Chỗ chẳng giống nhau của nửa bộ kinh trước và nửa bộ kinh sau là: 1)
Nửa bộ trước là vì kẻ sắp phát đại tâm tu hành mà nói, dạy cho nó làm
sao phát tâm, làm sao độ chúng, làm sao phục hoặc, làm sao đoạn hoặc.
Nửa bộ sau là vì kẻ đã phát đại tâm tu hành mà nói. Vì chưng phát tâm mà
nói rằng tôi có thể phát có thể độ, có thể phục hoặc đoạn hoặc, như thế
thì vẫn là phân biệt, vẫn là trước ngã, vẫn phải khiển trừ. Nửa bộ sau
chuyên tỏ rõ nghĩa nầy. Phải biết, có chỗ thủ trước liền bị nó trói buộc
chẳng được giải thoát. Phàm phu vì có nhân ngã chấp (tức là chấp sắc
thân làm ngã), nên bị sanh tử trói buộc, chẳng lìa ra khỏi luân hồi, nhị
thừa vì có pháp ngã chấp (tuy chẳng chấp có sắc thân mà chấp có pháp
ngũ uẩn, thì vẫn là ngã kiến chưa quên, nên gọi là pháp ngã), bèn bị
niết bàn trói buộc đến nỗi trầm không trệ tịch. Bồ tát đại bi đại trí
chẳng bị hết thảy trói buộc, nên không quải ngại mà đắc tự tại, đây gọi
là chẳng trụ ở đạo. Cho nên còn có một chút tình chấp liền phải rửa gột
sạch hết mà không trụ ở một cái gì.
2) Nhân ngã chấp, pháp ngã
chấp, nói một cách đơn giản là ngã chấp, pháp chấp. Tầm thường nói là
kinh nầy trước phá ngã chấp, sau phá pháp chấp, thì chưa tránh khỏi sơ
lược. Nửa bộ trước mở miệng ra liền nói: "Bồ tát ư pháp ưng vô sở trụ"
và "vô ngã tướng vô pháp tướng diệc vô phi pháp tướng, bất ưng thủ pháp
bất ưng thủ phi pháp, pháp thượng ưng xả hà huống phi pháp v.v..." Nói
đi nói lại nhiều lần, thì sao được bảo là chỉ phá nhân ngã chấp ư? Phải
biết, ngã pháp hai chấp đều có thô có tế, thô thì gọi là phân biệt ngã
pháp hai chấp, vì chưng đối cảnh gặp duyên do phân biệt mà nổi dậy. Tế
thì gọi là câu sanh ngã pháp hai chấp, đây là chẳng đợi phân biệt hễ nổi
dậy niệm liền có, nó cùng với niệm đều sanh ra. Kinh nầy nửa bộ trước
là khiển trừ thô chấp, như nói: "chẳng nên trụ lục trần bố thí, chẳng
nên trụ lục trần sanh tâm, ưng vô trụ sanh tâm, ưng sanh vô sở trụ tâm,
ưng ly nhứt thiết tướng v.v..." đều là khiển trừ cái bịnh ở trên cảnh
duyên sanh tâm phân biệt, bèn đến nỗi trụ trước. Chỗ bảo là ngã pháp hai
chấp do phân biệt mà nổi dậy là vậy, cho nên thô. Làm sao khiển trừ nó?
Ly tướng mà thôi ! Nửa bộ sau là khiển trừ tế chấp, tức là ở lúc khởi
tâm động niệm chẳng nên trụ trước. Nếu còn có sở niệm tức là tình tưởng
của ngã chấp pháp chấp chưa hoá, thì liền là căn bịnh thủ tướng, trước
cảnh. Ðây là khiển trừ ngã pháp hai chấp cùng với tâm niệm đồng thời đều
sanh, cho nên tế. Làm sao khiển trừ? Ly niệm mà thôi !
3) Trước
khiến ly tướng là khiển trừ sở chấp, sau khiến ly niệm là khiển trừ năng
chấp. Trước tôi đã chẳng nói ư : huyễn tướng sở chấp nổi dậy ở vọng
kiến năng chấp, nên vừa mới xem thì nghĩa thú kinh nầy trước cạn sau
sâu. Thế nhưng chẳng thể xem một cách cục bộ như thế, vì lúc khiển sở
chấp mà trong chỗ kín đáo đã gồm khiển luôn năng chấp. Vì cớ gì? Vì nếu
chẳng ly niệm thì không từ đâu mà ly tướng, nên nửa bộ trước tuy chưa
nói rõ ly niệm, thực ra đã đánh thức tỉnh chẳng ít. Như câu: "Năng tác
thị niệm phủ, ngã bất ưng tác thị niệm, ưng sanh thanh tịnh tâm, ưng
sanh vô trụ tâm, nhược tâm hữu trụ tắc vi phi trụ", đều là ly niệm. Ngay
đến câu nói: "ưng ly nhứt thiết tướng phát bồ đề tâm", thì người lợi
căn có thể lĩnh hội được tâm chỗ phát ra cũng chẳng nên trụ. Vì cớ gì?
Vì nói rõ hữu trụ tắc vi phi trụ. Trước nói kẻ tín tâm bất nghịch gánh
vác như lai sẽ đắc bồ đề, thì người này ắt đã lĩnh hội được ly niệm, nếu
chẳng như thế thì chưa đủ để nói gánh vác, sẽ đắc. Sở dĩ người xưa có
kẻ phán nửa bộ sau là thuần vì người độn căn mà thuyết, ý ở chỗ này, có
nghĩa là người lợi căn liền chẳng cần phải nói lại lần nữa. Vì người lợi
căn ở thế gian rất ít, nên chẳng thể nào mà không thuyết nửa bộ sau,
khiến kẻ độn căn được đó mà vào sâu, đây là ý của người xưa. Ta chẳng
thể vì lời nói trên mà hiểu lầm rằng nửa bộ sau cạn hơn nửa bộ trước.
Tuy thế, công phu ly niệm rất sâu, rất tế nhị, nếu chẳng mổ xẻ ra từng
tầng từng tầng một mà vào, thì không những một lớp người chưa dễ gì tiến
bộ, ngay đến kẻ lợi căn đã biết ly niệm nếu chẳng nghiền ngẫm mài dũa
cho thiệt kỹ lưỡng, thì công hành sao có thể triệt để. Như lột bẹ chuối,
nếu chẳng lột rồi lại lột thì há có thể suốt thấu bổn không, qui về vô
sở đắc ư? Phải biết, nửa bộ sau từ tỏ rõ ngũ nhãn trở về sau, càng
thuyết càng tinh tế. Ðến ở chứng phận chính là khiến công phu rất thẳng
mau đúng rõ ở trên một sợi lông nhỏ mà chứng nhập, chỗ gọi là "trực chỉ
hướng thượng". Nếu không hiểu rõ như thế, viên thì viên rồi vậy, nhưng
đốn thì còn chưa đốn. Nếu bảo một cách cục bộ rằng nửa bộ sau chuyên vì
kẻ độn căn mà thuyết, thì ở tôn chỉ của kinh này cũng chưa hợp hết. Lý
nầy chẳng thể nào mà không biết.
4) Nửa bộ trước nói "ly hết thảy
tướng mới là phát bồ đề tâm, mới là bồ tát lợi ích hết thảy chúng
sanh", là không cái bịnh trụ trước ngã pháp. Nửa bộ sau thì nói các câu
"không có pháp phát bồ đề, không có pháp gọi là bồ tát, và hết thảy pháp
đều là phật pháp", là không cái bịnh trụ trước ngã pháp hai cái đều
không. Nên phía trước là hai bên chẳng trước, mà phía sau là hai bên
chẳng trước cũng chẳng trước, phía trước là phát tâm phải ly tướng, mà
phía sau thì ngay đến cả cái tướng phát tâm cũng ly. Phải biết, nếu còn
có niệm năng ly thì vẫn là ngã và pháp y nguyên, liền đã phân biệt thủ
tướng, cho nên lại nói : "chẳng phải chẳng lấy cụ túc tướng đắc bồ đề,
ngã kiến tức chẳng phải ngã kiến, pháp tướng tức chẳng phải pháp tướng",
đều là để khiển đãng tình chấp vi tế. Khiển rồi lại khiển, đến chỗ năng
và sở đều ly, ngay cái ly cũng ly mới chứng bổn lai. Chỗ gọi là chứng,
không có gì khác, chỉ là hết phàm tình thì bổn thể tự hiện ra, chẳng
phải riêng có năng chứng, sở chứng. Chẳng những phàm tình không thể có,
ngay đến thánh giải cũng phải không có. Còn có một cái năng tu, sở tu,
năng chứng, sở chứng, sở chứng tức là thánh giải, tức là sở tri chướng
che lấp giác thể. Nên Kim cương Kinh Tụng của Di Lặc bồ tát rằng: "ở nội
tâm tu hành còn có cái ngã là bồ tát, đây là che lấp ở tâm, trái với
đạo bất trụ".Kinh Viên giác nói : "hết thảy bồ tát và mạt thế chúng sanh
phải nên lìa xa hết thảy cảnh giới huyễn hoá hư vọng". Kinh này nửa bộ
trước chẳng ngoài nghĩa này. Kinh Viên Giác lại nói : "Bởi cớ kiên chấp
trì tâm viễn ly, thì tâm như huyễn cũng lại viễn ly, viễn ly là huyễn
cũng lại viễn ly, ly viễn ly huyễn cũng lại viễn ly, đắc không chỗ ly,
tức trừ các huyễn". Kinh này nửa bộ sau chẳng ngoài nghĩa này.
5)
Nửa bộ trước là tỏ rõ hết thảy đều phi (chẳng phải), như nói phi pháp,
phi phi pháp, hữu trụ tắc vi phi trụ, để hiển cái chân thực độc đáo của
bát nhã chánh trí. Vì chưng trí này vốn chẳng nhiễm một mảy bụi, mà hết
thảy tướng thì không cái nào là chẳng hư huyễn, nên phải hết thảy chẳng
trụ, mà sau chánh trí hiển ra viên minh. Nửa bộ sau là tỏ rõ hết thảy
đều thị (phải), như nói "chư pháp như nghĩa, nhứt thiết pháp dai thị
phật pháp, thị pháp bình đẳng vô hữu cao hạ", để tỏ rõ lý thể nhứt như
của bát nhã, vì thể này là tông của vạn pháp. Hết thảy pháp đều là thực
tướng, nên phải bồ đề chẳng trụ mà sau lý thể viên dung. Do đây mà xem,
chỗ thuyên của một bộ kinh Kim Cương, là hai chữ Chân Như mà thôi! Sau
chót kết rằng : "bất thủ ư tướng, như như bất động", thì nghĩa thú trọn
bộ kinh ở hết thảy trong câu này. Lại trước tỏ rõ hết thảy đều phi là
khiến quán cái thể của chẳng biến. Chỗ gọi là chánh trí là trí như như,
tức là trí của thể. Sau tỏ rõ hết thảy đều thị là khiến quán cái dụng
của tùy duyên. Chỗ gọi lý thể là : lý là diệu lý thuộc tánh và dụng mà
nói, dụng chẳng ly thể nên gọi là lý thể. Lại trước đã hết thảy đều phi,
nên tuy đều đem ra nói : tắc phi và thị danh, mà ý chú trọng ở tắc phi,
chỗ gọi là tuy tùy duyên mà chẳng biến. Sau đã hết thảy đều thị, nên
tuy khiển trừ pháp chấp một cách tinh tế, mà nói ở pháp chẳng nói đoạn
diệt tướng, chỗ gọi là tuy chẳng biến mà tùy duyên. Tóm hết năm thuyết
trên để quán trọn bộ kinh, thì chỉ thú của trọn bộ kinh rõ ràng ở trong
tâm nơi mắt.
TỎ RÕ VÔ TRỤ ÐỂ HIỂN BÁT NHÃ LÝ THỂ
Nhĩ
thời Tu Bồ Ðề bạch phật ngôn : Thế tôn ! Thiện nam tử thiện nữ nhân
phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm, vân hà ưng trụ, vân hà hàng
phục kỳ tâm?
Dịch nghĩa : Lúc đó Tu Bồ đề thưa phật rằng
: Thưa thế tôn, trai lành gái lành phát tâm a nậu đa la tam miệu tam bồ
đề, làm sao phải trụ, làm sao hàng phục tâm mình?
Khoa nầy xem
ra như nổi dậy riêng biệt, thực ra thì thu nhiếp khít khao văn trước mà
tới. Chữ nhĩ thời chính là trỏ lúc phật thuyết kinh nghĩa quả báo đều
chẳng thể nghĩ bàn vừa xong. Ý trưởng lão bảo : đã phải ly danh tuyệt
tướng, mà thiện nam tử thiện nữ nhân rõ ràng mỗi người đều có tướng phát
tâm, vả rõ ràng có cái tên a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, vì chưng mỗi
người đều tự biết ta phải phát tâm, mỗi người đều tự biết a nậu bồ đề
là vô thượng pháp, há chẳng phải danh tướng của ngã và pháp vẫn y nguyên
ư? Trước nói : phải ly hết thảy tướng phát bồ đề tâm, nay lúc suy nghĩ
phát tâm thì liền trụ tướng rồi, làm sao tâm nầy riêng một mình trụ ư?
Nếu chẳng phải trụ, mà phải hàng phục thì há chẳng phải chẳng phát tâm
ư? Thế thì làm sao hàng phục tâm nó ư? Ý nầy là nói hai chấp chấp ngã và
pháp đã cùng với lúc phát bồ đề tâm đồng thời đều sanh. Hàng thì chẳng
phải phát tâm, trụ thì chấp ngã pháp, đây chính là day về trên một sợi
lông nhỏ xoi đục mà vào, chỉ thị người tu hành phải day về lúc khởi tâm
động niệm mà dụng công. Trưởng lão đại từ, nên thay mặt hết thảy chúng
sanh lại thỉnh khai thị phương tiện căn bản.
Trước nói : ưng vân
hà trụ, là hỏi bồ đề tâm phải làm sao an trụ khiến cho không rong ruổi
tan mất, nay hỏi vân hà ưng trụ là hỏi bồ đề tâm làm sao riêng một mình
nó phải trụ? Vì chưng nếu chẳng trụ ở pháp nầy, thì làm sao gọi là phát
bồ đề tâm? Trụ đã chẳng thể, hàng lại chẳng được, thế thì biết làm sao?
Ðây là vì nghe nói : "ư pháp ưng vô sở trụ", cho đến "hữu trụ tắc phi",
vì suy nghĩ bồ đề cũng là pháp, thì làm sao phải trụ ư? Vả trước nói :
ưng ly nhứt thiết tướng phát bồ đề tâm, nhứt thiết tướng thu nhiếp gồm
rất rộng, tướng của phát bồ đề tâm đương nhiên cũng ở trong đó. Sao đã
nói phải ly hết thảy tướng, lại nói phát bồ đề tâm? Nếu cũng phải ly,
thì sao gọi là phát bồ đề tâm ư? Người độn căn nghe pháp thường hay chấp
trước danh từ ngôn ngữ, dính cứng chẳng tiêu hoá. Trưởng lão ở môn nầy
lại là quanh co, vì hiện tại tương lai hết thảy kẻ dính cứng chẳng tiêu
hoá thỉnh cầu khai thị.
Phật cáo Tu Bồ Ðề ! Thiện nam
tử, thiện nữ nhân phát a nậu đa la tam miệu tam bồ để giả, đương sanh
như thị tâm : ngã ưng diệt độ nhứt thiết chúng sanh, diệt độ nhứt thiết
chúng sanh dĩ, nhi vô hữu nhứt chúng sanh thực diệt độ giả.
Dịch
nghĩa : Phật bảo Tu Bồ Ðề : trai lành gái lành phát a nậu đa la tam
miệu tam bồ đề phải sanh tâm như thế nầy : ta phải diệt độ hết thảy
chúng sanh, diệt độ hết thảy chúng sanh rồi, mà không có một chúng sanh
nào thực diệt độ.
Ðây chính là khai thị dạy dắt phương tiện để ly
tướng lúc khởi tâm động niệm. Xem khoa trên lời hỏi như không có biện
pháp nào, lại xem lời đáp khoa nầy hết sức nhẹ nhàng viên diệu. Dưới chữ
bồ đề người nhà Ðường viết kinh không có chữ tâm, phải nên theo đó. Thử
nghĩ : mở miệng ra nói một câu phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề,
liền nối tiếp nói : đương sanh như thị tâm, chính là tảo trừ cái nầy là
tướng của phát bồ đề tâm, nên nguyên bản chẳng dùng chữ tâm để tỏ bày ý
không có tướng. Ngay đem văn tự ra để bàn, chẳng cần chữ tâm cũng nói
được thông, vì chưng phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề tức là phát vô
thượng chánh đẳng chánh giác, chẳng thêm chữ tâm thừa ra, có gì mà không
thể được?
Hai chữ như thị trỏ ba câu dưới, chữ "ưng" trong câu
ngã ưng chính cùng với chữ sanh hô ứng nhau. Vì chưng hiện cái vốn có
của nó ra gọi là sanh, hiển cái vốn không có của nó ra gọi là phát, hết
thảy chúng sanh vốn là đồng thể, diệt độ hết thảy chúng sanh chẳng qua
là hoàn tất cái tánh phận chỗ nó sẵn có, là thiên chức phải làm trọn, có
gì là lạ khác đâu? Nếu cho là ta phải phát tâm nầy liền có ý khoa
trương, tức là trước tướng, nên chẳng nói đương phát, mà nói đương sanh
là vậy. Vì chưng nói một chữ "ưng" là khiển trừ cái trước ở bồ đề, ấy là
phá pháp chấp. Nói chữ "đương sanh" là khiển trừ cái trước ở phát tâm,
ấy là phá ngã chấp. Chữ ưng suốt hết ba câu dưới. Ý của ba câu lần lượt
tiến lên sâu, câu đầu nói độ sanh vốn là trách nhiệm phải làm trọn, dưới
câu nầy gồm có sao có thể tự khoe đây là bồ đề ư? Câu thứ nhì nói phải
độ chúng sanh đến hết, dĩ : có nghĩa là hết, dưới câu nầy gồm có chúng
sanh vô tận, thì trách nhiệm nầy lại sao đã có thể hết, thì sao có thể
tự bảo là ta có thể độ ư? Câu thứ ba lại tiến lên bước nữa, bảo phải
biết tuy độ được hết, mà gồm luôn thực không có một chúng sanh nào thiệt
có diệt độ. Vì cớ gì? Vì tánh của chúng sanh vốn là niết bàn, vả tuy
niết bàn mà cũng chẳng trụ, chúng nó nếu có trụ tức là chẳng phải diệt
độ. Thế thì há có một chúng sanh thực diệt độ, thì sao lại có thể tự bảo
có chỗ độ ư? Kẻ phát vô thượng chánh đẳng chánh giác phải trước giác
ngộ rõ độ chúng sanh là trách nhiệm phải làm trọn, vả trách nhiệm nầy
rốt cuộc chưa có thể trọn, ngay đến trọn cũng giống như chưa trọn. Phải
sanh tâm như thế nầy : không có năng độ, không có sở độ, không phân
biệt, không cái gì gọi là bồ đề, không có gì gọi là độ, ngay luôn cả
không có gì gọi là phát tâm, ngõ hầu cùng với thanh tịnh giác tâm ứng
với nhau.
Trước đáp rằng : thực vô chúng sanh được triệt độ, chú
trọng ở chữ "được", bảo tuy được diệt độ mà thực không chỗ nào được. Ở
đây chú trọng ở chữ "diệt độ", còn không chỗ nào gọi là diệt độ, thì còn
có cái gì nói là được hay không được, ý nầy lại sâu hơn trước, có thể
biết. Lại trước đáp tuy là năng độ sở độ đều khiển trừ hết, cái khiển
năng độ sở độ tuy cũng là khiển trước bồ đề tâm, nhưng ý câu nói bao
gồm, nay thì thân thiết rõ ràng mà nói rằng : "phải sanh tâm như thế
nầy", thì cái bóng của bồ đề nầy, của phát bồ đề tâm nầy, của chúng sanh
diệt độ nầy cũng chẳng hứa cho còn lại một mảy may. Nên lời tuy cùng
với câu đáp trước hơi giống nhau, mà ý thì như đầm sâu muôn trượng trong
suốt tới đáy. Lại có chỗ phải biết, nghe được chỗ nói trong nầy liền
phải y theo đó bắt đầu tu hành. Trước nói một khoa sanh tín đã đem tôn
chỉ của trọn bộ kinh thu nhiếp hết, sau đó là thêm vào sự mở rõ rộng
lớn, sự phát huy sâu kín. Lũ người học chúng ta phải từ chỗ sâu kín mà
hạ thủ mới có thể đạt đến cứu cánh. Cho nên nghe nửa bộ kinh trước lại
chẳng thể nào không nghe nửa bộ kinh sau. Kinh nầy tự nhiên chia làm bốn
bộ phận : tín, giải, tu, chứng, chẳng phải bảo là trong tín giải không
có tu công, ấy là chỉ thị chỗ công phu tu ở phía trước đều phải y theo
chỗ thuyết ở trong nầy mà tu. Phía trước chỗ tôi nói về tín tâm thanh
tịnh, sở dĩ cực lực phát huy tín giải hành chứng tuy có thứ lớp, mà
chẳng thể chia thứ lớp một cách cục bộ, tuy chia ra làm bốn thứ, mà
chẳng thể cho là bốn một cách cục bộ. Các bực thiện tri thức phải thể
hội ý nầy.
