hợp tức phi hợp là theo sự tướng đối đãi mà nói, còn theo tánh
thanh tịnh mà nói thì không có việc nầy. Vì cớ gì? Vì tánh là tuyệt đối,
chẳng phải là đối đãi, vốn ly tướng danh tự, tướng ngôn thuyết. Ðây là
theo tánh để tỏ rõ tánh chẳng phải là sự tướng, tánh vốn ly ngôn thuyết,
cho nên bất khả thuyết. Phàm: nghĩa là phàm tình, mê ở sự tướng gọi đó
là phàm tình, nên nói: phàm phu chi nhân tham trước kỳ sự. Kỳ sự là trỏ
chung hết thảy sự tướng, nhứt hợp tướng cũng nhiếp ở trong nầy. Nói kỳ:
là tỏ rõ nó hướng ngoại tìm cầu, bội giác hợp trần, mà nói phàm tình: là
tỏ rõ nó chẳng phải chánh tri. Vì nó hướng ngoại tìm cầu nên ở sự tướng
nổi dậy tham luyến mà sanh chấp trước. Thế thì muốn chẳng tham trước,
phải sạch hết phàm tình. Muốn sạch phàm tình phải mở chánh tri, cũng
thật rõ vậy. Phải tri như thế nào? Phải tri nhứt hợp tướng tức là bất
khả thuyết, có nghĩa là phải ly danh tự ngôn thuyết, phản chiếu hết thảy
pháp vốn chẳng sanh. Nên khoa nầy khai thị phương pháp nhập đạo rất là
thân thiết, chẳng thể cho là nói một cách trống không sự lý để mà hiểu.
Vả nghĩa của nó thông suốt trên dưới. Khoa trên "vô sở tùng lai, diệc vô
sở khứ, cố danh như lai", khoa dưới: "ngã kiến tức phi ngã kiến, thị
danh ngã kiến" đều phải ở chỗ bất khả thuyết mà lĩnh hội, chẳng thể tham
trước việc đó. Như thế mới là có thể giải nghĩa như lai sở thuyết, mới ở
tâm nguyên của hết thảy pháp vốn chẳng sanh, được để tùy thuận khế
nhập. Nên khoa nầy cùng với một khoa dưới hô ứng khít nhau. Hai khoa phi
đa, phi nhứt nói trên chẳng những phá thế giới, phá luôn cả vi trần,
chỗ nầy nói phàm phu tham trước chỉ theo nhứt hợp, tướng mà nói là chỉ
thuyết thế giới mà chẳng thuyết vi trần. Sao vậy? Ðây có hai nghĩa:
1)
Trên thuyết vi trần chẳng phải thực có, là theo chữ "chúng" để hiển ra
nghĩa. Ðây tức hiển thị chẳng những thế giới là giả tướng của nhứt hợp
mà vi trần cũng là giả tướng của nhứt hợp nên bất khả thuyết nhứt hợp
tướng ở đây là gồm cả theo thế giới vi trần mà nói, chẳng phải là chẳng
nói vi trần, chẳng phải là chỉ nói thế giới. Nên phật không đem thế giới
vi trần ra, chỉ đem nhứt hợp tướng ra để thuyết ý ở chỗ nầy. Phải biết
như thế. 2) Chỉ đem nhứt hợp tướng ra thuyết, ý ở phá xích những cái có ở
thế gian, lớn như thế giới, nhỏ như vi trần đều là giả hợp, vì sự tham
trước của phàm phu không cái nào là chẳng nhận lầm tướng giả hợp là chân
thiệt. Vi trần thế giới như thế, thì sắc thân cũng như thế, phàm phu sở
dĩ tham trước cái thân túi da thúi nầy, chấp nó cho là ngã, không có gì
khác, do ở chẳng biết là ngủ uẩn giả hợp mà thôi. Nếu biết trừ ngũ uẩn
ra không có sắc thân nầy, liền chẳng đến nỗi tham trước. Ðây là tôn chỉ
vi diệu của phật chỉ đem nhứt hợp tướng ra để thuyết, vì chưng phá y báo
tức là gồm phá luôn chánh báo. Phải biết như thế.
Ðây là theo
vi trần thế giới để tỏ rõ ly nhứt đa trong một khoa lớn, bao gồm nghĩa
rất rộng, nay chia ra nhiều đoạn để nói: 1) Vi trần thế giới đã chẳng
phải một, chẳng phải nhiều, có thể thấy vi trần thế giới cũng chẳng phải
tổng, chẳng phải biệt. Vì chưng vừa xem đó thì thế giới là tổng tướng,
vi trần là biệt tướng. Vì thế giới là tổng tướng bèn nhận lầm thực là
nhứt hợp. Vì vi trần là biệt tướng bèn chẳng biết nó cũng là giả hợp.
Thực ra thì thế giới có thể chia bể ra, thì tổng tức là chẳng phải tổng,
vi trần cũng giả hợp, thì biệt cũng tức chẳng phải biệt.
2)
Nói phi nhứt phi đa tức là nói bất tăng bất giảm, vì chưng theo thể-tích
mà nói thì tướng của thế giới như là tăng, tướng của vi trần như là
giảm, mà theo số-mục mà nói thì tướng của thế giới như là giảm, tướng
của vi trần như là tăng. Có thể thấy tăng giảm không có tướng nhứt định,
vậy thì cũng là giả danh, cũng là hư huyễn, ấy là tăng giảm đều chẳng
thể thuyết, nên nói bất tăng bất giảm. Một câu nói bất tăng bất giảm có
nghĩa là tăng giảm chẳng thể thuyết. Các câu khác như bất sanh bất diệt
v.v... cũng cùng một ý nầy. Tóm lại, hiểu rõ được nghĩa thế giới phi thế
giới, vi trần phi vi trần, thì liền hiểu rõ thế gian chỗ có các danh
tướng đối đãi như lớn nhỏ, cao thấp, lại đi, một nhiều, tổng biệt, hiền
ngu, tịnh uế v.v... đều là hư huyễn, đương thể tức không. Nếu hiểu rõ
được chư pháp vốn không liền hội về ở tánh, mà chư pháp nhứt như vậy, mà
chư pháp bình đẳng vậy. Ðây là yếu nghĩa của chư pháp không tướng. Hiểu
được nghĩa nầy liền có thể việc việc quán như thế, công phu quán chiếu
thuần thục, liền có thể chứng vô sanh nhẫn, mà làm mất tướng, khế nhập
vào thể. Chẳng thể nào mà chẳng biết.
3) Một khoa ly khứ lai tỏ
rõ ở trên là theo ba thân để tỏ rõ nghĩa tánh không, duyên khởi. Vì
chưng lai khứ là duyên khởi, bất lai bất khứ là tánh không. Ðây là theo
chánh báo để tỏ rõ. Chánh báo của phật đã tỏ rõ, thì chánh báo của hết
thảy chúng sanh đều phải làm sự quán như thế. Chỗ nầy tỏ rõ một khoa ly
nhứt đa, là theo vi trần, thế giới để tỏ rõ nghĩa tánh không, duyên
khởi. Vì chưng trần giới phi trần giới là tánh không, duyên khởi. Vì
chưng trần giới phi trần giới là tánh không, thị danh trần giới là duyên
khởi, đây là theo y báo để tỏ rõ. Ðại thiên thế giới là cảnh của một vị
phật giáo hoá, cũng tức là cảnh của hết thảy chúng sanh nương dựa. Cảnh
của sắc thân chỗ nương dựa là thị danh mà chẳng phải thực, thì do thân
nầy, cảnh nầy sanh khởi hết thảy sự tướng đều phải quán như thế. Vì sao
nói vậy? Vì chánh báo y báo là chúng sanh chỗ chẳng thể lìa ra chốc lát
mà còn hư huyễn không thực, thì hết thảy thạnh suy, khổ vui, khen chê,
hủy dự, bao nhiêu thứ sự tướng đối đãi lại là hư huyễn, chẳng phải thực,
có thể biết được, cần gì phải tham trước ư? Ðây là kinh văn theo ba
thân, thế giới để tỏ rõ tôn chỉ vi diệu của chư pháp không tướng. Vì cớ
gì? Theo hai cái trên để tỏ rõ nghĩa thì hết thảy sự tướng cai quát thu
nhiếp không còn sót.
4) Theo thân tướng và thế giới tướng mà
nói, thì thân là năng y, thế giới là sở y, mà theo pháp thân của bực
thánh, phật tánh của phàm phu mà nói, thì tánh là năng khởi, thân, giới
là sở khởi. Phải biết, tánh thanh tịnh nầy vốn không có các tướng lai
khứ, nhứt đa, tổng biệt, tăng giảm, chỉ tùy duyên hiện khởi các tướng
lai khứ v.v... mà thôi. Vì tướng là tùy duyên hiện khởi nên là hư huyễn,
mà tánh là thể vốn đầy đủ chân thực. Nên mặc sức tùy duyên hiện khởi
bao nhiêu thứ sự tướng đối đãi, mà trong bổn tánh tuyệt đối không tịch
vẫn chưa từng có bao nhiêu thứ tướng kia vậy. Các tướng khác như nhứt
dị, thánh phàm, sanh diệt, cấu tịnh, nhân ngã, nầy kia v.v... cũng đều
như thế. Quả nhiên có thể như thế, một con mắt xem định trên nguồn của
tâm vốn chẳng sanh, quán chiếu mà đi vào, tức là chỗ bảo: "trực chỉ,
hướng thượng", thì trong lòng tức thời mở rộng, phiền não tức thời tiêu
trừ, điên đảo mộng tưởng tức thời lìa xa. Dụng công như thế mới là thẳng
tới gánh vác, có thể gọi là người khéo dụng công, so với kẻ làm từ trên
ngọn cành thì công hiệu của nó khác xa, chỗ gọi là một ngày gấp bội lên
bằng một kiếp, há chỉ một ngày ngàn dặm mà thôi đâu ! Cho nên kinh Viên
Giác nói: "Biết huyễn liền ly, chẳng làm phương tiện, ly huyễn liền
giác, cũng không tiệm thứ. Hết thảy bồ tát và chúng sanh đời mạt thế y
theo đó mà tu hành, như thế bèn có thể vĩnh viễn ly chư huyễn". Chỗ nói
của đoạn kinh văn trên chính có thể dời làm lời chú thích của kinh nầy,
chính là công phu tu hành trực chỉ hướng thượng. Làm sao tu? Là biết
huyễn liền ly, ly huyễn liền giác vậy. Biết: có nghĩa là hiểu biết, cũng
tức là giác chiếu. Huyễn tức là như chỗ nói ở trên: thân, giới v.v...
là thị danh, mà chẳng phải thực. Làm sao liền ly? Ðem con mắt dòm định
nguồn của tâm, quán chiếu vào thì chư huyễn đều ly, vì chưng biết là
huyễn tức là ly vậy. Giác chiếu như thế liền hợp với giác, nên ly huyễn
tức là giác. Ðây là yếu môn viên đốn một lần vượt lên vào thẳng, có gì
là tiệm thứ nữa, hết thảy pháp môn không phương tiện nào bằng pháp môn
nầy, cần gì lại làm phương tiện nữa. Xem câu: "Như thế bèn có thể vĩnh
viễn ly chư huyễn," thì có thể biết ắt phải tu như thế mới là triệt để,
mới có thể cứu cánh. Kẻ nghe phải sanh lòng hi hữu khó gặp được pháp môn
nầy.
5) Ngoài ra lại còn một nghĩa của Vô Trước bồ tát nói,
cũng phải nên biết, nghĩa nầy ra sao? Ðó là lấy một khoa trần giới phi
nhất đa làm thí dụ, để thí dụ nghĩa khoa trên. Cái nhứt của thế giới là
thí dụ báo thân, là nhứt, cái nhiều của vi trần là thí dụ ứng, hoá thân,
là nhiều. Trần giới phi nhứt phi đa là thí dụ hai thân phi nhứt phi dị.
Nhưng pháp dụ có chỗ chẳng đồng đều là vì thế giới chẳng phải ly vi
trần mà riêng có, mà báo thân cũng chẳng phải ly ứng hoá thân mà riêng
có. Phải biết phàm là nói thí dụ, chỉ có thể thí dụ cái đại thể của nó,
chẳng thể mỗi mỗi hợp khít với nhau. Như trong kinh thường lấy nhựt
quang (ánh sáng mặt trời) thí dụ trí quang, đây chẳng qua vì ánh sáng
của thế gian chỉ có ánh sáng mặt trời là rất lớn khắp, rất có lợi ích,
nên lấy đó làm thí dụ vậy thôi. Thực ra thì sánh sáng mặt trời nương
theo hình chất sanh ra, lại nóng, sao có thể so sánh với ánh sáng của
trí không nương dựa chỗ nào, lại mát mẻ ư? Cho nên chẳng thể vì thuyết
của Vô Trước, pháp dụ chẳng đồng đều mà cho là thiếu sót. Trần, giới
hiện ra có nhứt, đa, thí dụ hai thân hiện ra có khứ, lai, còn theo tánh
mà nói vốn không có tướng nhứt đa, nên cũng không có tướng lai khứ. Lại
theo tánh và tướng hợp lại mà nói, tuy vốn không có nhứt đa, mà không
ngại gì hiện ra có nhứt đa, tuy hiện ra có nhứt đa, thực ra thì vẫn
không có nhứt đa. Ðể thí dụ tuy vốn không có khứ lai mà không ngại gì
hiện ra có khứ lai, tuy có khứ lai, thực ra chưa từng khứ lai. Nhưng
phàm phu tham trước sự tướng nhứt hợp, là thí dụ phàm phu tham trước sự
tướng khứ lai vậy. Luận của Vô Trước nói: "Vì phá danh sắc thân, nên
thuyết giới, trần v.v.." Danh sắc thân tức là hai thân, ý bảo phật sợ
nghe nghĩa trên chẳng thể hiểu rõ, nên lại nói thí dụ giới trần để phá
nó. Nay vì khai-thông diễn-xướng nghĩa nầy mà nói ra, để tiện cho kẻ đọc
luận của Vô Trước có thể dung hội. Do đây có thể thấy phật thuyết một
câu pháp bao gồm vô lượng nghĩa, có thể giải thích làm nhiều thứ, cho
nên gọi đó là Viên AÂm, sở dĩ thấy cạn, thấy sâu tùy theo từng người. Từ
xưa đến nay có nhiều người học viên đốn đại thừa giáo mà rốt cuộc thành
biệt giáo, rất đỗi có kẻ chạy vào nhân thiên giáo, cớ của nó là ở chỗ
nầy, cho nên nói đề-hồ có thể biến thành thuốc độc. Lại nói: người viên
thuyết pháp thì không pháp nào là chẳng viên, người tà gặp chánh pháp
thì chánh pháp cũng thành tà. Cho nên trong kinh đại thừa dạy dắt người
học phải thân cận bực thiện tri thức làm trọng yếu, lấy mở chánh tri
kiến làm căn bản.
Tu Bồ Ðề ! Nhược nhân ngôn phật
thuyết ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Tu Bồ Ðề, ư ý
vân hà, thị nhân giải ngã sở thuyết nghĩa phủ? Thế tôn ! Thị nhân bất
giải như lai sở thuyết nghĩa.
Dịch nghĩa: Tu Bồ Ðề ơi,
nếu người nào nói phật thuyết ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ
giả kiến. Tu Bồ Ðề ơi, ở ý ông ra sao, người nầy hiểu nghĩa chỗ ta
thuyết chăng? Thưa thế tôn người nầy chẳng hiểu nghĩa chỗ như lai
thuyết.
Trên chữ thế tôn, bản lưu thông thêm hai chữ phất dã,
hai chữ nầy chẳng nên có, người đời Ðường viết kinh không có hai chữ
nầy. Thử xem văn dưới câu bất giải, nói ra một cách kiên quyết như thế
nào, phía trên há thêm vào câu phất dã. Phải biết, kinh nầy không có một
chữ một câu thừa nào, ngay đó có thể biết kẻ thêm bậy hai chữ phất dã
trọn vẹn chẳng hiểu rõ tôn chỉ kinh.
Nghĩa kinh của khoa nầy
cực sâu. Vì cớ gì? Chỗ thuyết trong trọn bộ kinh đều là phá ngã, tại sao
người ta nói phật thuyết ngã kiến, trái lại là chẳng hiểu nghĩa ư? Hoặc
nói: người nầy vì chưng nghi phật thuyết lời nói nầy tức là tâm có kiến
nầy, nên nói là chẳng hiểu, câu nói nầy lầm lớn. Chẳng kể người nào,
nhứt định chẳng đến nỗi hoài nghi phật có ngã kiến. Dẫu rằng quả nhiên
có người cuồng vọng như thế, mang cái nghi bậy nầy thì dưới câu "nhược
nhân ngôn" phải có câu "đương tác thị niệm", mà nay không có, đủ chứng
minh thuyết của nó là sai lầm. Thế thì làm sao chẳng hiểu ư? Phải biết,
từ khai kinh đến nay đã nhiều lần nói bốn tướng ngã, nhân v.v... chẳng
thể có, có bốn tướng liền chẳng phải bồ tát. Lại tán thán kẻ không có
bốn tướng nầy đắc vô lượng phước đức. Lại khiến bồ tát thông đạt vô ngã
pháp, vả lại nói: tri nhứt thiết pháp vô ngã đắc thành ư nhẫn, công đức
thù thắng. Nhưng sợ phàm phu nhân vì phật thuyết day qua trở lại như thế
bèn chấp bảo ngã kiến v.v... chân thực là có, cái kiến nầy chặn ngang ở
trong tâm chính là ngã kiến, há chẳng phải trái lại thêm sự trói buộc
của nó ư? Ngay đến chẳng như thế, mà có thể lần lần trừ cái ngã cũng
chẳng phải là nghĩa phật nói bát nhã rất sâu nầy. Tại sao nói vậy? Kinh
nầy ở hết thảy pháp, đã nhiều lần nói tức phi thị danh để tỏ rõ nghĩa
tướng hữu tánh không, ý ở khiến người ta quán chiếu bổn không, mau được
giải thoát. Ở kẻ lợi căn, tự mình có thể nghe một biết mười, giác ngộ
biết rằng ngã kiến v.v... lại cũng là tướng hữu tánh không, thì đi thẳng
vào, ngay liền có thể chặt đứt hết gốc rễ của nó. Mà nay nói: phật
thuyết ngã kiến v.v... thì nó thiên chấp ở bên hữu tướng, chưa thể thông
đạt kiến ngã nhân v.v... cũng là vốn không, có thể biết được, nên nói:
bất giải như lai sở thuyết nghĩa. Phật là theo tướng mà nói, như lai là
theo tánh mà nói. Trên nói phật thuyết ngã kiến, kế tiếp nói: bất giải
như lai sở thuyết nghĩa, chính là hiển rõ người nầy ở ngã kiến v.v...
chỉ biết nghĩa tướng hữu, chưa hiểu nghĩa tánh không. Như thế thì kiến
ngã nhân v.v... vĩnh viễn chẳng thể trừ. Bực cổ đức có kẻ xin thầy giải
sự trói buộc. Thầy nói: "Ai trói buộc ông?" Kinh văn khoa nầy chính tỏ
rõ nghĩa đó. Phải biết tánh thể không tịch, vốn không có trói buộc, nay
chặn ngang một cái ngã kiến v.v... ở tâm, vả lại nói phật cũng thuyết
như thế, há chẳng phải như con tằm làm kén tự trói buộc mình ư? Nên thế
tôn đặc biệt cùng trưởng lão dấy vô duyên từ, khởi đồng thể bi thuyết
một khoa kinh văn lớn nầy, vì khiến hết thảy chúng sanh thẳng tới suốt
thấu tâm nguyện bổn lai vô ngã, vô kiến, được để rốt ráo cởi trói, bỏ
buộc. Thế thì nghĩa kinh của khoa nầy quan hệ trọng yếu có thể biết.
Nghĩa đó ra sao? Xin xem văn dưới.
Hà dĩ cố? Thế tôn thuyết ngã
kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức phi ngã kiến, nhân
kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, thị danh ngã kiến, nhân kiến, chúng
sanh kiến, thọ giả kiến.
Dịch nghĩa: Vì cớ gì? Thế tôn nói ngã
kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức là chẳng phải ngã
kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, nên gọi tên là ngã kiến,
nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến.
Tong kinh phàm nói
thị danh đều là theo tướng mà nói, tức là theo nghĩa duyên khởi mà nói,
phàm nói tức phi đều là theo tánh mà nói, cũng là theo nghĩa tánh không
mà nói. Phải biết, phật thuyết ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ
giả kiến, ý ở khiến người ta lĩnh hội ở kiến ngã nhân v.v... đều là
huyễn tướng duyên khởi. Nếu có thể biết huyễn liền ly, thì ngã kiến lại ở
chỗ nào? Vả lại ý ở khiến người ta lĩnh hội các kiến ngã nhân v.v...
vốn chẳng phải là giác tánh không tịch. Thế thì ly huyễn liền giác, ly
ngã kiến lại ở chỗ nào đâu? Ðây là nghĩa chân thực của phật thuyết ngã
kiến nay nói phật thuyết ngã kiến mà chẳng biết cái gì khác nữa, nghe
lời nói nầy liền có trạng thái trong lòng thắc mắc, thì ngay cái đó tức
là chấp thực. Phật vốn khiến nói phá ngã chấp, nay trái lại thêm cho nó
cái chấp. Ngã kiến làm sao có thể ly ư? Ngay khiến có thể ly mà tồn tại
một niệm năng ly sở ly, ngay cái đó thì vẫn là ngã kiến, gốc rễ lại sao
có thể nhổ hết ư? Nên nói: bất giải như lai sở thuyết nghĩa. Nói người
nầy bất giải là chính khiến người học phải day về trên tâm nguyên bổn
lai thanh tịnh vô ngã vô kiến lĩnh giải một cách sâu xa. Trong nầy chẳng
nói phật thuyết, như lai thuyết, mà riêng nói thế tôn thuyết là càng có
tinh nghĩa. Nói phật thì nghiêng về bên tướng, nói như lai thì khuyết ở
bên tu. Nghĩa ở trong nầy chính khiến người ta giác chiếu cái tánh vốn
không để khởi tu, mà thế tôn là tên gọi chung của mười danh hiệu phật,
nghĩa của phật và như lai đều nhiếp ở trong, nên đem ra nói để hiển
nghĩa. Ý bảo nghĩa ở trong nầy là truyền tâm bí yếu của kẻ đầy đủ mười
danh hiệu, thế tôn sở dĩ là thế tôn chính tại chỗ đó. Ắt phải y theo
nghĩa nầy mà tu, ngõ hầu được nhân viên quả mãn mà thành phật, tu viên
thì tánh hiển ra mà chứng như lai. Vì cớ gì? Vì ngã kiến là gốc của vô
minh, là lý do thành phàm phu, phá ngã kiến là trí tuệ quang, là con
đường thành thánh. Mà nghĩa tỏ rõ ở trong nầy là kim cương tuệ kiếm để
phá trừ ngã có thể dứt tuyệt gốc rễ, nếu chẳng y theo pháp nầy thì ngã
kiến chẳng dễ gì trừ, trừ cũng chẳng thể dứt hết. Tóm lại chỗ nói ở
trong nầy chính là chỉ thị đích xác công phu tu hành, nếu chỉ hiểu theo
lý u huyền, thì cô phụ ân của phật, không gì quá hơn nữa.
Trên
đã nói: tức phi ngã kiến, thị danh ngã kiến, chẳng thể chỉ hiểu theo đạo
lý quán không, mà là chỉ thị đích xác công phu tu tốt nhứt để phá trừ
ngã kiến. Mà nói đến công phu tu lại có nghĩa cực trọng yếu, chẳng thể
nào trước chẳng hiểu rõ: Từ xưa đến nay hình như chưa có người nào phân
tích đến chỗ nầy, nay phải theo từng tầng một phân biện cho tường tận
mỗi mỗi chia ra cho rõ, thì chẳng những công phu tu trong khoa nầy,
trong kinh nầy được yếu lĩnh của nó, mà phàm trong hết thảy các kinh chỗ
nói các thứ khác nhau về tánh, tu và công phu tu đều không đến nỗi
chẳng phăng ra đầu mối. Mà chấp tánh phế tu, nhân sự làm trở ngại lý,
bao nhiêu thứ tệ bịnh cũng ngõ hầu có thể tránh khỏi.
Phật
thuyết hết thảy pháp chẳng ngoài hai nghĩa: tỏ rõ tánh và tỏ rõ tu. Vả
chăng trong một câu pháp thuyết tánh ắt gồm có tu, thuyết tu liền nhiếp
có tánh. Nếu không biết lĩnh hội như thế thì ở phật pháp rốt cuộc vẫn
đứng ngoài cửa. Tánh là lý tánh, tu là công phu tu. Lý tánh thì phải ở
trong sai biệt thấy bình đẳng, công phu tu thì phải ở trong bình đẳng
thấy sai biệt. Sao gọi là phải ở sai biệt thấy bình đẳng? Nghĩa là phải
biết sự khai thị của phật thường thường theo một sự để tỏ rõ lý, mà lý
nầy thực thông suốt ở hết thảy sự. Nếu kẻ nghe pháp chẳng biết thông
suốt như thế, thì chỉ thấy sai biệt mà chẳng thấy bình đẳng, há có thể
quán lý của nó mà dung hội về tánh ư? (tánh bình đẳng, cho nên lý ắt
bình đẳng). Ngay như kinh nầy chỗ thuyết tức phi, thị danh rất nhiều, kẻ
nghe liền phải lĩnh hội đạo lý trong đó nguyên không có hai. Vì chưng
phàm nói tức phi đều là theo tánh của lý thể để tỏ rõ cái vốn không,
phàm nói thị danh đều là theo tướng của duyên sanh để tỏ rõ cái huyễn
hữu. Phàm tức phi thị danh đều nói ra một lượt đều là chỗ để tỏ rõ tánh
tướng chẳng phải một mà chẳng phải khác. Thuyết như thế, ý ở khiến cho
biết kẻ muốn chứng pháp tánh, đối với pháp tướng phải hiểu rõ nó là
chẳng phải một mà chẳng chấp trước, lại phải hiểu rõ nó là chẳng phải
khác, mà chẳng đoạn diệt. Cho nên lý đó không phải là lý sai biệt mà là
bình đẳng. Nói một cách khác, chẳng phải một pháp là như thế, mà pháp
pháp đều như thế, tức là không kể pháp nào đều phải hiểu rõ lý nầy, hai
bên chẳng trước, tiêu về tánh thể bình đẳng là vậy. Nếu theo nghĩa tức
phi thị danh để bàn về công phu thì có sai biệt lớn, chẳng thể nhân lý
tánh là bình đẳng bèn sống sượng lờ mờ xem cùng một thứ. Nếu như thế,
thế ắt đem nghĩa của phật thuyết chỉ hiểu theo lý không, cho là đó chẳng
qua khiến người ta quán hết thảy đều không. Vì người nầy chẳng biết thể
nhận một cách kỹ lưỡng cái sai biệt ở trong bình đẳng, tự nhiên không
theo chỗ nào mà hạ thủ, cho nên chẳng biết đây là chỉ thị đích xác công
phu tu. Hoặc vì chẳng biết là chỉ thị công phu tu, bèn cho đây là cảnh
giới của như lai, há lũ chúng ta chỗ có thể nói bậy, cho nên kẻ sợ hãi
bát nhã lại cũng rất nhiều. Kinh nầy sở dĩ từ xưa đến nay phần nhiều chỉ
nói được gần như giống với bát nhã, thực do ở chỗ nầy. Lại có kẻ quá
đỗi hơn nữa thì chẳng tu một pháp nào, ngã kiến cũng chẳng trừ, trái lại
tự lấy làm hiu hiu tự đắc cho rằng ta học bát nhã. Chỗ gọi là cuồng
loạn chính là trỏ lũ nầy. Những thứ bịnh như thế đều do đối với sự quan
hệ của tánh và tu và những loại khác nhau của công phu tu. Nói một cách
khác, tức là ở cái sai biệt của bình đẳng, cái bình đẳng của sai biệt
chưa từng phân biện cho kỹ, chia ra cho rõ, nên mới khiến như thế. Vậy
nên ngày nay chẳng thể nào không phân tích ra cho kỹ, nói ra cho tường
tận.
Công phu tu hành có các lại khác nhau nhiều chẳng kể xiết,
nhưng có thể khái quát làm hai thứ: 1) quán môn, cũng gọi là lý quán,
2) hành môn cũng gọi là sự tu. Lý quán tức là y theo phật thuyết lý tánh
có thể thông suốt hết thảy, mà thêm vào sự thể-nhận sâu xa thiết yếu,
sự giác chiếu nghiêm mật. Như thế bèn có thể vận dụng nó liền với hành
môn. Do đây có thể biết, chỗ gọi là lý quán tuy là lý mà đã thấy ở tu,
tuy là tu mà còn thuộc ở lý. Cho nên nếu xem lý quán làm sự mưu đồ thủng
thẳng thì chẳng phải, còn nếu xem tu cái nầy đã đủ thì cũng chẳng phải.
Từ xưa đến nay, phạm vào bịnh nầy chẳng biết bao nhiêu mà kể. Tóm lại,
làm lý quán ắt phải gồm cả sự tu, thực hành sự tu ắt phải gồm cả lý
quán, khuyết thiếu một cái liền chẳng đủ để nói công phu tu. Sự tu là:
như bố thí, trì giới, cho đến xem kinh, niệm phật, một cái dơ tay, một
cái cúi đầu, không kể lớn nhỏ, tinh thô, phàm thấy nó ở động tác hành vi
đều là vậy. Phương pháp tu phải đem sự ra để luận về sự, sự có muôn
ngàn sai biệt, phương pháp tu cũng vì đó mà có muôn ngàn sai biệt. Như
lễ bái có phép tắc của lễ bái, xướng niệm có phép tắc của xướng niệm, há
có thể nhứt luật ư? Chẳng những thế, lý quán đã thông với sự tu, nên
lúc tu lý quán chẳng những phải y theo lý tánh nói trên, quán lý bình
đẳng của nó, vả lại phải y theo sự loại của chỗ tu, quán cái lý sai biệt
của nó. Nếu chỉ biết quán bình đẳng, chẳng biết quán sai biệt, hoặc chỉ
biết quán sai biệt, chẳng biết quán bình đẳng thì cũng giống như tu một
cách mù quáng vậy thôi! Phải biết, tánh tu, lý trong tu, sự trong tu đã
không thể xem thành hai mặt, lại không thể lộn xộn nói là một. Phải
thể-nhận cái chẳng khác trong cái chẳng một của nó, cái chẳng một trong
cái chẳng khác của nó thì mới có thể tánh và tu chẳng hai, lý và sự viên
dung. Vì chưng phải ở trong cái viên dung có hành bố, ở trong cái hành
bố có viên dung mới là chân viên dung, chân chẳng hai, thì không có sự
tu nào mà chẳng thành. Ðây là điều kiện cần yếu thứ nhứt để học phật,
nếu ở những chỗ nầy chưa có khả năng thể-nhận rõ ràng thì giống như phải
mà không phải, quyết không thành tựu. Ngay như tức phi thị danh có chỗ
theo lục độ mà nói, có chỗ theo trang nghiêm phật độ mà nói. Nhưng trang
nghiêm phật độ chính là trỏ tu lục độ vạn hạnh mà nói, có thể cùng với
chỗ theo lục độ mà nói xem cùng một loại. Lại có chỗ theo 32 tướng, cụ
túc thân tướng mà nói, có chỗ theo thế giới vi trần mà nói đều là cảnh
tướng. Thế nhưng tuy đều là cảnh tướng, mà phân biệt cho kỹ, thì chẳng
thể xem cùng một loại. Vì chưng 32 tướng, cụ túc thân tướng v.v... vì tu
phước tuệ bèn thành, còn thế giới vi trần thì chẳng cần tu. Cho nên
giới trần không có sự tu có thể nói, chỉ làm lý quán, quán lý tánh bình
đẳng, không hữu chẳng trước có thể được vậy. Còn như 32 tướng v.v...
phải qui vào lục độ, một mặt quán lý tánh huyễn hữu, vốn không của nó,
một mặt lại quán lục độ là yếu môn tự độ độ tha, thân tướng, phật độ đều
là cái chẳng thể không có để tiếp dẫn chúng sanh, tuy là huyễn hữu vốn
không nhưng chẳng nên chấp trước mà thôi, muôn vàn chẳng thể đoạn diệt
những sự việc nầy. Chỗ chuyển vận ra việc làm, ắt phải y chiếu huyễn
pháp siêng năng tu chẳng trễ biếng, chỗ bảo là "mở dựng đạo tràng như
bóng trăng trong nước, làm lớn phật sự ở trong giấc chiêm bao", chỉ
trong tâm không tồn tại một cái năng tu, sở tu mà thôi ! Ðây là theo
nghĩa tức phi thị danh để làm công phu tu lục độ. Còn đến ngã kiến thì
lại khác xa, vì chưng lục độ là việc phải nên thành tựu, còn ngã kiến là
việc phải nên tiêu trừ, hai cái trái ngược nhau. Cho nên quán lý tánh
bình đẳng huyễn hữu vốn không, tuy cùng với tu lục độ giống nhau, mà đem
sự ra để làm quán, thì phải quán nó hoàn toàn chẳng phải là tánh hữu,
chỉ là giả danh. Trong tâm đã đành chẳng thể tồn tại một tơ hào ngã, một
tơ hào kiến, mà chuyển vận ra việc làm thì phải lìa xa danh tướng huyễn
hữu, chiếu sâu tâm tánh vốn không. Ðây là theo nghĩa tức phi thị danh
để làm công phu tu trừ ngã kiến, Biết như thế thì phàm vô minh phiền não
v.v... hết thảy những sự việc nên tiêu trừ, công phu tu cũng có thể
theo loại nầy mà suy ra. Phải biết, ngã kiến gốc rễ đã ăn sâu vững chắc,
nay muốn trừ nó, nếu không y theo công phu chỗ nói ở trong nầy ắt chẳng
thể trừ. Nay trước nói chỗ cần yếu đại khái của nó, cần yếu đại khái đã
rõ, bèn có thể theo từng tầng một nghiên cứu sâu vào, vì phương pháp tu
trong nầy, lý của nó cực tế nhị.
Sao lại nói muốn trừ ngã
kiến, nếu chẳng theo phương pháp nầy thì chẳng thể được? Lý nầy phía
trước tuy đã nói rồi, sợ rằng còn chưa hiểu thấu, nay lại nói một cách
khác để tỏ rõ. Thí dụ như có một người ở đây, có thể biết cái hại của
ngã kiến, phát tâm trừ nó, nhưng nếu trong tâm xem thấy ngã kiến khó trừ
liền đã chấp ngã kiến là thực có, thế thì đã chặn ngang một cái kiến
của ngã kiến thực có ở trong tâm, lại chặn ngang một cái kiến của trừ
ngã kiến ở trong tâm, trên cái trói buộc lại thêm trói buộc, thì ngã
kiến làm sao có thể trừ? Vì cớ gì? vì nếu chỉ khiến trong tâm có một
chút năng trừ, sở trừ tồn tại, thì vẫn là ngã kiến y nguyên, vẫn là
trước ngã y nguyên. Cho nên thế tôn đặc biệt ở đây dạy dùng tâm nguyên
chiếu thẳng bổn lai vô ngã, vô kiến, thì chẳng những ngã kiến không có,
ngay đến cái kiến vô ngã cũng không có, như thế thì dấu vết của ngã kiến
mới hoàn toàn không có, mau lẹ thống khoái còn gì hơn thế nữa! Kẻ bất
tuệ nầy sao dám tự bảo rằng có thể trừ ngã kiến, nhưng ở việc nầy đã
từng có sự quán chiếu thể nghiệm trong thời gian lâu dài chẳng dứt,
những khúc chiết, ẩn vi ở trong nầy hiểu rõ sơ lược một hai cái, nên
biết sâu phương pháp tu nầy hay khéo mà cần yếu. Nay muốn các ông có thể
mau được ích, vả lại chẳng dám cô phụ kinh văn khoa nầy, chỉ đem cái mà
tôi có thể lĩnh hội được, đem trong kinh chỗ tỏ rõ công phu tu, tuyên
dương ra từng đoạn khiến cho người hữu tâm hiểu thấu triệt để, pháp môn
bát nhã hoặc có thể do đây mà sáng tỏ lớn ở thế gian. Ðây là bổn nguyện
của tôi. Thế nhưng mùi vị của nghĩa uyên thâm nói ra đã chẳng dễ, nếu
không tĩnh tâm mình, trầm khí mình thì cũng ắt chẳng dễ gì lĩnh hội, tôi
hy vọng các ông khéo suy nghĩ việc nầy. Nay trước theo nghĩa tức phi,
cùng tận nguyên uỷ của nó tỏ rõ nó là công phu tu tuyệt diệu để trừ ngã
kiến. Ngã kiến tức là gốc của vô minh. Phải biết, tự tánh thanh tịnh
nguyên không có vô minh, thế nhưng phàm phu vì cớ chẳng đạt nhứt chân
pháp giới, bèn từ vô thủy bất giác tự động cho đến ngày nay. Tâm nó từ
trong ra đến ngoài đều là vô minh đen tối, tánh quang vốn đầy đủ sớm đã
ẩn đi mà chẳng hiện. Chỗ bảo là "bất sanh bất diệt cùng với sanh diệt
hoà hợp gọi đó là THỨC", là vậy. Ðã toàn thể chôn vùi trong thùng sơn
đen tối như thế, không có một chút đốm quang minh, mà nói chẳng chấp
trước thì cũng là chấp trước, khiến nó quán không mà chỗ quán chính là
tình thức, chẳng phải là tánh không. Cho nên một câu tức phi ngã kiến,
chẳng phải chỉ khiến làm sự quán, quán chiếu tánh không, ấy là dạy khiến
chấn tác tinh thần, nghị nhiên, quyết nhiên cực lực đem cái ngã kiến
v.v... đạp đổ, chẳng thừa nhận trong tự tánh có các kiến ngã, nhân
v.v... Hai chữ "tức phi" phải thể hội như thế, đây là phương tiện thù
thắng vi diệu bước thứ nhứt.
Trước nói toàn thể ở trong vô
minh, nói chẳng chấp trước cũng là chấp trước, thế thì nói chẳng thừa
nhận thì vẫn là tình thức dụng sự như cũ, có thể biết được, sao có thể
gọi là phương tiện thù thắng vi diệu ư? Phải biết, phàm phu từ vô thủy
đến nay nhận giặc làm con đã lâu rồi, nay nhờ phật răn dạy mới biết đó
là chẳng phải, mà chịu chẳng nhận. Ðã biết vả lại chịu, tức là cái bất
sanh diệt và sanh diệt hoà hợp hiện ra vết nứt rạn. Ngay chỗ nầy tức là ở
trong vỏ vô minh có một làn trí quang phát hiện, ấy là thủy giác, ấy là
bước thứ nhứt bội trần hợp giác, chẳng phải là phương tiện thù thắng vi
diệu là gì? Nói tóm lại, vật gắn keo vững chắc đã lâu đời, nếu chẳng
trước quyết phá bể nó ra như thế, thì há có thể liền được thoát ly, nên
hai chữ "tức phi" trong văn của kinh phải dùng sức lực lớn, chẳng phải
chỉ làm sự quán như thế mà thôi đâu. Hỏi: giác chiếu như thế thì cái hoà
hợp liền hiện ra vết nứt rạn lớn, rất đúng, nhưng chẳng qua chỉ hiện ra
vết nứt rạn mà thôi, mà muốn không có vô minh thì phải làm phương tiện
gì? Ðáp: Dùng ngay phương pháp nầy thì vô minh ngay lúc đó liền không
có, chẳng cần lại tìm phương tiện nào khác. Nên nói: "biết huyễn liền
ly, chẳng làm phương tiện", nếu chẳng thế thì có gì là vi diệu đâu? Phải
biết, tự tánh thanh tịnh tuy có vô minh ngã kiến bao nhiêu vọng niệm
đầy rẫy, mà cái tự tánh thì thường hằng chẳng biến, thanh tịnh như cũ,
vì tự tánh là thể chân thực, vô minh là tướng hư huyễn. Một cái chân một
cái vọng tuy từ vô thủy đến nay hoà hợp làm một, thực ra thì ngoài hợp
mà trong chẳng hợp, vốn chẳng ứng với nhau, thí dụ như sông Kinh sông Vị
(một sông nước trong, một sông nước đục) rõ ràng mỗi cái chẳng can
thiệp gì với nhau. Lý nầy chỉ có phật, như lai chứng cứu cánh giác mới
có thể biết triệt để, nên trong kinh đại thừa thường thuyết lý nầy, khai
thị phàm phu, vì hết thảy phàm phu đều dùng hằng ngày mà chẳng biết. Mà
kinh Viên Giác khai thị lý nầy rất rõ.
Kinh Viên Giác nói:
"Cái vô minh nầy chẳng phải thực có thể, như người trong mộng, lúc mộng
chẳng phải là không có, kịp đến lúc tỉnh thì không được cái gì hết".
Mộng là thí dụ sự mê của chúng sanh, tỉnh là thí dụ sự giác của người tu
hành, người học phật trước hết phải tin cái nầy, chỗ bảo là: "tín là
cửa vào đạo", tức là bảo dốc lòng tin lý của phật thuyết thì vào đạo mới
được cửa của đạo. Vì lý nầy phàm phu ban đầu chưa từng biết, nay tuy đã
biết, nếu chẳng chân tu thì cũng khó hiểu rõ ngay được, nếu không có
tín tâm, thì làm sao có chỗ vào? Nên nghe được "tức phi ngã kiến", phải
day về trên tâm nguyên vốn nó thanh tịnh mà khế nhập. Day về liền có
nghĩa là buông bỏ hết thảy chẳng ngó tới, chỉ riêng một mình day thẳng
về chỗ chưa động niệm mà giác chiếu. Ðây cũng như từ hồi nào nhận giặc
làm con, lâu ngày đã mất ngôi chủ, nay may mắn biết nó là giặc, há có
thể chiếu cố nó thêm nữa, còn xoắn xuýt với nó nữa ưa? Lại chẳng cần lo
thế của giặc lớn khó trừ, nếu lo như vậy thì ngược lại làm mạnh thêm thế
lực của nó lên. Phải biết, nó vốn không có gốc rễ, thế lực nó hồi trước
hoàn toàn do tự mình tín nhiệm nó, khiến nó được như thế. Nay đã biết
là chẳng phải, không còn tín nhiệm nó nữa thì nó không còn từ đâu mà thi
hành phát triển ra nữa, liền phải phục tùng qui hàng, cần gì phải sợ nó
ư? Ðây là nước cờ cần yếu thứ nhứt để trừ vọng, xin chớ bỏ qua. Nên
kinh Viên Giác nói: "biết huyễn liền ly", chữ "biết" rất diệu, biết tức
là giác chiếu, quả nhiên có thể giác chiếu, thì ngã kiến liền tiêu tan
đi. Thí dụ như con chuột rình mò ở góc nhà tối, nếu bị giác chiếu nó
liền trốn đi. Ðây cũng như thế, vì chưng chẳng thể khởi hai niệm cùng
một lúc, cái khởi của vọng tâm tức là cái buông lơi của chánh niệm,
chánh niệm chấn hưng thì vọng niệm liền không có, là lý tự nhiên, có gì
là kỳ lạ đặc biệt đâu ! Nên mới nói là: "liền ly". Phải biết "liền ly"
và "biết huyễn" ban đầu chẳng phải là hai việc. Ðây là phương pháp trừ
vọng rất nhanh chóng rất cần yếu, chẳng thể coi rẻ. Lúc nào cũng giác
chiếu như thế, chẳng buông lung một chút nào, thì ngã kiến từ đâu mà nổi
dậy? Ngay có nổi dậy thì sức lực cũng rất yếu, lâu ngày công phu thuần
thục thì tự nhiên chẳng nổi dậy nữa. Ðây là công phu tu "tức phi ngã
kiến".
Có cái phải nói bù thêm, người phàm phu từ vô thủy chẳng
giác, vọng niệm chưa từng tạm ngừng, nay muốn biết cái huyễn mà giác
chiếu ắt phải tu phương tiện phía trước, nếu không thế thì từ đâu mà
biết nó là huyễn mà giác chiếu ư? Thí dụ như ở lâu chốn thành thị ồn ào,
ngày đêm nghe tiếng huyên náo chẳng ngừng mà cũng không cảm thấy ồn ào.
Nếu ở chỗ yên tĩnh thanh nhàn, thì hơi có một tiếng động nào liền cảm
thấy ngay. Ðây cũng như thế, ắt phải trước giữ vững cấm giới để dứt
tuyệt nhiễm duyên, đọc nhiều kinh đại thừa để tỏ rõ phật lý, khiến ở
trong đó được yên tĩnh một chút, thì tục kiến lần lần có thể nhẹ bớt,
mới có thể biết huyễn, mới có thể giác chiếu. Tức phi ngã kiến, kinh nầy
nói ở sau chót cũng là ý nầy. Thế nhưng tuy thuyết ở sau mà tu phải ở
trước. Nếu ở phương pháp trừ vô minh ngã kiến chưa được chỗ yếu, thì từ
khai kinh đến đây chỗ thuyết tánh tu, lý sự sao có thể chiếu rõ triệt
để, như thế thì đều chẳng được chỗ yếu của nó vậy. Lý nầy lại chẳng thể
nào mà không biết.
Công phu tu "thị danh ngã kiến v.v..." lại
càng cần yếu, lại càng vi diệu. Nếu chỉ biết tức phi, mà chẳng biết thị
danh thì ngã kiến lại sao có thể sạch hết. Tôi mong các ông trước hãy
đem nghĩa tức phi ngã kiến thể-nhận một phen, rồi hãy nghe nghĩa thị
danh ngã kiến. Nghe pháp cần phải ở từng chữ, từng chữ, từ trong tâm
mình thể-nhận một cách thâm khắc, nếu không như thế thì nghe cũng như
không nghe, có ích gì đâu?
Nay sẽ tuyên dương công phu tu thị
danh ngã kiến. Hoặc hỏi: kinh nầy phàm nói thị danh đều là tỏ rõ nghĩa
chẳng đoạn diệt, mà ngã kiến là cái phải tiêu trừ đi, làm sao có thể
thông ư? Trước nói công phu tu "tức phi", là dùng nghị lực quyết liệt
với nó, để phá tình chấp vững chắc như keo sơn, tôi đã biết cái hay khéo
của nó rồi, nay nói "thị danh" cũng là công phu tu tuyệt diệu, rất cần
yếu, há rằng đã quyết liệt với nó, mà nay lại đi đôi với nó ư? Ðáp?