Hà dĩ cố? nhược bồ tát hữu ngã tướng nhân tướng chúng sanh tướng thọ giả tướng tắc phi bồ tát.
Dịch nghĩa : Vì cớ gì? Nếu bồ tát có tướng ta tướng người tướng chúng sanh tướng thọ giả tức chẳng phải là bồ tát.
Hà
dĩ cố: là tự hỏi vì cớ gì phải sanh tâm như thế? Những câu dưới có
nghĩa là : nếu chẳng sanh tâm như thế liền có đối đãi phân biệt, đã chưa
thoát các tướng phân biệt chấp trước ngã nhân v.v.. thì vẫn là phàm
phu, há là bồ tát? Câu sở dĩ giả hà ở văn dưới lại chuyển giải thích cái
sở dĩ nhiên của tắc phi bồ tát. Trước nói : nếu thủ pháp tướng tức là
trước ngã nhân chúng sanh thọ giả, nếu tự mình cho là phát bồ đề tâm
liền thủ trước bồ đề pháp thì bốn tướng vẫn y nguyên, nên nói tắc phi bồ
tát, vậy nên phải sanh tâm như thế. Bốn tướng ngã nhân chúng sanh thọ
giả tuy cũng giống với phía trước, mà ý thì rất tinh tế, vì chưng đã hết
thảy chẳng trước, chỉ trước ở phân biệt cực vi tế của thượng cầu hạ hoá
mà thôi. Chẳng thể lạm cho là giống như bốn tướng phổ thông một thứ.
Thế tôn nói câu nầy là khai thị hành giả: nếu phân biệt vi tế chưa sạch
hết thì căn bịnh ngã tướng vẫn còn, tuy gọi là bồ tát mà danh chẳng đúng
với thực, ý nầy cảnh sách rất sâu.
Sở dĩ giả hà? Tu Bồ Ðề, thực vô hữu pháp phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề giả.
Dịch nghĩa: Sở dĩ ra sao? Tu Bồ Ðề ơi, thực không có pháp phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Bản
xưa dưới chữ bồ đề cũng không có chữ tâm, câu nầy chính dẫn khởi văn
dưới "vô pháp đắc bồ đề", nên chữ tâm càng chẳng nên có. Bởi tại sao? Là
vì thừa tiếp khoa trên, khởi đầu khoa dưới, kết thành nghĩa hai khoa.
Thực vô hữu pháp a nậu đa la tam miệu tam bồ đề có hai nghĩa: 1) chữ
pháp có nghĩa là pháp chánh giác, thực vô hữu pháp vì vô thượng chánh
đẳng giác tức là nghĩa cứu cánh thanh tịnh. Trong thanh tịnh giác chẳng
nhiễm một mảy bụi, nếu còn một mảy may cái nầy là bồ đề tức là pháp
trần, chẳng phải là tịnh giác, thế thì chỗ phát tuy tên là bồ đề, thực
ra là tâm phân biệt mà thôi. Nên ắt thực vô hữu pháp mới có tên gọi là
vô thượng chánh đẳng giác. 2) Chữ "vô" có ý bảo là hữu pháp phát vô
thượng chánh đẳng giác thì thực không có sự và lý như thế. Vì chúng sanh
do vô thủy bất giác, nhân ái sanh ra thủ, bèn đến nỗi lưu chuyển, nên
chẳng kể pháp nào đều chẳng nên thủ, thủ pháp tức là bất giác, sao có
thể gọi là phát giác ư? Cho nên hai nghĩa thực vô, và có thể có pháp
phát vô thượng chánh đẳng giác đã rõ, thì văn trên cái sở dĩ nhiên của
"đương sanh như thị tâm" và "nhược hữu tứ tướng tắc phi bồ tát" có thể
hiểu rõ.
Ở trên chỗ tỏ rõ, chẳng ngoài kẻ phát bồ đề phải phát mà
chẳng tự cho là phát, không phát mà phát, như thế mới là thiệt phát, mà
trụ, hàng cũng ở trong đó. Vì chưng làm sao trụ hàng, trọn vẹn xem phát
tâm ra sao, chẳng cần cầu cái khác, nên chẳng đáp riêng biệt. Phải
biết, đương sanh như thị tâm tức là ý vô trụ mà trụ. Ba câu "ưng diệt độ
nhứt thiết chúng sanh" là ý hàng phục kỳ tâm.
Mới hỏi chỉ đáp
hàng trụ, hỏi lần nữa chỉ đáp phát tâm, đã đành rằng để tỏ bày cạn sâu
thứ tự (nếu chẳng phát tâm thì cần gì phải hỏi hàng trụ, nên phát tâm là
gốc, hàng trụ là ngọn, nên mới nói cạn sâu thứ tự), thế nhưng trước đáp
hàng, trụ mà phát tâm nhiếp ở trong đó, nay đáp phát tâm mà hàng trụ
nhiếp ở trong đó. Vả biết được làm sao hàng liền biết được làm sao trụ,
lại để bày tỏ bày ba việc chỉ là một việc, mà trước từ trên hàng phục mà
nói nguyên vì chẳng hàng mà hàng, nay đem trên phát tâm ra nói lại là
không phát mà phát, đây đều là phương pháp vi diệu phá ngã chấp, phải
nên ở những chỗ nầy hết lòng lĩnh hội mới là kẻ khéo dụng công.
ÐEM QUẢ ÐỂ TỎ RÕ NHÂN
Tu Bồ Ðề ư ý vân hà, như lai ư Nhiên Ðăng phật sở hữu pháp đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề phủ?
Dịch nghĩa: Tu Bồ Ðề ơi, ở ý ông ra sao, như lai ở chỗ Nhiên Ðăng phật có pháp đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề chăng?
Ðây
là dẫn việc đã qua để làm chứng. Lúc đó thế tôn chứng vô sanh pháp
nhẫn, vị lên bát địa, sự tích nhơn duyên trước đã nói tường tận rồi. Ngó
lên trên cực quả thì bát địa vẫn là nhân của người, mà ngó xuống dưới
kẻ phát tâm thì lại là quả vị, việc nầy liên hệ đến khoảng nhân và quả,
lý của nhân nhân quả quả là một, dễ hiểu rõ, nên đem ra nói để làm
chứng. Thế tôn phòng ngừa kẻ nghe thuyết trên nghi ngờ, bảo rằng phát
tâm nếu không có pháp thì làm sao đắc quả, nên đem quả ra nói để chứng
minh. Nếu biết đắc quả là không đắc mà đắc thì phát tâm ắt phải không
phát mà phát, thật rõ ràng. Khoa nêu lên là đem quả để tỏ rõ nhân gồm có
nhân quả hai lần, vì chưng đem quả pháp của phật địa để tỏ rõ nhân tâm
của bát địa, tức là mượn cái tâm của người quả bát địa để tỏ rõ cái hành
của kẻ sơ tâm phát giác.
Việc nầy trước sau dẫn ra hai lần, mà mệnh-ý chẳng giống nhau. Ý chẳng giống nhau có ba :
1)
Trước hỏi : "ở pháp có chỗ đắc không?" Ðáp rằng : "ở pháp thực không
chỗ đắc", ý của nó chú trọng ở chữ "đắc", tỏ rõ tuy là đắc mà chẳng trụ ở
tướng đắc, cùng với ý văn trên tứ quả đắc mà không có tướng đắc thông
suốt, để dẫn khởi văn dưới kẻ phát tâm phải sanh thanh tịnh tâm, chẳng
nên trụ các tướng sắc thanh v.v... lục trần. Chỗ nầy thì chú trọng ở chữ
pháp, vì lấy không có pháp đắc bồ đề để chứng minh nghĩa không có pháp
phát bồ đề ở văn trên.
2) Chữ pháp chỗ hỏi phía trước là trỏ
vô-sanh pháp nhẫn, chữ pháp ở đây là trỏ a nậu đa la tam miệu tam bồ đề,
lúc đó mới lên bát địa chưa đắc cứu cánh quả pháp. Phải biết, vô sanh
pháp nhẫn có tên là bồ đề phận pháp, chỗ gọi là chứng bồ đề từng phần,
chẳng phải là cứu cánh chứng đắc vô thượng chánh đẳng giác. Nên ý hỏi
chỗ nầy chú trọng ở văn dưới, ý tỏ rõ lúc đó vì chứng vô sanh pháp nhẫn,
không sanh một pháp nào nên được thụ ký, thế thì lúc đó tâm chẳng trụ
pháp có thể biết được. Vì lúc đó tâm chẳng trụ pháp, nên ngày nay chứng
đắc cứu cánh quả pháp viên mãn mà thành như lai, khiến cho người ta hiểu
rõ nhân như thế thì quả như thế, mảy may chẳng sai, thì phát tâm chẳng
nên trụ bồ đề pháp, không còn chút nghi ngờ gì nữa. Nếu hiểu lầm ý của
câu nầy là lúc đó đã đắc vô thượng chánh đẳng giác mà chẳng trụ pháp
tướng, thì sai xa quá. Xem văn dưới nói : "nhược hữu pháp như lai đắc a
nậu đa la tam miệu tam bồ đề", đủ chứng minh chữ "đắc" trong câu nầy
chẳng phải là trỏ lúc đó, vì lúc đó chưa thành như lai. Tóm lại mà nói,
đắc là sẽ đắc, chẳng phải là đã đắc.
3) Trước hỏi : "ư pháp hữu
sở đắc phủ", cũng là đem quả ra để tỏ rõ nhân, nhưng chữ pháp đã trỏ vô
sanh pháp nhẫn, nên trong đó chỉ đem một nghĩa quả bát địa để tỏ rõ nhân
phát tâm, chữ pháp ở đây là trỏ vô thượng bồ đề, nên phải lấy hai lần
nhân quả để giải thích nó, thì ở nghĩa mới viên.
Hữu pháp đắc a
nậu đa la tam miệu tam bồ đề phủ phải đọc thành một câu. Hữu pháp là tâm
có pháp nầy, tức là ý trụ pháp. Ý câu hỏi nầy là: Như lai xưa ở chỗ
Nhiên Ðăng Phật trong tâm còn có pháp vô thượng chánh đẳng giác quả để
cầu chứng đắc không? Cũng như nói: trong tâm còn có cái niệm sẽ đắc vô
thượng bồ đề không? Trong kinh chẳng nói như thế mà nói "hữu pháp đắc"
v.v... là phối hợp với câu : "hữu pháp phát v.v..." ở văn trên, tức là
có ý khiến cho khiển trừ pháp chấp vi tế, thật rõ ràng vậy. Nói một chữ
như lai là gồm có ý bất ưng trụ pháp ở trong đó, như lai là tên gọi của
tánh đức, giác tánh viên minh há có pháp trần. Lúc làm phật như thế, thì
hồi xưa lúc ở bát địa đã được thụ ký làm phật, có thể biết được là
trong tâm không có pháp trần. Lúc chứng đắc bồ đề phận pháp như thế thì
kẻ mới phát bồ đề liền phải học như thế, cũng do đây mà có thể biết.
Nhân nhân quả quả trước sau như một, nên nói chỗ nầy là đem quả ra để tỏ
rõ nhân, gồm hai lần nghĩa.
Phất dã thế tôn ! Như ngã giải phật sở thuyết nghĩa, phật ư Nhiên Ðăng Phật sở vô, hữu pháp đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Dịch
nghĩa : Thưa thế tôn không. Như chỗ tôi hiểu nghĩa phật thuyết, phật ở
Nhiên Ðăng phật sở không, có pháp đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Chữ
phất : có nghĩa là chẳng phải không có pháp, chẳng phải có pháp. Lúc đó
chính được thụ ký tương lai làm phật. Làm phật có nghĩa là : hứa cho
tương lai đắc chứng quả pháp, nên chẳng phải là không có pháp. Nhưng lúc
đó thực ra vì chứng vô sanh nhẫn, không có một pháp nào sanh mà được
thụ ký, nên chẳng phải là có pháp. Giải sở thuyết nghĩa : chính là trỏ
nghĩa chỗ nói vô pháp phát bồ đề ở văn trên, tức là do nghĩa vô pháp
phát bồ đề lĩnh hội nghĩa nầy, biết rằng ắt vô pháp mới đắc bồ đề. Vì cớ
gì? Vì nhân quả như một. Trưởng lão đã chưa làm phật, lại chẳng phải
bát địa bồ tát làm sao biết được cảnh giới đó. Chỉ ở trong nghĩa của
phật thuyết lĩnh hội mà được, đây chính là bày tỏ sự cần yếu của giải
tuệ. Chẳng nói là như lai mà nói là phật ấy là có ý sâu. Vì chưng trên
nói giải nghĩa, ấy là lấy nghĩa lúc sơ phát tâm tu nhân mà hiểu được tâm
của kẻ chứng bát địa. Nay đem chữ phật ra để nói, ấy là do ngày nay đã
đắc quả phật mà chứng minh cái nhân hồi xưa sẽ được làm phật. Vì cớ gì?
Vì phật là tên gọi của chứng đắc quả pháp thành cứu cánh giác. Ðem một
chữ phật ra nói là tỏ rõ theo chứng quả mà nói thì chẳng phải là rốt ráo
không có pháp. Thế nhưng do chỗ hiểu nghĩa không có pháp mới đắc mà suy
ra, thế thì lấy quả ngày nay ngóng nhân ngày xưa, thì thế tôn ở thời
Nhiên Ðăng phật ắt không mảy may tâm niệm có pháp đắc a nậu bồ đề, có
thể biết được. Chữ 'vô" phải đọc đứt đoạn. Hữu pháp đắc a nậu đa la tam
miệu tam bồ đề nguyên là lời để hỏi, nay thêm vào một chữ vô, là tỏ rõ
theo tu nhân mà nói chẳng phải là rốt ráo có pháp. Tóm lại là để hiển rõ
tâm không có pháp để cầu đắc, mà sau mới có thể đắc. Nếu trụ pháp cầu
đắc liền chẳng thể đắc, thế thì chẳng nên trụ pháp phát tâm, nghĩa thật
rõ ràng.
Phật ngôn : như thị như thị. Tu Bồ Ðề ! Thực vô, hữu pháp như lai đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Dịch nghĩa : Phật nói : như thế, như thế. Tu Bồ Ðề ơi, thực không, có pháp như lai đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Hai
lời như thị, như thị ấy là hứa cho nó thuyết phi hữu pháp, phi vô pháp
là chẳng sai lầm. Thực vô là một đoạn, hữu pháp đắc a nậu đa la tam miệu
tam bồ đề phải đọc liền một câu. Hữu pháp đắc a nậu đa la tam miệu tam
bồ đề nguyên là lời hỏi, nay ở trong đó thêm hai chữ như lai. Như lai là
tên gọi của tánh tức. Giác tánh hiển ra viên minh gọi là đắc a nậu đa
la tam miệu tam bồ đề. Nếu có pháp trần liền chẳng phải là hiển ra viên
minh, sao gọi là đắc vô thượng bồ đề? Nên như lai đắc a nậu đa la tam
miệu tam bồ đề, cũng như nói đắc thành như lai. Hữu pháp như lai đắc
v.v... cũng như nói hữu pháp đắc thành như lai. Thực vô: là lúc đó ở chỗ
Nhiên Ðăng phật thực không có một mảy may tâm hữu pháp đắc thành như
lai. Văn của kinh chẳng nói đắc thành như lai, mà ắt nói như lai đắc a
nậu đa la tam miệu tam miệu tam bồ đề, vì chính là ở chỗ phá pháp chấp,
nên đem vô thượng bồ đề pháp ra nói để tỏ rõ thực vì trong tâm không có
quả pháp nầy mà sau đắc thành như lai. Ðây chính là ấn định chỗ giải của
trưởng lão chẳng sai lầm. Trưởng lão lấy quả để tỏ rõ nhân nên đem phật
ra nói. Thế tôn thì theo tánh đức để tỏ rõ giác tánh hiển ra viên minh,
làm gì còn có pháp, nên đem như lai ra để nói, ý ở khiến cho biết tuy
đắc mà thực không chỗ đắc mới là như lai tánh đức viên hiển ra, để làm
tiền đề cho văn dưới nói : "như lai giả, chư pháp như nghĩa."
Tu
Bồ Ðề ! Nhược hữu pháp như lai đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề,
Nhiên Ðăng phật tắc bất dữ ngã thụ ký, nhữ ư lai thế đương đắc tác phật
hiệu Thích Ca Mâu Ni.
Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, nếu có
pháp như lai đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, Nhiên Ðăng phật liền
chẳng thụ ký cho ta rằng ông ở kiếp sau sẽ được làm phật hiệu Thích Ca
Mâu Ni.
Ở trên đều là đem quả vị phật địa ngày nay để tỏ rõ nhân
tâm bát địa hồi xưa, ở đây thì đem quả hành thụ ký hồi xưa để tỏ rõ nhân
tâm mới phát giác ngày nay, nên chỗ nói ở trên đều là làm dẫn-án cho
chỗ nầy. Vì chưng thành phật, thành như lai do ở thụ ký ngày xưa, mà sự
thụ ký ngày xưa thực do ở chứng pháp vô sanh. Hết thảy bồ tát phát giác
sơ tâm nếu biết được hữu pháp thì chẳng thụ ký, vô pháp mới được thụ ký,
thì thụ trì đọc tụng kinh nầy phải như lời dạy ở nhứt thiết pháp không
trụ mà trụ mới là tín tâm bất nghịch, gánh vác như lai, mới có thể sanh
phước diệt tội, sẽ đắc bồ đề, nghĩa nầy há chẳng rõ ràng ư?
Xem
thuyết chẳng được thụ ký, thì có thể biết : "thử nhược hữu pháp như lai
đắc v.v..." là trỏ lúc còn chưa được thụ ký mà nói. Ý nói : lúc đó trước
khi chưa được thụ ký, nếu tâm trụ ở pháp vô thượng bồ đề, hy vọng thành
như lai, đắc vô thượng bồ đề liền chẳng thể chứng vô sanh pháp nhẫn,
thì ngay đến thụ ký cũng chẳng thể được, há có thể thành như lai ư? Ba
câu : "nhữ ư lai thế" là lời Nhiên Ðăng phật thụ ký, nay sợ chẳng rõ sao
gọi là thụ ký, nên dẫn ra để tỏ rõ, mà chẳng dùng câu : "tác thị ngôn",
rõ ràng là chẳng phải lời của Nhiên Ðăng phật.
Dĩ thực
vô, hữu pháp đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, thị cố Nhiên Ðăng phật
dữ ngã thụ ký tác thị ngôn; nhữ ư lai thế đương đắc tác phật hiệu Thích
Ca Mâu Ni.
Dịch nghĩa : Vì thực không, có pháp đắc a nậu
đa la tam miệu tam bồ đề, thế nên Nhiên Ðăng phật thụ ký cho ta, làm
lời nói nầy : ông ở kiếp sau sẽ được làm phật hiệu Thích Ca Mâu Ni.
Một
câu ngắn: dĩ thực vô: có nghĩa là vì người này thực không có tâm trụ
trước bồ đề pháp để cầu đắc. Thị cố : có nghĩa là tỏ rõ chính vì tâm
không có pháp mới chứng vô sanh, vì cớ đó mới được thụ ký. Câu tác thị
ngôn : là tỏ rõ ba câu : "nhữ ư lai thế v.v..." là lời chính Nhiên Ðăng
phật nói ra, cùng với lời dẫn để giải thích nghĩa thụ ký ở khoa trên
chẳng giống nhau. Hoặc vì nghĩa Thích Ca là họ, Mâu Ni là tên, có nghĩa
là Năng Nhân Tịch Mặc, thế nên mới nói năng nhân thì chẳng trụ niết bàn,
tịch mặc thì chẳng trụ sanh tử, vì ở pháp chẳng trụ nên lấy danh hiệu
nầy để thụ ký, lời giải thích nầy chưa từng chẳng thể được, nhưng không
nên câu chấp, vì thụ ký chú trọng ở chỗ ấn khả tương lai làm phật, không
quan hệ gì đến danh hiệu. Vả phật phật đều chẳng trụ pháp, đều được
phật trước thụ ký, đều có danh hiệu, mà danh hiệu chưa ắt đều lấy nghĩa
chẳng trụ, sao có thể câu chấp danh hiệu để giải thích?