Chẳng phải là bảo như thế ! Trước nói: Sự có sai biệt, thì công phu tu
liền nhân đó mà có sai biệt, chính là trỏ câu "thị danh ngã kiến" mà
nói. Ông đã biết ngã kiến là cái phải nên tiêu trừ, làm sao lại còn phải
dùng lý quán sự tu phải thành tựu, mà cùng với nó hỗn loạn làm hí luận
ư? Phải biết, nghĩa của thị danh ngã kiến là tỏ rõ ngã kiến là huyễn
tướng của chân tánh biến hiện ra, chỗ bảo là tiêu trừ chẳng phải là đoạn
diệt bổn tánh, ấy là chỉ trừ bịnh của nó, chẳng trừ pháp của nó, đây là
một. Vả hiểu rõ ngã kiến là pháp duyên sanh, tâm nếu phan duyên thì ngã
kiến cũng tùy duyên mà nổi dậy, nếu tâm chẳng sanh thì ngã kiến cũng
không từ chỗ nào sanh, chỗ bảo là: "biết huyễn liền ly, ly huyễn liền
giác", đây là nghĩa thứ hai. Hai nghĩa nầy cực trọng yếu, công phu tu
trừ ngã kiến không còn gì hay khéo hơn nữa, nếu chẳng y theo đây thì
vĩnh viễn chẳng thể trừ ngã kiến, sợ còn chưa hiểu rõ, nên lại nói tường
tận, xin nghe cho kỹ:
Nay hãy tỏ rõ nghĩa ban đầu: các kiến
ngã, nhân v.v... tức là phân biệt chấp trước, chỗ gọi là thức thứ sáu,
thức thứ bảy là vậy. Thức chẳng phải là vật gì khác, tức là chân tánh vì
cớ bất giác theo nhiễm duyên hiện khởi ra nhiễm tướng, chỗ gọi là bất
sanh diệt và sanh diệt hoà hợp là vậy. Nay quán nghĩa tức phi, cùng với
nó quyết liệt ấy là chẳng cùng với nó hoà hợp, khiến cho nó tiêu hoá đi ở
chỗ vô hình. Nó nếu tiêu hoá đi thì chỗ gọi là thức thứ sáu phân biệt
tức là diệu quán sát trí, thức thứ bảy chấp trước tức là bình đẳng tánh
trí, sao có thể đoạn diệt ư? Hết thảy phàm phu day về cái khổ mà chẳng
giác, chẳng biết nó là thức, nhận lầm nó là chân tánh, nên mới nói là
nhận giặc làm con. Phải biết thằng giặc nầy nguyên chẳng phải ở ngoài mà
tới, nó là thằng giặc trong nhà, vả lại nó là nhân vật chủ yếu, nay
cùng với nó quyết liệt là ý khiến nó cải tà qui chánh mà thôi. Thí dụ
như đứa con độc nhứt, vì nó không đi theo con đường chánh, nên ta chẳng
thừa nhận nó là con là ý mong cho nó quay đầu trở lại con đường chánh,
nếu rốt ráo xua đuổi nó đi vĩnh viễn thì gia đình cũng tiêu tan. Ðây
cũng như thế. Chẳng thể vì ghét vô minh ngã kiến, liệng chuột mà chẳng
biết sợ bể đồ đạc, mà đi vào con đường hôi thân diệt trí. Vô tưởng của
ngoại đạo, trầm trệ không tịch của nhị thừa đều mắc vào bịnh nầy. Biết
đâu rằng đã nghiêng về bên không, thì tâm vẫn là có thủ. Nếu tâm thủ
tướng tức là trước ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, ngã kiến của nó lại
sao đã có thể trừ được?
Lại nói rõ nghĩa thứ nhì. Xem chỗ nói
trong nghĩa thứ nhứt, ban đầu vì bất giác nhận vô minh làm chân tánh.
Nhưng nay đã biết nó mà chẳng thừa nhận, thì có thể thấy ngay một niệm
nầy chính là giác vậy. Nên Kinh Viên Giác nói: "Ly huyễn liền giác, cũng
không có tiệm thứ". Trước quán nghĩa tức phi, đã có thể biết huyễn liền
ly, nhưng phải nối tiếp cái biết nầy, gặp duyên mà chẳng nổi dậy thì
nhứt tâm thanh tịnh vậy, đây sở dĩ ly huyễn liền giác. Chỗ gọi là ly tức
là ý chẳng nổi dậy. Ban đầu tuy chẳng phải là không có sự cưỡng-chế,
lâu ngày công phu thuần thục thì tự nhiên chẳng nổi dậy, ngã kiến liền
rốt ráo thanh tịnh. Phải biết, nghĩa nầy là tỏ rõ chẳng nổi dậy tức là
ngay liền lúc đó chẳng nổi dậy, nói một cách khác, chẳng nổi dậy liền
được, lại chẳng cần thêm vào sự phân biện là nó có chẳng nổi dậy hay
không. Vì cớ gì? Vì phân biện tức là phan duyên, ấy là tâm mình lại nổi
dậy vậy, đây tức là vô minh, đây tức là ngã kiến. Tóm lại, công phu trừ
vọng quí ở chém một dao đứt làm hai, nếu còn ngó bên nầy dòm bên kia tức
là ngó sen tuy đứt lìa mà tơ còn vương dính, rất là kỵ. Nghĩa nầy kinh
Viên Giác lại có tám câu kinh văn, nói ra hết sức triệt để, có thể cùng
với kinh nầy phát minh lẫn nhau. Kinh Viên Giác nói: "Ở hết thảy thời,
chẳng khởi vọng niệm, ở các vọng tâm, cũng chẳng tắt diệt. Trụ cảnh vọng
tưởng, chẳng thêm biết rõ, ở không biết rõ, chẳng phân biện chân thực".
Tám câu kinh nầy từ xưa đến nay mỗi người tùy theo chỗ thấy của mình mà
nói nghĩa khác nhau. Nay vì triệt để thuyết minh nghĩa nầy, chẳng làm
lời nói che đầu trùm mặt. Phải biết, trong tám câu nầy, hai câu đầu làm
chủ, tức là hai chữ "chẳng khởi" làm chủ. Sáu câu dưới là vần xoay giải
nghĩa để thuyết minh cái sở dĩ nhiên của chẳng khởi, có nghĩa là ắt phải
như thế mới là chân thiệt chẳng khởi. Tóm lại sáu câu dưới chỉ là lời
chú thích hai câu trên. Vả lại chính là lời chú thích tuyệt diệu của ly
huyễn liền giác. Vọng tâm tức là vọng niệm, chính là trỏ vô minh phân
biệt chấp trước v.v... mà nói. Phải biết, vọng tâm chẳng phải là cái gì
khác, vốn là toàn chân theo nhiễm mà hiện ra, sao có thể tắt diệt. Chẳng
thể nhận lầm là chẳng khởi niệm giống như cây khô, như tro chết. Ly
huyễn liền giác tức là toàn vọng là chân, cần gì tắt diệt ư? Nếu tắt
diệt nó thì ngọc đá đều cháy, không phải là nghĩa chân thực của chẳng
khởi, nên nói: "ở các vọng tâm, cũng chẳng tắt diệt", lại chẳng thể hiểu
lầm chẳng tắt diệt là trụ ở cảnh vọng tưởng. Phải biết, chỉ có thức
không có cảnh, vọng tưởng đã chẳng nổi dậy thì làm sao có cảnh được, làm
sao có trụ được, vì chưng ly huyễn liền giác, thì hết thảy đều không,
cần gì lại thêm vào hiểu rõ nó là trụ cảnh hay không trụ cảnh ư? Nếu
thêm vào sự hiểu rõ nầy là trên đầu để thêm cái đầu, niệm lại khởi vậy,
làm sao nói được chẳng khởi ư? Nên mới nói là trụ cảnh vọng tưởng. Chẳng
thêm vào sự biết rõ, lại chẳng thể hiểu lầm như không có một sự biết rõ
nào, há chẳng phải là rơi vào vô ký ư? Phải biết, đã chẳng tắt mất,
chẳng phải giống như cây khô tro chết, nên lúc niệm chẳng khởi liền linh
quang một mình sáng rực rỡ, thoát xa căn trần, cho nên nói ly huyễn
liền giác. Vì chưng giác là tánh chân thực, cần gì lại phải phân biện là
chân thực hay không, nếu phân biện như thế, thì lại là người ngu tự
mình làm rối mình, còn được gọi là chẳng khỏi ư? Nên nói: "ở không biết
rõ, chẳng phân biện chân thực". Ý tổng quát của sáu câu nầy tức là phát
huy nghĩa: "có chiếu có giác đều gọi là chướng ngại" ở văn trên của kinh
đó. Nghĩa thị danh ngã kiến của kinh nầy lại cũng như thế. Ngã kiến đã
là duyên sanh, thì có thể thấy trong tự tánh vốn nó không sanh, chẳng
qua là huyễn tướng tùy duyên mà nổi dậy. Thế thì ngã kiến là danh, chân
tánh là thực. Nay đã biết nó nguyên chẳng phải là thể của chân tánh, nó
là huyễn tướng. Mà chiếu thẳng tâm nguyên vốn từ xưa tới nay chưa sanh
huyễn tướng thì giả danh ở chỗ nào đâu, huyễn tướng tồn tại ở chỗ nào
đâu? Người học phải nên dùng thủ đoạn dao bén chém giây nhợ rối loạn như
thế, chặt một dao đứt làm đôi thì vọng duyên chẳng nổi dậy, chẳng nổi
dậy liền được. Cũng không sở ly, cũng không năng ly, cũng không sở
chiếu, cũng không năng chiếu, vì cái ly kia, cái chiếu kia cũng đều là
giả danh huyễn tướng đối đãi duyên sanh, bởi trong tự tánh thanh tịnh từ
xưa đến nay vốn nó đều không có, nếu đã biết nó tức phi mà ly nó, lại
còn thắc mắc phân biện nó là đã ly hay chưa, hoặc mừng rỡ tự bảo là có
thể ly, thì vẫn là chấp cho là thực có, là lỗi ở chỗ nghĩa "thị danh,
chẳng phải thực" còn chưa hiểu thấu. Ðây tức là pháp chấp, tức là ngã
kiến, nên kẻ khéo dụng công ắt phải một lần ly đến triệt để, đoạn trừ
thì phải đoạn trừ liền, đây là công phu tu thị danh ngã kiến. Xem chỗ
nói ở trên, có thể biết công phu tu nói ở khoa nầy cực vi diệu, cực cần
yếu. Vì cớ gì? Kinh Viên Giác lại có một câu: "Hết thảy chư phật bổn
khởi nhân địa đều y viên chiếu thanh tịnh giác tướng, đoạn trừ vô minh
vĩnh viễn, mới thành phật đạo". Công phu tu ở trong nầy chính là viên
chiếu thanh tịnh giác tướng, nên có thể vô minh, ngã kiến một khi đã dứt
thì dứt vĩnh viễn, há chẳng vi diệu ư, há chẳng cần yếu ư? Từ xưa đến
nay đều đem khoa nầy cho là lý không, để xem qua thì lầm lớn, gấp rút
phải biết nó như thế. Lại chẳng thể chỉ biết mà thôi, thì cũng như vào
núi báu, tay không mà trở về, kíp phải y theo lý nầy khởi tu liền được
thụ dụng. Phải biết, chân tánh lâu rồi bị vô minh ngã kiến che lấp đi,
nếu không phá cái che lấp nầy thì làm sao có thể tháy tánh? Nếu chẳng
thấy tánh thì há có thể siêu phàm nhập thánh? Chẳng những thế, khai kinh
liền khiến phát đại nguyện, khởi đại hành là ý ở phá ngã. Thế nhưng ngã
kiến gốc rễ sâu, nếu tuyệt nhiên chẳng tức khắc từ trên cái phá ngã mà
dụng công thì đại nguyện đại hành cũng chưa ắt có thể phát khởi ra liền.
Xem kinh nầy lấy đại nguyện đại hành để khởi, lấy phá ngã kiến để kết,
đầu đuôi ứng với nhau, chính là chỉ thị con đường siêu phàm nhập thánh
từ đầu đến cuối hết thảy ở đó. Phải lĩnh hội như thế, hai phương diện
tiến đều.
Ngoài ra còn có yếu nghĩa chẳng thể không biết, vì chưng đây
là một khoa theo ngã kiến tỏ rõ cái ly cũng ly, tức là để hiển thị
nghĩa bất cấu bất tịnh (khoa đầu tỏ rõ bất sanh bất diệt, khoa thứ nhì
tỏ rõ bất tăng bất giảm, khoa nầy tỏ rõ bất cấu bất tịnh, hợp lại để tỏ
rõ chư pháp không tướng, nghĩa nầy cùng với Tâm Kinh giống nhau). Ngã
kiến là cấu, ly ngã kiến là tịnh. Nhưng nói cấu nói tịnh đều là tướng
đối đãi, mà cái tịnh của tự tánh thanh tịnh là tuyệt đối, tuyệt đối ấy
là cấu và tịnh đều không có. Cho nên ly ngã kiến thì cái ly cũng phải
ly, nếu tồn tại một cái năng ly sở ly thì vẫn là rơi vào trong tướng đối
đãi, mà chẳng phải là tánh tuyệt đối, thì ngã kiến rốt cuộc chưa sạch
hết. Thế nên khoa nầy dạy khiến phá ngã, chẳng thể làm theo chi tiết,
phải day về liền chỗ một niệm chẳng sanh mà khế nhập, thì cái cấu của
ngã kiến đã là giả danh mà vốn không, thế thì cái tịnh của ly ngã kiến
lại cũng viễn ly vậy. Vì cớ gì? Vì đã không có cấu thì làm gì có tịnh,
cấu tịnh đều ly là chân thanh tịnh.
Ba khoa ở dưới chư pháp
không tướng, khoa đầu là theo thân để tỏ rõ nghĩa, khoa thứ nhì là theo
thế giới để tỏ rõ nghĩa, khoa nầy là theo vọng tâm để tỏ rõ nghĩa. Ngã
kiến là vọng tâm, hợp ba khoa nầy chính là hiển thị nghĩa thân tâm thế
giới đều là huyễn hoá, hết thảy là không tướng, tánh tự nó bình đẳng.
Lại nữa, phàm phu chấp thân là ngã, chấp thế giới là ngã sở, ngã và ngã
sở đều khởi ở kiến. Cho nên thân và thế giới là sở chấp, kiến là năng
chấp, mà nghĩa của ba khoa là hiển rõ tướng của năng chấp sở chấp đều
không, luôn cả cái niệm năng không sở không cũng không, đây gọi là chư
pháp không tướng, lại cũng tức là phát huy nghĩa bất sanh pháp tướng,
pháp tướng vốn không. Nên khoa dưới liền lấy bất sanh pháp tướng v.v...
để kết thúc.
Ngàn muôn lời nói trọn bộ kinh đều là phá bốn
tướng ngã nhân v.v..., mà tướng nổi dậy ở kiến. Ðến đây thì thuyết minh
ngã kiến v.v... là duyên khởi giả danh, vốn nó tánh không, nghĩa nầy
chính sở dĩ tổng kết trọn bộ kinh. Vì chưng thuyết kinh nầy nguyên vì
phá ngã, nay đem phá ngã phát huy đến chỗ cứu cánh, tức là chỗ tổng kết
các nghĩa của trọn bộ kinh. Trên nói: bồ tát thông đạt vô ngã pháp, lại
nói: tri nhứt thiết pháp vô ngã đắc thành ư nhẫn, đến đây lại tận cùng
đến triệt để. Vì cớ gì? Vì day về chỗ bất sanh khế nhập thì ngã kiến vốn
không, há trước có cái ngã mà sau không có nó, lại há có cái nhẫn chỗ
thành ư? Bồ tát phải thông đạt triệt để như thế mới là cứu cánh vô ngã,
cứu cánh thành nhẫn. Nên khoa dưới lấy kẻ phát vô thượng bồ đề tâm ở hết
thảy pháp phải tri, kiến, tín, giải như thế, chẳng sanh pháp tướng,
pháp tướng vốn không để làm kết thúc. Bồ tát tức là kẻ phát vô thượng
tâm, thông đạt tức là tri, kiến, tín, giải, nghĩa nầy suốt thẳng đến đầu
cuốn kinh. Chỗ nói đầu cuốn kinh: "ưng như thị hàng phục kỳ tâm, đãn
ưng như sở giáo trụ" không có gì khác, chỉ khiến chứng hết thảy pháp
tướng vốn nó chẳng sanh mà thôi. Thế nên nghĩa của trọn bộ kinh kết thúc
không sót một chút nào, viên mãn không dư một chút nào.
Tu
Bồ Ðề ! Phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm giả, ư nhứt thiết pháp
ưng như thị tri, như thị kiến, như thị tín giải, bất sanh pháp tướng.
Dịch
nghĩa: Tu Bồ Ðề ơi, kẻ phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm ở hết
thảy pháp phải biết như thế, phải thấy như thế, phải tín giải như thế,
chẳng sanh pháp tướng.
Phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm
giả: chính cùng với câu chư bồ tát ma ha tát ở đầu cuốn kinh hô ứng
nhau, tức là bảo bồ tát phát đại tâm phải tri, kiến, tín, giải như thế.
Từ khai kinh đến nay chỗ thuyết phát quảng đại tâm, khởi quảng đại hành,
chẳng thủ tướng pháp và phi pháp, cho đến phát tâm chẳng trụ, thuyết
pháp chẳng trụ, đắc quả chẳng trụ, cái chẳng trụ cũng chẳng trụ, đều là
khiến tri, kiến, tín, giải của nó như thị, như thị. Vì chưng ắt phải
tri, kiến, tín, giải như thế mới là thông đạt vô ngã pháp, nên nói: "ưng
như thị tri, kiến, tín, giải". Nửa bộ sau từ khai chương đến nay chỉ
nói phát bồ đề, chẳng nói chữ tâm, sở dĩ khiển trừ nó chấp trước cái
kiến cho đây là bồ đề tâm, nếu chấp ở pháp liền rơi vào bốn tướng ngã
nhân v.v... liền chẳng phải bồ đề tâm, vậy nên phải khiển trừ. Ðến đây
thì chư pháp không tướng vậy, bồ đề tâm hiện ra vậy, nên chỗ nầy chẳng
nói phát bồ đề mà nói phát bồ đề tâm, ưng như thị tri, kiến, tín, giải,
bất sanh pháp tướng v.v... chính sở dĩ hiển thị phát bồ đề tâm ắt phải
như thị, như thị mới là bồ đề tâm, tức là để kết thúc ý phía trước khiển
đãng bất trụ phát tâm, ở chỗ khiến mở tri kiến như thị, khởi tín giải
như thị, chẳng sanh ra pháp tướng vậy thôi, há khiến chẳng phát bồ đề
tâm ư? Ðược một câu kết nầy, những chỗ nói phía trước nghĩa sâu kín đều
tuyên bố ra hết, khí mạch đều quán thông, tinh thần cực viên mãn, đem
văn tự ra mà bàn cũng hết sức là thần diệu. Nhứt thiết pháp là trỏ chung
cảnh, hành, quả thế gian, xuất thế gian mà nói. Gồm hết chỗ phía trên
nói: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thân tướng, 32 tướng, cho đến
cảnh của thế giới vi trần, đại nguyện, đại hành của bố thí, trì giới
v.v... để độ rộng chúng sanh, trang nghiêm Phật độ, cho đến thực hành ly
tướng ly niệm, ly ngã kiến, sanh thực tín, sanh thực tướng, thành tựu
đệ nhứt hi hữu, tối thượng đệ nhứt hi hữu, cho đến đắc phước đức, đắc
công đức, đắc thành nhẫn, danh tu đà hoàn, cho đến danh bồ tát, danh chư
phật, danh quả a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, hết thảy đều bao gồm đem
ra nói ở trong nầy. Hai chữ như thị tức là trỏ bao nhiêu thứ nghĩa nói ở
phía trên. Các nghĩa trên chẳng ngoài duyên sanh tánh không, mà trong
một khoa lớn sau chót, đầu tiên là một khoa tỏ rõ bình đẳng pháp giới
hiển thành pháp vô ngã, sở dĩ xét đến cùng cực nghĩa duyên sanh chẳng
ngại tánh không. Duyên sanh chẳng ngại tánh không, cho nên tức chư pháp
mà không tướng. Do đây mà xem ý vị hai chữ "như thị" tức là hiển chư
pháp nhứt như, hết thảy đều thị. Vì nó đều thị, nhứt như, cho nên kẻ
tri, kiến, tín, giải như thị chẳng sanh pháp tướng. Nếu chẳng thế thì
pháp tướng còn chẳng đoạn diệt, sao nói là chẳng sanh ư? Có thể nói cái
gọi là chẳng sanh chính từ cái như thị mà ra, mà không phải lấy rốt ráo
chẳng sanh là chẳng sanh vậy. Nên văn dưới liền lấy tức phi pháp tướng,
thị danh pháp tướng để biểu thị nó. Phải như thị tri, như thị kiến, như
thị tín, giải vậy. Ðây gọi là vô thượng giác tâm. Phải nên tham thấu kỹ
lưỡng. Nghĩa của ba chữ tri, kiến, giải nguyên không có khác nhiều,
nhưng ba chữ nói liên tiếp là ý mỗi chữ có chỗ trỏ, khác nhau rất xa,
chẳng thể xem một cách sống sượng. Trong kinh phật, loại câu nầy rất
nhiều, đều phải phân biện ý vị của nó như thế để biết chỗ nó trỏ. Cho
nên chẳng thể nào không cầu hiểu rõ, mà sơ sót bỏ qua đi, rất đỗi cho là
lời nói trùng điệp thì lại là lầm lớn. Thế thì ba chữ nầy trỏ cái gì?
Ngài Gia Tường bảo: tri là thế đế trí, kiến là đệ nhứt nghĩa đế trí.
Ngài Ðạt Thiên bảo: tri là tỷ lượng, kiến là hiện lượng. Nay bảo nên y
theo luận của ngài Vô Trước. Luận nầy nói: "Trí nương ngừng ở xa-ma-tha
cho nên tri, nương ngừng ở tỳ-bát-xa-na cho nên kiến, hai cái nầy nương
ngừng ở tam-ma-đề cho nên giải". Nghĩa nầy là tỏ rõ ba cái đều là trí,
nhưng vì nương ngừng phương tiện khác nhau nên lập ra ba danh từ.
Xa-ma-tha nghĩa là chỉ, chỉ tức là định. Trí từ định sanh gọi là tri.
Xem đây thì tri là chân đế trí. Ðịnh thì vạn duyên đều ngừng nghỉ, rõ rõ
chứng tri, nên gọi là tri. Chỗ nầy cùng với nghĩa tâm tam tế chẳng thể
đắc, chư pháp duyên sanh tánh không, khai phật tri kiến nói ở phía trước
kinh nầy hợp nhau. Vì chưng tri là theo bên nội-chứng mà nói .
Tỳ-bát-xa-na là Quán, quán tức là tuệ. Trí từ tuệ ra gọi là kiến. Xem
đây thì kiến là tục đế trí. Tuệ thì sự tướng sai biệt không cái nào là
chẳng thấy suốt, cho nên nói là kiến. Ðây cùng với nghĩa ngũ nhãn, thị
sa, chẳng chấp nhứt dị, khai phật tri kiến nói phía trong kinh nầy chính
giống nhau, vì chưng kiến là theo bên ngoại-chiếu mà nói. Tam-ma-đề là
đẳng-trì có nghĩa là định tuệ đồng đều, định tuệ đồng đều gọi đó là
giải, có thể thấy giải là do định tuệ mà ra, cũng là danh xưng của tri
và kiến gồm lại. Ðây cùng với lời nói: "thâm giải nghĩa thú" nghĩa giống
nhau. Trưởng lão vốn đắc vô tránh tam muội, định lực đã đầy đủ, nhưng
tuệ chưa đồng đều, kịp nghe thậm thâm bát nhã, trí tuệ tăng lên, nên có
thể thâm giải. Trưởng lão thế lệ bi khấp chính tự thẹn mình từ xưa đến
nay định nhiều, tuệ ít, nay may mắn nghe được kinh sâu mà được định tuệ
đồng đều, cho nên cực cảm động mà khóc. Ðã nói giải lại nói tín là vì cớ
gì? Phải biết tín là cửa nhập đạo, mẹ của công đức. Tín là ý khế hợp,
vì nó khế hợp như thị, nên có thể tri như thị, kiến như thị Giải là danh
từ gồm cả tri và kiến, nên nói: "như thị tín giải". Vì nó ở lý nhứt
như, đều thị khế hợp không còn xen cách, định tuệ đồng đều, cho nên có
thể chẳng sanh pháp tướng. (Câu như thị tri là tỏ rõ định lực của nó,
câu như thị kiến là tỏ rõ tuệ lực của nó, câu như thị tín giải là tỏ rõ
định tuệ lực đồng đều của nó. Chữ tín thông suốt ba câu, là công hiệu do
ba câu trên sanh ra). Vì cớ gì? Vì có định có tuệ, khế hợp nhứt như thì
có thể thấy nó ở các tướng ngôn thuyết, danh tự, tâm duyên, hết thảy
đều ly. Các tướng đều ly liền dẫn sanh ra căn bổn chánh trí, tức là vô
phân biệt trí. Trí không phân biệt tức là một niệm chẳng sanh, một niệm
chẳng sanh gọi là bất sanh pháp tướng vậy. Tóm lại, tri, kiến, tín, giải
là phương tiện phía trước của bất sanh, phương tiện tu đầy đủ liền
chứng vốn bất sanh. Công hành của nó trọn vẹn ở trên tri, kiến, tín,
giải, còn bất sanh là công hiệu của nó. Trên cái vốn bất sanh cũng trước
chẳng được, vì nếu trước ở bất sanh tức là sanh.
Tu Bồ Ðề ! Sở ngôn pháp tướng giả, như lai thuyết tức phi pháp tướng, thị danh pháp tướng.
Dịch nghĩa: Tu Bồ Ðề ơi, chỗ nói pháp tướng là, như lai nói tức chẳng phải pháp tướng, nên gọi tên là pháp tướng.
Hết
thảy pháp tướng đều là giả danh, vốn nó tức phi, vì chưng sanh tức là
vô sanh. Ðây là tỏ rõ cái sở dĩ nhiên bất sanh pháp tướng nói trên. Phải
biết, chỗ bảo là bất sanh pháp tướng, chẳng phải là có pháp tướng mà
chẳng sanh, mà cũng chẳng phải rốt ráo không có pháp tướng, ấy là hết
thảy pháp tướng vốn là duyên danh, pháp của duyên sanh đương thể tức
không, chỗ gọi là chẳng phải làm ra cho nên không, mà vì bổn tánh nó là
không. Ðã bổn tánh nó không thì cái chẳng sanh cũng mất. Vì cớ gì? Vì
sanh tức là vô sanh mới là nghĩa chân bất sanh. Nếu chẳng hiểu rõ nó hữu
tức là không, mà chú ý ở cái bất sanh thì chính lại là sanh, còn sao
nói được là bất sanh ư? Nên hết thảy kẻ phát tâm phải ở trên nhứt như,
dai thị, tri, kiến, tín, giải, đây chính là hàng phục, đây tức là vô
trụ. Quả nhiên có thể tri, kiến, tín, giải như thị như thị, thì tuy pháp
tướng phừng lên, mà ban đầu sao có sanh? Vì cớ bổn tánh chẳng sanh, thì
chẳng hàng phục mà hàng phục, không trụ mà trụ, chứng nhập chân thực
tánh vô tướng, vô bất tướng. Lại nữa, sanh tức vô sanh, thì diệt tức vô
diệt, có thể thấy nói sanh diệt, nói bất sanh bất diệt còn là đối đãi mà
nói, thực ra ngay lúc sanh diệt chẳng ngừng vốn nó bất sanh bất diệt.
Chẳng những sanh diệt chẳng thể nói, ngay đến bất sanh bất diệt cũng
chẳng thể nói, phải hết lòng quán nghĩa nầy. Nói như lai thuyết, như lai
là pháp thân, pháp thân tức là thực tướng, nên theo như lai mà thuyết
tức phi pháp tướng, thị danh pháp tướng để hiển nghĩa vô tướng vô bất
tướng. Tóm lại, khoa nầy là tỏ rõ tức pháp tướng mà vô pháp tướng, tức
sanh mà vô sanh, chẳng phải là lấy bất sanh làm bất sanh. Nghĩa nầy là
tỏ rõ chẳng những niệm của sanh không có, ngay cả niệm của bất sanh cũng
không có, chính là vì một niệm bất sanh mà vẽ ra. Vì vốn bất sanh mà vẽ
ra, là vì bất thủ ư tướng như như bất động ở văn dưới mà vẽ ra vậy. Như
như bất động là tên khác của sanh tức vô sanh. Lại nữa, khoa nầy chính
là kết hiển nghĩa ưng như thị trụ, ưng như thị hàng phục ở đầu cuốn
kinh, chẳng phải chỉ kết một khoa nầy, nghĩa thú trọn bộ kinh đến đây đã
bao gồm nói ra không sót, đầu đuôi hoàn thành vậy.
Một khoa
kết thành nầy, như: vô sở tùng lai diệc vô sở khứ là bất sanh pháp
tướng, nhứt hợp tướng bất khả thuyết là bất sanh pháp tướng, ngã kiến
tức phi mà thị danh là bất sanh pháp tướng. Vì chưng khiến tức lai khứ
mà vô lai khứ, tức nhứt hợp mà vô nhứt hợp, tức ngã kiến mà vô ngã kiến.
Vì cớ gì? Vì day về ngay trên tâm nguyên chưa khởi niệm mà giác chiếu,
mà khế nhập vốn vô sanh. Ðến như chỗ thuyết ở đầu cuốn kinh, độ mà không
có tướng độ, cho đến tâm như hư không v.v... chẳng phải là bất sanh
pháp tướng ư? Trong phát khởi tự chỗ tỏ rõ thế tôn chẳng giống phàm phu,
49 năm hành đạo mà như vô sự, chẳng phải là bất sanh pháp tướng ư? Các
thuyết khác đều có thể dùng nghĩa nầy thông suốt nó, chỗ bảo là: "ưng
như thị tri, như thị kiến, như thị tín giải" vậy. Tóm lại ngàn muôn lời
nói đều là vì khiến tức chư tướng mà vô tướng, để chứng sanh tức vô sanh
mà thôi. Nên nói nghĩa thú trọn bộ kinh nầy bao gồm nói ra không sót,
đầu đuôi hoàn thành. Từ trên đến đây phần chính tông đã xong.
LƯU THÔNG PHẬN
Sự phán biệt phần lưu thông, chỗ thấy của cổ nhân mỗi người khác
nhau, ngài Trí Giả đem một khoa hết thành phía trên gồm chung phán vào
phần lưu thông, ngài Ngẫu Ích theo đó mà gọi khoa trước là phó-chúc
lưu-thông, gọi khoa nầy là hiệu-lượng lưu-thông, dưới câu "vân hà diễn
thuyết" là lưu thông phương pháp, dưới câu "phật thuyết thị kinh dĩ" là
lưu thông tướng mạo. Ngài Gia Tường chỉ phán từ dưới câu "phật thuyết
thị dinh dĩ" là lưu thông. Ngài Tuệ Tịnh, Khuê Phong và ngài Ðạt Thiên
đời nhà Thanh đều theo đó, ngài Khuy Cơ cũng phán gần giống như thế,
nhưng không dùng chữ tự, chính lưu thông mà lập ra danh từ khác để gọi.
Chỉ có đầu đời Thanh ngài Phổ Uyển thì lại khác, ngài làm cuốn Tâm ấn
Sớ. Sớ nầy ở nghĩa thị danh phần nhiều cho là thực danh vì ngài theo tam
đế để nói, riêng ngài có một kiến thức siêu thắng, chẳng bị thuyết khác
che lấp đi, tức là từ bắt đầu khoa nầy phán làm phần lưu thông. Tại sao
nói là siêu thắng. Kinh nói: "Vân hà vị nhân diễn thuyết", câu nầy đã
rõ ràng yết thị phương pháp hoằng dương kinh nầy, phán làm phần lưu
thông vừa hay hợp với tôn chỉ kinh, cho nên tôi theo thuyết nầy.
Tu Bồ Ðề ! Nhược hữu nhân dĩ mãn vô lượng a tăng kỳ thế giới thất bảo trì dụng bố thí.
Dịch nghĩa: Tu Bồ Ðề ơi, nếu có người lấy thất bảo đầy vô lượng a tăng kỳ thế giới cầm để dùng bố thí.
A
tăng kỳ có nghĩa là vô số, nay chẳng những là vô số mà là vô lượng cái
vô số, lấy đầy rẫy vô lượng vô số thế giới thất bảo bố thí, phước đức
của người nầy thắng có thể biết được. Dẫn cái tài thí nầy sở dĩ hiển văn
dưới phước của pháp thí lại càng thắng. Hai chữ trì dụng, dùng ở chỗ
nầy chẳng hiềm nó là thừa, là tại sao? Vì ý ở dẫn khởi văn dưới chữ trì ư
thử kinh, ý tỏ rõ tuy làm bố thí giống nhau, mà phước đức chẳng giống
nhau, vì cái nó cầm để làm sự bố thí không giống nhau. Một đằng thì cầm
tài bảo, một đằng thì cầm pháp bảo. Cầm vô lượng vô số thế giới tài bảo
chẳng bằng cầm một cuốn kinh, cho đến bốn câu kệ, là vì tài thí chỉ cứu
thân mạng con người, còn pháp thí có thể cứu tuệ mạng con người. Pháp
thí cứu người là cái triệt để, nhưng chẳng phải bảo là tài thí có thể
phế bỏ. Chính là tỏ rõ tài bảo như huyễn như hoá, mà phàm phu tham trước
việc đó. Biết đâu rằng tham dục thì vô cùng, mà tài bảo thì có lúc hết.
Nếu hiểu rõ phật pháp thì biết sự việc ở thế gian đều như mộng huyễn,
kẻ được tài thì ngõ hầu trừ khổ, còn kẻ làm sự tài thí thì phước đức
cũng tăng thêm mà thôi. Vả chăng trong hết thảy pháp hữu vi, rất khó xem
phá được là tài bảo nên dẫn tài bảo ra để nói. Phàm hết thảy chỗ đem
tài thí ra để so sánh cái thắng hơn, ý đều giống như ở đây. Phải lĩnh
hội như thế.
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân,
phát bồ tát tâm giả, trừ ư thử kinh, nãi chí tứ cú kệ đẳng thụ trì độc
tụng, vị nhân diễn thuyết, kỳ phước thắng bỉ.
Dịch
nghĩa: Nếu có trai lành gái lành phát tâm bồ tát, thụ trì ở kinh nầy cho
đến những tứ cú kệ, thụ trì đọc tụng, vì người khác diễn thuyết, thì
phước của người nầy thắng kẻ kia.
Bản xưa, và Ðại Tạng Kinh đời
Tống đều chép là phát bồ tát tâm giả, bản lưu thông chữ bồ tát chép ra
bồ đề, phải nên theo bản xưa. Vì cớ gì? Vì kinh nói: Chưa có thể độ
mình, trước muốn độ tha, bồ tát phát tâm như thế. Chỗ gọi là lưu thông,
chú trọng ở pháp thí lợi chúng, nên nói bồ tát phát tâm để hiển ý của
lưu thông. Phải biết, chữ "bồ đề tâm" bao gồm nghĩa rất rộng, chẳng
những là một việc pháp thí. Ở đây vì sẽ chỉ thị phương pháp lưu thông,
cho nên riêng đem phát bồ tát tâm ra để nói, cùng với câu "vân hà vị
nhân diễn thuyết" ở dưới hô ứng nhau, Chữ "đẳng" trong câu tứ cú kệ bằng
với nửa câu kệ hay một câu kệ. Bốn câu là một kệ, hai câu là nửa câu
kệ, trong kinh thường nói: nửa câu kệ liền có thể chứng đạo. Như văn
dưới chỗ nói nửa câu kệ: "bất thủ ư tướng, như như bất động." Nếu có thể
tín thụ phụng hành thì đi thẳng tới bảo sở, huống chi trọn bài kệ,
huống chi trọn bộ kinh.
Chữ "trì" trong câu trì ư thử kinh
nghĩa là cầm lấy, cùng với chữ "thụ trì" ở dưới nghĩa khác nhau. Câu thụ
trì là tự lợi, câu diễn thuyết là lợi tha. Như pháp thụ trì thì có thể
ngộ nhập vô sanh, bố thí chẳng trụ tướng phước của nó liền đã thắng kẻ
kia, huống chi lại vì người khác diễn thuyết kinh nầy để hành pháp thí
chẳng trụ tướng ư? Vì chưng kinh nầy mở đầu liền thuyết độ vô biên chúng
sanh vào vô dư niết bàn. Nay vì người khác diễn thuyết kinh nầy tức là
lấy pháp vô dư niết bàn bố thí, há bố thí thất bảo của kẻ kia chỗ có thể
bằng được. Mở đầu lại nói bố thí chẳng trụ tướng, thì kẻ nghe thuyết
bất trụ tướng nầy, sự bố thí của người nầy há chỉ lấy đầy vô lượng số
thế giới thất bảo bố thí mà thôi ư? Tóm lại, hoằng dương kinh nầy tức là
thiệu long phật chủng, chúng sanh được ích chẳng thể nghĩ bàn, phước
của người nầy thắng kẻ tài thí kia lại còn đợi gì nói nữa. Tôn chỉ kinh
chú trọng ở lưu thông vô lượng pháp bảo, nên văn dưới chuyên theo diễn
thuyết để nói, vả chăng tỏ rõ được làm sao diễn thuyết thì tự hiểu rõ
được làm sao thụ trì, nói một bên tức là nhiếp hai bên.
Vân Hà vị nhân diễn thuyết? Bất thủ ư tướng, như như bất động.
Dịch nghĩa: Làm sao vì người khác diễn thuyết? Chẳng thủ ở tướng, như như chẳng động.
Vân
Hà vị nhân diễn thuyết: là lời hỏi. Trong nầy bao gồm có hai nghĩa: một
là hỏi người diễn thuyết phải như thế nào, một là hỏi diễn thuyết nghĩa
của kinh phải như thế nào? Hai câu bất thủ ư tướng, như như bất động
chính là khai thị hai nghĩa đó, qui tắc phải nên giữ theo. Ðem kẻ thuyết
ra nói: phải ở trong tướng của năng thuyết, sở thuyết và kẻ nghe thuyết
đều chẳng thủ trước, chỗ bảo là lấy tâm bất sanh diệt thuyết thực tướng
pháp là vậy. Kinh nầy chính là thực tướng pháp, nên kẻ thuyết phải lấy
tâm bất sanh diệt thuyết nó. Tâm bất sanh diệt tức là bổn tánh, chỗ gọi
là như như bất động là vậy. Ý bảo: người diễn thuyết thậm thâm bát nhã
phải nên tam luân thể không. Vả lại nên xứng tánh mà thuyết, trỏ thẳng
tâm nguyên mới có thể khiến kẻ nghe tức văn tự bát nhã, khởi quán chiếu
bát nhã, ngộ thực tướng bát nhã. Dưới câu nói bao gồm có ý đã chẳng thể
nói bậy lại chẳng thể nói nông cạn. Ðem diễn thuyết kinh nầy ra mà nói,
nghĩa thú của kinh nầy rất sâu rất rộng, trước đã nói: hết thảy chư phật
từ kinh nầy ra, thế thì chỗ thuyết trong kinh đều là pháp thành phật,
nó sâu có thể biết được. Lại nói: chư phật a nậu đa la tam miệu tam bồ
đề pháp đều từ kinh nầy ra, thế thì chỗ thuyết trong kinh, hết thảy phật
pháp đều chẳng ngoài cuốn kinh nầy, nó rộng có thể biết được. Vậy thì
muốn vì người khác diễn thuyết nếu không được phương pháp nắm chỗ cần
yếu, thì nếu chẳng phải nói lớn ra quá đáng, thì cũng tản mác mà không
chỗ qui kết, kẻ nghe khó được lợi ích của pháp. Cho nên bày tỏ chỗ cần
yếu của nghĩa kinh tức là hai câu một kệ ở dưới. Có thể thấy hai câu một
kệ nầy là yếu chỉ của kinh nầy, lại cũng tức là yếu chỉ của hết thảy
phật pháp. Chỗ nói về tánh tu, lý sự trong ngàn kinh muôn luận, hai câu
một kệ nầy bao quát hết thảy. Lại có chỗ tiến lên, ấy là trên bề mặt thì
khai thị làm thế nào diễn thuyết, mà ở phía trong thì lại là khai thị
làm thế nào thụ trì. Tại sao nói thế? Vì chưng diễn thuyết như thế, ắt
trước có thể thụ trì như thế, nếu chẳng như thế thì há có thể diễn
thuyết ư? Vả chăng vì người khác diễn thuyết, chính là muốn cho người
khác thụ trì như thế. Phải lĩnh hội như thế. Do đây mà xem hai câu kinh
văn: "bất thủ ư tướng như như bất động", nghĩa-uẩn của nó sâu rộng, thật
rõ ràng. Nay sẽ theo từng tầng một giải thích nó.
Trước hết
phải biết hai câu nầy là lời nói qui kết của trọn bộ kinh, cũng là lời
nói phát minh của trọn bộ kinh. Sao gọi là qui kết? Một bộ kinh nầy chỗ
thuyết từ đầu đến cuối đều là nghĩa BẤT THỦ, ngó xem liền biết, không
còn đợi trưng dẫn ra nữa, mà dẫn ra cũng không xiết. Ðến như những câu:
"chư pháp như nghĩa, vô thực vô hư, nhất thiết pháp dai thị phật pháp,
thị pháp bình đẳng" đều là nghĩa NHƯ NHƯ. "Vô sở tùng lai diệc vô sở
khứ" là nghĩa BẤT ÐỘNG. Nay chẳng qua lấy hai câu nầy kết thúc nghĩa của
trọn bộ kinh vậy thôi, đây gọi là lời nói qui kết. Thế thì làm sao lại
gọi là lời nói phát minh ư? Vì chỗ thuyết của trọn bộ kinh tuy đều là
nghĩa nầy, nhưng thấy tản mác ra, nếu người học chưa thể dung hội quán
thông thì không biết đâu là bờ bến, chẳng biết từ chỗ nào mà vào. Cho
nên phát minh ra rằng: yếu điểm của trọn bộ kinh, chẳng ngoài tám chữ:
"bất thủ ư tướng, như như bất động". Người học phải theo đây mà vào, thì
sau kẻ nghe đều có thể nắm chỗ yếu, chẳng đến nỗi dòm trước ngó sau,
phiếm lạm không có chỗ qui kết. Ðây gọi là lời nói phát minh.
Thứ
nhì phải biết, hai câu nầy đều là thuyết công phu tu, cũng đều là
thuyết hiệu quả của tu, vì chưng ắt có thể bất thủ thì mới có thể bất
động. Nhưng cũng ắt có thể quán cái bất động bèn mới có thể bất thủ, chỗ
bảo là làm nhân quả lẫn nhau là vậy. Nếu chỉ nhận bất thủ là công phu
tu, thì nghĩa của kinh nghiêng về một bên, mà chẳng trọn vẹn. Nay y theo
kinh văn lần lượt nói. Chỗ gọi là tướng, ấy là tướng gì? Trong kinh
thuyết tướng rất nhiều, nào tướng lục trần sắc thanh v.v..., tướng lục
độ bố thí v.v..., thân tướng, phật độ tướng, trang nghiêm tướng, phước
đức tướng, chúng sanh tướng, độ chúng sanh tướng, bồ đề tướng, phát tâm
tướng, thượng cầu tướng, hạ hóa tướng, nhân tướng, quả tướng v.v... trải
qua con số khó kể hết. Tóm lại phàm thuyết một pháp ắt có tướng của nó.
Nay khái quát nó mà nói: "phàm chỗ có tướng hết thảy bất thủ". Phải
biết, nói một chữ tướng, thì pháp và phi pháp đều thu nhiếp ở trong đó,
nên lời nói bất thủ tướng liền thông suốt với bất đoạn diệt tướng. Vì cớ
gì? Vì đoạn diệt là không tướng, cũng là chỗ bất thủ. Phải lĩnh hội như
thế. Chỗ bảo từ một phương diện nầy liền phải thấy đến một phương diện
kia, phàm đọc kinh phật cần nhứt phải biết lý nầy. Câu bất thủ ư tướng
nầy nếu chẳng lĩnh hội như thế, liền cùng với câu như như bất động ở văn
dưới chẳng ứng với nhau. Vì cớ gì? Vì hai bên không và hữu, có một chút
nghiêng về bên nào liền chẳng phải là như như bất động. Tại sao như
thế? Vì nghiêng thì có thủ, thủ thì đã bị nó động rồi vậy. Tóm lại chẳng
kể thủ cái gì, thủ thì tâm động, thủ thì trước tướng, mà chẳng phải là
tánh như như. Kinh Viên Giác nói: "bao nhiêu thứ thủ, xả đều là luân
hồi", luân hồi là tâm sanh diệt. Nếu có chỗ thủ, ắt có chỗ xả, vì cớ gì
thủ, xả? Do ở phân biệt chấp trước, phân biệt chấp trước tức là tâm sanh
diệt, nên nói bao nhiêu thứ thủ xả đều là luân hồi, cũng như nói bao
nhiêu thứ thủ, xả là do có tâm sanh diệt phân biệt chấp trước. Thế thì
nếu có thể bất thủ thì ngay lúc đó liền ly tâm sanh diệt, thế thì ngay
lúc đó liền thấy tánh bất sanh bất diệt, nên nói bất thủ ư tướng, như
như bất động. Như như bất động là tánh bất sanh bất diệt. Bất thủ là
chân thuyên của vô trụ, vô trụ là chân-thuyên của bất động. Vì cớ gì? Vì
nếu tâm có trụ tức là phi trụ. Lời nói phi trụ chính tỏ rõ là nó động.
Nếu tâm có trụ tức là phi trụ cũng như nói có thủ tức là tâm động, nên
tâm ắt không thủ một cái gì mà sau mới không một chỗ nào động. Như như
là tên khác của chân như, đều tức là bổn tánh. Nhưng lập nên hai danh
từ, vì chân như là trỏ tánh vốn đầy đủ mà nói, như như là trỏ chứng đắc
bổn tánh mà nói. Vì chưng lúc chứng tánh thì ngoài trí ra không có lý,
ngoài lý ra không có trí, trí và lý ám hợp gọi đó là trí như, lý như,
nên nói là như như. Nghĩa của như như là tỏ rõ năng sở hai cái đều mất,
vì nó không có năng chứng, không có sở chứng, thoát xa căn trần, linh
quang một mình rực rỡ, thế nên nó tịch chiếu đồng thời. Vì có lúc tịch
mà chiếu, lúc chiếu mà tịch, thế nên vô tướng vô bất tướng. Vì nó đều
không có tướng bất tướng vậy nên bất sanh bất diệt, vì nó bất sanh bất
diệt vậy nên như như bất động. Nay đã chẳng thủ tướng sanh diệt, vậy nên
tánh bất sanh bất diệt như như hiện ra, cho nên nói: bất thủ ư tướng,
như như bất động.
Kinh Viên Giác lại nói: "Hết thảy chúng sanh
vô thủy huyễn vô minh đều từ chư như lai viên giác tâm mà lập lên, cũng
như hư không hoa nương theo không mà có tướng, không hoa nếu lại diệt
mất thì hư không vốn chẳng động". Chữ chư như lai viên giác tâm là nói
bổn tánh phật và chúng sanh cùng đầy đủ, ở trên phần của chúng sanh gọi
là như lai tạng là vậy. Vì chưng câu nầy là theo thánh và phàm nói
chung, chẳng phải chỉ nói riêng phía bên phật. Cũng như hư không hoa,
nương theo không mà có tướng là thí dụ chúng sanh từ vô thủy đến nay vì
cớ bất giác, nương theo tánh bổn lai không tịch mà huyễn thành tướng vô
minh. Do đây có thể biết vô minh chẳng qua là huyễn tướng duyên khởi
trong bổn tánh, cũng như đốm hoa trong khoảng không. Trong khoảng không
vốn không có đốm hoa, thì trong tánh vốn không có vô minh, thật là rõ
ràng. Không hoa nếu lại diệt mất thì hư không vốn chẳng động là thí dụ
vô minh nếu diệt mất thì tánh vốn chẳng động. Vốn chẳng động có nghĩa là
đương lúc nó hiện ra có vô minh thì tánh nầy nguyên chưa từng động.