Ở dưới
đây là tỏ rõ yếu chỉ khoa pháp pháp đều như, một khoa không đắc mà đắc ở
trên là đem việc chứng quả để tỏ rõ chẳng nên trụ bồ đề. Một khoa pháp
pháp đều như nầy là nói lý chứng quả để tỏ rõ không có bồ đề có thể trụ,
chính là thuyết minh cái sở dĩ nhiên của chẳng nên trụ, là cực vị trí
của ly tướng, cũng là bổn nhiên của pháp tánh. Vì chưng lấy quả chứng
thì tướng và phi tướng đều mất hết, khiến cho biết lúc nhân hành, phải
nên tướng và phi tướng đều ly.
Nghĩa uẩn của pháp pháp đều như
rất tinh vi, nay đem yếu chỉ của nghĩa nầy cùng tận đến nguồn gốc lần
lượt nói rõ, rồi sau chỉ thú nói trong khoa nầy ngõ hầu được có đầu mối
để dễ hiểu rõ. Phải biết, thế tôn nói nghĩa pháp pháp đều như nầy, ý
khiến kẻ nghe pháp ở cứu cánh liễu nghĩa hiểu rõ triệt để. Vì chưng ắt
hiểu sâu mà sau tín sâu, giải viên mà sau tu viên, thì chứng nhập chẳng
khó gì. Vì cớ gì? Vì giải lần lần mở ra, thì chấp tình ngã kiến lần lần
tiêu đi, cho nên học phật chú trọng ở giải tuệ là vì thế. Giải tuệ là
quán tuệ, thế cho nên ba cái : văn, tư, tu chẳng lìa một cái tuệ. Thế
thì yếu chỉ của pháp pháp đều như nầy, sao chẳng phân biện cho rõ ư?
Chỗ
gọi là vô thượng chánh đẳng giác, không là cái gì khác, tức là chân như
bổn tánh, cũng gọi là tự tánh thanh tịnh tâm. Vì nó là tông của muôn
pháp nên gọi là vô thượng, vì nó là chỗ đều có đầy đủ của hết thảy chúng
sanh nên gọi là chánh đẳng. Nhưng chúng sanh bị che lấp bởi vọng niệm
phân biệt chấp trước, chẳng tự giác biết nó là vô thượng chánh đẳng mà
thôi. Nếu biết nó, mà có thể khiển vọng trừ chướng thì gọi là chánh
giác. Lúc mới có thể giác gọi là phát giác sơ tâm. Giác đến cứu cánh mà
khiến cho tánh đức của vô thượng chánh đẳng hoàn toàn tỏ rõ, không biết
gọi là gì, nên gọi nó là vô thượng chánh đẳng giác mà thôi. Thực ra thì
là tánh vốn có đầy đủ, sao có thể gọi là đắc ư? Sở dĩ tuy đắc mà ắt qui
về vô sở đắc là vậy. Mà đắc vô thượng chánh đẳng giác, vì chúng sanh
đồng thể, vì từ bi bổn nguyện, đem lý thể thân chứng dùng bao nhiêu thứ
lời nói, mở bao nhiêu thứ phương tiện, dùng bao nhiêu thí dụ hay khéo,
khiến cho khắp hết thảy chúng sanh đều được giác cái đó, ngộ cái đó, tu
cái đó, chứng cái đó, không biết đặt tên nó là gì nên gọi nó là vô
thượng chánh đẳng giác pháp mà thôi ! Thực ra là tánh vốn có đầy đủ của
chúng sanh, sao có chỗ gọi là pháp ư? Hiểu rõ được lý nầy liền biết
chẳng nên còn có pháp tưởng, còn có đắc tưởng. Tự tánh đã có tên là
thanh tịnh thì có thể biết nó từ xưa tới nay chẳng nhiễm chút bụi, ví
như mặt trời sáng ở trong khoảng không, nếu có một chút mây liền che lấp
mất ánh sáng đi. Nên muốn cho ánh sáng của tánh viên chiếu phải khiến
cho sạch không chút bụi. Hết thảy chúng sanh vốn chẳng biết tự tánh là
thanh tịnh như thế, Phật đã thân chứng, nên ngài dạy khiến cho phản
chiếu như thế, phải tự giác như thế. Nếu chẳng mỗi mỗi y theo giáo phụng
hành thì sao gọi là phát giác ư? Vì cớ gì? Vì có một cái pháp ở đó, có
một cái đắc ở đó, thì y nguyên vẫn là thói quen lâu đời phân biệt chấp
trước, vậy thì bổn tánh của nó vẫn y nguyên ở chỗ che lấp. Nên chẳng
những hết thảy pháp chẳng nên trụ, ngay đến bồ đề pháp cũng chẳng nên
trụ là vì thế ! Chúng sanh vì cớ gì có bịnh phân biệt chấp trước? Không
là gì khác, do nó chẳng đạt nhứt chân pháp giới, chỉ nhận thức tướng của
hết thảy pháp. Ðã là tướng thì tướng nầy tướng kia chẳng một, vì mê ở
tướng bèn trong chỗ chẳng hay chẳng biết theo đó mà phân biệt, theo đó
mà chấp trước. Biết đâu rằng đã gọi là tướng thì lúc nào cũng nổi dậy sự
biến hoá, nên nói : "phàm chỗ có tướng đều là hư vọng". Hư vọng có
nghĩa là giả mà chẳng phải thiệt, chẳng phải bảo là tuyệt đối không có.
Mà chúng sanh chẳng biết là giả, niệm niệm ở trên tướng hư vọng phân
biệt chấp trước, nên gọi là vọng niệm, nghĩa là theo đuổi vọng tướng mà
khởi niệm. Hoặc tuy biết là giả, mà lại vẫn niệm niệm chẳng ngừng, khiến
cho tướng hư vọng ở tâm đầy rẫy, nên gọi là vọng niệm, tức là tướng hư
vọng theo niệm mà nổi dậy. Nên một danh từ vọng niệm gồm hai nghĩa nầy.
Phương tiện đối trị cũng có hai thứ :
1) ly tướng như chỗ nói nửa
bộ trước kinh nầy. Ắt phải giác ngộ triệt để căn, thân, khí, giới, hết
thảy cảnh tướng đều là hoa đốm ở trong không, mặt trăng nơi đáy nước, mê
những cái đó mà tính toán so sánh chỉ thêm phiền não một cách vô ích.
Lại gồm phải trì giới tu phước dứt nhiễm duyên, trừ tham sân. Quán hành
lâu ngày như thế, tình chấp lần lần đạm bạc, vọng tưởng cũng theo đó mà
giảm thiểu. Vì cớ gì? Vì chỗ gọi là vọng tưởng đều là tình chấp khiến nó
như thế thôi ! Thế nên ly tướng là phương tiện của ly niệm, đây là một
pháp.
2) Ly niệm như chỗ nói ở nửa bộ sau kinh này. Vì chưng từ
vô thủy đến nay thói quen rất sâu, tuy biết tướng đều là hư vọng, mà đeo
dính chẳng ngừng nghỉ. Ắt phải ở chỗ động niệm ra sức day về trên nguồn
gốc của tâm mà quán trở lại. Chỗ có trì giới tu phước lục độ vạn hạnh
lại càng phải tinh tiến, vì trải qua sự mà luyện tâm. Nếu đập chết được
niệm-đầu, thì hết thảy phân biệt chấp trước tự nó không có, mà tướng có
hay không, lại không quan hệ. Vì cớ gì? Vì có thể chẳng nổi dậy niệm thì
hết thảy tướng chẳng ly mà tự nó ly. Thế nên ly niệm là cứu cánh của ly
tướng, đây lại là một pháp. Hai thứ pháp nầy có thể thực hành đều nhau
mà chẳng trái, ly tướng tức là ly niệm, ly niệm mới có thể ly tướng, nên
nói là chẳng trái nhau. Thế nhưng ly tướng là chỉ ly một tầng vọng niệm
trước, chỗ gọi là đuổi theo tướng hư vọng mà nổi dậy, ly niệm là ly một
tầng vọng niệm sau, chỗ gọi là vọng tướng theo niệm mà nổi dậy, nên
phải thực hành đều nhau. Thực hành đều nhau chẳng phải là câu chấp ở
trước ly tướng, sau ly niệm, có nghĩa là lúc ly tướng tu gồm luôn ly
niệm, thì ly tướng mới có thể cứu cánh, lúc ly niệm tu gồm luôn ly tướng
thì lúc ly niệm càng được phương tiện, phải cùng một lúc thực hành đều
nhau.
Tóm lại chúng sanh đã bị hết thảy tướng làm mê, từ xưa đến
nay chẳng biết phản chiếu tự tánh, có biết đâu tự tánh cùng với chúng
sanh cùng một thể. Lại biết đâu rằng trong là ngũ uẩn, lục căn, ngoài là
sơn hà đại địa v.v... hết thảy pháp đều là duy tâm sở tạo. Cái nầy đã
chẳng biết, liền chẳng biết phật khiến chẳng nên trụ hết thảy pháp ấy là
khiển trừ cái bịnh phân biệt chấp trước thủ tướng, cùng với hết thảy
pháp đều chẳng can thiệp gì với nhau. Bịnh thủ tướng nếu trừ, thì trong
là ngũ uẩn, ngoài là sơn hà v.v... hết thảy pháp liền như chỗ nói trong
kinh Lăng Nghiêm đều là diệu tịnh minh tâm, tánh tịnh minh thể. Vì cớ
gì? Vì hết thảy pháp đều chỉ có tướng mà không có tánh, chẳng phải là
không có tánh, vì tánh của hết thảy pháp tức là tự tánh. Vì cớ gì? Vì là
nhất chân pháp giới, thế thì lại sao có thể khiển trừ ư? Lại cần gì
phải khiển trừ ư? Ðây là nghĩa chân thực của pháp pháp đều như. Cho nên
Khởi Tín Luận nói : "Thể chân như nầy không có thể khiển, vì hết thảy
pháp đều chân, cũng không có thể lập, vì hết thảy pháp đều đồng như."
Phải biết rằng a nậu đa la tam miệu tam bồ đề là tên khác của chân như,
nếu trụ ở đó thì vẫn là thủ tướng. Có chỗ thủ liền có chỗ lập nên. Tuy
đem hết thảy pháp tướng khiển hết mà riêng lập một tướng bồ đề tức là
chẳng phải hết thảy pháp đều như. Vì cớ gì? Vì có lập nên liền có phế
bỏ. Bổn tánh là tông của vạn pháp bao gồm hết thảy, đầy đủ hết thảy, lập
một cái mà phế những cái khác tức là chẳng phải tánh trọn vẹn, há là vô
thượng chánh đẳng, há lại là chánh giác ư? Nửa bộ trước kinh nầy khiển
hết thảy pháp tướng để hiển bồ đề, là để trừ cái bịnh thủ trước hết thảy
pháp mà thôi. Lại sợ hoặc còn thủ trước bồ đề, nên nửa bộ sau mới mở ra
nói, tức là khiển cái nầy. Bịnh nầy đã khiển thì tánh đức hiển rõ ràng
trọn vẹn, pháp pháp đều như, không có thể khiển mà cũng không có thể
lập. Mục đích sau chót của người tu hành là ở đó. Các nghĩa chỗ nói từ
lúc bắt đầu khai kinh đến nay qui thú cũng ở đó, cho nên một khoa pháp
pháp đều như là nghĩa trọng yếu trong trọn bộ kinh, lại cũng tức là
nghĩa trọng yếu của hết thảy phật pháp đại thừa. Sau đây chỗ nói đều là
mở phát nghĩa nầy, chứng thành nghĩa nầy. Chỗ nói nửa bộ trước cũng là
xu hướng tôn trọng nghĩa nầy, thu nhiếp vào nghĩa nầy. Ðây là thế tôn
đem cái tự mình thân chứng nói huỵch tẹt ra, khai thị rõ ràng, khiến cho
chúng sanh do đây mà ngộ, do đây mà nhập. Nên pháp pháp đều như ắt phải
khiển hết thảy tình chấp, chỉ có chứng mới biết, chẳng thể nói ra một
cách trống không. Nếu hoặc là bịnh thủ trước chẳng khiển được một mảy
may nào, mà nói với người khác là hết thảy đều như thì pháp pháp thành
ra chướng mà thôi, há có thể pháp pháp đều như ư? Cho nên chỉ là người
nói bậy mà thôi! Nói bậy bát nhã tội đến rơi xuống vô gián địa ngục vì
nó làm cho chúng sanh nghi hoặc, hiểu lầm, khiến cho người ta vì đó mà
báng phật, báng pháp, coi rẻ tam bảo. Phải biết pháp pháp đều như, nếu
đã chứng tới thì ắt có thể thực hành, như rút vô lượng kiếp làm một sát
na, kéo dài một sát na làm vô lượng kiếp, đem hột cải nạp núi Tu Di vào,
biến sa bà làm tịnh độ, đến địa vị sự sự vô ngại nầy, mới hứa cho nói
được câu nói nầy. Hết thảy người học chỉ nên day về trên pháp pháp đều
như mà quán chiếu, khiển hết chấp tình biến kế, ngã kiến của mình để
mong chứng nhập, đó là có thể được vậy. Há có thể sanh đại ngã mạn,
khinh mạn lấy một câu nói NHỨT NHƯ làm khẩu đầu thiền ư? Thử xem kinh
nầy chỗ kết thúc sau cùng, cũng tức là đầu phần lưu thông sau khi nói
như như bất động liền nối tiếp nói : "vì cớ gì? Hết thảy pháp hữu vi,
như mộng huyễn bọt bóng, như móc lại như chớp, phải nên quán như thế",
chính là chỉ thị như như bất động phải từ quán hết thảy pháp như mộng
như huyễn mà chứng nhập. Làm sự quán như mộng như huyễn v.v... là khiển
tình chấp. Ðây là chỗ then chốt khẩn yếu trong kinh chẳng thể bỏ qua.
Sao
gọi là nghĩa nửa bộ trước thu nhiếp ở trong này ư? Nay nói sơ lược để
mở ra cửa giác ngộ. Như nói: "nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức là
thấy như lai", thử nghĩ nếu thấy được các tướng tức là chẳng phải
tướng, há chẳng phải là pháp pháp đều như ư, nên nói tức là thấy như
lai. Phàm nói cái nầy mà chẳng phải cái nầy đều là chỉ-điểm nghĩa trên.
Lại như tín tâm thanh tịnh tức là sanh thực tướng, phải biết vì không
phân biệt chấp trước mà sau tâm mới tịnh, tâm tịnh tức là sanh thực
tướng, Thực tướng là vô tướng vô bất tướng, thì pháp pháp đều như. Nên
nói: "phải sanh thanh tịnh tâm, phải vô trụ sanh tâm, phải sanh vô trụ
tâm, phải ly hết thảy tướng phát bồ đề, hành lục độ, nếu tâm hữu trụ tức
là chẳng phải trụ". Lại như chẳng nên thủ pháp, chẳng nên thủ phi pháp.
Chẳng thủ pháp là vì hết thảy pháp đều như, không có thể lập. Chẳng thủ
phi pháp là vì hết thảy pháp đều chân, không có thể khiển, chính là chỗ
bảo pháp pháp đều như. Vì pháp pháp đều như cho nên vô hữu định pháp
gọi là a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, cũng vô hữu định pháp như lai có
thể thuyết. Cho nên pháp và phi pháp đều chẳng phải, đều chẳng thể thủ,
chẳng thể thuyết. Hết thảy hiền thánh đều lấy vô vi pháp mà có sai biệt,
là vì pháp pháp đều như thì pháp pháp đều chân (Kinh Pháp Hoa sở dĩ nói
: thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ). Nên hết thảy pháp
thanh tịnh vốn nó như thế, tuyệt nhiên chẳng phải là tạo tác nên nói là
vô vi. Hết thảy hiền thánh không ai là chẳng tu cái nầy, chỉ vì công phu
tu hành sâu hay cạn nên có sự sai biệt thành hiền hay thánh, thực ra
thì pháp nhứt như ban đầu sao từng có sai biệt ư? Những cái khác chuẩn
theo cái nầy để suy nghĩ ra. Tóm lại nếu lĩnh hội pháp pháp đều như mà
khế nhập vào, thì cũng không chỗ nào gọi là không, không chỗ nào gọi là
hữu, không chỗ nào gọi là trung, thì cũng không ngại gì không, không
ngại gì hữu, vả lại cũng không cái không nào, không cái giả nào mà chẳng
phải trung. Vì cớ gì? Vì bịnh ngã kiến tình chấp đã đều khiển hết, thì
thấy tướng tức là thấy tánh, đầu mối nào cũng đều là đạo, không chỗ nào
là chẳng thể được. Nên các kinh Tối Thắng Vương, Duy Ma Cật nói : "ngũ
uẩn tức là pháp thân, sanh tử tức là niết bàn, phiền não tức là bồ đề",
đều là hiển nghĩa pháp pháp đều như. Nếu còn chút ít phân biệt chấp
trước chưa phá, thì đụng vào đường nầy thành ra trệ ngại, đầu mối nào
cũng chẳng phải là đạo, không một cái nào có thể được. Dẫu rằng hết thảy
chẳng trước mà còn trước một cái bồ đề cũng là thủ tướng phân biệt tự
che lấp giác thể, thì chỗ gọi là trung cũng chẳng phải trung, lại chẳng
kể là trước hữu hay nghiêng về không nữa. Phàm kẻ phát tâm tự độ độ tha
để cầu minh tâm kiến tánh, phương pháp khẩn yếu trọn vẹn ở chỗ nầy.
Phương pháp ra sao? Là y theo kinh giáo này ly tướng ly niệm mà thôi.
Phải biết, kinh nầy đã là chỗ ra của chư phật và chư phật a nậu đa la
tam miệu tam bồ đề pháp, nên chỗ nói trong kinh đều là nghĩa căn bản,
nghĩa cứu cánh. Ngàn kinh muôn luận khác đều là hiển rõ nghĩa nầy, giúp
cho nghĩa nầy mà thôi. Nên nay đem nghĩa trọng yếu nầy nói ra tường tận,
các bực thiện tri thức nên suy nghĩ cho khéo.
Hà dĩ cố? Như lai giả, tức chư pháp như nghĩa.
Dịch nghĩa : Vì cớ gì? Như lai tức là nghĩa chư pháp như.
Câu
hà dĩ cố : Là tự đặt ra lời hỏi. Hỏi : chỗ nói ở văn trên, không có bồ
đề pháp mới thụ ký cho làm phật, không có bồ đề pháp mới thành như lai
đắc bồ đề, cớ của nó ra sao? Dưới câu như lai là tự đặt ra lời đáp, có ý
nói rằng : phật gọi là như lai, ông cũng biết nghĩa của như lai chăng?
Nghĩa nầy chẳng có gì khác, chính vì người này lìa hư tướng của hết thảy
pháp sai biệt, chứng chân tánh của hết thảy pháp nhứt như. Phải biết
rằng phật chẳng thấy có tướng các pháp sai biệt, đó gọi là như, phật
cũng chẳng thấy tướng của một pháp riêng khác, đó gọi là chư pháp như.
Như có nghĩa là không sai biệt, lại có nghĩa là chẳng khác, tức là pháp
tánh không có sai khác. Pháp tánh không có sai khác vì nó không tịch.
Nên nghĩa của chư pháp như tức là nghĩa của pháp tánh không tịch. Gọi là
như lai vì người này chứng tánh không tịch mà thôi ! Nếu còn tồn tại
một cái không tịch liền thành ra sai khác, liền chẳng phải là không
tịch, há gọi là như lai ư? Nên nói như lai tức là nghĩa CHƯ PHÁP NHƯ.
Thế thì kẻ phát vô thượng chánh đẳng chánh giác há có thể tồn tại một
tướng phát giác ở tâm khiến chẳng không tịch ư? Lại nói câu "chư pháp"
ấy là chẳng một, lại nói "như" ấy là chẳng khác, chẳng một chẳng khác
pháp tánh như vậy. Phật gọi là đại giác, tức là cứu cánh giác cái pháp
tánh chẳng một chẳng khác nầy, nên nói như lai tức là nghĩa chư pháp
như. Phải biết, vì cớ chẳng một sở dĩ phi bồ đề pháp chẳng nên thủ, vì
cớ chẳng khác sở dĩ bồ đề pháp cũng chẳng nên thủ (một thuyết trước
chuyên theo thể thuyết thứ nhì gồm theo cả thể tướng dụng). Do đây mà
xem, nhứt định nói chư pháp là chư pháp thì chẳng phải. Vì cớ gì? Vì tuy
chư pháp mà là nhứt như (phải chú trọng ở chữ nhứt như). Còn nhứt định
nói chư pháp chẳng phải là chư pháp cũng chẳng phải. Vì cớ gì? Vì cớ là
nhứt như của chư pháp (phải chú trọng chữ chư pháp), then chốt trong đó
trọn vẹn xem ở trước hay chẳng trước. Chẳng trước hữu thì chư pháp chẳng
ngại nhứt như, chẳng trước không thì nhứt như chẳng ngại chư pháp.
Trước ở chư pháp thì chẳng phải như, trước ở như thì chẳng phải chư pháp
như. Nên chỗ thuyết pháp của như lai đều chẳng thể thủ, chẳng thể
thuyết, Chẳng thể thủ là tánh của chư pháp chỉ nhứt chân như, vì cớ
không phân biệt, vì là sai biệt của bình đẳng. Chẳng thể thuyết, là vì
tánh của chân như chẳng ly chư pháp, chỉ có chứng mới biết, vì cớ ở sai
biệt thấy bình đẳng. Cho nên kẻ phát giác phải ly hết thảy chư tướng, tu
lục độ vạn hạnh. Ly chư tướng là vì cớ chỗ lý thực tế chẳng nhiễm một
mảy bụi. Tu vạn hạnh là vì cớ trong môn phật sự chẳng bỏ một pháp nào.
Vì chư pháp nhứt như nên phải chẳng bỏ một pháp nào. Vì là pháp của nhứt
như nên phải chẳng nhiễm một mảy bụi. Giác như thế ly như thế, tu như
thế, thì pháp tương ứng, tánh tương ứng, mà đắc chứng tương ứng. Tóm lại
mê muội bình đẳng, chấp thủ sai biệt thì tâm theo pháp chuyển, ngay đến
phi pháp cũng thành chướng ngại. Ở sai biệt thấy bình đẳng thì pháp
theo tâm chuyển, tức là pháp pháp đều là chân như. Cổ đức bảo : "đưa đón
khách khứa, gánh nước dọn củi, đi đứng nằm ngồi, ở trong sáu thời ở
trên chư pháp đem nghĩa này ra thực hành tức là cái đó", đây là một bức
vẽ vô sự đạo nhân hành lạc rất đẹp. Phải biết thiên hạ vốn vô sự, người
ngu tự làm rối mình, ở trong cái không có Không và Hữu thủ tướng Không
và Hữu, ở trong cái không có thiện và ác suy nghĩ thiện và ác, vọng
tưởng đầy rẫy, há chẳng phải tự làm rối mình, nay đem nghĩa này ra thực
hành tức là cái đó, thì tự tại biết bao? Cổ đức lại nói : "lúc chưa ngộ
thì núi là núi, nước là nước, lúc liễu ngộ thì núi chẳng phải núi, nước
chẳng phải nước". Núi là núi, nước là nước có nghĩa là chỉ thấy chư
pháp, núi chẳng phải núi, nước chẳng phải nước có nghĩa là chỉ thấy nhứt
như. Lại có bài ca sau khi ngộ rằng: "Non xanh vẫn là non xanh cũ", vì
chưng bảo là chư pháp vẫn như cũ, mà thấy chư pháp nhứt như, thì non
xanh tuy vẫn là cũ mà quang cảnh rực rỡ mới vậy. Như lai là nghĩa chư
pháp như, giống như chỉ giải thích một chữ NHƯ, thực ra chữ LAI cũng
giải thích ở trong đó. Vì sao nói thế? Có lai có khứ là sự tướng sai
biệt, tức là một pháp của chư pháp. Ðã là chư pháp như thì lai cũng như.
Hết thảy chúng sanh lai mà chẳng như, bực nhị thừa thánh nhân như mà
chẳng lai, bực quyền vị bồ tát tuy như mà chưa như đến cùng tận, tuy lai
mà chưa thể lai khắp cả. Chỉ có phật, như lai chứng tánh nhứt như, thì
cùng tận chỗ chân như là lai, chân như không chỗ nên lai cũng không chỗ,
chân như chẳng động nên lai cũng chẳng động. Tuy gọi là lai, thực ra
thì lai mà không lai, không lai mà lai. Phải biết rằng gọi là như lai,
là tỏ rõ lai mà không có tướng lai nên nói là như. Vì tỏ rõ như mà không
có tướng như, nên nói là lai mà thôi.
Nhược hữu nhân
ngôn như lai đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Tu Bồ Ðề ! Thực vô hữu
pháp phật đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Dịch nghĩa
: Nếu có người nói như lai đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, Tu Bồ Ðề
ơi, thực không có pháp, phật đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Nhược
hữu : có nghĩa là hoặc có, vì văn trên có câu nói như lai đắc a nậu đa
la tam miệu tam bồ đề, sợ có kẻ chưa rõ ý, nghe câu như lai tức là nghĩa
chư pháp như, vì đó mà hoài nghi rằng : đã là nghĩa của như lai là chư
pháp nhứt như thì không có bồ đề có thể đắc thật rõ ràng, vì cớ gì trên
lại nói như lai đắc a nậu bồ đề ư? Vì già (che) cái nghi nầy nên đặt ra
một lời nói "hoặc có", lại kêu trưởng lão mà bảo ông ta rằng : hoặc chỗ
nói của người ta vì nghi là vẫn còn có pháp, biết đâu rằng thực không có
pháp vậy. Chỉ vì tỏ rõ đã cứu cánh giác ngộ, không biết gọi tên là gì,
nên gọi phật đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề mà thôi, dưới lời nói
này bao gồm có cái hữu. Còn nếu theo tánh đức mà nói thực là chư pháp
nhứt như cho nên ở đây chẳng nói như lai mà nói phật, chính là tỏ rõ gọi
là đắc bồ đề ý ở hiển rõ đã chứng vô thượng chánh đẳng giác, cũng là
quả của chư pháp nhứt như mà thôi, há bảo có bồ đề pháp có thể đắc ư? Có
gì mà phải nghi. Văn dưới lại lấy nghĩa vô thực vô hư, tỏ rõ là nói đắc
mà thực không chỗ đắc, tuy không chỗ đắc mà cũng chẳng ngại gì mà gọi
đắc, càng có thể hiểu rõ vậy.
Tu Bồ Ðề ! Như lai sở đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, ư thị trung vô thực vô hư.
Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, như lai chỗ đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, ở trong nầy vô thực vô hư.
Ư
thị trung : có nghĩa là trong chỗ đắc. Ý bảo rằng : dẫu như lời người
ta nói là như lai đắc bồ đề, biết đâu rằng chỗ đắc của như lai chỉ một
vô thực vô hư mà thôi. Vô thực vô hư tức là nghĩa chư pháp như. Nghĩa
nầy phải nói rộng ra để tiện lĩnh hội.
1) Ðây cùng với ở trên chỗ
nói : "như lai sở đắc pháp thử pháp vô thực vô hư", lời nói tuy gần
giống nhau nhưng ý khác xa. Trên là tỏ rõ pháp chân thực, có nghĩa là
pháp của như lai chỗ đắc là thực tướng. Thực tướng có nghĩa là vô tướng
vô bất tướng. Vô tướng là vô thực, vô bất tướng là vô hư. Nếu nói rốt
ráo, thì thực tướng là tướng và bất tướng đều không, nên nói vô thực vô
hư, có nghĩa là hư và thực đều không. Ðó là pháp chân thực để chứng
thành thuyết chân thực ở văn trên. Còn ở đây là tỏ rõ thực không có
pháp, đã không có pháp thì còn nói gì là đắc. Hãy cứ như lời người ta
nói là như lai đắc, mà xem ở trong nầy gồm không chỗ đắc. Vì cớ gì? Vì
thực không có pháp, ấy là đặc biệt gọi tên giả là đắc, đây là vô thực.
Nhưng cũng không ngại gì mà nói như lai đắc, vì cớ gì? Vì chỗ đắc chỉ là
như. Ðắc như mới gọi là như lai, đây là vô hư.
2) A nậu đa la
tam miệu tam bồ đề tức là tên khác của chân như giác tánh, thế thì như
lai tức là nghĩa chư pháp như, cũng như nói : gọi là như lai vì đã chứng
chân như giác tánh mà thôi. Ðủ chứng minh chỗ đắc của như lai chỉ là
nhứt như, nên tuy gọi là chỗ đắc mà ở trong chỗ đắc nầy là vô thực, vì
cớ gì? Vì giác tánh không tịch. Cũng là vô hư, vì cớ gì? Vì giác tánh
hiển ra viên minh, cho nên nói : ở trong nầy vô thực vô hư. Tóm lại
không có cái đắc của hữu đắc ấy là vô thực, chẳng phải là không có cái
đắc của vô đắc ấy là vô hư. Ðây chính là Trung Biên Luận chỗ nói :
"Không có năng thủ sở thủ là hữu, có năng thủ sở thủ là vô". Lại cũng
tức là Phật Tánh Luận chỗ nói : "Vì cớ do khách trần không, vùng với
pháp giới ly nhau, vô thượng pháp bất không, cùng với pháp giới theo
nhau" là vậy. Khách trần không, cho nên vô thực, vô thượng pháp bất
không cho nên vô hư. Phải biết, phật nói đây là tỏ rõ chẳng thể nghe nói
đắc liền nghi là có pháp, chẳng thể nghe nói không có pháp liền nghi là
rốt ráo không có chứng.
3) Nói một cách vô thực là tỏ rõ nó
chiếu mà thường tịch, nói một cái vô hư là tỏ rõ nó tịch mà thường
chiếu, vô thực vô hư tức là già cả hai, mà chiếu cả hai, tịch và chiếu
đồng thời. Ở trong đó không sanh một pháp vì cớ tịch, lại không pháp nào
là chẳng hiện rõ vì cớ chiếu. Một pháp chẳng sanh là thực không có
pháp, cho nên vô thực. Không pháp nào là chẳng hiện là chư pháp nhứt
như, cho nên vô hư. Ðây gọi là a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, như lai
đắc là đắc cái nầy.
4)Vô thực vô hư tức là nghĩa "như thực không,
như thực bất không" trong Khởi Tín Luận. Như thực tức là chân như, vì
chân như là tánh thể chân thực nên nói là như thực. Tỏ rõ chư pháp nhứt
như ấy là chân thực. Khởi Tín Luận tỏ nghĩa như thực không rằng : "Chỗ
nói là không, vì từ xưa đến nay hết thảy nhiễm pháp chẳng tương ứng, gọi
là ly tướng của hết thảy pháp sai biệt vì không có hư vọng niệm". Ðây
là nói trong tâm hết thảy chúng sanh tuy có hư vọng niệm và các tướng
nầy sở dĩ đối đãi ô nhiễm chẳng sạch, mà tánh thể như thực nầy vẫn là
thường hằng chẳng biến, vì từ xưa đến nay một cái tịnh một cái nhiễm
chẳng tương ứng. Chẳng tương ứng có nghĩa là lìa nhau. Làm sao lìa nhau?
Vì từ xưa đến nay thể của như thực vốn chẳng phải là hư vọng tâm niệm.
Lại nói : "Phải biết chân như tự tánh chẳng phải là hữu tướng, chẳng hải
là vô tướng, cho đến chẳng phải là nhứt dị, đều tướng. Nói tóm lại vì
có vọng tâm, niệm niệm phân biệt đều chẳng tương ứng, nên nói là KHÔNG,
nếu ly vọng tâm thì không có thể không". Ðây là nói chỗ gọi là không, là
không cái hư vọng niệm sai biệt tướng. Cho nên nói chẳng phải là hữu
tướng, chẳng phải là vô tướng, cho đến chẳng phải là nhất dị đều tướng, ý
nầy là nói về ly tướng. Nếu ly hết tướng tứ cú : hữu vô nhất dị v.v..
của hết thảy đối đãi thì ly hư vọng tâm niệm vậy. Những cái nầy đã ly
thì chân như tự tánh hiện ra. Nên nói nếu ly vọng tâm thực không có thể
không, là tỏ rõ chỗ gọi là không chẳng phải là bảo không có chân như tự
tánh. Thế thì hư vọng tâm niệm làm sao có thể ly mà không nó? Vì cớ có
vọng tâm, niệm niệm phân biệt nên cùng với chân như tự tánh vốn chẳng
tướng ứng. Tỏ rõ tự tánh của nó vốn không, cho nên có thể không. Nhưng
vọng niệm nhiễm tướng đã không thì chân hiển hiện, lại tỏ rõ nó không mà
bất không. Chỗ tỏ rõ nghĩa như thực bất không rằng : "Chỗ nói bất không
là vì đã hiển pháp thể không, không có vọng, tức là chân tâm thường
hằng chẳng biến, tịnh pháp đầy đủ, thì gọi là bất không". Ðây là nói
pháp thể đã không, các vọng niệm mà không có, tức là chân tâm thường
hằng chẳng biến đầy đủ vô lượng tịnh công đức pháp cho nên nói bất
không. Pháp thể tức là chân tánh nhứt như, gọi là chân như vậy. Chân như
là thể của hết thảy pháp nên gọi là pháp thể. Luận lại nói : "Cũng
không có tướng có thể thủ, vì cảnh giới ly niệm chỉ có chứng mới tương
ứng". Ðây là nói chân tánh của như pháp nhứt như là thể của hết thảy
pháp, là thực không có pháp, cũng chẳng nên trụ, vì nó là cảnh giới ly
niệm, chỉ chứng mới biết, cho nên nói cũng không có tướng có thể thủ, ý
tỏ rõ nó bất không mà không. Tóm nghĩa của luận nói trên mà xem thì như
thực không là vô thực, như thực bất không là vô hư. Không mà bất không
là vô thực, tức lại là vô hư. Bất không mà không là vô hư, tức lại là vô
thực. Ðây là chân thể của hết thảy pháp như như bất động, nên trong nầy
phật nói như lai chỗ đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề ở trong đó vô
thực vô hư, chính là nói để chú thích câu : "như lai tức chư pháp như
nghĩa", ở văn trên. Vả chăng đọc kỹ văn Khởi Tín Luận nói rõ bất không
là do không mà tới, thì có thể biết vô hư là do vô thực mà tới, chư pháp
nhứt như, thực do không có pháp mà tới. Lấy luận chứng kinh nghĩa thú
càng tỏ rõ. Lại có thể thấy chỗ dẫn ra hai đoạn luận văn chẳng khác gì
dung hội tông chỉ lớn của kinh nầy để nói, nên muốn tỏ rõ kinh nầy chẳng
thể nào mà chẳng đọc Khởi Tín Luận.
5) Vô thực có thể trỏ chư pháp để nói, vì chư pháp duyên sanh
nên vô thực, vô hư có thể trỏ như để nói, vì chân như bất không nên vô
hư. Tướng của chư pháp tuy là duyên sanh mà vô thực, tánh của chư pháp
thì cùng một chân như mà vô hư. Nên nói ở trong đó vô thực vô hư, là tỏ
rõ như lai chỗ đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề thực là không có pháp,
cũng không chỗ đắc, chỉ chứng nghĩa chư pháp như mà thôi.
6) Vô
thực vô hư là không và hữu như một, tánh đức vốn như vậy. Như lai chứng
cái nầy nên nói khoa nầy, mà khiến chúng sanh giác cái nầy tu cái nầy.
Phải biết bốn chữ nầy bình đẳng bình đẳng, chẳng thể xem thành hai mảng,
chẳng thể chia ra trước và sau, Nếu xem hết thảy pháp chỉ có thực là
phàm phu, nếu xem hết thảy pháp chỉ có hư là nhị thừa. Ngay đến xem hết
thảy pháp trong cái thực có hư, trong cái hư có thực cũng là quyền vị bồ
tát. Chỉ có phật thì chẳng như thế, phật xem hết thảy pháp vô thực vô
hư một cách hoàn chỉnh. Vô thực tức lại là vô hư, vô hư tức lại là vô
thực, đó gọi là chư pháp nhứt như, cũng tức là không và hữu đồng thời.
Phải giác như thế, phải tu như thế. Làm sao tu? Là sanh vô sở trụ tâm,
là ly hết thảy tướng, hành bố thí lục độ để lợi ích hết thảy chúng sanh.
Phải khiến lúc ly tướng tức là lúc lợi ích, lúc lợi ích tức là lúc ly
tướng, đây tức là sanh vô trụ tâm, đây tức là phát vô thượng bồ đề, thì
tuy nói phát mà thực không có pháp của bồ đề. Như thế ngõ hầu cùng với
giác tánh của vô thực vô hư, chư pháp nhứt như ứng với nhau. Vì chưng
luôn cả các danh tướng vô thực vô hư, chư pháp nhứt như cũng lại phải ly
hết mới là không có pháp, mới có thể ứng với nhau. Nếu chẳng như thế,
thì tuy nói rằng phát bồ đề, thực đã quên mất bồ đề. Quên mất bồ đề liền
thành ma sự. Ðây là chỗ chúng ta lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác.
Phải biết, thế tôn nói ra cái tự chứng của ngài, không có gì khác, vì
khiến kẻ đọc kinh nghe pháp y theo lời dạy phụng hành mà thôi. Tổng hợp
các nghĩa nói trên mà xem, có thể biết ý của phật nói khoa nầy gồm để tỏ
rõ bồ đề vô tướng mà thôi. Vì vô tướng, sở dĩ không có pháp phát bồ đề,
không có pháp đắc bồ đề, nên nói là vô thực. Vì vô tướng sở dĩ chẳng
phải một pháp là bồ đề, mà pháp pháp là bồ đề, đó là vô hư, nên lại nói
khoa dưới để kết thành nghĩa nầy.
Thị cố như lai thuyết nhứt thiết pháp dai thị phật pháp.
Dịch nghĩa : Vì thế cho nên như lai nói hết thảy pháp đều là phật pháp.
Trên
nói nghĩa chư pháp như. Làm sao thấy được chư pháp nhứt như ư? Ðến đây
bèn kết thành là : vì hết thảy pháp đều là phật pháp. Hai chữ thị cố,
bàn về mạch gần của nó là thừa tiếp câu vô thực vô hư, mà phăng trở lên
nguồn gốc của nó thì thừa tiếp câu chư pháp như nghĩa. Ý bảo là : Vì cớ
chư pháp duyên sanh mà vô thực, cùng một như thực mà vô hư, cho nên như
lai nói hết thảy pháp đều là phật pháp, vì chưng do nghĩa chư pháp như
mở ra vô thực vô hư, tức là lấy vô thực vô hư để hiển rõ hết thảy đều
thị. Lại lấy hết thảy đều thị chứng thành chư pháp nhứt như. Xoay chuyển
sanh lẫn nhau, xoay chuyển giải thích lẫn nhau, xoay chuyển thành lẫn
nhau, thực ra đều là tỏ rõ một nghĩa. Sao gọi là một nghĩa? Là ưng vô sở
trụ vậy ! Thế nên phật pháp sở dĩ không một pháp nào là chẳng viên,
phật thuyết pháp sở dĩ không pháp nào là chẳng diệu.
Ba chữ : như
lai thuyết rất khẩn yếu, tỏ rõ là theo tánh mà thuyết. Nếu theo tướng
mà thuyết, thì hết thảy pháp chỉ là hết thảy pháp, há là phật pháp? Tóm
lại là để tỏ rõ ly tướng quán tánh, thì đầu mối nào cũng là đạo. Kinh
Lăng Nghiêm sở dĩ nói : "Ngũ uẩn, lục nhập cho đến thập bát giới đều là
như lai tạng diệu chân như tánh". Cổ đức sở dĩ nói : "Hoa vàng ngoài cửa
sổ đều là bát nhã, khóm trúc trước sân hết thảy là chân như", là vậy.
Ðây tức là bảo hết thảy pháp đều là phật pháp. Tóm lại thế pháp, xuất
thế pháp đều là duyên sanh, biết là duyên sanh mà quán cái tánh chẳng
khác của nó, cái thể chẳng biến của nó thì hết thảy đều thị, chư pháp
nhứt như vậy. Nếu chẳng như thế, mà trụ pháp phát tâm, trụ pháp tu hành
thì phật pháp cũng chẳng phải là phật pháp, huống chi hết thảy pháp.
Phật pháp chỗ nói ở trong nầy chẳng thể cho là pháp của phật thuyết.