Phải biết, tầm thường chỗ nói là tâm động ấy là vô minh động vậy. Do đây
lại có thể hiểu rõ lý: chỉ có thể bất thủ ư tướng, thì bổn tánh như như
bất động ngay lúc đó liền hiện ra. Lại có thể biết thủ xả chính do vô
minh, mà vô minh vốn là huyễn tướng. Thế thì bất thủ ư tướng ngay lúc đó
liền như như bất động là vì không có thủ xả, vô minh đã khiển trừ vậy.
Vậy nên người học phải ở trên bất thủ, tức là vô trụ mà thống thiết dụng
công, nếu chẳng thế thì tuy muốn bất thủ cũng chẳng thể được.
Hai
chữ như như, có chỗ giải thích chữ như trên là giống như, là xứng với,
chữ như dưới là chân như, có nghĩa là bất thủ ư tướng thì mới cùng với
chân như bổn tánh xứng với nhau, giống nhau, mà tâm chẳng động. Lời giải
thích nầy không ổn thoả. Trong Ðại Thừa Nghĩa Chương nói rõ như như
cũng là chân như, vả danh từ như như trong kinh đại thừa thường thường
thấy nó, phần nhiều trỏ cảnh giới phật mà nói, sao có thể nói là xứng
với, giống nhau ư? Ngay muốn chia ra để giải thích thì chữ như trên có
thể giải thích là khế hợp, khế hợp chân như, tức là trí và lý hợp nhau.
Phải biết, nói giống nhau, nói xứng với nhau thì vẫn là thể chỉ là thể,
trí chỉ là trí, tướng của năng sở nghiễm nhiên, sao nói là bất thủ ư
tướng ư? Nên sự giải thích trên mới vừa xem chỉ thấy nó nông cạn, xem
xét kỹ thì rất không thích hợp, nên nói là không ổn thoả. Phật nói: "ly
huyễn tức giác", chữ giác tức là trỏ tánh như như bất động, chữ tức có
nghĩa là ngay lúc đó. Có thể thấy chỉ sợ chẳng thể bất thủ thôi, quả
nhiên có thể bất thủ thì ngay lúc đó hiện thành. Nay giải thích bất thủ ư
tướng nghĩa là cùng với tánh giống nhau, hiển nhiên trái với lời phật
nói.
Hồi nãy nói người học phải ở hai chữ "bất thủ" thống thiết
dụng công. Thế thì làm sao mới có thể bất thủ? Chỗ nầy nhứt định chẳng
thể sơ sót bỏ qua, phải nghiên cứu cho kỹ. Phải biết, bất thủ tướng tức
là ly tướng. Kinh Viên Giác nói: "Hết thảy bồ tát và chúng sanh đời mạt
thế phải nên lìa xa hết thảy cảnh giới huyễn hóa hư vọng. Do chấp trì
vững chắc tâm lìa xa, cho nên tâm hư huyễn cũng lại lìa xa, lìa xa là
huyễn lại cũng lìa xa, lìa xa cái lìa xa huyễn lại cũng lìa xa, được
không chỗ lìa liền trừ chư huyễn". Xét kỹ nghĩa đoạn kinh nầy, có thể
thấy công phu ly tướng toàn ở chấp trì vững chắc. Chấp trì vững chắc tức
là cưỡng chế, công phu nầy thiệt chẳng thể thiếu. Nếu chẳng thế thì từ
vô thủy đến nay thói quen thủ tướng sao có thể trừ được? Thế nhưng lại
phải xét kỹ làm sao mới có thể chấp trì vững chắc cái bất thủ ư? Muốn
biết làm sao mới có thể chấp trì vững chắc cái bất thủ, trước phải biết
chúng sanh vì sao cho nên thủ? Không gì khác, vì do có tâm phân biệt
chấp trước bốn tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả mà thôi. Liền lại
phải biết cái tướng của bốn tướng nầy thực chẳng phải ngoài một cái ngã
tướng. Mà gốc của ngã tướng là sanh ra ở ngã kiến. Càng phải xét kỹ,
chấp trì vững chắc cái bất thủ đã đành là đủ để khiển trừ ngã kiến,
nhưng chỉ có thể hàng phục, chẳng thể dứt. Vì cớ gì? Vì vô minh chưa
phá. Vả chăng vì vô minh ngã kiến chưa dứt, cũng đủ để phá hoại sự chấp
trì vững chắc của nói, thế thì nếu chẳng ở trên cái lìa vô minh, ngã
kiến mà dụng công thì chẳng thể được. Làm sao có thể lìa ư? Trước đã dẫn
kinh Viên Giác rằng: "biết huyễn liền ly, chẳng làm phương tiện" là
vậy. Ðây là nói hai chữ "biết huyễn" ấy là phương tiện rất diệu để lìa
vô minh, chẳng cần tìm phương tiện nào khác. Thế thì làm sao có thể biết
nó là huyễn ư? Kinh Lăng Nghiêm khai thị rất rõ, kinh nói: "Như lai bổn
khởi nhân địa, tối sơ phát tâm trước lấy trụ tâm chính niệm chân như,
mới có thể viễn ly chư huyễn". Chính niệm tức là giác chiếu, có nghĩa là
phải giác chiếu thẳng ngay chân như bổn tánh mới có thể biết là nó
huyễn. Do đây có thể thấy ắt phải trước ngộ bổn tánh như như bất động
mới có thể bất thủ ư tướng. Ðây tức là chỗ nói hai câu kinh văn bất thủ ư
tướng, như như bất động ở phía trước làm nhân quả lẫn nhau, phải dụng
công giao xen lẫn nhau, chẳng có thể nhận câu bất thủ là công phu tu,
câu như như là hiệu quả. Nói một cách khác, chẳng những chỉ phải day về
trên bất thủ chấp trì vững chắc, lại phải day về trên như như giác
chiếu. Vả chăng giác chiếu là phương tiện trước tiên của chấp trì vững
chắc, tức là muốn nắm vững chắc cái bất thủ ắt phải trước tu giác chiếu.
Nếu không thế thì vô minh chưa dứt, há có thể nắm vững? Vậy nên kinh
Viên Giác nói: "Hết thảy bồ tát và chúng sanh đời mạt thế trước dứt vô
thủy luân hồi căn bản". Luân hồi căn bản tức là vô minh ngã kiến. Thế
thì làm sao dứt? Trước đã dẫn kinh Viên Giác rằng: "Hết thảy như lai bổn
khởi nhân địa đều y viên chiếu thanh tịnh giác tướng, vĩnh viễn dứt vô
minh, mới thành phật đạo", đây cùng với chỗ dẫn trong kinh Lăng Nghiêm:
"trước lấy trực tâm chính niệm chân như" nghĩa của nó giống nhau. Thí dụ
như bạn xấu, ban đầu vì không biết nhận lầm nó là bạn tâm phúc, nay
biết nó xấu, muốn tuyệt giao với nó, nhưng vì liên hệ đã lâu chưa thể
dứt ngay được, ắt phải trước lánh xa nó mà sau mới có thể dứt tuyệt. Ðây
cũng như thế, từ vô thủy đến nay nhận lầm vô minh huyễn thức làm chân
tâm, liên hệ mật thiết đã lâu rồi. Nay đã lật ngược lại, đại giác ngộ đó
là chẳng phải, nếu không mau mau quay đầu trở lại nhận cho đúng tự tánh
thanh tịnh, tiếp gần ngay với nó, thì vẫn là cùng với vô minh lẫn lộn ở
một chỗ, nên viên chiếu giác tướng tức là trực tâm chính niệm chân như,
tức là cùng với chân tâm tiếp gần. Mà cùng với chân tâm tiếp gần tức là
cùng với vô minh lánh xa, như thế mới có thể hy vọng dứt nó vĩnh viễn.
Cho nên công phu khẩn yếu trọn ở hai chữ VIÊN CHIẾU. Sao gọi là viên
chiếu? Niệm trước đã diệt, niệm sau chưa sanh, chính ngay lúc đó nhứt
tâm vắng lặng, liễu liễu minh minh, đó gọi là viên chiếu. Viên chiếu là
chẳng phải gắng sức, chẳng không gắng sức, chẳng chìm xuống, chẳng nổi
lên, giống như vừng trăng sáng tròn là vậy. Lúc nầy một niệm chưa khởi,
thanh tịnh không có gì so sánh, khắp thân thể thanh lương, tức là bổn
lai diện mục. Kẻ mới học chưa có định lực, một khoảng sát na niệm sau
lại khởi, liền lại giác chiếu như thế, chỉ cần phải xách lên được sự
giác chiếu, như cán cân hễ phía bên nầy cao lên thì phía bên kia thấp
xuống, như thế thì lại thanh tịnh vậy. Phải cần liên miên khít khao
không gián đoạn, khiến cho nó nối tiếp nhau, lâu ngày liền có thể nhập
định. Ðến như toàn thể như như bất động, chẳng dễ gì có thể viên hiển
ngay ra được, nhưng dụng công như thế tức là tùy thuận đi vào. Hai câu
nầy trong kinh nầy tức là nghĩa đó. Chẳng những phải day về trên cái bất
thủ mà giữ vững, lại còn phải day về trên như như mà giác chiếu. Rất
cần yếu, rất cần yếu !
Nay lại dẫn kinh Viên Giác chứng minh
nghĩa giác chiếu bổn tánh có thể trừ vô minh. Kinh nói: "Ở trong vô sanh
vọng thấy sanh diệt". Ðây là nói tự tánh vốn nó bất sanh, vốn nó bất
sanh tức là vốn nó bất động. Sanh diệt tức là trỏ vô minh. Ý bảo trong
tự tánh vốn không có vô minh, nói có vô minh là do ở vọng kiến. Thế thì
nay biết giác chiếu thanh tịnh bổn tánh, tức là chánh kiến. Tà chánh
chẳng đứng đều, chánh kiến nổi dậy thì vọng kiến trừ đi. Nên kinh đó lại
nói: "Như lai nhân địa tu viên giác, biết là không hoa, liền không luân
chuyển, cũng không thân tâm chịu sự sanh tử của nó, chẳng phải là tạo
tác cho nên không, vì bổn tánh vốn không !" Sanh tử tức là danh diệt,
đây là nói tự tánh đã vốn bất sanh thì cũng bất diệt, cho nên nói là bổn
tánh không. Bảo là cũng không thân tâm chịu sự sanh tử của nó là vì cớ
bổn tánh nguyên không sanh diệt, chẳng phải là tạo tác ra khiến cho nó
không. Cho nên phát tâm liền phải giác chiếu tánh vốn chẳng sanh, nên
nói nhân địa tu viên giác là trỏ lúc phát tâm tu hành, chữ tu tức là trỏ
giác chiếu, viên giác là trỏ tánh vốn chẳng sanh. Kẻ tu như thế biết
hết thảy tướng sanh diệt kia đều là không hoa, vì hữu tức phi hữu. Ðã
biết như thế thì chẳng bị nó chuyển. Chẳng chuyển thì rõ ràng là chẳng
động, nên nói: "Biết là không hoa, liền không luân chuyển". Hai câu nầy
cùng với nghĩa "biết huyễn liền ly" giống nhau. Ðã biết huyễn liền ly
cho nên cũng không có thân tâm chịu sự sanh tử của nó, thì pháp tánh như
như vậy. Xem tổng quát lại các kinh văn dẫn ở trên, phải hiểu rõ day
thẳng về chỗ bổn bất sanh mà giác chiếu, làm diệu pháp để trừ vô minh.
Sao gọi là chỗ bổn bất sanh? Tức là ở lúc chưa khởi niệm mà giác chiếu
là vậy. Niệm còn chưa khởi thì sao gọi là tướng, lại có gì là thủ. Quả
nhiên có thể như thế liên miên khít khao không gián đoạn thì ở bất thủ
tự có chỗ nắm vững. Tóm lại, một mặt day về chỗ bất động nhiếp tâm giác
chiếu để thành tựu cái bất thủ, lại một mặt ở lúc gặp duyên giữ vững cái
bất thủ để viên mãn cái bất động, ngõ hầu ở tánh thể như như được có
chỗ nhập. Kinh Lăng Nghiêm cũng nói giống như thế, như nói: "Các người
tu hành chẳng thể được thành vô thượng bồ đề, cho đến thành riêng thanh
văn duyên giác và quyến thuộc của ma đều do chẳng biết hai thứ căn bản,
tụ tập sai lầm, lộn xộn. Sao gọi là hai thứ: một là vô thủy sanh tử căn
bản, ấy là mầy ngày nay cùng với các chúng sanh dùng tâm phan duyên làm
tự tánh, hai là vô thủy bồ đề niết bàn, nguyên thanh tịnh thể, ấy là mầy
ngày nay thức tinh nguyên minh có thể sanh chư duyên. Cái duyên chỗ sót
mất là do các chúng sanh mất cái bổn minh nầy, tuy trọn ngày hành mà
chẳng tự giác, uổng vào các thú". Phan duyên tâm nói ở đây tức là tâm
bất giác vọng động. Nguyên thanh tịnh thể cho đến cái duyên chỗ sót mất
tức là bổn tánh như như bất động. Kinh đó lại nói: "Làm sao mầy nay lấy
động làm thân, lấy động làm cảnh, từ đầu tới cuối, niệm niệm sanh diệt,
bỏ mất chân tánh, làm việc điên đảo, tánh tâm mất cái chân, nhận vật làm
mình, luân hồi trong đó, tự thủ lưu chuyển". Ðoạn nầy lại nói được rõ
rõ ràng ràng, tức là lúc mới phát tâm liền phải phân biện rõ chân vọng,
day thẳng về chỗ vốn chẳng động mà giác chiếu, bèn chẳng đến nỗi mất cái
bổn minh, uổng vào các thú, tự thủ lưu chuyển. Phải biết, giác chiếu
như thế cũng phải nhiếp tâm. Nhiếp tâm cũng chẳng phải là vô niệm, cũng
chẳng phải là rốt ráo vô tướng vô thủ, nhưng phàm phu chẳng dùng phương
pháp nầy thì không có chỗ hạ thủ, chỗ gọi là pháp môn lấy huyễn trừ
huyễn vậy. Bởi pháp nầy tuy cũng là huyễn, nhưng là tùy thuận chân như,
cùng với các thứ động niệm, thủ tướng khác vì tâm chẳng giống, nên đắc
quả liền khác nhau xa. Lại nữa, pháp nầy chẳng qua là phương tiện bắt
đầu hạ thủ, tuy là pháp môn tùy thuận chân như, mà năng chiếu, sở chiếu
cũng phải theo từng bước mà khiển trừ cho sạch, chỗ bảo là: có giác có
chiếu đều gọi là chướng ngại. Nên ắt phải ly mà lại ly, đắc không chỗ
ly, mới trừ các huyễn. Phải biết như thế !
Nói tóm lại, như như
bất động tức là nghĩa bất sanh, bất thủ ư tướng tức là nghĩa vô trụ.
Trước phải giác chiếu vốn bất sanh mới có thể vô trụ, đến chỗ không trụ
một chỗ nào liền chứng vô sanh. Dụng công giao xen lẫn nhau, đây là môn
cần yếu. Vả dụng công như thế thì quán triệt suốt đáy, từ bắt đầu hạ thủ
cho đến trụ, hành, hướng, địa, đẳng giác, diệu giác đều chẳng ngoài cái
nầy. Nên nói: "ly nhứt thiết tướng tắc danh chư phật, nhứt thiết chư
phật tùng thử kinh xuất". Mà phía trên đặc biệt dẫn kinh Lăng Nghiêm,
Viên Giác để chứng nghĩa nầy, cũng đủ thấy a nậu đa la tam miệu tam bồ
đề pháp đều từ kinh nầy ra.
Lại tiến lên nữa, kinh nầy lấy vô
trụ phá ngã làm chủ chỉ duy nhất, thì có thể thấy trọn bộ kinh đều là
thuyên hiển nghĩa muốn phá vô minh ắt phải chẳng thủ tướng. Nửa bộ sau
thuyết chư pháp nhứt như, thuyết hết thảy đều thị v.v... tức là thuyên
hiển nghĩa như như bất động. Kịp khiến thông đạt vô ngã pháp mà chỗ gọi
là thông đạt là trước hết khiến khai phật tri kiến, trở về sau lại sướng
phát nghĩa duyên sanh tánh không. Khoa nầy đã lấy hai câu bất thủ ư
tướng, khai thị người học phải giác chiếu bổn tánh như như bất động. Mà
khoa dưới lại khai thị bằng quán pháp duyên sanh, vừa hay cùng với phần
chính tông nửa bộ sau trước hiển như như, thứ nhì thuyết nghĩa thú của
duyên sanh giống nhau. Ðây chính là chỉ-thị yếu chỉ trọn bộ kinh là ở
nửa bộ sau. Kẻ diễn thuyết nếu chẳng thông đạt nghĩa nửa bộ sau, thì nửa
bộ trước liền chẳng được yếu-lĩnh. Kẻ thụ trì nếu chẳng biết từ chỗ
thuyết nửa bộ sau vào làm sự quán, thì lại cũng chẳng được yếu-lĩnh. Ðây
là tôn chỉ sâu của thế tôn, phải biết sức thể-hội. Ðến như khoa nầy đã
khiến giác chiếu bổn tánh, khoa dưới lại khiến quán pháp duyên sanh càng
là hay khéo, càng là nắm chỗ yếu. Ðây chính là phật tri phật kiến,
người học gấp phải thông đạt như thế. Vì chưng phàm phu toàn thể là vô
minh, tuy nói là giác chiếu bổn tánh mà mày mặt của bổn tánh ẩn núp đã
lâu, chỉ là vô minh đen tối mà thôi. Thế thì biết làm sao? Nay phải khai
thị rằng: phải trước quán chư pháp duyên sanh để làm phương tiện, nên
lời kết của khoa dưới là: phải nên quán như thế, có nghĩa là ắt phải làm
sự quán như thế. Vì cớ gì? Vì quán chư pháp duyên sanh tức là quán chư
pháp không tướng. Lúc tướng đã không, há còn có thủ, thế thì như như bất
động vậy. Há chẳng bảo đó là hay khéo ư? Há chẳng bảo đó là nắm chỗ yếu
ư? Nghĩa nầy khoa dưới lại sẽ nói tường tận. Chữ diễn trong câu diễn
thuyết có ý sâu. Diễn là diễn dịch, tức là bảo nghĩa của kinh sâu kín,
kẻ nói kinh phải mở cái huyền vi của nó ra, phát chỗ ẩn tàng của nó ra,
trưng dẫn ra rộng rãi để tuyên dương nghĩa của nó, khiến cho nghĩa của
nó thông suốt, chẳng uổng phí một sự thuyết nầy vậy. Thuyết hết thảy
kinh đều phải y theo phép tắc nầy.
Hà dĩ cố?
Nhứt thiết hữu vi pháp,
Như mộng, huyễn, bào, ảnh.
Như lộ diệc như điện,
Ưng tác như thị quán.
Dịch nghĩa: Vì cớ gì?
Hết thảy pháp hữu vi,
Như mộng, huyễn, bọt, bóng,
Như móc lại như chớp,
Phải làm sự quán như thế.
Hà
dĩ cố: là lời hỏi cái sở dĩ nhiên của bất thủ ư tướng. Cái sở dĩ nhiên
có hai nghĩa. 1) Vì sao mà bất thủ, ba câu trước trong bài kệ đã đủ trả
lời và giải thích. 2) Làm sao có thể bất thủ thì phải trọn bài kệ mới đủ
trả lời giải thích, mà qui trọng ở câu kệ thứ tư. Nay giả bày đặt ra
vấn đáp để tỏ rõ.
Hỏi: Vì sao mà bất thủ?
Ðáp: Vì hết
thảy sự tướng hữu vi đều là duyên tụ thì sanh, duyên tán thì diệt, biến
hoá vô thường, nắm giữ chẳng vững, như mộng, huyễn, bọt, bóng, sương
móc, làn chớp, giống như có mà thực ra thì không có.
Hỏi: Thế thì làm sao có thể bất thủ?
Ðáp:
Phải ở hết thảy pháp hữu vi làm sự quán như mộng, huyễn, bọt, bóng,
sương móc, làn chớp, biết nó đương thể tức không, chẳng sanh tham trước,
thì mới có thể bất thủ.
Như chỗ nói trên, tôn chỉ lớn của khoa
nầy đã rõ, nay lại nói ra tường tận. Phải biết, như như bất động là
tánh chân thực, lại cũng tức chỗ gọi là vô vi pháp, bất sanh bất diệt.
Trước nói: Hết thảy hiền thánh đều lấy vô vi pháp mà có sai biệt, nay
chẳng khiến quán chân tánh của vô vi pháp như như bất động, mà khiến
quán huyễn tướng của hữu vi pháp duyên sanh vô thực, là sao? Ðây là thế
tôn biết sâu bịnh của phàm phu, đặc biệt vì đó khéo mở ra phương tiện.
Trong nầy có hai yếu nghĩa: 1) phàm phu sở dĩ là phàm phu, không có gì
khác, vì bội giác hợp trần, hướng ngoại tìm cầu mà thôi. Vì cớ gì hướng
ngoại tìm cầu? Không có gì khác, vì phân biệt huyễn tướng, tham trước
huyễn tướng mà thôi. Vì cớ gì phân biệt, tham trước? Không có gì khác,
vì nhận lầm hết thảy hữu vi pháp là chân thực. Do cái cớ nầy, càng mê
sâu, chẳng chịu quay đầu trở lại, vĩnh viễn bị luân chuyển. Cho nên nay
bước đầu nhập môn, trước phải khiến nó quán sâu hết thảy hữu vi pháp như
mộng, như huyễn, như bọt, như bóng, như sương móc, như làn chớp, đều là
hư giả, hết thảy đều không, rốt ráo không đắc một cái gì, chỗ đắc chỉ
có một mùi vị KHỔ mà thôi ! Vả lại cái khổ nầy vô cùng, nói cũng nói
không ra, chỗ bảo là: "muôn thứ đi hết ráo, chỉ có nghiệp theo mình", là
vậy. Quả nhiên có thể thường làm sự quán như thế, hiểu rõ lý ÐỀU KHÔNG,
ngõ hầu chẳng đến nỗi bị lừa dối, mà có thể quyết tâm giữ vững lập
trường, hồi quang phản chiếu. Ðây là sở dĩ muốn quán chân tánh vô vi,
phải trước quán huyễn tướng hữu vi, đây là đệ nhứt yếu nghĩa ắt phải
biết.
2) Tánh quang của hết thảy phàm phu sớm bị vô minh che
lấp, cũng như một vừng mặt trời sáng bị mây đen che kín hết, không có
một chút ánh sáng, không xem thấy mặt trời. Ðây cũng như thế, vọng niệm
động lên đầy rẫy, chưa từng tạm ngừng, nay muốn quán nó, mà năng quán sở
quán đều là vô minh vọng thức, thì sao có thể quán kiến bổn tánh? Ðây
cùng với đầy trời mây đen, xem chẳng thấy ánh sáng mặt trời, xem lại xem
đi đều là tướng tối tăm mù mịt cùng một đạo lý. Nên kinh Viên Giác nói:
"Lấy luân hồi tâm sanh luân hồi kiến, vào ở như lai đại tịch diệt hải,
rốt cuộc chẳng thể đến nơi". Luân hồi là ý của sanh diệt. Tịch là im
lặng, không có tiếng, có nghĩa là chân như chẳng thể ngôn thuyên vậy.
Diệt là không có hình, có nghĩa là chân như chẳng thể lấy tướng hiển ra.