Phật có nghĩa là giác. Hết thảy pháp đều là giác pháp, có nghĩa là pháp
pháp đều là bồ đề, để tỏ rõ bồ đề chẳng phải riêng có pháp nào khác. Vì
chưng ly tướng quán tánh tức là ngay ở trên hết thảy pháp mà giác chiếu
cái tánh nhứt chân, nên pháp pháp đều là bồ đề, đây là theo nghĩa của
như mà nói. Nếu suy rộng ra mà nói, phàm lúc hành thế gian pháp lấy từ
bi làm gốc, đều vì lợi tha, chẳng còn lợi kỷ, mỗi mỗi chẳng trái với
phật pháp, thì cũng có thể nói thế pháp tức là phật pháp. Nếu chỉ có
danh là hành phật pháp mà còn có tâm danh lợi cung kính, thì phật pháp
cũng thành thế pháp. Khoa nầy là tức hết thảy pháp để tỏ rõ NHƯ, tức là
tỏ rõ chư pháp cùng với phật pháp nhứt như, chính sở dĩ khiển bồ đề pháp
tướng, vì cớ hết thảy pháp đều thị. Thế nhưng khiển một pháp tướng thì
hết thảy pháp tướng đều phải khiển, nên khoa văn dưới lại khiển hết thảy
pháp.
Tu bồ đề ! sở ngôn nhứt thiết pháp giả tức phi nhứt thiết pháp, thị cố danh nhứt thiết pháp.
Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, chỗ nói hết thảy pháp tức là chẳng phải hết thảy pháp, cho nên gọi tên là hết thảy pháp.
Khoa
nầy là khiển hết thảy pháp, tức là để chứng thành hết thảy pháp đều là
phật pháp. Vì cớ gì hết thảy pháp đều là phật pháp? Vì hết thảy pháp tức
là chẳng phải hết thảy pháp. Tức phi là theo tánh mà nói. Theo tánh mà
nói là tỏ rõ chẳng nên trước tướng, nên nói tức phi. Biết là tức phi mà
chẳng trước tướng thì là phật pháp, mà chẳng phải là hết thảy pháp, nên
nói đều là phật pháp. Ðã đều là phật pháp vì cớ gì lại nêu lên mà gọi nó
là hết thảy pháp? Vì rằng chẳng phải là không có cái giả danh là hết
thảy pháp. Thị danh là theo tướng mà nói. Theo tướng mà nói ý ở hội về ở
tánh, nên nói thị danh. Biết là giả danh mà qui về ở tánh thì tuy gọi
là hết thảy pháp mà đều là phật pháp, nên nói hết thảy pháp đều là phật
pháp. Vì chưng lĩnh hội được hết thảy pháp tức là phi hết thảy pháp,
liền biết nó chỉ là giả danh. Lĩnh hội được hết thảy pháp là giả danh,
liền biết nó tức là chẳng phải chân thực, ấy là đã chẳng cho là hết thảy
pháp để lĩnh hội, mà cho là phật pháp để lĩnh hội. Ðây là cái sở dĩ
nhiên của hết thảy pháp đều là phật pháp. Phải biết, tức phi thị danh
hợp lại mà nói gồm là để tỏ rõ nghĩa vô thực vô hư, không và hữu đồng
thời mà thôi. Thế tôn nói chỗ nầy là dạy người thực hành, đi đứng nằm
ngồi ở trong nhị lục thời, đối cảnh tùy duyên phải làm sự quán như thế,
thì chỗ chỗ đều là đạo tràng, sự sự tăng lớn bồ đề, đây gọi là vô lượng
ấn pháp môn. Lại khoa nầy là ly hết thảy tướng để tỏ rõ NHƯ, tức là tỏ
rõ chư pháp cùng với chư pháp nhứt như. Vì hết thảy pháp đều như, nên
hết thảy pháp đều là phật pháp. Ở trên chỗ nói nghĩa chư pháp như, vô
thực vô hư, hết thảy đều thị, hết thảy tức phi, hết thảy thị danh, tóm
lại là để mở rõ giác tánh thanh tịnh mà thôi. Thanh tịnh giác tánh không
còn sắc tướng nữa, nên đắc bồ đề thực không có pháp, mà lúc sắc tướng
không tức là lúc giác tánh hiển ra, nên đắc bồ đề cũng thuộc vô hư. Ðã
vô hư mà lại không có thực pháp, chính là mượn hết thảy pháp để trải qua
sự việc luyện tâm, không hết thảy các tướng, lại cần gì ở ngoài hết
thảy pháp tìm kiếm bồ đề nào riêng biệt? Vì cớ gì? Vì Tâm Kinh nói :
"thị chư pháp không tướng bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng
bất giảm", há chẳng phải là vô thượng bồ đề rõ ràng ngó thấy ư? Tóm lại
tự tánh như hạt châu ma-ni tùy theo phương mà hiện ra sắc (ví dụ chư
pháp tự tánh hiển hiện), mà trong hạt châu thì sắc tướng không có mảy
may (ví dụ tức phi hết thảy pháp). Phật pháp như cơm ăn hằng ngày, tự
mình phải ăn cho no mà người ăn phải chú trọng tiêu hoá (ví dụ bồ đề
cũng chẳng trụ). Ðây là chỗ người ta phải thường giác ngộ, chẳng tức,
chẳng ly, thì tùy chỗ tùy thời đều có thể được chân thụ dụng.
Chỗ
thuyết của phật pháp, thuyết lý liền nhiếp có sự, thuyết tánh liền
nhiếp có tu. Một khoa lớn pháp pháp đều như nầy đều thuyết tự giác thánh
trí, khiến người học nương theo đó khởi quán chiếu. Ắt phải ly tướng,
ly niệm mới có thể khế nhập, thì làm sao có thể giảng được, giảng ra
liền rơi vào danh tướng. Nhưng lại chẳng thể nào mà không giảng, nên nói
chỗ nói về công phu tu chỉ tốt hơn là dùng phương pháp nói mí để diễn
thuyết. Kẻ nghe phải ở chỗ không có chữ câu mà lãnh hội. Chỗ nói sau nầy
đều là như thế, phải nên lưu ý.
Tu Bồ Ðề ! Thí như nhân
thân trường đại,Tu Bồ Ðề ngôn : Thế tôn, như lai thuyết nhân thân
trường đại tắc vi phi đại thân, thị danh đại thân.
Dịch
nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, thí dụ như thân người ta dài lớn, Tu Bồ Ðề nói :
Thưa thế tôn, như lai nói thân người dài lớn, tức là chẳng phải thân
lớn, nên gọi là thân lớn.
Câu thí như nhân thân trường đại tức là
câu ở phía trước : thí như hữu nhân thân như Tu Di sơn vương. Thân như
núi Tu Di nên nói là trường đại (dài lớn), vì chưng trỏ báo thân của
phật để nói. Vì trước đã nói qua, trưởng lão biết sâu nghĩa nầy, nên
chẳng đợi nói hết liền nói rõ nghĩa đó ra là : "tắc vi phi đại thân, thị
danh đại thân". Thị danh có nghĩa là nó chẳng phải không có thân tướng
trường đại. Tắc phi là tỏ rõ nó đã nói là trường đại thì còn lại rơi vào
số lượng. Phải ly tướng mà quán thì pháp thân vô biên mới là cái đại
tuyệt đối. Trưởng lão sở dĩ chẳng đợi nói hết lời, là vì khiến hiểu rõ
đây là trước đã nói : thân như Tu Di sơn vương. Nói là như lai thuyết
chính là để tỏ rõ báo thân cùng với pháp thân nhứt như. Khoa nầy vừa mới
xem như là cùng với ba khoa trên không can thiệp gì, thực ra nghĩa của
ba khoa trên được một khoa nầy mà sau hiển rõ ra triệt để. Vì chưng phía
trên theo danh hiệu, theo quả đức, theo chư pháp để tỏ rõ như, đều là
đem PHÁP để thuyết. Ðây là theo báo thân để tỏ rõ như, tức là theo DUï
để thuyết, nên nói : "thí như". Sợ kẻ nghe thuyết về pháp chẳng hiểu rõ,
vì thế dùng thí dụ để thuyết cho hiểu rõ. Phải biết, dùng pháp để
thuyết ở trên là chỉ tỏ rõ lý của nó, đây dùng thí dụ để thuyết mới là
chứng cớ xác thực. Ðược sự thực để chứng minh, thì lý của nó càng tin mà
có chứng cớ, vậy nên mới lập nên khoa nầy. Muốn biết cứu cánh, trước
phải biết nghĩa của pháp thân, báo thân. Pháp thân có hai nghĩa :
1)
Chỗ gọi là pháp thân tức là tự tánh thanh tịnh, gọi là tự tánh pháp
thân. Thân này phật và chúng sanh đều có đủ, chỗ gọi là tánh đồng thể,
cũng tức là chân như mà hết thảy pháp không pháp nào ra ngoài, nhưng vì
chúng sanh ở tại chướng nên chưa thể viên hiển. Nên theo chúng sanh mà
nói lại có tên là tại chướng chân như, lại có tên là tại triền pháp
thân.
2) Hết thảy chư phật trải qua vô lượng kiếp siêng năng tu
vạn hạnh, phước tuệ trang nghiêm, khiến tự tánh trí tuệ quang minh nầy
hiển hiện ra viên mãn. Ðây gọi là xuất chướng pháp thân, cũng có tên là
xuất chướng chân như, lại có tên là báo đắc pháp thân, có nghĩa là pháp
thân xuất chướng, quả báo vì siêng năng tu vạn hạnh mà được, tức là thân
quả báo vậy. Vì chưng theo tướng mà nói thì gọi là báo thân, nên trong
này nói là "thị danh đại thân", có nghĩa là trường đại ấy là theo danh
tướng mà nói. Nếu theo tánh mà nói tức là xuất chướng pháp thân. Pháp
thân chẳng phải tướng, chẳng rơi vào số lượng dài ngắn lớn nhỏ nên trong
nầy nói : "tắc vi phi đại thân", đủ thấy pháp thân và báo thân tuy
chẳng một mà chẳng khác (một cái theo tướng mà nói, một cái theo tánh mà
nói nên chẳng một, nhưng thực chỉ là một thân nên chẳng khác). Vì có
nầy báo thân cũng có 2 nghĩa :
1) Ðem cái nó ly hết thảy chướng,
tịnh đức đầy đủ ra để nói gọi là tự báo thân, tức là xuất chướng pháp
thân báo đắc pháp thân. Bảo là tu nhân chứng quả tự độ đã xong, nên gọi
là tự báo thân.
2) Nếu đem cái nó khắp hết thảy cảnh giới, quang
minh chiếu khắp ra mà nói gọi là tha báo thân. Vì chưng pháp thân hiện
tướng báo đắc, nguyên vì lợi tha nên gọi là tha báo thân. Có thể thấy tự
báo, tha báo chẳng một mà chẳng khác (một cái theo tự được thụ dụng mà
nói, một cái theo khiến tha thụ dụng nên chẳng một, nhưng vẫn là một
thân nên chẳng khác). Do đây đủ thấy tên đều là giả lập, nên cũng đủ
thấy tánh và tướng từ xưa đến nay chẳng ly. Ðem nghĩa trên để nói không
ngoài hai ý : giải thích nghi, và chứng nghĩa, có nghĩa là giải thích
cái nghi của người chưa hiểu tức là để chứng thành các nghĩa nói trên.
Vì chưng phòng ngừa nghe chỗ nói ba khoa trên chưa thể dung hội, sẽ nổi
dậy sự nghi rằng : đã rõ ràng là hết thảy pháp, sao lại đều là phật
pháp? Ðã là nhứt như sao lại có các pháp? Vô thực vô hư rốt ráo ra sao?
Vả lại nhiều lần nói thực không có pháp, mà báo thân của phật quang minh
tướng hảo nguyên là chỗ thành của vô lượng công đức pháp, chẳng phải rõ
ràng là có pháp tướng ư? Ðã không có thực pháp có thể đắc, mà đắc báo
thân nầy chẳng phải là thực pháp ư? Biết đâu rằng hết thảy pháp nguyên
là chân như tự tánh tùy duyên hiện ra. Nếu chẳng trước tướng của các
pháp, thì lúc thấy các pháp liền thấy tánh của các pháp. Thí dụ như báo
thân cũng tức là tướng của xuất chướng pháp thân hiển hiện ra. Hiển
tướng sở dĩ để lợi tha. Mà chẳng trước tướng của báo thân liền thấy tánh
của pháp thân, hai cái không trở ngại nhau, nên tuy có các pháp mà thực
là nhứt như, tuy là nhứt như mà chẳng ngại gì có các pháp. Phải biết,
như lai chỗ đắc vô thực vô hư vì ngài chỉ chứng thanh tịnh giác tánh
tịch chiếu đồng thời. Thí dụ như báo thân tuy tướng bảo quang minh mà
chẳng ngại tự tánh thanh tịnh, vả vì tự tánh thanh tịnh cho nên tướng
hảo quang minh, đây chẳng phải là giác tánh tịch chiếu đồng thời, vô
thực vô hư ư? Suy ra hết thảy pháp nguyên chẳng phải chân thực, đều là
giả danh. Nhưng biết nó là giả danh thì biết nó là tướng của chân như.
Biết nó là chẳng phải, thì biết nó đều là tánh của chân như. Thí dụ như
báo thân cũng là giả danh trường đại, mà chẳng qua là ánh sáng bóng của
chân như pháp thân mà thôi, cho nên tức chẳng phải trường đại, phải quán
tự tánh thanh tịnh chân như vậy. Vì chưng chẳng quán tướng mà quán tánh
thì báo thân tức là pháp thân, nên hết thảy pháp đều là phật pháp. Tóm
lại nói không có pháp, nói ly tướng là vì khiển trừ bịnh trụ pháp trụ
tướng, chẳng phải bảo là tuyệt đối không có pháp, không có tướng. Nói
không có pháp có thể đắc có nghĩa là đắc mà chẳng tồn tại cái tướng của
đắc, chẳng phải là rốt ráo không đắc. Phải biết rằng chẳng nên trụ trước
vì cớ chư pháp là nhứt như, vì cớ vô hư mà vô thực. Chẳng phải là rốt
ráo không có pháp, không có tướng, không có đắc, vì cớ tức chư pháp mà
nhứt như, vì cớ vô thực mà vô hư. Hiểu thấu được nghĩa nầy, thì hết thảy
pháp đều là phật pháp. Nghĩa nầy mà không hiểu rõ thì phật pháp cũng
chẳng phải là phật pháp. Nên lý báo thân pháp thân chẳng một chẳng khác
chẳng thể nào mà chẳng rõ, Hiểu rõ chẳng một khác thì biết chẳng phải là
có pháp, chẳng phải là không có pháp, chẳng phải là có tướng, chẳng
phải là không có tướng, chẳng phải là có đắc, chẳng phải là không có
đắc, mà nghĩa chư pháp như, cho đến nghĩa vô thực vô hư, hết thảy đều
thị liền có thể hiểu rõ triệt để. Vì cớ gì? Vì nó chẳng một nên thành
chư pháp mà vô thực, cho nên nói là tức phi, vì nó chẳng khác nên là
nhứt như mà vô hư, cho nên nói là đều thị. Biết ở trong cái chẳng khác
thấy cái chẳng một, thì tuy nhứt như mà chẳng ngại nó là chư pháp. Biết ở
trong cái chẳng một thấy cái chẳng khác, thì tuy chư pháp mà chẳng ngại
nó là nhứt như. Vả lại lúc chẳng một tức là chẳng khác, lúc chẳng khác
tức là chẳng một, nên nói là vô thực vô hư. Hiểu rõ nó hư thực đều chẳng
thể nói, nên đều nói rằng "vô". Lại nữa, chẳng một nên tuy thị mà gọi
là danh, chẳng khác nên tuy danh mà gọi là thị. Tuy chẳng một mà thực
chẳng khác, nên tuy gọi là thị danh, lại gọi là đều thị. Tuy chẳng khác,
mà thực chẳng một nên đã gọi là đều thị, lại gọi là thị danh. Nói tóm
lại tướng tuy chẳng một, tánh thì chẳng khác, nên hết thảy pháp đều là
phật pháp. Tánh đã đành là chẳng khác mà tướng thì vẫn chẳng một, nên
tức phi nhứt thiết pháp thị danh nhứt thiết pháp. Thế tôn nhân báo thân
và pháp thân chẳng một chẳng khác hiển ra rất là rõ ràng, mà lý của
chẳng một chẳng khác có thể hội thông các nghĩa chỗ nói ở trong ba khoa
trên, đây sở dĩ sau chót lại đem báo thân ra nói để tỏ rõ, khiến cho
nghĩa của pháp pháp đều như viên hiển ra triệt để.
Phía trước đem
báo thân ra nói là để chứng minh ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, vì
chưng đắc quả của báo thân nầy còn nói là phi thân, là thị danh, ấy là
Phật chẳng trụ ở thân nầy. Nên bồ tát lúc tu nhân phải vô sở trụ, nhưng
chẳng phải là không có cái thân lớn thắng diệu nầy. Thân nầy chính là do
lục độ vạn hạnh phước tuệ trang nghiêm nên, cho nên lúc tu nhân phải vô
trụ mà sanh tâm lục độ. Ở đây thì lấy hai thân báo, pháp chẳng một
chẳng khác hiển thành nghĩa pháp pháp đều như, cho nên chỗ nói tuy giống
nhau mà mệnh ý không giống nhau. Một khoa lớn pháp pháp đều như nầy cực
hiển quả đức, vì tỏ rõ nhân hành, nên khoa dưới nối tiếp tỏ rõ nhân.
Tu Bồ Ðề ! Bồ tát diệc như thị. Nhược tác thị ngôn : ngã đương diệt độ vô lượng chúng sanh tắc bất danh bồ tát.
Dịch
nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, Bồ tát cũng chư thế. Nếu làm lời nói nầy : ta phải
diệt độ vô lượng chúng sanh, thì chẳng gọi là bồ tát.
Như thị :
là trỏ pháp pháp đều như, một khoa lớn ở trên, có nghĩa là phật làm
chuẩn-thẳng cho bồ tát, chớ bảo rằng pháp pháp đều như là chỗ chứng của
phật, chẳng phải là chỗ ta tới được. Phải biết, phật có thể chứng như
thế là do nhân địa của phật tu như thế. Cho nên hết thảy bồ tát phát
giác sơ tâm cũng phải thể-hội nghĩa pháp pháp đều như như thế mà ở pháp
vô trụ. Hai chữ như thị đã trỏ thông khoa trên thì chữ như liền có thể
hiểu là chư pháp nhứt như chữ thị liền có thể hiểu là hết thảy đều thị.
Hợp lại mà xem tức vô thực vô hư. Hết thảy các pháp là vô thực, mà đều
là nhứt như là vô hư. Vì chưng bảo là bồ tát tu thắng nhân nên đắc thắng
quả, quả báo thân như cũng ứng với nhân địa tâm như. Ắt phải cùng với
vô thực của hết thảy các pháp ứng với nhau mà chẳng chấp một pháp nào.
Lại cùng với vô hư của đều là nhứt như ứng với nhau mà không bỏ một pháp
nào. Vả chăng lúc chẳng chấp tức là chẳng bỏ, lúc chẳng bỏ tức là chẳng
chấp. Như thị như thị hư thực đều vô, thì nhân như thị, quả ắt cũng như
thị. Câu bồ tát diệc như thị : là nêu lên tổng quát hai khoa độ sanh,
nghiêm độ đều phải như thị. Sao gọi là độ sanh? Là ly tướng hành lục độ.
Sao gọi là nghiêm độ? Cũng là ly tướng hành lục độ, chỗ gọi là phước
tuệ trang nghiêm vậy. Cho nên phải hành rộng lục độ mà chẳng bỏ một pháp
nào, lại phải chẳng trước tướng của lục độ mà chẳng chấp một pháp nào.
Chẳng bỏ, chẳng chấp mới có tư cách bồ tát, nên đều phải như thị. Dưới
câu nhược tác thị ngôn là nói phản lại để tỏ rõ nếu chẳng như thị liền
mất tư cách bồ tát. Ngã đương diệt độ vô lượng chúng sanh : cùng với văn
trước chỗ nói : "ngã ưng diệt độ nhứt thiết chúng sanh", chính lại
giống nhau. Trước nói : "đương sanh như thị tâm" rõ ràng là thế tôn dạy
khiến cho phải như thị. Nay bèn nói : "tắc bất danh bồ tát" là tại sao?
Trong nầy nghĩa lý sâu xa, sơ lược chia ra ba tầng để thuyết minh :
1)
Phải biết, trước khiến sanh tâm phải hết bổn phận, làm tròn trách nhiệm
là khiển trừ nó tự cho là bồ đề tâm. Nhưng chẳng trước bồ đề mà lại tự
cho là hết trách nhiệm, tuy đổi ra một diện mạo khác, mà thủ pháp vẫn
giống nhau, trụ tướng vẫn giống nhau, phân biệt chấp trước y nguyên như
cũ, thì làm sao có thể được? Cho nên vẫn bài xích nó rằng : "tắc bất
danh bồ tát". Chữ tắc rất cần thiết, vì còn có chút ít niệm ở tâm, thì
tư cách bồ tát liền mất đi. Ắt phải quán chiếu vi mật, khám nghiệm vi
mật, từng tầng từng tầng vào chỗ vi tế, khiển rồi lại khiển, thẳng đến
khiến tâm nầy một niệm chẳng sanh, sạch không mảy bụi. Tuy diệt độ vô
lượng mà như không có việc đó, ngõ hầu cùng với nghĩa nhứt như ứng với
nhau. Nếu còn có một chút niệm liền đã trước tướng, liền đã thủ pháp,
liền là phân biệt, vẫn là ngã kiến.
2) Khai thị phía trước chẳng
những khiến cho biết độ sanh là trách nhiệm phải làm hết, để khiển nó
trước bồ đề, vả lại khiến nó phải biết trách nhiệm nầy rốt cuộc chưa có
thể hết. Chỗ bảo là độ hết thảy chúng sanh xong, nhưng chúng sanh đã
không có lúc nào cùng tận thì trách nhiệm lại sao đã có thể hết, ấy là
khiển luôn cái kiến nó có thể độ. Lại khiến phải biết độ cũng giống như
chưa độ, chỗ bảo là vô nhứt chúng sanh thực diệt độ giả, ấy là lại khiển
cái kiến sở độ của nó. Lời khai thị này là triệt để, là viên mãn. Nay
ông nầy đem những lời khai thị quên mất hai câu, chỉ ôm chặt cứng lấy
một câu đầu, há chẳng phải nghiễm nhiên tự cho là có thể hết trách nhiệm
nầy, vả có sở độ lớn ư? Ngã đương diệt độ vô lượng, một thứ thái độ tự
cao tự phụ, trong con mắt không còn ngó thấy ai nữa, thì há là bồ tát?
Bịnh nầy ắt phải khiển trừ thống thiết, nên bài xích thẳng nó rằng :
"tắc bất danh bồ tát". Thế tôn thuyết như thế lại có ý chỉ sâu, vì chưng
khiến kẻ đọc kinh nghe pháp ắt phải quán thông triệt để, chẳng thể biết
một mà sơ sót muôn ngàn, chẳng thể chấp cái nghiêng lệch để khái quát
toàn thể, chẳng thể lấy chương cú cụt mà thủ nghĩa.
3) Người nầy
lại có bịnh lớn, bịnh ở tác thị ngôn, chẳng kể nói dóc chẳng xấu hổ là
chỗ chẳng nên, ngay đến khiến lời nói có thể đúng sự thực, mà tự động
nêu lên để được danh tiếng, thì tâm chẳng thanh tịnh có thể biết. Vả lại
lời nói là tiếng của tâm, tác như thị ngôn vì người này có cái niệm như
thị. Niệm còn chưa ngừng nghỉ, liễu sanh tử còn chưa có thể, mà gọi là
bồ tát như thế ư? Thế tôn nói như vậy là khiến kẻ phát đại bi tâm phải ở
trên ly niệm tăng gia công phu, nếu vọng niệm chẳng ngừng nghỉ thì chân
tâm bị che lấp mãi mãi, có bi mà không có trí, há có thể độ tha? Vả
chăng niệm làm sao nổi dậy? Nổi dậy ở kiến nhân ngã phân biệt hãy còn
tồn tại, nên chẳng gọi là bồ tát.
Hà dĩ cố? Tu Bồ Ðề ! Vô hữu pháp danh vi bồ tát.
Dịch nghĩa : Vì cớ gì? Tu Bồ Ðề ơi, không có pháp gọi là bồ tát.
Bản
lưu thông chép : thực vô hữu pháp danh vi bồ tát. Người nhà Ðường viết
kinh, và bản chú thích của ông Triệu và ông Tuệ đều không có chữ thực,
phải theo đó. Lúc chưa thấy bản xưa ở nghĩa của câu nầy cũng xem qua một
cách mơ hồ, kịp thấy bản xưa còn cho là thực vô hữu pháp danh vi bồ tát
cùng với câu phía trước thực vô hữu pháp danh a la hán phép đặt câu
giống nhau, có một chữ thực chưa từng chẳng thể được. Bèn tĩnh tâm thể
hội nghĩa kinh trước sau, mới biết tuyệt nhiên chẳng giống nhau, mới
biết sự khéo của bản cũ. Vì chưng trước tỏ rõ bốn quả vô niệm là đều
thấu qua một tầng để thấy ý, vì lời hỏi đều nói : "năng tác thị niệm ngã
đắc quả phủ". Nên lời đáp rằng : "tu đà hoàn danh vi nhập lưu nhi vô sở
nhập", vì chưng bảo tuy có tên là nhập lưu, nhưng trong tâm còn không
có chỗ nào gọi là nhập, há có chỗ gọi là lưu, thì tuyệt nhiên không có
niệm ngã đắc nhập lưu có thể biết. Tư đà hàm, A na hàm, cũng thuyết pháp
một thứ, nên dưới đều tiếp là thị danh mỗ mỗ ... để hiển chỗ gọi là
nhập lưu, vãng lai, bất lai đều là giả danh, ban đầu không có niệm nầy.
Nghĩa của A la Hán là vô sanh, nghĩa là chứng vô sanh pháp nhẫn. Ðã là
một pháp chẳng sanh, nên nói : thực vô hữu pháp. Vì chưng bảo tâm nó
ngay cả pháp cũng không có, há có chỗ bảo là vô sanh, thế thì chỗ gọi là
vô sanh chỉ là giả danh mà thôi, há có niệm nầy ư? Nên nói : gọi là A
la hán. Còn ở đây là tỏ rõ cớ chẳng gọi là bồ tát do tâm nó còn có kiến
năng độ sở độ, tức là thủ pháp. Thủ pháp liền trước các tướng ngã nhân
v.v.. là phàm phu, nên hữu pháp gọi là bồ tát nhứt định không có cái đó,
chẳng cần thấu qua một tầng mới có thể hiển ra ý, nên phép đặt câu khác
với trên. Câu vô hữu pháp danh vi bồ tát có hai thứ phương pháp đọc :
1)
Chữ vô ngắt thành một câu, sáu chữ dưới đọc thành một câu. Ý kinh vì
chưng bảo rằng : vì cớ gì chẳng gọi là bồ tát? Vì thế nói trái lại để
giải thích rằng : hữu pháp gọi là bồ tát thì phật không có thuyết nầy,
nên ở dưới nối tiếp khít rằng : thị cố phật thuyết nhứt thiết pháp vô
ngã nhân chúng thọ, để tỏ rõ hữu pháp liền trước ngã nhân phân biệt,
liền trái với phật thuyết, liền là phàm phu, cho nên vô hữu. Hữu pháp
danh vi bồ tát : là vì vô hữu pháp danh bồ tát của khoa nầy giải thích
thành cái cớ bất danh bồ tát của khoa trên, lại vì pháp vô ngã của khoa
dưới giải thích thành cái cớ vô hữu pháp danh bồ tát của khoa nầy, chỗ
bảo là xoay vần giải thích thành.
2) Bảy chữ đọc thành một câu,
như lời sớ của Khuê Phong pháp sư đời đường rằng : vô pháp danh bồ tát,
há có cái ngã độ chúng sanh. Vì chưng bảo là còn không có tên là pháp
của bồ tát, há có cái tướng của ngã độ chúng sanh. Ý hiển rõ văn trên
lời nói : "ngã đương độ chúng sanh" ấy, là thủ trước độ chúng sanh làm
thành pháp của bồ tát. Ông Triệu đời Tấn chú rằng : "Bồ tát tự mình đã
không có, thì làm gì có chúng sanh?" Tự mình không có nghĩa là còn không
có, ý bảo bồ tát chúng sanh đều là giả danh, còn không có bồ tát năng
độ, thì làm gì có chúng sanh sở độ. Vậy thì chẳng nên thủ trước độ chúng
sanh cũng rõ ràng vậy. Xem ý lời chú nầy thì chữ pháp lại phải xem một
cách linh hoạt, cũng như nói : không có pháp gọi là bồ tát. Tóm lại lời
chú xưa phần nhiều tỏ rõ nghĩa lớn, chẳng chú trọng ở mạch lạc của câu
nói trước sau trên dưới, nên đọc chú xưa cũng phải bỏ diện mạo đi mà lấy
tinh thần mới là khéo lĩnh hội.
Thị cố phật thuyết, nhứt thiết pháp vô ngã vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả.
Dịch nghĩa : Vì thế cho nên phật nói, hết thảy pháp không có ngã, không có nhân, không có chúng sanh, không có thọ giả.
Thị
cố : là thừa tiếp câu trên, bắt đầu câu dưới, vì chưng muốn giải thích
thành cớ vô pháp danh bồ tát, bèn tỏ rõ thêm lý phật thuyết nhứt thiết
pháp vô ngã. Phật thuyết nhứt thiết pháp vô ngã, nhân, chúng sanh, thọ
giả, phải biết rằng kiến của chúng sanh đều là phân biệt, phân biệt liền
có năng sở đối đãi. Theo năng kiến mà nói tức là ngã, theo sở kiến mà
nói tức là nhân, kiến của năng sở sai biệt sanh ra nhiều tức là chúng
sanh, đây là theo chiều ngang mà nói. kiến của năng sở nối tiếp chẳng
dứt tức là thọ giả, đây là theo chiều dọc mà nói, vọng tâm phân biệt
nhiều chẳng kể xiết, lấy năng sở ngang dọc mà thu nó thì thu hết. Kinh
nầy vì thế ở trong bao nhiêu thứ kiến báo nhiêu thứ tướng, riêng đem bốn
cái nầy ra để nói. Thế nhưng phân biệt nổi dậy ở trước ngã, nên mở ra
làm bốn, hợp lại thì chỉ có một cái ngã kiến mà thôi. Biết đâu rằng hết
thảy pháp vốn xưa nay vô ngã, vô sai biệt. câu phật thuyết nầy bao gồm
nghĩa rất nhiều, phải đọc làm hai thứ để tỏ rõ nó :
1) Chữ thuyết
là một câu, bảo là nhứt thiết pháp vô ngã là chỗ phật thuyết. Gồm nhứt
thiết pháp đều là duyên hội thì sanh ra, sanh tức là không sanh, vì
chưng chỗ gọi là sanh ra chẳng qua là huyễn tướng của duyên hội mà thôi,
sao có thực pháp? Nên nói sanh tức là vô sanh, đây là phật thường tuyên
thuyết sanh tức là vô sanh, thì làm gì có ngã nhân sai biệt? Phải biết,
phàm có ngã nhân sai biệt là bịnh thủ trước của phàm phu, trong hết
thảy pháp làm gì có việc nầy? Cho nên trước nói : "nhược tâm thủ tướng
tắc vi trước ngã nhân chúng sanh thọ giả", nếu nó chẳng thủ, thì không
có năng, không có sở, không sanh ra một tướng nào. Thế thì bồ tát nói :
"ngã đương diệt độ chúng sanh" tức là thủ trước pháp của lục độ, tức là
ngã nhân đối đãi, bốn tướng rành rành, đây là phàm phu mà thôi, há gọi
là bồ tát, nêu hữu pháp danh vi bồ tát quyết nhiên không có lý nầy.
2)
Chữ pháp làm một câu, có nghĩa là phật thuyết hết thảy pháp vốn không
có ngã nhân sai biệt, trong nầy lại phải mở ra hai nghĩa để nói :
A)
Phàm chỗ thuyết của phật đều là thuyết chỗ chứng của phật, mà chỗ chứng
của phật chỉ là chư pháp nhứt như. Nên hết thảy pháp của phật thuyết
đều là khiến người ta mất hết pháp tướng đối đãi phân biệt đi, ngộ pháp
tánh bình đẳng nhứt như. Giác cái giác tánh nầy có thể gọi là bồ tát.
Nếu tồn tại có pháp tướng, tức là ngã chấp, liền thành đối đãi, liền là
phân biệt, sao gọi là giác, nên hữu pháp danh vi bồ tát, so với thuyết
của phật thì không có nghĩa nầy.
B) Phật thuyết hết thảy pháp đều
là khiến kẻ nghe không có nhân ngã, không có pháp ngã, trừ tâm phân
biệt. Vì nhứt chân pháp giới vốn không có phân biệt ngã nhân v.v...., có
cái phân biệt nầy bèn thành ra chúng sanh. Phật vì độ chúng sanh mà
thuyết pháp, cho nên hết thảy pháp đều là thuyết nghĩa của nhứt chân như
pháp giới, khiến trừ ngã chấp. Nên một pháp chẳng nên thủ, thủ thì
trước ngã nhân chúng sanh thọ giả. Bồ tát là kẻ học phật, nếu thủ trước
các pháp lục độ thì sao gọi là học phật? Vì cớ gì? Vì hữu pháp danh bồ
tát, phật không có thuyết nầy. (Trong nầy không nói như lai thuyết mà
nói phật thuyết chính là vì hiển lý nhân quả nhứt như. Phật là người của
quả, bồ tát là người của nhân, người của quả đã thuyết như thế thì
người của nhân phải học như thế). Tóm lại, hết thảy chúng sanh tánh vốn
đồng thể, vốn không có chia ra mày tao đối đãi, nên nói chúng sanh thì
bồ tát cũng là chúng sanh, nói bồ tát thì chúng sanh cũng là bồ tát,
chúng sanh bổn lai là phật, huống bồ tát ư? Vả sanh vốn vô sanh, sao bảo
là độ? Ðộ cũng là tự độ, sao gọi là độ sanh? Thí dụ như đầu bị cháy,
tay ắt cứu đầu, tuy kẻ rất ngu cũng không lý nào mà chẳng cứu, thế nhưng
quyết không có sự phân biệt năng cứu sở cứu. Vì biết năng cứu tức là sở
cứu, sở cứu tức là năng cứu. Bồ tát cùng với hết thảy chúng sanh lại
cũng như thế ! Nên phật thuyết hết thảy pháp vô ngã, nhân, chúng sanh,
thọ giả, khiến kẻ nghe phải quán cái tánh đồng thể. Nếu làm câu nói :
"ngã đương diệt độ vô lượng chúng sanh", há chẳng phải là ngã kiến, nhân
kiến, chúng sanh kiến ư? Kiến nầy một ngày chẳng trừ thì chẳng phải là
thọ giả kiến ư? Phân biệt như thế, chấp trước như thế là ở nghĩa tánh
vốn đồng thể, chư pháp nhứt như hoàn toàn ngăn cách, rõ ràng là trái với
phật thuyết, còn tự cho mình là bồ tát ư? Bèn nói phải độ vô lượng, sợ
rằng đến năm, ba chúng sanh cũng chẳng thể độ được. Vì cớ gì? Vì đã cho
ngã là ngã, chúng sanh là chúng sanh, thì gặp kẻ được mình độ thế ắt tự
kiêu căng, tự vui mừng, kẻ chẳng được mình độ thế ắt coi rẻ ganh ghét,
gặp kẻ khác hành lục độ lại ắt tranh cạnh đố kỵ, tình chấp xoay chuyển,
tự mình trói buộc mình, tự mình còn đương day về trong rừng rậm phiền
não ác kiến mà đi vào, còn nói là độ chúng sanh ư, còn được gọi là bồ
tát ư? Cho nên hữu pháp danh bồ tát nhứt quyết là không có việc nầy, lý
nầy. Phàm kẻ phát chánh giác ắt phải đem nghĩa lý của phật thuyết hết
thảy pháp vô ngã nhân chúng sanh thọ giả, cũng tức là nghĩa lý của chư
pháp nhứt như thể hội một cách thiết thực. Tuy tu rộng lục độ mà không
chấp một pháp nào, ngõ hầu tâm không còn vọng niệm mà vô thực, công
chẳng đường quyên mà vô hư. Một khoa vô ngã nầy đã để kết văn trên, lại
cũng để bắt đầu văn dưới. Vì chưng khoa dưới : tức phi trang nghiêm thị
danh trang nghiêm, cũng là thuyết nghĩa pháp tánh vô sai biệt, cùng với
nghĩa thuyết ở khoa nầy thông suốt nhau.
Tu Bồ Ðề ! Nhược bồ tát tác thị ngôn : ngã đương trang nghiêm phật độ thị bất danh bồ tát.
Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, nếu bồ tát làm lời nói nầy : Ta phải trang nghiêm phật độ, thì chẳng gọi là bồ tát.
Bồ
tát tu hành lục độ đều là thượng cầu hạ hoá, ở trên đã theo độ sanh để
tỏ rõ hạ hoá, nên hoa nầy lại theo nghiêm độ để tỏ rõ thượng cầu. Thượng
cầu tức là thượng cầu giác đạo. Thế nhưng thượng cầu giác đạo cũng vì
hạ hóa chúng sanh, vì chưng bồ tát phát tâm chỉ ở lợi ích chúng sanh mà
thôi. Cái bịnh ở trong nầy nói cũng cùng với bịnh ở trong độ sanh giống
nhau, bịnh ở làm lời nói : "ta phải" là vậy. Phàm bao nhiêu thứ tội lỗi
nói ở khoa trên đều thông với khoa nầy, không cần phải nói thêm nữa. Tóm
lại "làm lời nói" liền là động niệm, "ta phải" liền là chấp kiến. Khởi
niệm chấp kiến như thế trọn vẹn là phàm tình, sao gọi là bồ tát, nên nói
: thị bất danh bồ tát.
Hà dĩ cố? Như lai thuyết trang nghiêm phật độ giả tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm.
Dịch nghĩa : Vì cớ gì? Như lai nói trang nghiêm phật độ tức là chẳng phải trang nghiêm, nên gọi là trang nghiêm.
Hà
dĩ cố : là hỏi cái cớ chẳng gọi là bồ tát, tức phi thị danh đều như
trên đã nói, tức là chẳng trước tướng, hội về tánh. Ðem hai lời nầy, thì
cái cớ chẳng gọi là bồ tát đã rất rõ ràng. Vì bởi người nầy trước tướng
mê muội tánh cho nên chẳng gọi là bồ tát. Trang nghiêm phật độ phía
trên đã nói, nhưng chỗ tỏ rõ nghĩa ở đây cùng với trước chẳng giống
nhau. Chỗ chẳng giống nhau ở ba chữ "như lai thuyết". Như lai thuyết là
tỏ rõ theo tánh mà thuyết thì chư pháp nhứt như, chẳng nên tồn tại chút
nào tình kiến phân biệt chấp trước. Phía trước đem câu nầy ra để nói là
vì hiển nghĩa của ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, khiến cho biết ở lúc
chẳng chấp mà cũng chẳng phế bỏ. Nay đem câu nầy ra nói là vì để tỏ rõ
nghĩa ưng sanh kỳ tâm mà vô trụ. (Trước nói : đương sanh như thị tâm,
nay ở hai khoa độ sanh, nghiêm độ nầy thì dạy rằng tuy đương sanh như
thị tâm mà cũng chẳng nên trụ), khiến cho biết ở lúc chẳng phế bỏ tức là
chẳng chấp. Vì chưng trước là khiến kẻ phát bồ đề tâm ly tướng để tu
phước tuệ, nay là khiến kẻ hành bồ tát đạo ở lúc tu phước tuệ mà chẳng
tồn tại cái kiến tu phước tuệ nầy, trước sau cạn sâu có sự chia biệt rất
lớn. Phải biết rằng phật tức là tâm (chỗ bảo thị tâm thị phật) độ tức
là địa, phật độ cũng như nói tâm địa. Chỗ gọi là trang nghiêm, vì chúng
sanh từ vô thủy đến nay tâm thanh tịnh nầy bị hết thảy nhiễm pháp sanh
ra chướng ngại. Cái vốn là không tịch thì trọn vẹn rối ren, cái vốn là
quang minh thì trọn vẹn mờ ám. Cho nên khiến phát nguyện rộng lớn tâm để
mở lớn tâm lượng của nó ra, tu lục độ vạn hạnh để trừ cái riêng tư của
nó. Ly tướng, ly niệm, đem bao nhiêu phàm tình tục kiến phân biệt chấp
trước tảo trừ một cách thống thiết, rửa chà một cách tinh tế. Thí dụ như
những vật chướng ngại trên đất có sự dơ dáy uế nhiễm, nay quét sạch mà
làm cho nó không có, để hồi phục cái không tịch quang minh cũ của nó,
không biết đặt tên là gì, nên đặt tên nó là trang nghiêm mà thôi! Thực
ra thì không chỗ nào gọi là trang nghiêm. Nay làm lời nói rằng : "ngã
đương trang nghiêm", mang một cái kiến nầy trong tâm địa, liền chẳng
không tịch, liền che lấp quang minh, còn được gọi là trang nghiêm ư? Ở
trên tánh thể trọn vẹn không lĩnh hội, trái với thuyết của như lai, nên
nói : chẳng gọi là bồ tát. Ắt phải hiểu sâu tôn chỉ của tức phi thị
danh, ly tướng hội về tánh, nhứt như chẳng động, tuy phừng lên trang
nghiêm mà quên nó là trang nghiêm, ngõ hầu cùng với tánh không tịch
tương ứng. Ðã không lại tịch thì quang minh tự nó hiển ra, trang nghiêm
phật độ như thị như thị! Bồ tát phải biết như thế! Quảng độ chúng sanh
(trên nói diệt độ vô lượng là nghĩa quảng độ) là đại bi, thanh tịnh tâm
địa (trang nghiêm phật độ nói một cách triệt để tức là thanh tịnh tâm
địa) là đại trí. Ðại bi đại trí tức là vô thượng bồ đề. Hợp những nghĩa
chỗ nói trong hai khoa độ sanh, nghiêm độ là để tỏ rõ kẻ phát bồ đề
chẳng thể tồn tại một niệm đại bi đại trí nầy. Nếu còn tồn tại một chút
ít niệm nầy, liền là pháp chấp, liền chẳng phải là bồ tát. Hai câu :
"bất danh bồ tát" chính là kết thành lúc mở chương đầu nói nghĩa của
"thực vô hữu pháp phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề", chương pháp hết
sức nghiêm mật, ý nghĩa hết sức viên mãn.