Dọc cùng tam tế, ngang khắp thập phương gọi là đại. Thể có đủ vạn đức,
dụng bao gồm vạn hữu là hải, như lai đại tịch diệt hải, tức là bổn tánh
như như bất động. Ðáng thương thay ! Phàm phu hoàn toàn là tâm sanh
diệt, ngay như phát tâm làm sự quán cũng là kiến sanh diệt, nay muốn lấy
tâm sanh diệt, kiến sanh diệt nầy quán tánh hải viên giác bất sanh diệt
thì trọn vẹn là phản bội, nên nói chẳng thể đến nơi. Chẳng thể đến nơi
có nghĩa là cách xa nhau quá. Thế thì kẻ tu viên giác muốn giác chiếu
tánh như như bất động, há chẳng phải rốt ráo không có chỗ hạ thủ ư? Thế
tôn đại từ, ngài nay bảo chúng nó rằng: đừng lo, có phương pháp hay khéo
ở đây. Pháp đó là gì? Phải quán chư pháp duyên sanh, thì tự mình có chỗ
nhập. Ý nầy không khác gì nói ban đầu chẳng cần gượng ngừng vọng niệm,
tuy muốn ngừng vọng niệm cũng chẳng thể được. Chỉ nên day về hết thảy
hữu vi pháp có tạo tác, có đối đãi quán sát sự biến hoá vô thường của nó
giống như mộng, huyễn, bọt, bóng, sương móc, làn chớp, khiến cho tâm
nầy hiểu thấu hết thảy chư pháp chẳng qua là lúc duyên hội hiện ra có
huyễn tướng sanh khởi vậy thôi. Thực ra thì sanh tức là vô sanh. Từ chỗ
nầy có thể biết trên bề mặt tuy muôn tượng xum la, mà ở phía trong hoàn
toàn không có một cái gì. Bất cứ lúc nào, chỗ nào cũng quán sát giác
chiếu như thế, liền có công đức chẳng thể nghĩ bàn. Sao gọi là công đức
chẳng thể nghĩ bàn? Phải biết, quán lý chư pháp duyên sanh nếu lĩnh hội
được hết thảy pháp đương thể tức không, liền có thể khế hợp vào chư pháp
không tướng. Tướng không thì tánh tự nó hiển ra. Vì cớ gì? Vì có tướng
thì chư pháp sai biệt ra muôn ngàn thứ, tướng không thì chư pháp nhứt
như. Chư pháp nhứt như tức là vì tánh quang hiển hiện, tánh quang hiển
hiện tức là vì vô minh đã sáng. Tuy vô minh chưa ắt dứt liền, chưa ắt
liền cùng với như như bất động ám hợp, mà trí và lý ám hợp thực xây nền ở
đây. Vì cớ gì? Vì vọng niệm từ đây ngày càng mỏng manh, vì đối cảnh ngộ
duyên chẳng dễ gì bị nó chuyển động. Do đây mà nói, quán chư pháp duyên
sanh chẳng khác gì quán chư pháp không tướng, quán chư pháp không tướng
chẳng khác gì quán như như bất động. Nói một cách khác, quán hữu vi
pháp sanh diệt như mộng, như huyễn, liền chẳng hay chẳng biết mà dẫn vào
vô vi pháp bất sanh bất diệt, công đức há có thể nghĩa bàn ư? Ðây là
yếu nghĩa thứ nhì mà chúng ta phải nên hiểu rõ.
Hợp hai tầng
yếu nghĩa nói trên, có thể thấy làm sự quán như thế thí dụ như dùng cái
cần trục, trọng lượng của cần trục tuy ít mà có thể trục lên món đồ nặng
ngàn cân không phí một chút sức nào. Nhẹ nhàng khéo léo, vén mây mù mà
thấy trời xanh, thiệt là phương tiện hay khéo vậy. Kẻ bất tuệ nầy từ học
phật đến nay, hai mươi năm trước tuy tu nhiều thứ pháp, làm bao nhiêu
thứ quán mà vẫn không có chút tiến bộ nào. Một bữa ở bốn câu kệ nầy bỗng
nhiên như có tỉnh ngộ, y theo bốn câu kệ nầy tu quán, ban đều cũng còn
như ngay cái đó, như lìa cái đó, như sáng tỏ, như mờ tối, chưa thành một
mảng, đều chưa có công hiệu gì. Kế tiếp tỉnh ngộ, phải ở hết thảy trên
cảnh duyên cực lực để ý quán sát nó, tuy một việc hết sức nhỏ, hoặc lúc
hết sức thuận tâm hay hết sức chẳng thuận tâm đều dùng đạo lý như mộng,
huyễn v.v... để ấn chứng nó. Ngay đến tu trì phật pháp cũng dùng đạo ý
như mộng, huyễn v.v... ấn chứng nó, đi, đứng, nằm, ngồi chẳng lìa cái
nầy. Như thế lâu ngày tuy ở công phu bất thủ ư tướng, như như bất động
hãy còn nông cạn, nhưng thực ra từ lúc bắt đầu làm sự quán nầy, tâm nầy
lần lần cảm giác trống trống không không, ở hết thảy cảnh tướng lần lần
có thể chẳng động ở trong tâm. Lúc xem kinh, ánh sáng con mắt liền cảm
thấy tỏ hơn chút ít, lúc niệm phật cũng cảm thấy dẫm lên chỗ thực chút
ít. Nay xin các ông thí nghiệm xem, ắt có thụ dụng. Phải biết, bác địa
phàm phu muốn hồi quang phản chiếu, nếu bỏ phương pháp nầy thì không có
chỗ hạ thủ. Xin các ông trân trọng !
Nay lại đem nghĩa khoa
trên và khoa nầy tổng hợp lại mà diễn thuyết. Văn trên: như như bất động
là thuyết tánh thể viên mãn hiển hiện. Bàn về cứu cánh của nó, thì phải
đến vị phật mới có thể viên mãn, từ vị sơ trụ trở lên chẳng qua hiện ra
từng phần, từng phần, nên gọi đó là phần chứng giác. Còn người ở trong
vị thập tín thì chỉ đắc cái phảng phất của nó, tức là tương tự giác. Cho
nên người trước có kẻ đem chữ như trên giải thích là tương tự (giống
như). Nhưng nghĩa kinh câu như như bất động là từ khi mới phát tâm cho
đến cứu cánh thông suốt triệt để, cho nên chẳng nên giải thích là tương
tự một cách cứng ngắc, phải giải nghĩa là chân như mới có thể viên nhiếp
hết thảy, chẳng kể tương tự mà hiện ra, chứng từng phần mà hiện ra, cho
đến hiển viện viên mãn, đều từ bất thủ ư tướng mà tới. Cho nên chữ
tướng, chữ bất thủ nghĩa và ý của nó lại cũng bao gồm sâu rộng, thông
suốt triệt để. Tướng thì chẳng kể không tướng, hữu tướng, cho đến diệc
không diệt hữu, phi không phi hữu đều nhiếp ở trong đó, tổng tướng của
nó là ngã pháp hai chấp. Ở các tướng nầy hết thảy chẳng chấp trước mới
là bất thủ. Vả luôn cả cái bất thủ lại cũng bất thủ thì ly mà lại ly,
đắc không chỗ ly, liền trừ chư huyễn. Như thế thì tánh thể như như bất
động hiện ra trọn vẹn, thế nhưng phương pháp hạ thủ phải từ chỗ chưa
động niệm mà giác chiếu, tức là quán bổn tánh như như bất động vậy. Ðây
là nghĩa "lấy bất sanh bất diệt làm bổn tu nhân" của kinh Lăng Nghiêm,
lại cũng tức là chỗ bảo: nghĩa của y theo tánh bổn tịch để tu Chỉ mà sau
đắc định, y theo tánh bổn chiếu để tu Quán mà sau đắc tuệ. Nếu chẳng
biết từ chỗ nầy mà hạ thủ tức là tu tập một cách thác loạn, tu mà quáng,
luyện mù quáng, thí dụ như nấu cát làm cơm, vĩnh viễn chẳng thể thành
cơm. Tuy kẻ sơ học toàn là vô minh, quán nó chẳng thấy, nhưng ắt phải
hiểu sâu lý nầy siêng năng viên chiếu, như chỗ đã nói phía trước: "niệm
trước đã diệt, niệm sau chưa sanh, chính lúc bấy giờ, nhứt tâm vắng
lặng, liễu liễu minh minh", đây gọi là chiếu. Viên là chẳng phải gắng
sức, chẳng phải không gắng sức, chẳng chìm xuống, chẳng nổi lên. Ðây tức
là một tia tuệ quang, phương tiện tối sơ của tri huyễn tức ly. Một mặt
lại tuân theo kệ nầy quán hết thảy pháp đều như mộng, huyễn, bọt, bóng,
sương móc, làn chớp, duyên sanh tức không. Pháp nầy lại là phương tiện
của phương tiện, tức là tri huyễn vậy. Tốt hơn hết là gồm tu cả hai thứ,
vì dùng hai phương pháp nầy để trợ giúp lẫn nhau và thành lẫn nhau. Vì
chưng giác chiếu bổn tánh là ở trên nguồn gốc dụng công, còn quán hết
thảy pháp là ở trên cảnh-duyên dụng công. Lại nữa, cái quán trước là ý
tu định nhiều hơn, cái quán sau là ý tu tuệ nhiều hơn. Ðịnh đã đành có
thể sanh tuệ, nhưng trước nếu chẳng khai tuệ thì định cũng không thể
thành, nên trong sự trợ giúp lẫn nhau nầy, cái quán duyên sanh càng cần
yếu, vì quán duyên sanh liền có thể dẫn vào như như bất động. Nghĩa nầy
trước đã nói tường tận, thử nghĩ xem câu "ưng tác như thị quán" là có ý
nếu không quán như thế thì chẳng thể được, khẩn thiết biết bao nhiêu !
Chữ tác rất cần yếu, có nghĩa là phải mười phần để ý quán nó. Phật
thuyết kinh nầy vì kẻ phàm phu phát đại tâm mà thuyết. Hai câu và một kệ
nầy chính là chỉ thị cho phàm phu phát đại tâm chỗ hạ thủ dụng công,
nên hai sự quán trước và sau ắt phải liên miên, khít khao, thay thế nhau
mà thực hành, thực hành lâu ngày ắt có chỗ đắc.
Hai chữ như
thị: đã đành là trỏ như mộng, như huyễn v.v... Ở văn trên mà nói. Phải
biết, như mộng, như huyễn chính là bảo tướng của chư pháp vốn không, lại
cũng chính là bảo tánh của chư pháp nhứt như. Có thể thấy lời nói như
thị thực gồm có ý vị nhứt như, đều thị. Cho nên quán chư pháp duyên sanh
liền có thể khế hợp vào như như bất động. Thế thì làm sự quán nầy có
thể thấy suốt bổn tánh. Nên nói: "ưng tác như thị quán" cũng như nói
quán hết thảy pháp như mộng, như huyễn tức là quán nhứt như, đều thị,
cho nên "phải làm". Thế tôn khai thị kỹ lưỡng, há sơ sót đọc lược qua
được ư?
Hữu vi pháp chẳng phải chỉ là thế gian pháp, phật pháp
cũng nhiếp ở trong đó, nên nói nhứt thiết. Kinh Viên Giác nói: "Sanh tử
niết bàn giống như giấc mộng đêm qua, không khởi không diệt, không lai
không khứ, sở chứng của nó không được không mất, không thủ không xả,
năng chứng của nó không làm không ngừng, không nhậm không diệt, ở trong
cái chứng nầy không có năng không có sở, rốt ráo không có chứng, cũng
không có kẻ chứng, hết thảy pháp tánh bình đẳng chẳng hoại". Trong nầy
hết thảy xem giống như mộng, huyễn mà không có nó chính chỗ bảo là chư
pháp không tướng, tức là ý bất thủ ư tướng, lại cũng tức là chỉ thị quán
hết thảy như mộng, như huyễn mà không nó, liền khế hợp vào như như bất
động. Nên kết lại là: hết thảy pháp tánh bình đẳng chẳng hoại. Bình đẳng
tức là như như, chẳng hoại tức là bất động. Nên đoạn văn nầy trong kinh
Viên Giác vừa hay để dẫn ra làm lời chú thích cho hai câu một kệ của
kinh nầy.
Tóm lại, chẳng kể là nhiễm pháp, tịnh pháp, đã có
pháp này liền có đối đãi, đã thành đối đãi tức là hữu vi, liền có sanh
diệt, nên đều như mộng, như huyễn. Thế nhưng muốn chứng vô vi pháp tuyệt
đối, nếu không từ hữu vi pháp đối đãi mà khởi tu thì chẳng thể được, vì
xả phương pháp nầy thì không có phương pháp nào khác để bắt đầu hạ thủ.
Chẳng những quán duyên sanh là hữu vi pháp, ngay đến giác chiếu bổn
tánh cũng là hữu vi pháp. Vì cớ gì? Vì giác chiếu tức là quán, đã có
năng quán, sở quán liền thành đối đãi, có đối đãi liền có tướng, liền
rơi vào hữu vi. Chỗ nói trong kinh nầy đều là vô vi pháp, vả lại rành
rành nói: "hết thảy hiền thánh đều lấy vô vi pháp mà có sai biệt". Nay ở
lúc khai thị diễn thuyết thụ trì, lại khiến phải quán hữu vi pháp. Ðây
là then chốt tuyệt lớn của tôn chỉ trong trọn bộ kinh, lại cũng tức là
then chốt khẩn yếu của kẻ học phật. Phải biết, vô vi có nghĩa là không
làm một cái gì, nếu không làm một cái gì, thì vọng sao có thể trừ, chân
sao có thể chứng, phàm sao có thể từ đó chuyển, thánh sao có thể được
thành? Nên vô vi pháp phải từ hữu vi pháp làm ra, nên nói ưng tác (phải
làm) vậy. Chữ làm có sức lực, nhưng yếu nghĩa thứ nhứt phải hiểu rõ là
lấy vô vi pháp làm mục đích, mượn hữu vi pháp làm con đường để đi. Nếu
chỉ nhận vô vi, chê bỏ hữu vi ấy là tự mình tuyệt mình, nếu chấp trước ở
hữu vi, mà chẳng biết vô vi, thì lại là tự mình chia ra giới hạn. Kẻ
phía trước tức là chỗ bảo chấp tánh mà phế bỏ tu, kẻ phía sau tức là chỗ
bảo chấp trước sự mà mê muội lý. Yếu nghĩa thứ nhì phải hiểu rõ là tu
hữu vi pháp mà chẳng trước tức là vô vi, trừ cái nầy ra thì không có cái
nào gọi là vô vi pháp khác nữa. Cho nên chỗ khai chương nói trong kinh
nầy: "thực vô chúng sanh đắc diệt độ" phải từ độ hết chúng sanh mà ra,
"ở pháp chẳng trụ" phải từ hành ư bố thí mà ra. Chỗ nói trở về sau,
chỉ-thú của nó cũng đều như thế. Ðộ chúng sanh, hành bố thí là hữu vi
pháp, không diệt độ, chẳng trụ pháp là vô vi pháp. Làm như thế tức là
can thiệp vào hữu mà chẳng trụ hữu, quán cái không mà chẳng trụ không.
Tuy trọn ngày lục độ vạn hạnh, trọn ngày giảng kinh thuyết pháp mà thực
trọn ngày niết bàn. Do đây có thể biết bất thủ pháp phải từ bất thủ phi
pháp mà làm ra, tức phi phải từ thị danh mà làm ra, chẳng chấp trước
phải từ chẳng đoạn diệt mà làm ra, vô thực phải từ vô hư mà làm ra. Cho
đến không thánh không phàm tức là từ trong có thánh có phàm mà thấy, bất
nhứt bất dị phải từ trong cái nhứt dị mà thấy, bất lai bất khứ phải từ
trong lai khứ mà thấy. Ðây gọi là chư pháp nhứt như, thị pháp bình đẳng,
cho đến bất sanh bất diệt tức là từ trên sanh diệt mà thấy. Nghĩa nầy
tức là tuy sanh diệt mà thực bất sanh diệt, tuy bất sanh diệt mà thị
hiện sanh diệt. Ðây gọi là chẳng trụ sanh tử, chẳng trụ niết bàn,
tôn-chỉ vô trụ ở đây cứu cánh viên mãn vậy. Mà then chốt của nó tức là ở
quán pháp duyên sanh như mộng, như huyễn, hiểu rõ nó đều là không, cho
nên vô trụ. Nên người học, phương tiện rất cần yếu là phải làm sự quán
như thế. Làm sự quán như thế tức là chẳng phế bỏ hữu vi, chẳng ngại vô
vi, tự nhiên nhi nhiên già chiếu đồng thời, vừa hay khế hợp vào như như
bất động viên giác tánh hải. Một bộ thậm thâm kinh điển qui kết đến
trong bốn câu kệ cực bình thường lạt lẽo, cực thiết thực thiển cận, hết
thảy chúng sanh chẳng kể lợi căn, độn căn đều có thể tùy thuận mà vào,
đây gọi là: vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, trăm ngàn vạn kiếp khó gặp
gỡ, đây gọi là chân thực nghĩa, đây giống với tự phận chỗ nói: các việc
mặc áo ăn cơm v.v... cùng một thú vị, đều là chỉ thị đạo chẳng xa
người, nó ở ngay trong việc hằng ngày tầm thường. Phải ở trong việc hằng
ngày tầm thường xem được thấu suốt, nắm được vững chắc thì thành phật,
thành bồ tát ở ngay trong đó. Chỗ các hành nguyện tự độ, độ tha, cho đến
các việc lễ phật tụng kinh, phải xem giống như việc hằng ngày tầm
thường, dầu lúc gấp rút, lúc khó khăn cũng chẳng lìa, mà lại thực hành
như là vô sự, ngõ hầu gần với đạo. Nên được bốn câu kệ nầy, chẳng những
nắm được trọn bộ kinh, mà cũng nắm được hết thảy phật pháp, mà cũng nắm
được thành phật, thành bồ tát vậy. Chỗ bảo là hết thảy chư phật và chư
phật a nậu đa la tam miệu tam bồ đề đều từ kinh nầy ra, nay bèn biết chư
phật và pháp, đều từ hết thảy hữu vi pháp, đều từ ở làm sự quán như
mộng, như huyễn, như bọt, như bóng, như sương móc, như làn chớp mà ra.
Lũ chúng ta may mắn được nhờ ơn phật trao cho diệu pháp nầy, chỉ có y
theo pháp nầy thụ trì như thế, diễn thuyết như thế, khiến cho hết thảy
chúng sanh đều làm sự quán như thế, đều đắc chứng vô sanh, mới đủ để báo
chút ít ơn của bổn sư. Ở trên yếu chỉ đã nói xong, đến như những thí dụ
mộng, huyễn, nghĩa nó rất tinh tế, rất vi diệu, cho nên làm sự quán nầy
liền có thể chứng đạo. Nay tôi sẽ nói ra tường tận.
Trong kinh
phật, chỗ nói thí dụ của hữu vi pháp rất nhiều, ngoài thí dụ mộng,
huyễn v.v... còn có như: càn thát bà thành, trăng dưới nước, cây, then
cửa, sợi giây, con rắn, không hoa, sừng thỏ, lông rùa v.v... tôn chỉ lớn
của thí dụ nầy đều là hiển thị lý vạn pháp đều không, cảnh cáo phàm phu
chẳng thể nào nhận cho là thực, để phá cái phân biệt chấp trước của nó,
dắt dẫn khiến nó ra khỏi mê mà thôi ! Ðời Ngụy dịch kinh Kim Cương có
chín thí dụ là: hết thảy hữu vi pháp như sao, màng che, đèn, huyễn,
sương móc, bọt, mộng, làn chớp, mây, phải nên quán như thế. Bản dịch đời
Tần thì tóm lại làm sáu, nhiều ít tuy khác mà ý là một.
Trong
sáu thí dụ, thì thí dụ mộng là tổng, còn huyễn, bọt, bóng, sương móc,
chớp là biệt, đều là để tỏ rõ nó như mộng vậy. Kẻ căn tánh tốt một khi
nghe thí dụ như mộng liền có thể hữu rõ pháp duyên sanh, đương thể đều
không. Vì sợ hoặc có kẻ chưa hiểu rõ, nên lại nói thêm năm thí dụ:
huyễn, bọt, v.v... Năm thí dụ nếu hiểu rõ sẽ có thể tỉnh ngộ, muôn sự
đều qui về một giấc mộng. Chỗ bảo là mộng tức là một pháp của duyên
sanh. Người xưa nói: ban ngày có chỗ suy nghĩ, ban đêm hình ra ở mộng,
chỗ suy nghĩ tức là cái duyên làm ra mộng. Cũng có kẻ không có suy nghĩ
gì mà mộng, như chỗ thế tục nói là thác ra cái điềm, thế thì thác ra
điềm cũng là duyên để vào mộng, cho nên là pháp duyên sanh. Có duyên ắt
có nhân, nhân làm ra mộng là gì? Là ý thức (cũng gọi là vọng tâm). Nếu
không có nhân nầy thì duyên cũng không từ đâu mà gặp, nên nói bực chí
nhân không có mộng, vì chưng kẻ có đạo đức, vọng tâm tuy hoặc là chưa
dứt hết mà ắt đã có thể hàng phục, nên ít có mộng. Do đây có thể biết
hết thảy đều duy tâm tạo. Ðáng thương thay cho phàm phu, lúc mộng đã
đành là vọng tâm, mà ngay lúc nó tỉnh cũng toàn là vọng tâm, nên chỗ bảo
là tỉnh thì vẫn y nguyên là mộng. Vì cớ gì? Vì từ xưa đến nay mê mà
chẳng giác. Nếu đã giác ngộ thì quyết nhiên chẳng đến nỗi chỉ biết sự bi
hoan ly hợp, được mất cùng thông trong giấc mộng là giả, mà lại vẫn
nhận cho là sự bi hoan ly hợp, được mất cùng thông trong lúc tỉnh là
chân. Phải biết, tâm lúc tỉnh và tâm lúc mộng đã đều là vọng mà chẳng
phải chân, cho nên bao nhiêu cảnh ngộ lúc tỉnh hoặc do kế hoạch mà
thành, hoặc xảy ra ở ngoài ý liệu, cùng với nó vào mộng hoặc do ban ngày
có chỗ suy nghĩ, hoặc do thần linh thác điềm, lý do của nó hoàn toàn
giống nhau, mà chớp mắt đều không, không có chỗ nào đắc thì lại cũng
không hai, há chẳng phải lúc tỉnh tức là lúc mộng ư? Nên cảnh cáo nó
rằng: như mộng vậy. Bèn mê luyến ở trong đó, tính toán so sánh phân
biệt, chấp trước chẳng buông xả, thiệt là người ngu si nói chuyện chiêm
bao! Nên mới nói chúng sanh từ xưa đến nay chẳng giác. Nay nói như mộng,
chính là kêu gọi nó mau mau giác ngộ. Hoặc nói lý như mộng, nói về thế
gian pháp thì thật là chẳng sai, mà ngoài Vĩnh Minh thiền sư nói: "Làm
lớn phật sự trong mộng", tại sao phật pháp cũng có thể làm sự quán như
mộng ư? Ðây có bốn lần yếu nghĩa, chẳng thể nào mà không biết. Theo phàm
phu mà nói, nghĩa nó có hai: 1) Phật pháp làm sự quán như mộng là ý
chẳng thể chấp trước. Phật pháp chú trọng ở phá ngã, một khi có chấp
trước thì ngã làm sao có thể phá? Nên phải triệt để khiển trừ nó. Phật
pháp còn chẳng thể chấp huống chi thế gian pháp. 2) Học phật là vì chứng
tánh, nếu chẳng chứng tánh liền chẳng thể siêu phàm nhập thánh. Mà tánh
thể thì không tịch, nên hết thảy công phu tu ắt phải qui về vô sở đắc,
mới cùng với tánh không tịch tương ứng. Phật pháp làm sự quán như mộng
là khiến nó siêng tu phật sự, mà qui về ở chỗ chẳng thể đắc, ngõ hầu
năng sở hai cái đều mất, lý và trí ám hợp. Theo phật, bồ tát mà nói,
nghĩa của nó cũng có hai: 1) Phật, bồ tát đều là người đã giác ngộ, các
ngài làm lớn phật sự, độ rộng chúng sanh mà có thể làm mà như vô sự, là
vì xem đó như mộng. Xem niết bàn như giấc mộng đêm qua, cho nên chẳng
trụ niết bàn mà làm lớn phật sự. Xem sống chết như giấc mộng đêm qua cho
nên chẳng trụ sanh tử, mà thường ở trong định. 2) Bồ tát làm phật sự là
tự giác giác tha, đến ở phật vị thì giác đã cứu cánh mà vẫn làm phật
sự, là vì chúng sanh vô tận còn ở trong mộng, vì cớ đồng thể bi chẳng tự
cho là cứu cánh, nên thường hành bồ tát đạo, mà hiện thân ở trong chúng
sanh đại mộng chưa tỉnh để làm phật sự. Cho nên ngài Vĩnh Minh nói:
"làm lớn phật sự trong mộng".
Tóm bốn nghĩa trên, có thể biết
kẻ đại giác xem sanh tử niết bàn vốn không thể đắc, nên nói: "sanh tử
niết bàn giống như giấc mộng đêm qua", ý bảo rằng: trụ ở sanh tử đã đành
là làm mộng, trụ ở niết bàn cũng là làm mộng, ắt không trụ ở một chỗ
nào mới là đại giác. Cho nên nếu trụ ở pháp chỗ tu, trụ ở pháp chỗ
thuyết, trụ ở pháp chỗ đắc thì đều là làm mộng. Vậy nên chủ chỉ kinh nầy
ở chỗ vô trụ, cho nên nói: "ưng vô sở sở trụ, hành ư bố thí, ưng ly
tướng, phát bồ đề tâm". Nói tóm lại, quán hết thảy pháp nhiễm tịnh như
mộng là ý ở thông đạt hết thảy hữu vi pháp vốn chẳng thể đắc. Nhứt tâm
thanh tịnh, có cái gì có thể đắc ư? Nếu có cái có thể đắc tức là chẳng
phải thanh tịnh, cho nên phải quán hết thảy hữu vi pháp như mộng. Thế
tôn ngài thuyết pháp 49 năm mà nói: "không có pháp có thể thuyết", lại
nói: "ta ở a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, không có chút pháp có thể
đắc". Bực đại giác, quả địa đã như thế, thì kẻ tu hành ở nhân địa cũng
ắt phải như thế, có thể biết được. Kinh Lăng Nghiêm nói: "Phải nên xét
xem nhân địa phát tâm cùng với quả địa giác là giống nhau hay là khác
nhau, nếu ở nhân địa lấy tâm sanh diệt làm gốc tu nhân mà cầu phật thừa
bất sanh bất diệt, thì không có chỗ đó". Có cái đó thể đắc là tâm sanh
diệt, quán nó như mộng, rốt ráo chẳng thể đắc là bất sanh bất diệt. Phải
biết, mộng là hữu vi pháp, nếu biết là mộng rốt ráo chẳng thể đắc, mà
chẳng mê chẳng chấp, thì hữu vi pháp liền thành ra vô vi pháp. Chữ "như"
có ý vị, kẻ chưa giác phải quán chỗ gọi là tỉnh y nhiên như mộng, thì
mới có thể giải thoát hết thảy, lìa xa điên đảo. Kẻ đã giác phải quán
chỗ gọi là giác lại cũng như mộng, thì lại ngại gì hiện vào giấc mộng
Hoa-Tư, du hí tam muội ư? Tóm lại, sáu thí dụ đều là suốt thông đến đáy.
Chẳng những vì phàm phu mà nói, bực nhị thừa nếu biết độ sanh như mộng
rốt ráo chẳng thể đắc liền chẳng đến nỗi trầm trệ không tịch. Một loại
bồ tát nếu biết thượng cầu phật đạo, hạ hoá chúng sanh như mộng, rốt ráo
chẳng thể đắc liền có thể thành phật. Nên làm sự quán như mộng chính là
tấm gương báu chiếu phá hai chấp ngã, pháp, chiếc bè từ độ vào đại tịch
diệt hải.
Do chỗ nói trên, có thể biết hết thảy hữu vi pháp
đều nương theo tâm làm nhân, thác ra sự làm duyên, nhân duyên hội hợp là
chỗ sanh ra quả. Trừ nhân quả ra không có gì hết thảy. Mà gọi đó là quả
lại thành ra nhân, nói đó là nhân lại trở thành quả, đây tức là lấy bản
thân của nhân quả mà nói lại cũng không có mảy may hình dáng nhứt định,
nên nói: đương thể là không. Thí dụ như làm mộng, chẳng phải là không
có sự tướng nghiễm nhiên, nhưng có tức chẳng phải có. Cho nên nói pháp
nhân duyên sanh tức giả, tức không, cho nên nói một thí dụ mộng đã đủ
hiểu rõ suốt hết thảy. Nhưng vì chúng sanh đã lâu rồi ở nơi đường mê,
ngày thường chưa từng chẳng biết việc đời như mộng, thế mà một khi gặp
cảnh giới thuận hay nghịch ở trước mặt, lại vẫn chấp mê buông xuống
chẳng nổi. Vả lại nói: việc quá khứ thiệt đã đành như mộng, còn cảnh ngộ
ngay trước mắt thì rành rành thân mình cảm thụ, mà chẳng bảo đây là sự
thực có thể được chăng? Cho nên lại bảo nó rằng: các cảnh thuận hay
nghịch tuy rành rành thân mình cảm thụ, thực ra đều như huyễn vậy. Huyễn
có nghĩa là huyễn-thuật nói trong kinh phật, người đời nay gọi là trò
quỉ thuật. Ý nói rằng: mầy thấy người làm trò quỉ thuật, và trò quỉ
thuật chăng? Huyễn ra bao nhiêu thứ bay lên lặn xuống, động vật thực
vật, há chẳng nghiễm nhiên giống như là thiệt. Lại như đóng kịch, lúc
bôi son trét phấn leo lên sân khấu, tà chánh hiền ngu, vui buồn, được
mất hiện ra một cách thần tình sống động, có thể khiến cho người ta vì
đó mà vui cười, vì đó mà cảm thương nhỏ lệ, mày cũng cho đó là thiệt ư?
Có thể nhân vì sự bỗng nhiên buồn vui của mình giống in như thân mình
cảm thụ, bèn chấp cho là sự thực ư? Phải biết, con người ở đời lại cũng
như thế, hết thảy sự gặp gỡ đều là chỗ biến hiện của vọng thức nghiệp
duyên mà thôi! Thế gian là một sân khấu, hết thảy chúng sanh tức là các
thứ vai trò trên sân khấu, đương lúc kèn trống khua vang, náo nhiệt khác
thường, kẻ có trí tuệ liền phải tự cảnh giác rằng: trong vòng nháy mắt
liền hạ màn, xuống sân khấu. Ta lúc nầy ở chỗ nầy, đóng vai trò nầy
chẳng qua là bị nghiệp lực dắt, dẫn, phải làm xong một đoạn duyên pháp
mà thôi, há có thể cho là thiệt. Thí dụ như làm con hát, đã đóng một vai
đào kép trong tuồng hát, ắt có lúc nhân mới hiện ra quả nầy, đã đành ta
chẳng thể không dụng tâm đóng trò hát xướng, mà làm sai lầm mục đích
của mình gánh vác. Nhưng nhứt định không chấp trước những nhân vật ta
đóng vai trò trong tuồng hát cho là chính mình. Mục đích của kép hát là
gì? Là danh dự, tiền bạc. Làm người cũng vậy. Kiếp nầy tới chốn thế gian
nầy làm người, chẳng qua tạm đóng một vai đào kép ở trong một tấn tuồng
mà thôi! Kép hát còn chẳng thể chấp vai trò mình đóng cho là chính
mình, thế thì chúng ta há có thể nhận lầm vai trò mình tạm đóng đây là
chính mình ư? Phải biết, nhân quả khó trốn tránh, nhân quả rất đáng sợ,
đã tạm đóng vai trò nầy, tự nhiên chẳng thể nào không dụng tâm làm trò
hát xướng để tránh khỏi làm sai mục đích, nhưng cần thiết chẳng thể chỉ
nhận danh lợi làm mục đích. Phải nhận đúng gia bảo tự mình vốn có để làm
mục đích. Gia bảo nầy là gì? Là tự tánh tam bảo vậy. Ắt phải giác ngộ
rõ ràng làm vai trò giả nầy đã chẳng thể sai lầm nhân quả, liên lụy tự
tánh, lại chẳng thể nhận lầm vai trò giả này làm thiệt, mê muội mất tự
tánh. Cho nên chính đương lúc đờn hát rổn rang, mọi người đều để mắt dòm
vào, liền phải tự giác tự ngộ: một tấn tuồng hư huyễn nầy chẳng phải là
bổn lai diện mục của ta, thế thì phải trở lại cách phục sức hồi ban đầu
của ta, ngõ hầu đến lúc tiếng phèng la tiếng trống đã im bặt, phong lưu
tan ra như mây khói, chẳng đến nỗi áo não buồn thương, tay chân bủn
rủn, cho nên nói: "phải làm sự quán như huyễn".
Thế tốn đại từ
bi, còn lo chúng sanh chấp mê chẳng tỉnh, cho là hết thảy nhân sự gọi đó
là huyễn, thiệt là đúng như vậy. Thế nhưng nhớ đến thân thế mình, rốt
cuộc khó buông xuống nổi. Vì chưng ý của chúng sanh chỉ có thể lĩnh hội
thế sự như huyễn, mà hãy còn nhận cái thế giới to lớn mênh mông nầy, và
cái sắc thân quí báu nầy là chân thực, cho nên buông bỏ xuống không
được. Vì vậy thế tôn lại bảo chúng nó rằng: "như bọt, như bóng". Như bọt
là thí dụ thế giới, như bóng là thí dụ sắc thân. Vì cớ gì? Vì chỗ gọi
là bọt, là do nước bị gió thổi khích đãng mà thành ra. Mà thế giới thì
do hết thảy chúng sanh ở trong tánh hải nổi dậy gió vô minh, tạo cộng
nghiệp nầy mới kết thành, nên lấy như bọt thí dụ nó. Chỗ gọi là bóng, là
do ánh sáng mặt trời, mặt trăng, ánh sáng đèn soi chiếu mà hiện ra. Mà
sắc thân thì do tánh quang biến hiện ra, nên lấy như bóng thí dụ nó. Thế
nầy, thân nầy đã cùng với bọt, bóng cùng một duyên sanh, có thể thấy
thân thế cũng cùng với bọt bóng cùng một hư vọng, há có thể mê làm chân
thực ư? Nghĩa nầy kinh Lăng Nghiêm nói rất rõ. Kinh nói: "Nhận cái mê
trong cái ngộ, mờ ám làm không, trong cái không mờ ám, kết ám làm sắc,
sắc xen lẫn vọng tưởng, tướng của tưởng làm thân". Ðoạn kinh nầy là nói:
giác tánh viên minh, lớn mà không có cái ngoài, nhỏ mà không có cái
trong, vốn không chỗ nào gọi là hư không, là thế giới, là sắc thân. Trọn
vẹn do giác tánh của chúng sanh bị che lấp, bèn đến nỗi cái từ xưa đến
nay viên minh thành ra mờ ám. Mờ ám tức là tướng mờ mờ mịt mịt. Ðã chẳng
giác ngộ bèn ngược lại nhận mờ ám làm hư không, cho nên nói: "mờ ám làm
không", đây là vì do nó nhận cái mê trong cái ngộ. Nhận cái mê trong
cái ngộ có nghĩa là nó tự mình cho là ngộ, thực ra vẫn y nguyên là mê.
Vì cớ gì? Vì nó nhận mờ ám làm hư không. Hư không đã là mờ ám, lại cấu
kết cái mờ ám nầy làm sắc, nên nói: "trong cái không hối muội, kết ám
làm sắc". Sắc là tứ đại: địa, thủy, hoả, phong, chính là trỏ thế giới,
và sắc tướng của hết thảy các loại hữu tình, vô tình mà nói. Trước đã
nhận cái mờ ám làm hư không, rồi lại nhận cái mờ ám kết thành làm thế
giới, lại nhận cái sắc và vọng tưởng xen lẫn nhau mà thành làm cái thân
thể quí báu nầy, nên nói: "sắc xen lẫn vọng tưởng, tướng của tưởng làm
thân". Chữ "nhận" trong câu đầu thẳng suốt đến câu cuối, hai chữ vọng
tưởng cũng thông suốt trên dưới. Vì sao nhận lầm? Vì cớ có vọng tưởng.
Vọng tưởng là tên khác của thức. Thụ tưởng hành là tâm sở của thức, nên
lời nói "vọng tưởng" ở trong nầy tức là trỏ bốn uẩn thụ, tưởng, hành
thức trong ngũ uẩn. Chữ tướng trong câu "tướng của tưởng làm thân" tức
là chữ sắc ở văn trên, tưởng tức là vọng tưởng. Thân của hết thảy chúng
sanh đều là ngũ uẩn giả hợp, nên nói: sắc xen lẫn vọng tưởng, tướng của
tưởng làm thân, có nghĩa là sắc tướng của tứ đại cùng với vọng tưởng của
thụ tưởng hành thức xen lẫn mà hợp lại thành ra thân huyễn nầy. Ðoạn
kinh văn nầy khai thị rõ ràng hư không, thế giới, sắc thân hoàn toàn là
do chỗ biến hiện của vọng tưởng của chúng sanh mờ mờ mịt mịt. Vọng tưởng
vốn chẳng phải là chân thực, sanh diệt từng sát na, thì thân thế do nó
biến hiện ra há có thể là chân thực ư? Người người đều biết bọt trong
nước rất là mỏng manh, rất dễ hoại diệt, biết đâu rằng thế giới cũng
vậy, chớ nên bảo là giang sơn lâu dài muôn thuở. Trọn cả thế giới tuy
chưa hoại diệt liền ngay, thế nhưng hang hốc biến làm gò núi, ruộng dâu
biến ra biển xanh, lúc nào cũng nổi dậy sự biến hoá, đủ chứng minh lúc
nào cũng ở trong sự thành hoại. Ðây là sự việc xảy ra hằng năm chỗ
thường kinh nghiệm, nguyên chẳng phải là lời bàn lý tưởng. Vả chăng kinh
Lăng Nghiêm lại nói: "Cái KHÔNG sanh trong đại giác, như biển một bọt
nước nổi dậy, vi trần quốc hữu lậu, đều nương cái KHÔNG mà sanh. Bọt
nước diệt, cái KHÔNG vốn không, huống chi lại chư tam hữu". Vi trần quốc
hữu lậu, hữu lậu là tỏ rõ nó ắt hư hoại, vi trần là tỏ rõ nó đã rất
nhỏ, tam hữu là tam giới. Ðoạn kinh văn nầy là nói: hư không mờ ám ở
trong đại viên giác hải như một cái bọt trên biển, mà vi trần quốc độ
lại là vật nương phụ vào bọt biển nầy. Lúc bọt diệt đi, còn không có hư
không mờ ám, huống chi tam giới ư? Hết thảy người học thường phải quán
chiếu lý nầy, cái hư không chỗ mình nhận còn là tướng mờ mờ mịt mịt của
mờ ám, còn là nhỏ nhít như bọt, huống chi thế giới, huống chi thân nầy,
cần gì phải tính toán ư? Há có thể bỏ sót chân thực viên minh tánh hải
bao gồm hư không, bao quát tam giới, mà nhận một bọt nước nổi lên nhỏ
nhít mong manh thành hoại vô thường ư?
Ðến như bóng, nó giống
như có, thực ra là không. Thân nầy cũng vậy, hư vọng hiện ra là có, mà
thực ra là không. Thí dụ như bóng người trong gương, vì gương rọi chiếu
thì hiện ra, mập ốm dài ngắn không sai một mảy may nào. Thân nầy cũng
vậy, vì tâm tạo nghiệp, noi theo nghiệp mà hiện, sống lâu hay chết non,
đẹp hay xấu, nhân quả khó tránh. Nam Nhạc Tư đại sư nói: "Tịnh tâm như
tấm gương, phàm thánh như bóng trong gương". Ðây là tỏ rõ: sự có thể
thấy thân nầy là vì tịnh tâm vốn đầy đủ tánh thấy, cũng như sự có thể
thấy bóng nhân vi tánh chiếu rọi vốn đầy đủ của gương sáng, há có thể vì
nó có thể thấy bèn nhận lầm là thực có? Vả trong kiến tánh của tịnh tâm
vốn không có thân nầy, chẳng qua là cái bóng mà kiến tánh phát hiện ra
mà thôi. Cũng như trong tánh soi chiếu của gương sáng vốn không có cái
bóng nầy, chẳng qua là cái bóng mà tánh chiếu rọi phát hiện ra mà thôi.
Chỗ nói ở trên còn là lấy huyễn thân ngó vào tịnh tâm, hiểu rõ nó là
bóng của tịnh tâm chỗ hiện ra. Nếu lấy ngay đương thể của huyễn thân ra
nói lại cũng như bóng. Vì cớ gì? Vì trừ ngũ uẩn ra rốt ráo không đắc một
cái gì. Vả lại cái sắc trong ngũ uẩn tức là tứ đại, tứ đại như bọt nổi,
còn lại bốn uẩn thụ, tưởng, hành, thức cũng đều là hư vọng (gọi là vọng
tưởng nên nói là hư vọng). Thế thì ngay bản thân của ngũ uẩn đã rốt ráo
không đắc một cái gì, huống chi cái huyễn thân ngũ uẩn giả hợp nó giống
như là có mà thực là không, có thể biết được. Rốt ráo không đắc một cái
gì có nghĩa là có tức là chẳng phải có, cũng như cái bóng, chỉ làm mê
mờ con mắt người ta mà thôi, thực ra nó vốn không có.
Hết thảy
phàm phu chỗ rất chấp trước cái cho là thực có là thức tâm, thế giới, và
thân của mình. Nay mỗi mỗi phá cái mê hoặc của nó rằng: thức tâm như
huyễn (trước đã nói thế gian tức là rạp hát hết thảy chúng sanh là những
vai trò trong rạp hát), đều là chỗ biến hiện của thức tâm, nghiệp
duyên, nên nói là như huyễn, thế giới như bọt, thân nầy như bóng. Thân
tâm thế giới còn hư vọng chẳng phải thực, vậy thì hết thảy hữu vi pháp
tướng ngoài ra có thể biết được. Thế nhưng chúng sanh ở đường mê tuy
biết thân tâm thế giới chẳng phải thực, hoặc do lần lữa, làm biếng bỏ
qua, chẳng thể siêng làm sự quán như mộng, như huyễn, như bọt, như bóng,
vì thế lại cảnh sách chúng nó rằng: "như sương móc, như làn chớp",
sương móc thì mặt trời mọc lên liền tan biến đi, chẳng lưu lại lâu, làn
chớp thì vừa xẹt ra liền diệt mất, nháy mắt mà qua đi, chỗ bảo là: "mạng
sống con người ở trong khoảng một hơi thở" nên phải kíp dụng công như
cứu đầu bị cháy. Hợp năm thí dụ: như huyễn v.v... để quán, tức là quán ở
muôn việc như mộng, có tức chẳng phải có, cho nên nói như huyễn v.v...
năm thứ quán nầy là biệt, như mộng quán là tổng.
Quán sáu thí
dụ nầy, tuy là quán chư pháp không tướng, tức là quán tánh như như, vì
tánh tướng vốn dung thông. Cho nên quán duyên sanh liền có thể khế hợp
vào như như bất động, cho nên vô vi pháp tánh từ quán hữu vi pháp tướng
như mộng, như huyễn bắt đầu hạ thủ, ấy là hai bên chẳng trước, hợp với
trung đạo. Nghĩa nầy trước đã nói tường tận. Nay lại lấy tam tánh, tam
vô tánh để nói. Trong sáu thí dụ, tùy đem ra một thí dụ nào, đều có thể
tỏ rõ lý tam tánh, tam vô tánh. Nay hãy đem thí dụ tổng quát như mộng ra
nói, các cái khác có thể theo đó mà biết.
Tam tánh tam vô tánh
thấy ở kinh Lăng Già, và các kinh luận của Pháp Tướng tông. Ðây là
nghĩa tinh yếu của Pháp Tướng tông. Phật thuyết pháp tướng nguyên vì tỏ
rõ cái nầy, nếu chẳng biết chú trọng, chỉ day về chỗ vụn vặt để phân
tích, tuy đem hết thảy pháp tánh phân tích rất tường tận, cũng chẳng
tránh khỏi vào biển đếm từng hạt cát, làm mất tông chỉ của pháp tướng
đi. Phải biết, nghĩa của tam tánh tam vô tánh, kẻ học tánh tông cũng nên
thông hiểu, vì nghĩa nầy thông suốt tánh, tướng, nếu biết nghĩa nầy thì
ở duyên khởi tánh không lại càng có thể thấu suốt, tu trì quán hành lại
càng dễ đắc lực. Vì chưng chỗ ở phía trên nói như mộng quán còn là tông
chỉ lớn về sự quán tổng quát. Nếu y theo lý tam tánh tam vô tánh mà
quán như mộng, thì lại càng vào chỗ sâu xa vi diệu.
Sao gọi là
tam tánh: 1) biến kế sở chấp tánh, 2) y tha khởi tánh, 3) viên thành
thực tánh. Biến kế chấp: nghĩa là tính toán so sánh, chấp trước khắp cả,
tức là chỗ Tánh tông thường nói là phân biệt, chấp trước, phan duyên,
vô minh, vọng tâm, vọng tưởng v.v... Tánh tông cũng gọi đó là phân biệt
tánh. Ðây là vọng tưởng, làm sao gọi nó là tánh ư? ý ở chỗ tỏ rõ tuy là
vô minh vọng tưởng, nhưng là chỗ biến hiện của chân tâm, chẳng phải là
lìa chân thực tánh mà riêng có. Nhưng Tướng tông gọi là biến kế chấp
tánh là riêng đem phàm-vị mà nói, còn Tánh tông gọi là phân biệt tánh
thì đem gồm cả phàm thánh mà nói. Phân biệt tánh của thánh-vị là tỏ rõ
nó ứng duyên thị hiện, đối cơ thuyết pháp, chẳng sai mảy may, giống như
là có phân biệt, vì chưng theo bên chúng sanh để dòm nó thì nói như thế
mà thôi, chẳng phải bảo là thánh vị còn khởi niệm phân biệt. Phải biết
như thế.
Y tha khởi tánh: tức là chỗ nói duyên khởi, duyên sanh
tánh khởi của Tánh tông, đây chính là tướng dụng của bổn tánh tùy duyên
hiện khởi, tướng dụng nguyên chẳng ly tánh thể, nếu không có tánh thể
liền không có tướng dụng, nên gọi là y tha khởi tánh. Y có nghĩa là
nương theo, tha là trỏ duyên mà nói.
Viên thành thực tánh: viên
là viên mãn, thành là vốn đầy đủ. Hai chữ viên thành là theo thể mà
nói, tỏ rõ nó vốn viên mãn đầy đủ, chẳng phải là pháp tạo tác. Cũng theo
gồm cả tướng, dụng mà nói, có nghĩa là tướng dụng là cái vốn có đầy đủ
của thể tịnh đức viên mãn. Thực: nghĩa là chân thực, tức là chỗ Tánh
tông thường nói là pháp giới, chân như, như như, chân tâm, thực tướng,
viên giác, tự tánh thanh tịnh tâm v.v... danh từ của nó vô lượng. Tánh
tông cũng gọi nó là chân thực tánh.