Tu Bồ Ðề ! Nhược bồ tát thông đạt vô ngã pháp giả, như lai thuyết danh chân thị bồ tát.
Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, nếu bồ tát thông đạt pháp vô ngã, như lai gọi tên thiệt là bồ tát.
Văn
của khoa nầy, từ xưa đến nay phần nhiều cho là để kết thúc hội trên.
Nhưng tìm kỹ mạch lạc của câu nói nầy, trước nói : "Phật thuyết nhứt
thiết pháp vô ngã" là hiển nghĩa pháp tánh không sai biệt, cho nên kết
độ sanh chẳng nên thủ pháp. Trên nói : "tức phi trang nghiêm thị danh
trang nghiêm" cũng là hiển nghĩa pháp tánh không sai biệt, cho nên kết
nghiêm độ chẳng nên thủ pháp. Pháp tánh đã không sai biệt nên một pháp
đều chẳng nên trụ, thì ngay đến nghĩa của "thực vô hữu pháp phát bồ đề"
cũng đã kết thành luôn rồi, chẳng cần phải kết lại nữa. Lại xem kỹ văn
sau thì biết trước đem phật thuyết nhứt thiết pháp vô ngã ra nói là vì
khoa nầy khiến cho thông đạt vô ngã pháp làm một dẫn-án. Kịp nói đến
khoa thứ bốn sau nầy trong chứng phận thì nói : "tri nhứt thiết pháp vô
ngã đắc thành ư nhẫn", đó là làm sự kết thúc của khoa nầy. Nay sắp khai
thị tri kiến của phật khiến cho thông đạt, nên trước nói khoa nầy rằng :
"nhược bồ tát thông đạt vô ngã pháp v.v..." là nêu lên để chỉ thị
chương pháp rõ ràng, nhứt khí quán thông, nên phán khoa nầy là lời nêu
lên để chỉ-thị thì trước sau dung hợp, nếu chỉ cho là kết thúc khoa trên
thì khí mạch chẳng liên lạc, tinh thần chẳng tụ lại.
Vô ngã pháp
tức là pháp vô ngã, nhưng chẳng phải là không có khu biệt. Chứng đắc
nhứt như của chư pháp thì gọi là pháp vô ngã, thông đạt các pháp của
nhứt như thì gọi là vô ngã pháp, tức như văn trên : "phật thuyết hết
thảy pháp vô ngã", vì phật đã chứng lý của vô ngã, đầy đủ trí của vô
ngã, có thể ở trong hết thảy pháp vô ngã, cho nên nói là pháp vô ngã.
Chỗ qui kết sau nói rằng : "tri nhứt thiết pháp vô ngã, đắc thành ư
nhẫn", là tỏ rõ phật chẳng những ở hết thảy pháp có thể biết là vô ngã,
vả lại an nhẫn ở vô ngã, cho nên cũng nói là pháp vô ngã. Chỗ nầy là
khiến thông đạt hết thảy pháp bổn lai vô ngã, nên nói vô ngã pháp. Phải
biết rằng bịnh là pháp chấp, bịnh là bị ngã kiến che lấp đi mà thôi,
trong hết thảy pháp làm gì có ngã, nay khiến thông đạt là khiến trừ
chướng. Chướng của ngã kiến trừ, thì chứng pháp tánh của bổn lai vô ngã.
Nên lời nói thông đạt vô ngã pháp cũng như nói : trừ khử vọng tâm phân
biệt, thấy chân tánh vốn không phân biệt mà thôi. Tóm lại hết thảy pháp
đều vô ngã, thì hết thảy đều vô ngã pháp, cho nên từ mặc áo, cầm bình
bát vào thành xin ăn, cho đến trở về chỗ cũ, trải tọa cụ mà ngồi đều sở
dĩ biểu thị pháp của vô ngã. Vì cớ gì? Bởi thế tôn vốn không cần gì ăn
cơm, mặc áo, vì cớ vì chúng sanh, một năm 360 ngày, cho đến 49 năm ngài
hoà mình vào ở trong chốn trần lao, nếu chẳng quách nhiên vô ngã, ngài
quên mình là phật mà có thể làm được như thế ư? Ðây chính là khí tượng
của pháp nhứt như, nhứt thiết pháp dai thị phật pháp, lại cũng chính là
bằng cứ chân thực : như lai chỗ đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà ở
trong đó vô thực vô hư. Ðây là trưởng lão Tu Bồ Ðề sở dĩ từ trong đại
chúng từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ tán thán rằng : "Hi hữu thế tôn! Như
lai thiện hộ niệm, thiện phó chúc chư bồ tát !" Vì đã như lai, mà còn
ngày ngày ở trong chốn trần lao hoà mình vào, chẳng lìa chúng sanh, cho
nên nói : "thiện hộ niệm", vả lại liền lấy pháp tùy duyên độ nhật, quên
đi cái vị ngã, ngày ngày thực hành sự giáo huấn không lời nói, nên nói
"thiện phó chúc". Tiếc thay, chỉ một mình trưởng lão khéo có thể thông
đạt, còn chư đại chúng đều mơ hồ chẳng hay biết. Vậy nên trưởng lão bất
đắc dĩ cầu thỉnh khai thị tường tận. Mà từ bắt đầu thuyết : chư bồ tát
hàng phục kỳ tâm, theo từng tầng lớp một thuyết đến khoa trên, đều là
khiến phá ngã chấp. Vậy thì chỗ thuyết không một lời nào chẳng là pháp
của vô ngã, liền đều phải thông đạt vậy. Thế thì nay nói thông đạt vô
ngã pháp tức là trỏ chỗ thuyết từ trên tới đây ư? Hay riêng có pháp vô
ngã nào khác ư? Phải biết, không phải có pháp nào khác, mà cũng không
phải không có pháp nào khác. Vì cớ gì? Vì hết thảy pháp đều vô ngã,
chẳng thể nói riêng những pháp ở trên là vô ngã, còn ngoài ra đều chẳng
phải vô ngã. Nếu đại chúng khéo có thể thông đạt, liền chẳng cần đợi thế
tôn mở miệng nói ra mà ở lúc tùy duyên độ nhựt, mặc áo ăn cơm của thế
tôn sớm đã thông đạt triệt để rồi vậy. Chỉ vì đại chúng chẳng thể thông
đạt nên mới có các pháp thuyết ở trên. Mà thế tôn đại từ đại bi thương
xót hết thảy chúng sanh, sợ chúng nó tuy nghe các pháp lại còn chưa thể
thông đạt, nay sẽ lại thuyết phương tiện căn bản khiến được thông đạt,
nên ở chỗ nầy thừa tiếp nghĩa của "phật thuyết nhứt thiết pháp vô ngã" ở
trên đặc biệt vì đó nêu lên chỉ thị rằng : "nhược bồ tát thông đạt vô
ngã pháp giả, như lai thuyết danh chân thị bồ tát", khiến đại chúng chấn
tác tinh thần nghe kỹ văn dưới, chẳng đến nỗi xem như lời nói thường,
sơ lược mà bỏ qua đi.
Sao gọi là phương tiện căn bản? Tức là văn
dưới khai phật tri kiến. Phàm người học phật, tuy biết cái hại của ngã
kiến, nhưng vì gốc bịnh sâu quá, trừ nó không được. Rõ ràng học vô ngã
pháp mà vẫn y như cũ chỗ nào cũng trước ngã, thế thì biết làm sao đây?
Chỉ có đem tri kiến của phật cực lực tưới vun, để hoá phàm tình tục kiến
ngày xưa của mình, ngõ hầu vô ngã pháp chỗ nói phía trước phía sau đều
được thông đạt mà thôi! Do đó mà nói, bảo tằng khai phật tri kiến càng
là diệu pháp của vô ngã cũng có thể được. (Có thể thấy chỗ tỏ rõ những
nghĩa trong khai phật tri kiến ở trọn bộ kinh nầy càng chiếm vị trí
trọng yếu, nghĩa nầy ắt phải trước thông đạt triệt để). Tuy thế, pháp
tức là phi pháp, nếu nghe khai phật tri kiến mà có một tri kiến tồn tại
liền lại thành pháp chấp, lại là ngã kiến, há là phật tri phật kiến ư?
Lý nầy phải suy nghĩ cho sâu xa. Thông đạt có nghĩa là thông ra bốn
phía, đạt đến tám phía, tức là không có chướng ngại. (Thông đạt tức là
khai). Chúng sanh ở hết thảy pháp sanh ra chướng ngại, chẳng thể thông
đạt vì cớ thiên chấp, thiên chấp tức là ngã kiến. Nay khiến khai phật
viên kiến, viên thì chẳng chấp, khai phật chánh tri, chánh thì chẳng
thiên. Nên muốn khai thông trí tuệ vô ngã, đạt đến lý thể vô ngã, ắt
trước phải thông đạt tri kiến của nó, khiến cho được không kiến nào là
chẳng viên, không tri nào là chẳng chánh, đây chẳng phải là phương tiện
căn bản ư? Tóm lại là để tỏ rõ phương pháp tiến tu trước hết phải khai
giải, bỏ cái thiên chấp của nó đi mà thôi. Như lai thuyết danh chân thị
bồ tát : có nghĩa là nếu thông đạt vô ngã pháp thì thông đạt chư pháp
nhứt như, nên nói : "như lai thuyết", nên nói "chân thị". Nhưng tánh thể
không tịch, làm gì có bồ tát danh tướng, nên nói : "thuyết danh" khiến
cho biết rằng chỗ gọi là chân thị bồ tát cũng là giả danh của ngôn
thuyết mà thôi, cũng chẳng thể chấp. Chấp thì lại chẳng không tịch, mà
chẳng phải nhứt như.
Vô ngã pháp cũng có thể chia ra làm vô ngã,
vô pháp nhưng chẳng kể nhân ngã, pháp ngã, chung lại là một cái ngã
chấp, mà pháp ngã vi tế hơn nhân ngã. Pháp ngã mà không có thì nhân ngã
tự nó không có, nên chẳng cần chia ra làm hai mà nói.
Tu
Bồ Ðề !Ư ý vân hà, Như lai hữu nhục nhãn phủ? Như thị thế tôn; Như lai
hữu nhục nhãn. Tu Bồ Ðề ! Ư ý vân hà, như lai hữu thiên nhãn phủ? Như
thị thế tôn; Như lai hữu thiên nhãn. Tu Bồ Ðề ! Ư ý vân hà? Như lai hữu
tuệ nhãn phủ? Như thị thế tôn; Như lai hữu tuệ nhãn. Tu Bồ Ðề ! Ư ý vân
hà? Như lai hữu pháp nhãn phủ? Như thị thế tôn; Như lai hữu pháp nhãn.
Tu Bồ Ðề ! Ư ý vân hà? Như lai hữu phật nhãn phủ? Như thị thế tôn ; Như
lai hữu phật nhãn.
Dịch nghĩa: Tu Bồ Ðề ơi, ở ý ông ra
sao, Như lai có nhục nhãn chăng? Thưa thế tôn, đúng như thế, như lại có
nhục nhãn. Tu Bồ Ðề ơi, ở ý ông ra sao, như lai có thiên nhãn chăng?
Thưa thế tôn, đúng như thế, như lai có thiên nhãn. Tu Bồ Ðề ơi, ở ý ông
ra sao, như lai có tuệ nhãn chăng? Thưa thế tôn, đúng như thế, như lai
có tuệ nhãn. Tu Bồ Ðề ơi, ở ý ông ra sao, như lai có pháp nhãn chăng?
Thưa thế tôn, đúng như thế, như lai có pháp nhãn. Tu Bồ Ðề ơi, ở ý ông
ra sao, như lai có phật nhãn chăng? Thưa thế tôn, đúng như thế, như lai
có phật nhãn.
Chỗ thấy nầy chẳng phải chỉ trỏ con mắt thấy, cũng
như nói chỗ thấy vậy thôi. Tri kiến đều từ lý trí mà ra, nguyên chẳng
phải là thể khác (lý là lý thể tức là bổn tánh, lý trí là trí của tánh
có đầy đủ, rõ ràng là nó chẳng phải ở ngoài tới). Nhưng theo chỗ biểu
hiện mà nói thì gọi là kiến (thấy), theo chỗ hiểu rõ ở trong mà nói thì
gọi là tri (biết), nên chẳng thể gượng chia làm hai, cũng chẳng thể nhứt
định nói là một. Lại tri và kiến giúp lẫn nhau, cái biết mà sâu thì chỗ
thấy tự nó chẳng cạn. Nhưng nếu không phá cái kiến cũ của nó đi thì
cũng không thể mở cái tri mới của nó, nên trong văn trước nói kiến, sau
nói tri.
Nay trước nói danh tướng của năm nhãn, lại tỏ rõ chỉ thú
của phật nói năm nhãn. Nhục nhãn tức là con mắt có của thân máu thịt
nầy, vì thắng nghĩa tịnh căn y theo thục thể mà có chỗ chiếu kiến, gọi
là nhục nhãn (mắt thịt). Con mắt nầy chỗ thấy có hạn, chỉ có thể thấy
sắc ở trong chướng (đối ngoài chướng mà nói). Thắng nghĩa tịnh căn là
tên khác của thanh tịnh kiến tánh, chỗ thấy có hạn là vì bị phiền não
che lấp.
Thiên nhãn có cái do nghiệp lực mà được, như lục dục
thiên vì phước nghiệp mà được, có cái do định lực mà được, sắc thiên, vô
sắc thiên đều là định lực. Ðịnh lực có nghĩa là làm sự quán tưởng cảnh ở
ngoài chướng (ngoài chướng là đối với trong chướng chỗ thấy của nhục
nhãn mà nói). Vì cớ quán tưởng thành, nên thấy việc ngoài chướng (tức là
việc nhục nhãn chẳng thể thấy) gọi là thiên nhãn, chẳng ắt phải sanh
lên cõi trời mới có, ngay ở nhân gian được định lực nầy liền có thể có,
đây là trỏ chuyên tu định lực nầy mà nói. Nếu thiên nhãn của người sanh ở
dục thiên thì là do tu phước nghiệp mà được. Thiên nhãn của người sanh
sắc thiên trở lên, hoặc do tu các thứ định khác mà được thì đều là báo
mà được. Phàm phu đều là hai nhãn nầy, còn từ tuệ nhãn trở lên nếu chẳng
tu xuất thế pháp thì không thể có. Tuệ nhãn là lấy căn bổn trí chiếu
kiến lý chân không (cũng gọi là chân đế), trí tức là tuệ, nên gọi là tuệ
nhãn. Căn bổn trí có rất nhiều tên khác nhau như : thực trí, chân trí,
chánh thể trí, như lý trí v.v...vì nó có thể sanh khởi hậu đắc trí nên
gọi là căn bổn trí. Bực thánh hiền nhị thừa chỗ thấy đều thế nầy, được
cái nầy thì thiên nhãn cũng được, mà còn hơn thiên nhãn, có thể thấy cái
thiên nhãn chẳng thể thấy, nhưng cũng có chỗ hạn chế chẳng bằng được
tuệ nhãn của phật.
Pháp nhãn là lấy hậu đắc trí chiếu kiến việc
sai biệt (tức là tục đế) cũng có nhiều thứ tên khác nhau như : quyền
trí, tục trí, biến trí, như lượng trí, v.v...vì sau khi được căn bổn trí
mới có thể được, cho nên gọi là hậu đắc trí. Ðược trí nầy thì chẳng
những chứng lý chân không, thông hết thảy phật pháp, mà thông luôn cả
hết thảy pháp thế tục, và thông hết thảy chúng sanh nhân nhân quả quả,
khởi tâm động niệm các thứ sự tướng sai biệt, nên gọi là pháp nhãn,
nhưng cũng còn chưa bằng pháp nhãn của phật. Chỗ thấy của bồ tát đều ở
nhãn nầy. Ba thứ nhãn trước bồ tát đều có chẳng cần đợi nói, chỉ không
có phật nhãn thôi.
Phật nhãn là trí không cái nào là chẳng cực,
chiếu không cái nào là chẳng viên, chỉ có phật mới có, nên gọi là phật
nhãn. Cổ đức có bài tụng rằng : "Thiên nhãn thông mà chẳng trở ngại,
nhục nhãn trở ngại mà chẳng thông, pháp nhãn có thể quán tục, phật nhãn
thấy rõ chân không". Phật nhãn thì như ngàn vừng mặt trời soi dị thể mà
trở lại đồng. Soi dị thể mà trở lại đồng có nghĩa là chỉ theo sự chiếu
kiến thù thắng gọi là phật nhãn, thực ra thì thể của phật nhãn chẳng
phải ở ngoài bốn nhãn mà riêng có. Nên bốn nhãn trước, theo phía bên
phật mà nói thì tuy gọi là nhục nhãn mà thấy vô số thế giới, chẳng giống
như phàm phu có chỗ hạn chế chỉ thấy trong chướng. Lấy thiên nhãn ra để
nói, thiên nhãn của phàm phu chỉ thấy cái mà nhục nhãn không thể thấy,
thiên nhãn của bực nhị thừa chỉ thấy một tam thiên đại thiên thế giới.
Thiên nhãn của bồ tát tuy hơn bực nhị thừa mà chẳng bằng phật, chỉ có
thiên nhãn của phật có thể thấy hằng hà sa số phật độ. Ðem tuệ nhãn ra
nói, tuệ nhãn của bực nhị thừa chỉ có thể chiếu kiến ngã không, tuệ nhãn
của địa thượng bồ tát cũng là chứng từng phần pháp không, tuệ nhãn của
phật thì viên chiếu tam không, suốt thấy chân tánh. Ðem pháp nhãn ra nói
thì pháp nhãn của bồ tát sở tri chướng chưa hết, từ trong địa nầy tới
địa khác, mỗi địa có phân hạn, chỉ có pháp nhãn của phật là sở tri
chướng hết, không pháp nào là chẳng biết, nên không chúng sanh nào là
chẳng độ. Do đó có thể biết, theo phía bên phật mà nói chẳng qua gọi là
bốn nhãn ấy là tiêu biểu tùy theo chỗ cảm mà ứng, kỳ thực chỉ có một
phật nhãn mà thôi, nên bực cổ đước nói : bốn nhãn trên, ở phật gọi chung
là phật nhãn.
Phật nhãn không trí nào là chẳng cực, không chiếu
nào là chẳng viên. Ðem tục đế ra nói, số hạt mưa xuống khắp hằng hà sa
thế giới đều biết hết, thấy hết, những cái khác có thể tưởng được. Nên
từ vô thủy đến tận cùng vị lai, khắp hư không, tận pháp giới, hết thảy
chúng sanh, cho đến một chúng sanh cực vi tế chết ở đây sanh ở kia, căn
tánh chủng tộc cho đến khởi tâm động niệm, tiền nhân hậu quả, những sự
tướng ngàn muôn sai biệt cực vi tế, không cái nào là chẳng biết hết,
không cái nào là chẳng thấy hết. Ðem chân đế ra nói, thì thanh văn định
nhiều tuệ ít, nên chỉ chiếu ngã không, chẳng kiến phật tánh, bồ tát tuệ
nhiều định ít, tuy kiến phật tánh, nhưng còn chưa tỏ rõ hết. Vì chưng
chứng phật tánh lấy tuệ làm nhân, lấy định làm duyên, nhân thì thân,
duyên thì sơ, nên định nhiều không bằng tuệ nhiều. Nhưng định tuệ đã
chẳng đồng đều, nên bồ tát chỉ chứng pháp từng phần, thấy phật tánh từng
phần. Chỉ có phật và phật, định tuệ đồng đều nhau, kiến tánh rõ ràng,
như thấy trái yêm-ma-la ở trong bàn tay. Trên đây là giải thích danh
tướng.