Sao gọi là tam vô tánh? 1)
tướng vô tánh, 2) sanh vô tánh, 3) thắng nghĩa vô tánh. Chữ vô rất linh
hoạt, có ý là phi (chẳng phải), có ý là không nó, tức là chẳng thể chấp
trước. Tướng vô tánh: là chúng sanh ở hết thảy sự vật tính toán bậy cho
là có ngã có pháp mà chấp trước nó, tức là biến kế chấp. Biết đâu rằng
ngã tướng pháp tướng của biến kế sở chấp hoàn toàn do ở nhận lầm, thí dụ
như nhận sợi dây làm con rắn, chẳng những tướng của con rắn chẳng phải
thực, ngay đến tướng của sợi dây lại sao từng có chân thực, nên nói
tướng vô tánh, có nghĩa là tướng hư vọng chẳng phải là tánh chân thực.
Phải thể-hội trong tánh vốn không có tướng, phải chẳng trước tướng mà
không nó, mới là tánh.
Sanh vô tánh: sanh là duyên sanh, vì
chưng hết thảy pháp chỉ nương theo nhân duyên tụ hội giả hiện ra tướng
sanh khởi mà thôi, chỗ gọi là y tha khởi. Thế thì đã là duyên sanh, có
thể thấy hết thảy pháp vốn không có thực thể, thể chỉ là tịnh tánh, cũng
như sự sanh khởi của sợi dây cũng do nhân duyên tụ hợp lại mà có, sợi
dây chẳng phải là thực thể, thể của nó vốn là bố, nên nói là sanh vô
tánh, có nghĩa là pháp duyên sanh vốn chẳng phải là chân tánh. Phải thể
hội pháp duyên sanh tuy lấy tánh làm thể mà ở trong tánh thể không có
cái duyên sanh nầy, phải chẳng trước duyên sanh mà không nó mới là tánh.
Thắng nghĩa vô tánh: là tánh chân như, là bản thể của hết thảy
pháp. Ðệ nhứt nghĩa cũng gọi là thắng nghĩa, tánh nầy chân thực, chúng
sanh vốn có đầy đủ, vốn nó viên mãn, chỗ gọi là viên thành thực vậy. Thế
nhưng thắng nghĩa cũng là danh tự, như bố cũng là giả danh, nên nói
thắng nghĩa vô tánh, có nghĩa là thắng nghĩa cũng là danh ngôn mà chẳng
phải tánh. Phải thể-hội trong tánh chân thực vốn không có danh tự thắng
nghĩa, phải luôn cả thắng nghĩa cũng chẳng trước mà không nó, mới là
tánh chân thực.
Tánh tông lập danh hơi khác, danh từ tướng vô
tánh thì gọi là vô tướng tánh, có nghĩa là chẳng trước tướng mới là chân
tánh, danh từ sanh vô tánh thì gọi là vô sanh tánh, có nghĩa là chẳng
trước duyên sanh mới là chân tánh, danh từ thắng nghĩa vô tánh thì gọi
là vô tánh tánh, có nghĩa là tánh cũng chẳng trước mới là chân tánh.
Nghĩa nầy chính là hiển tướng đã ly tánh mà không có thể, tánh cũng
chẳng phải ly tướng mà tồn tại riêng biệt, ở nghĩa càng viên. Cho nên vô
tánh tánh cũng có tên là vô chân tánh, có nghĩa là luôn cả cái kiến
chân thực cũng không tồn tại mới là tánh chân thực, lại có tên là vô vô
tánh. Chữ vô thứ nhì có nghĩa là không, không có, tức là chẳng trước cái
không, cái không có, thì mới là tánh chân thực.
Ở trên giải
thích nghĩa sơ lược của danh từ đã xong, sẽ lại theo thí dụ như mộng để
tỏ rõ lý tam tánh, tam vô tánh. Phật nói tam tánh, tam vô tánh chỗ để
hiển sự viên dung của tánh tướng. Các bực có trí ắt phải hiểu rõ lý tam
tánh tam vô tánh để thông suốt tánh tướng, thì có thể chẳng trước không
hữu, hợp với trung đạo. Mà kinh nầy khiến quán hết thảy hữu vi pháp như
mộng là vì làm sự quán như vậy liền có thể thấu suốt lý tam tánh, tam vô
tánh. Nói một cách khác, nếu hiểu rõ tam tánh, tam vô tánh thì mới hiểu
rõ triệt để hết thảy hữu vi pháp như mộng. Nay vì thế đem nghĩa như
mộng cùng với nghĩa tam tánh tam vô tánh hợp lại mà diễn thuyết, để mong
ở hai nghĩa nầy đều có thể thấu suốt. Ðến như năm thí dụ huyễn v.v...
nguyên là thuyết để chứng minh nghĩa như mộng, nên tuy chỉ theo như mộng
để thuyết, mà ở nghĩa đã đầy đủ.
Phải biết, trong tâm thanh
tịnh vốn nó ly tướng, gọi đó là tánh chân thực, cũng như tâm nếu thanh
tịnh liền không có tướng mộng vậy. Chỉ nhân chân tánh vì cớ tùy duyên
hiện khởi ra các tướng thân tâm (đây là vọng tâm, tức là thức), thế
giới, đây gọi là y tha khởi tánh, không khác gì trong lúc ngủ tùy duyên
mà hiện cảnh tướng ở trong mộng. Mà kẻ phàm phu vì chẳng tỏ rõ hết thảy
hữu vi pháp đã là duyên sanh hư tướng, vì sanh vốn vô sanh, bèn đến nỗi
suy tính so sánh, chấp trước, nhận hư làm thực, đây gọi là biến kế chấp
tánh, chính như lũ người ngu si vì chẳng biết mộng là duyên sanh hư
tướng vì hữu tức phi hữu, mà chấp mộng cảnh là chân thực. Thế nên nếu
biết cảnh tượng trong mộng đều là chỗ tâm biến hiện ra, hữu tức phi hữu,
thì phải biết vô tướng tánh lại cũng như thế. Hết thảy pháp đều là tâm
đạo, nên gọi là hữu vi. Vậy thì pháp hữu vi đã đều là tâm đạo, thì có
thể thấy tâm tánh là thể chân thực, hết thảy hữu vi pháp chẳng qua y
theo tâm thác ra sự, là tướng tùy duyên hiện khởi mà thôi. Thế nên phàm
chỗ có tướng đều là hư vọng, há có thể chấp cho là thực ư? Nếu chấp nó
tức là mê tướng, mà muội tánh. Vì cớ gì? Vì tánh vốn không có tướng. Nếu
biết tâm vốn không có mộng, chỉ do vọng tưởng huân khởi, mà vọng tưởng
vốn hư giả, cho nên cái mộng do vọng tưởng huân khởi là cái có tức là
không có, phải biết, vô sanh tánh lại cũng như thế. Hết thảy hữu vi pháp
đã là sanh tướng duyên hội giả hiện ra, thì có thể thấy trong tánh thể
vốn nó vô sanh. Cho nên hết thảy hữu vi pháp đã chẳng thể chấp cho là
thực, ngay đến cái hư tướng duyên sanh của nó, trong tâm cũng chẳng thể
tồn tại, nếu còn tồn tại cái đó thì vẫn là mê muội tánh. Vì cớ gì? Vì
tánh chẳng phải duyên sanh. Nếu biết tâm trong lúc mộng và tâm trong lúc
tỉnh chẳng phải là hai tâm, chỉ do cái cớ nằm ngủ gọi là mộng tâm, thực
ra thì chẳng phải ngoài cái tâm mộng có cái tâm tỉnh riêng biệt. Phải
biết, vô tánh tánh lại cũng như thế. Vọng tâm, chân tâm vốn nó chẳng
hai, chỉ vì do cái cớ vô minh bất giác gọi là vọng tâm. Nếu cái vô minh
đã minh, cái bất giác đã giác thì vọng tâm tức là chân tâm. Cũng như nếu
chẳng đi ngủ thì tâm lúc mộng nguyên là tâm lúc tỉnh. Nên người tu hành
chẳng thể ở ngoài vọng tâm chấp có một cái chân tâm riêng biệt. Nói một
cách khác, tức là chẳng nên diệt sắc để tỏ rõ không, diệt tướng để thấy
tánh. Nếu như thế thì vẫn là mê muội tánh. Vì cớ gì? Vì chẳng trước ở
tánh mới là tánh chân thực. Tại sao như thế? Bởi nếu có thủ trước tức là
ngã tướng, ngã kiến, mà chẳng phải là tự tánh thanh tịnh tâm.
Chỗ
nói phía trên là lấy nghĩa của như mộng để nói tam tánh, tam vô tánh,
như thế thì nghĩa của tam tánh, tam vô tánh đã hiểu thấu triệt để vậy.
Liền lại lấy nghĩa của tam tánh, tam vô tánh nói như mộng, nên nghĩa của
như mộng cũng có thể hiểu thấu triệt để. Gồm xem nghĩa tam tánh tam vô
tánh nói trên, có thể biết công phu khẩn yếu chỉ ở chẳng nổi dậy biến kế
chấp, thì y tha khởi tức là viên thành thực. Vì cớ gì? Vì ở tánh tướng
đều chẳng kế chấp, tuy phừng lên hiện tướng mà tâm đã đành không có
tướng, tuy thị hiện vào sanh tử mà bổn tánh thì vô sanh. Tính toán so
sánh tức là phân biệt, chỗ gọi là thức thứ sáu, chấp trước chỗ gọi là
thức thứ bảy, đây tức là vô minh bất giác, đây tức là ngã kiến. Nên chủ
chỉ duy nhứt của kinh nầy ở chỗ vô trụ để phá ngã. Gồm xem nghĩa như
mộng nói trên, có thể biết làm sự quán như mộng là thông suốt đến đáy,
tức là từ thô đến tế, từ cạn đến sâu, từ lúc bắt đầu tu cho đến cứu
cánh, hết thảy hành môn đều chẳng ngoài thứ quán nầy. Vì chưng nói một
chữ MỘNG là thí dụ vô minh, bất giác. Lại nói một chữ NHƯ là thí dụ cái
vô minh bất giác giống như có mà thực không có, tánh vốn chẳng phải có,
hết sức là tinh vi đích xác. Chẳng những thế, như mộng là giống như làm
mộng. Giống như làm mộng chính hiển hết thảy hữu vi pháp là có mà tức là
chẳng phải có, cũng hiển hết thảy hữu vi pháp là chẳng phải có mà có.
Quán cái có tức là chẳng phải có là chẳng thể trước hữu. Quán cái chẳng
phải có mà có là chẳng thể trước không. Nên lời nói như mộng, chẳng phải
chỉ khiến quán cái có như mộng, lại khiến quán luôn cả cái không cái
có, hết thảy đều như mộng. Quả nhiên nếu có thể ở hết thảy hữu vi pháp
có tức là chẳng phải có, thì có ngại gì ở hết thảy hữu vi pháp chẳng
phải có mà có. Ðây gọi là làm lớn phật sự trong mộng. Người học bắt đầu
hạ thủ liền làm sự diệu quán viên đốn nầy, thì đã chẳng chấp thực, lại
chẳng chấp hư, đã chẳng chấp vô, cũng chẳng chấp hữu, tức là kinh nầy
chỗ nói vô ngã tướng, vô pháp tướng, diệc vô phi pháp tướng, một cái
không đến triệt để. Như thế tuy dính vào cái hữu mà chẳng trụ hữu, tuy
thực hành cái không mà chẳng trụ không, cho nên có thể ở khoảng giữa khế
hợp vào thực tướng của vô tướng vô bất tướng, thế thì như như bất động
vậy. Vì chưng đã chẳng trụ, mà dính vào cái hữu thực hành cái không,
chính chỗ gọi là tức QUÁN của CHỈ. Thực hành cái không, dính vào cái hữu
mà chẳng trụ, chính chỗ gọi là tức CHỈ của QUÁN, nên tác như thị quán
tức là vận cả hai cái chỉ và quán, liền có thể định tuệ đồng đều. Thế
thì chứng như thị liền có thể đạt đến tịch mà thường chiếu, chiếu mà
thường tịch, tịch chiếu đồng thời, cho nên nói hết thảy chư phật từ kinh
nầy ra. Nói tóm lại, một bộ Kim Cương Bát Nhã, tôn chỉ vi diệu của vô
trụ trọn vẹn ở bất thủ ư tướng, như như bất động, mà muốn đạt đến bất
thủ ư tướng, như như bất động, trọn vẹn ở: "nhứt thiết hữu vi pháp, như
mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán". Hết
thảy người học phải từ chỗ nầy mà quán, tùy thuận mà vào. Sự quán nầy
chính là kim cương tuệ kiếm, không cái vững chắc nào mà chẳng dứt, không
vô minh phiền não nào mà chẳng phá. Nên phải diễn thuyết như thế, thụ
trì như thế, vĩnh viễn lưu thông vô thượng đại pháp nầy để thiệu long
phật chủng.
Phật thuyết thị kinh dĩ, trưởng lão Tu Bồ
Ðề cập chư tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, nhứt thiết thế gian
thiên nhân, a tu la văn phật sở thuyết dai đại hoan hỉ, tín thụ phụng
hành.
Dịch nghĩa: Phật nói kinh nầy rồi, trưởng lão Tu
Bồ Ðề và các tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, hết thảy thế
gian, trời, người, a tu la nghe chỗ phật nói đều vui mừng lớn, tín thụ
phụng hành.
Phật thuyết thử kinh dĩ: có nghĩa là thậm thâm kinh
điển thuyết đã cứu cánh, không nghĩa nào là chẳng rõ, chữ dĩ chính cùng
với hoan hỉ phụng hành ở văn dưới hô ứng nhau, để hiển ý cơ và giáo
đúng khít nhau, đại chúng đều có thể nghe pháp rồi thực hành, lại hiển
tín phụng lưu truyền vĩnh viễn chẳng cùng tận, có ý tuy gọi là xong mà
thực chưa từng xong.
Trưởng lão là người đương cơ trong tăng
chúng nên xếp lên hàng đầu, thứ nhì xếp lên tứ chúng đều là đệ tử của
phật, tỳ kheo, tỳ kheo ni là hai chúng xuất gia, còn có sa di, sa di ni
chưa thọ cụ túc giới cũng thu nhiếp ở trong đó. Ưu bà tắc, ưu bà di:
dịch là thanh tín sĩ, thanh tín nữ, cũng gọi là cận sự nam, cận sự nữ có
nghĩa là kẻ thanh tịnh tam nghiệp, tín phụng đạo pháp, có thể thân cận
tam bảo, thừa sự cúng dường, đây là hai chúng tại gia. Người tại gia
muốn vào cửa phật trước phải thỉnh tỳ kheo thụ tam qui y, nếu không có
tỳ kheo, có thể thỉnh tỳ kheo ni, đây là chính thức vào cửa tam bảo, có
thể gọi là đệ tử của phật, cũng gọi là đệ tử của tam bảo. Kế tiếp thọ
ngũ giới thì gọi là ưu bà tắc, ưu bà di, nếu chưa thọ ngũ giới thì chưa
thể gọi tên nầy được. Lại tiến lên có thể thọ bồ tát giới. Bồ tát giới
có giới vì khắp cả kẻ tại gia xuất gia cùng thuyết, như chỗ thuyết trong
kinh Phạm Võng 10 trọng giới, 48 khinh giới. Có giới chuyên vì hai
chúng tại gia thuyết, như chỗ thuyết trong kinh Ưu Bà Tắc Giới 6 trọng
28 khinh, nếu người tại gia tự xét mình có thể mỗi mỗi như người xuất
gia thì có thể cùng với người xuất gia cùng thọ giới. Nếu không, thì
chẳng bằng thọ 6 trọng 28 khinh giới, vì thọ giới liền phải phụng trì.
Nếu như thọ mà chẳng trì thì mang tội chẳng ít, ắt phải để ý kỹ lưỡng,
thẩm xét đo lường mà sau sẽ thọ giới. Sau khi thọ bồ tát giới thì gọi là
bồ tát giới ưu bà tắc, ưu bà di. Nếu còn chưa tam qui y chánh thức thì
chỉ gọi là tín sĩ, tín nữ, chẳng gọi là đệ tử phật, và ưu bà tắc, ưu bà
di. Ưu bà tắc, ưu bà di đều có thể giảng kinh, thuyết pháp mà làm pháp
sư, chỉ chẳng thể làm qui y giới sư, vì cớ tự mình chưa thọ cụ túc giới.
Tam qui y tức là giới. Ðời nay có kẻ day về thiện tri thức tại gia cầu
qui y, như thế là sai lầm. Phải biết, thỉnh cầu qui y tức là thỉnh cầu
vì mình truyền tam qui y giới, việc nầy chỉ có thể day về thiện tri thức
xuất gia mà thỉnh cầu. Còn nếu day về thiện tri thức tại gia thỉnh cầu
giảng kinh thuyết pháp, xin làm đệ tử, nương dựa làm thầy mình, thì đã
đành là có thể được, nếu chí nguyện người nầy chân thành có thể chịu sự
giáo hoá, thì thiện tri thức cũng chẳng nên một mực từ chối. Chẳng kể
chỗ tụ hội, hoặc ở giữa đường, hai chúng tại gia phải kính nhường người
xuất gia lên phía trước. Tuy xuất gia, tại gia cùng là phật tử, nhưng
lấy thứ tự mà nói thì tỳ-kheo ví như con trưởng, con thứ là tỳ kheo ni,
sa di, sa di ni, rồi mới đến ưu bà tắc, ưu bà di, chẳng thể rối loạn thứ
tự. Phải biết, người xuất gia cắt bỏ ân ái, xa lìa trần tục, đã ở hàng
lớp trụ trì tam bảo, há hai chúng tại gia thân còn lăn lộn ở ngũ dục,
chưa được thanh tịnh có thể bằng được ư, cho nên phải tôn trọng. Ngay
đến sư phá giới cũng chẳng thể coi rẻ. Vì cớ gì? Phải biết, giới của kẻ
xuất gia rất nhiều và nghiêm trọng, cụ túc giới của tỳ kheo có 250 điều,
cụ túc giới của tỳ kheo ni có hơn 370 điều, nếu chẳng để ý một chút
liền đã xâm phạm giới, hai chữ phụng trì chẳng dễ gì nói. Ngay đến sa
di, sa di ni cũng thọ 10 giới, so với người tại gia đã nhiều gấp bội, há
có thể khinh xuất chê dèm phê bình. Quả nhiên biết sâu kẻ đó ngôn và
hành trái ngược nhau, hoặc chẳng gìn giữ thanh qui, thì chỉ có thể kính
nhi viễn chi, đây là tuân theo phật chế, chỗ gọi là xua đuổi một cách êm
lặng là vậy. Êm lặng là không nói cái tội lỗi của nó lên, xua đuổi có
nghĩa là lảng tránh xa nó, ngay đến đối với hai chúng tại gia mà ngôn
hành trái ngược nhau cũng phải như thế. Ðây là bổn phận người tu hành
phải giữ chẳng nên xao nhãng.
Tóm lại, nếu muốn cho phật pháp
xương minh, ắt phải ở trong tứ chúng, tại gia xuất gia đều có kẻ đạo cao
đức trọng, được mọi người khâm phục để làm lãnh tụ. Lại còn phải có
chánh trị sáng sủa tốt đẹp, những nhân vật chủ yếu trong chánh phủ cũng
có thể tín phụng tam bảo, cùng duy trì bảo hộ mà chỉnh đốn phật pháp,
thì mới có thể giúp ích cho phật pháp. Y theo phật chế, người xuất gia
nếu làm trái phật pháp, thì bực đại đức lãnh tụ trong hội tăng-già liền y
theo luật của phật mà trừng trị, nếu phạm luật quốc gia cũng phải trải
qua bực đại đức lãnh tụ đồng ý, trước khiến hoàn tục rồi sau mới có thể y
theo pháp luật thế gian để trừng trị. Mà càng ở lúc nhận cho cạo đầu
xuất gia, cần phải chọn lựa tư cách cho nghiêm mật, mới là đạo gốc chính
nguồn trong.
Sa bà là một đại thiên thế giới, ở trong có mười
vạn vạn tứ thiên hạ, mười vạn vạn lục dục thiên v.v..., huống chi lúc
phật thuyết pháp, thập phương vô lượng số thế giới bồ tát thiên long tới
phó pháp hội rất nhiều, rất nhiều, nên nói nhứt thiết thế gian. Nói một
chữ thiên, và chữ tu la, tức là nhiếp luôn bát bộ (thiên, long, tu la,
dạ xoa, càn thát bà, ma hầu la già, nhân, phi nhân là bát bộ). Chữ nhân ở
đây là trỏ những người ở ngoài tứ chúng (tại gia xuất gia). Chẳng nói
bồ tát nghĩa nó có hai: 1) Kinh nầy thuyết ở hội thứ chín trong pháp hội
đại bát nhã, hội trước đã nói tường tận bồ tát ra rồi, nay lược đi. 2)
Kinh nầy là vì kẻ phát đại thừa, tối thượng thừa mà thuyết, có thể thấy ở
trong hội nầy đều là những bồ tát ma ha tát phát vô thượng bồ đề tâm,
nên chẳng nói ra riêng rẽ. Dai đại hoan hỉ: là nghe đại pháp nầy tâm
khai ý giải, đây là hoan hỉ, vả lại biết tín thụ phụng hành là gánh vác
như lai, sẽ đắc bồ đề, có hy vọng thành phật, chẳng phải giống như
chuyện nhỏ mọn, nên đại hoan hỉ, đại chúng ở tại pháp hội nầy, không ai
là chẳng như thế, cho nên, đều đại hoan hỉ.
Tín: tức là chữ tín
trong câu "tín tâm bất nghịch". Thụ: có nghĩa là giải, tức là chữ giải
trong câu "thâm giải nghĩa thú". Vì nó có cái tín tâm bất nghịch, cái
thụ tâm giải, cho nên phụng hành. Phụng: là vâng theo, có nghĩa là vâng
theo nghĩa thú chỗ thuyết trong kinh. Chữ hành: gồm cả tự lợi, lợi tha,
có nghĩa là tự mình đã vâng theo mà hành, lại tuyên bố rộng kinh nầy ra,
vì người khác diễn thuyết, khiến cho hết thảy chúng sanh đều đại hoan
hỉ. Tín thụ như thế, phụng hành như thế, khiến cho giòng nước tuệ chảy
dài, mạch pháp lưu thông vĩnh viễn, truyền ra trần kiếp mà không đình
trệ, phổ cập muôn loài mà không bỏ sót, thì khắp cả thế giới, cùng tận
vị lai, chỗ có kinh nầy tức là chỗ phật thuyết pháp. Trước nói "phật
thuyết kinh nầy xong" chẳng qua là theo sự tướng của một thời mà nói vậy
thôi. Ý của người kết tập kinh nầy là ở chỗ hết thảy đại chúng y theo
giáo phụng hành, phật chủng vĩnh viễn chẳng dứt, thì sự thuyết kinh nầy
của thế tôn đã đành là vĩnh viễn chưa có lúc nào xong vậy. Chẳng những
người kết tập kinh nầy đầy đủ nguyện lớn, nay lũ chúng ta ngày nay kẻ
thuyết, kẻ nghe, kẻ phát khởi pháp hội nầy, kẻ duy trì pháp hội nầy cũng
đều đại hoan hỉ, tín thụ phụng hành, cùng đầy đủ nguyện nầy. Có đầy đủ
nguyện nầy mới là thiệt tín thụ, thiệt phụng hành, thiệt hoan hỉ. Ðây
chính là lũ chúng ta chỗ báo ân phật. Kẻ bất tuệ nầy tự hổ thẹn ở bộ
kinh thậm thâm nầy chưa cùng tận lượng diễn thuyết, chẳng qua như ở
trong biển lớn nói ra một giọt nước vậy thôi! Thế nhưng ngay một giọt
nước nầy đã đầy đủ mùi vị của trọn biển nước. Tôi nguyện các bực thiện
tri thức, từ thực tín mà vào tịnh tín, ở hữu vi mà chứng vô vi, lấy hành
nguyện nầy trang nghiêm phật độ, hoá độ hữu tình, liền có thể tức thân
thành phật, há chỉ quyết định sanh về tây phương cực lạc quốc độ mà
thôi!
HẾT CUỐN THỨ NĂM