Phật thuyết ngũ nhãn, tôn chỉ ra sao? Vì chưng mượn ngũ
nhãn để tỏ rõ phật kiến viên dung, khoa nầy tướng của văn rất lạ, đột
nhiên mà nổi dậy, rồi bỗng nhiên mà ngừng, sắp ngang hàng năm nhãn,
ngoài ra chẳng thêm một chữ, ý nghĩa rất khó lĩnh hội. Ắt phải hợp với
khoa trên đọc song song mới biết là khiến thông đạt phật kiến, chữ tri ở
văn dưới là khiến cho khai phật tri, cho nên phải phán khoa trên là
"nêu lên tổng quát". Ðem một phật nhãn liền nhiếp bốn nhãn, nay bèn mỗi
mỗi đem khắp bốn nhãn mà hỏi, đều trả lời là có, chính là tỏ rõ chẳng
chấp một kiến. Nếu bốn nhãn đều trả lời là không, chỉ có phật nhãn là
trả lời là có, ấy là chấp riêng một phật nhãn, há là viên kiến của phật
ư, há là pháp vô ngã ư? Trưởng lão hiểu sâu nghĩa thú, thông đạt vô ngã
pháp, nên chẳng trả lời như thế. Theo phía bên phật mà nói, thì nhục
nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn mỗi mỗi nhãn thù thắng, hợp bốn
nhãn nầy tức là phật nhãn. Lại còn đem phật nhãn ra hỏi, cũng trả lời là
có, chính là tỏ rõ chẳng phải ngoài bốn nhãn ra riêng có phật nhãn,
chẳng phải ngoài mỗi mỗi nhãn ra riêng có mỗi mỗi nhãn. Nhưng tùy cảm mà
ứng cũng không hại gì mà có mỗi mỗi nhãn. Vì chưng đem khắp năm nhãn ra
nói, ý hiển rõ chẳng một mà một, một mà chẳng một, kiến kiến đều viên,
không chỗ nào gọi là một cái kiến, hay chẳng phải một cái kiến. Thế thì
bảo là kiến mà chẳng kiến đã có thể được, bảo là chẳng kiến mà kiến cũng
đều có thể được. Cũng tức bảo là không có mà có, có mà không có, cũng
đều có thể được. Ðây là cực-trí chẳng chấp nhứt. Nên lời đáp đều trước
nói : như thị, sau nói : có, vì chưng tỏ rõ đã thấy nhứt như, thì có cái
thấy đều là thị. Vì cớ gì? Vì kiến, kiến đều như. Vấn đáp đều nói như
lai có, tóm lại để tỏ rõ tánh thấy viên minh, cũng như cái gương sáng, A
tới thì hiện ra A, B tới thì hiện ra B, ban đầu vô tâm, chính chỗ bảo
là không có mà có, có mà không có. Ví như chia một cái ao thành năm cái
ao, mỗi cái ao hiện ra một mặt trăng, trăng tùy theo ao mà thành ra năm,
trăng vốn vô tâm, vì một mà chẳng một. Nếu khai thông năm ao làm một
ao, thì hiện ra một mặt trăng, trăng tùy theo ao mà thành một, trăng
cũng vốn vô tâm, vì một mà chẳng một. Phật nhãn, ngũ nhãn như thị như
thị ! Ðây chính là hiển nghĩa hết thảy pháp vô ngã. Bồ tát phải khai cái
kiến như thị, thông đạt pháp vô ngã như thị. Thông đạt ra sao? Chỉ ở
chẳng chấp cái kiến của mình, lại chẳng chấp một kiến mà thôi. Làm sao
có thể chẳng chấp? Trước hết phải đại khai viên giải, khiến chỗ thấy của
mình triệt để, thì tình chấp tự nó mỏng manh, liền lại ra sức trừ thói
quen, ly tướng ly niệm, chứng được chư pháp nhứt như, mới là cứu cánh.
Ư
ý vân hà : là thăm chỗ kiến của nó ra sao? Mỗi mỗi đáp : "như thị, như
lai hữu" thì đủ chứng trưởng lão đã ở lý nhứt như thông đạt vô ngại.
Trong kinh phàm nói : "ư ý vân hà" đều là lời thăm hỏi chỗ kiến, phàm
nói : "nhược tác thị niệm, năng tác thị niệm phủ, mạc tác thị niệm, nhữ
mạc tác thị niệm v.v..." đều là phá cái chấp kiến, khiến khai viên kiến
của nó.
Tu Bồ Ðề ! Ư ý vân hà, Hằng Hà trung sở hữu sa, phật thuyết thị sa phủ? Như thị thế tôn ! Như lai thuyết thị sa.
Dịch
nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, ở ý ông ra sao, chỗ có cát trong sông Hằng, phật
nói là cát chăng? Thưa thế tôn, đúng như thế, như lai nói là cát.
Trên chữ Hằng Hà, bản lưu thông có chữ như, mà bản xưa không
có, nên theo bản xưa, vì có một chữ như, phần nhiều nhận là nói thí dụ,
chẳng qua nhờ để dẫn khởi văn dưới mà thôi, mà không biết đây là lời nói
thực. Biết đâu rằng phật thuyết khoa nầy hợp với các khoa trên là để tỏ
rõ nghĩa khẩn yếu của đại thừa phật pháp, chính là viên kiến của phật.
Chỗ gọi là khai phật kiến là khai cái nầy. Vì cớ nhận lầm bèn đến nỗi
mạt sát hết thảy, một chữ sai lầm khác xa nhau quá, thiệt đáng than thở.
Hai
câu: như thị thế tôn là lời đáp của trưởng lão, cát sông Hằng nhỏ
nhuyễn như hạt bụi nhỏ. Trước nói: "các hạt bụi nhỏ như lai nói chẳng
phải hạt bụi nhỏ nên gọi là hạt bụi nhỏ", thế thì cát sông Hằng, như lai
cũng ắt nói chẳng phải cát, nên gọi tên là cát. Vì cớ gì? Vì kinh nầy
khiển tướng, bát nhã còn nói chẳng phải là bát nhã, huống chi là cát.
Nay thì chẳng thế, như lai nói là cát tức là nếu chẳng trước tướng, thì
thấy tướng tức là thấy tánh, lại cần gì phải nói là chẳng phải cát ư?
Ðây là một nghĩa. Vả lại nửa bộ dưới chính là tỏ rõ nhứt thiết đều thị,
để khiển chấp vi tế (tức là câu sanh ngã pháp hai chấp), nên tuy cát rất
nhỏ cũng chẳng nói chẳng phải cát, mà nói là cát, đây lại là một nghĩa.
Thế nhưng phật thuyết khoa nầy, chỗ gọi là hợp với một khoa ngũ nhãn ở
trên, để tỏ rõ yếu nghĩa của đại thừa còn chẳng ở chỗ nầy. Phải biết,
nghĩa của khoa nầy là hiển phật nhãn, vì thấy suốt hết thảy pháp sai
biệt sự tướng chẳng hoại tục đế. Nên thế tục đã nói là cát, như lai cũng
theo thế tục mà nói là cát, để tỏ rõ như lai không chấp dị kiến. Trưởng
lão cùng với phật tâm tâm in nhau, nên đáp là như thị. Ðã chứng chư
pháp nhứt như, thì nói gì mà chẳng thị ư? nên nói : "như lai thuyết thị
sa". Như lai thuyết thị sa, vì chưng tỏ rõ lời thị sa là như lai thuyết,
tức là y nghĩa "như" mà thuyết, há giống phàm phu thuyết ư? Vì cớ gì?
Vì phàm phu thuyết thị sa thì chấp cho là thực, như lai thuyết thị sa
lại là thị tức phi thị, phi thị mà thị, đây là sở dĩ phật chẳng chập dị
kiến, mà thuyết thị sa. (Trong kinh phàm thuyết như thị đều bao gồm có
nghĩa nầy, có thể tĩnh tâm để hiểu).
Ðây là chẳng chấp nhứt,
chẳng chấp dị, hai khoa bao gồm nghĩa sâu, phải theo tầng lớp mở ra để
nói, vì kiến nầy chẳng khai thì chấp tình khó khiển, gấp rút phải tham
cứu, khiến cho nó thông đạt, chẳng thể nào bỏ qua được. Phải biết, nghĩa
bất nhứt, bất dị tức là pháp pháp đều như, đây chính là chỗ chứng đắc
của phật. Trước ở chỗ lúc thuyết pháp pháp đều như cũng đã nói rộng. Ðã
là chỗ thân chứng của phật tức là viên kiến của phật, thế nhưng phật
chứng đắc như thế, là bởi lúc phật ở nhân địa đã có thể khai viên kiến
nầy, Khai viên kiến nầy mới có thể tuy kiến mà chẳng lập nên cái kiến,
bèn có thể ở hết thảy pháp pháp chẳng chấp mà vô ngã, bèn mới có thể
chứng đắc như thị như thị ! Cho nên hết thảy bồ tát lúc tu nhân cũng
phải khai kiến nầy như thị. Vì cớ gì? Vì chẳng chấp nhứt dị là tuệ kiếm
phá trừ ngã chấp. Phải biết, ngã kiến khó trừ chẳng ngoài hai lý do : 1)
thấy lý chẳng rõ. 2) tự cho mình là phải. Ban đầu vì thấy lý chẳng rõ
mà tự cho mình là phải, kế tiếp vì tự cho mình là phải mà thấy lý càng
chẳng rõ, hai cái tư trợ lẫn nhau, tăng trưởng lẫn nhau, mà căn bịnh của
nó thì chỉ thấy lý chẳng rõ mà thôi. Tự cho mình là phải, là do chẳng
rõ mà sanh ra. Nó giúp đỡ, tăng trưởng lẫn nhau vì trạng thái nổi dậy ở
sau. Nên muốn phá ngã thì trước hết phải hiểu rõ lý. Khai phật viên kiến
tức là hiểu lý một cách thấu triệt. Trước nói ngũ nhãn để tỏ rõ chẳng
chấp một kiến, là vì kẻ thấy lý chẳng rõ mà thuyết pháp. Kế tiếp nói cát
sông Hằng để tỏ rõ chẳng chấp dị kiến, là vì kẻ tự cho mình là phải mà
thuyết pháp. Thấy lý chẳng rõ, chẳng phải bảo là người nầy không thấy
một cái gì, nhưng chủ trương một cái thấy đó là cao, bèn bị cái đó nó
che lấp đi, thì cái cao lại chẳng cao vậy. Cũng như ngũ nhãn tự cho là
phật nhãn rất cao, mà chẳng biết là chính vì bốn nhãn, mỗi nhãn đều thù
thắng nên gọi là phật nhãn. Ðây là như lai sở dĩ chẳng chấp một kiến mà
đầy đủ ngũ nhãn, kẻ chấp nhất phải nên biết chỗ nầy. Tự cho mình là phải
chẳng phải là người này tuyệt nhiên không phải, nhưng muốn riêng đem
cái phải của mình ra, mà chẳng cùng với kiến của đại chúng giống nhau,
thì cái phải tức là không phải vậy. Như cát sông Hằng, nói tánh đã đành
là không phải, nói tướng thì sao từng không phải, tướng tức là tướng của
tánh, cần gì phải phế bỏ tướng để tỏ rõ tánh, đây là như lai sở dĩ
chẳng chấp dị kiến mà nói thị sa. Kẻ chấp dị nên biết chỗ nầy. Tóm lại ở
kiến có chỗ chấp thì có chỗ lập nên. Thế nên hoặc nhứt hoặc dị, chẳng
nghiêng về cái nầy thì cũng nghiêng về cái kia, vì chưng trước ngã đến
nỗi như vậy. Nay dạy cho nhứt dị đều chẳng thể chấp thì kiến sẽ từ chỗ
nào mà an lập, thì ngã cũng cùng nó mà đều hoá, chẳng phải là tuệ kiếm
trừ ngã ư?
Nghĩa bất nhất bất dị là cương-tông của bát nhã,
yếu-lĩnh của phật pháp, có thể quán thông hết thảy pháp, nên kinh nầy
khiến kẻ thông đạt vô ngã pháp trước thông đạt cái nầy. Câu nầy khai ra
thì là bát bất, thập bất, thập nhị bất, thập tứ bất, như Ðại Trí Ðộ Luận
nói : "bất sanh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị, bất khứ
bất lai, nhân duyên sanh pháp, diệt chư hí luận" Nhân duyên sanh pháp
cũng như nói : chư pháp duyên sanh, cũng tức là nói nhân quả. Vì nhân
duyên sanh pháp là pháp của nhân duyên chỗ sanh ra. Pháp tức là quả của
nhân sanh ra. Nên nhân duyên sanh pháp, nói một cách đơn giản tức là
nhân quả. Ðây là nói hết thảy pháp đều là nhân quả, nên hết thảy pháp
đều là bất sanh, bất diệt, bất đoạn, bất thường, bất nhất, bất dị, bất
khứ, bất lai, đây chỗ gọi là bát bất. Nếu chẳng hiểu rõ nghĩa của bát
bất, liền chẳng hiểu rõ nhân quả, thì chỗ nói đều thành hí luận. Chính
hiển nghĩa nhân quả của bát bất là chánh luận, chánh kiến. Vậy pháp
duyên sanh chính là sanh diệt, sao lại nói là bất sanh bất diệt? Chẳng
biết rằng duyên tụ thì sanh, duyên tán thì diệt là theo pháp tướng mà
nói. Thấy sự sanh diệt của pháp tướng đủ chứng sự vốn bất sanh bất diệt
của pháp tánh. Bất khứ bất lai cũng theo pháp tánh mà nói. Nhân nhân quả
quả vĩnh viễn chẳng ngừng nghỉ nên bất đoạn, nhân thành ra quả, quả tại
là nhân nên bất thường. Hết thảy pháp mỗi cái có nhân quả nên bất nhất.
Hết thảy các pháp đều chẳng ngoài nhân quả nên bất dị. Nghĩa của bát
bất, nếu chuyên theo nhân quả mà phát huy có thể thành ra sách chuyên
môn, đây chẳng qua là nói sơ lược mà thôi. Trí Ðộ Luận lại nói : "Quán
hết thảy pháp bất sanh, bất diệt, bất tăng, bất giảm, bất cấu, bất tịnh,
bất lai, bất khứ, bất nhất, bất dị, bất thường, bất đoạn, phi hữu, phi
vô". Ðây là nói thập tứ (14) bất. Nếu đem câu phi hữu phi vô để giải
thích nghĩa của 6 câu bất sanh bất diệt v.v... thì là thập nhị (12) bất.
Trung Luận cũng nói bát bất rằng : "Bất sanh diệc bất diệt, bất thường
diệc bất đoạn, bất nhất diệc bất dị, bất lai diệc bất xuất, năng thuyết
thị nhân duyên, thiện diệt chư hí luận", bất xuất là ý bất khứ. Hai luận
trên đều do Long Thụ bồ tát trứ tác để tỏ rõ bát nhã. Ðại Thừa Huyền
Luận của Gia Tường đại sư nói : "Bát bất là trung tâm của chư phật, chỗ
hành của chư thánh, dọc suốt mọi kinh, ngang thông các luận". Luận Sớ
thì nói : "Ðây là chỉ-quy của chánh quán, tâm cốt của phương đẳng, định
sự thiên, chánh của phật pháp, tỏ cái căn nguyên của được mất, nếu mê nó
thì tám vạn pháp tạng mờ tối như đi chơi đêm, ngộ nó thì mười hai bộ
kinh thấy như ban ngày. Thiệt những nghĩa của câu như thế là chính để
khai phật tri kiến cho người ta, để trừ vọng tưởng vọng kế chấp trước từ
xưa đến nay của nó. Phàm chỗ phật thuyết đều tỏ rõ nghĩa nầy, chỗ gọi
là đệ nhứt nghĩa, thắng nghĩa trung đạo vậy. Nghĩa nầy nếu chưa thông
đạt thì tông chỉ của phật pháp chẳng rõ, lấy gì để viên tu viên chứng?
Nên mới nói là trung tâm của chư phật, chỗ hành của chư thánh, mê nó thì
như chơi đêm, ngộ nó thì thấy như ban ngày. Tuy thế Long Thụ thực ra
gốc ở các kinh Bổn Nghiệp, Anh Lạc, nhưng thứ tự có chút ít chẳng giống.
Kinh nói : "Nghĩa của nhị đế là bất nhất cũng bất nhị, bất thường cũng
bất đoạn, bất lai cũng bất khứ, bất sanh cũng bất diệt". Bất nhị là bất
dị. Nhị đế là chân đế tức là pháp tánh, tục đế tức là pháp tướng. Kinh
lấy bát bất tỏ rõ nhị đế, luận lấy bát bất tỏ rõ duyên sanh, vì nghĩa
nầy suốt hết thảy các pháp. Kinh Ðại Niết Bàn thì nói thập bất rằng :
"Thập nhị nhân duyên bất xuất bất diệt, bất thường bất đoạn, phi nhứt
phi nhị, bất lai bất khứ, phi nhân phi quả". Bất xuất bất diệt tức là
bất sanh bất diệt, phi nhất phi nhị tức là bất nhất bất dị, phi nhân phi
quả chẳng phải là bảo không có nhân quả. Câu đầu nói thập nhi nhân
duyên tức là pháp thập nhị nhân duyên sanh, chẳng ngoài nghĩa thập bất
nầy. Pháp nhân duyên sanh tức là tỏ rõ nhân quả. Vì chưng bảo là theo
nhân quả để nói thì gọi là nhân ấy là quả của nhân trước, mà gọi là quả
cũng là nhân của quả sau, đây là tỏ rõ nhân quả vô cùng, chẳng thể chấp
bảo là nhân nhất định là nhân, quả nhất định là quả, nên nói phi nhân
phi quả. Lại theo tánh tướng hợp lại mà nói, theo nhân quả pháp tánh mà
nói thì ám hợp cùng một mùi vị, chẳng thể nói cái nào là nhân cái nào là
quả. Mà theo nhân quả pháp tướng để nói thì sự tướng phân minh, nhân là
nhân quả là quả, nhân ắt có quả, quả ắt có nhân. Thế nhưng chính lúc
phân minh tức là lúc ám hợp cùng một mùi vị. Vì cớ gì? Vì tướng chẳng ly
tánh. Chính lúc ám hợp cùng một mùi vị lại là lúc rõ ràng phân minh. Vì
cớ gì? vì tánh chẳng ly tướng. Ðây gọi là phi nhân phi quả, vì chưng
hợp câu đầu để tỏ rõ nghĩa. Ðây là kinh nầy sở dĩ nói tức phi, lại nói
thị danh, cho nên chẳng nên thủ pháp, chẳng nên thủ phi pháp, không hữu
đều chẳng nên trước. Nên Trung Luận sở dĩ nói : "Các pháp nhân duyên
sanh. Ta nói tức là không, cũng gọi là giả danh, cũng gọi nghĩa trung
đạo". Vì chưng bảo là muốn biết hết thảy chẳng ra ngoài nhân quả thì
phải hiểu rõ nghĩa tức không, tức giả. Nếu chẳng rõ không tức là giả thì
rơi vào đoạn kiến, muôn sự đều qui về đoạn diệt, liền thành xoay ra vô
nhân quả. Nếu chẳng rõ giả tức là không thì lại rơi vào thường kiến,
muôn sự đều như là cố định, cũng thành xoay ra vô nhân quả. Phải biết,
tuy nói không nói giả, thực ra thì không giả bất nhứt bất dị, hiểu rõ
được nghĩa nầy tức là trung đạo, chẳng phải ở ngoài không và giả riêng
có trung đạo. Không tức là pháp tánh, là chân đế, giả tức là pháp tướng,
là tục đế. Một khoa ngũ nhãn trong nầy tức là tỏ rõ chân đế pháp tánh.
Pháp tánh vốn nó như như mà đều thị, cần gì phải chấp cái nhứt. Một khoa
hà sa tức là tỏ rõ pháp tướng tục đế, pháp tướng vốn nó tùy duyên mà vô
định, cần gì chấp cái dị. Các thứ bát bất, thập bất, thập nhị bất chỉ
là mở ra hợp lại không giống nhau mà thôi. Nếu mở ra tường tận có thể
đến vô lượng câu. Nếu rút lại, lại rút lại, thì câu bất nhứt bất dị liền
nhiếp hết thảy, nên trong nầy khai phật viên kiến chỉ theo bất nhứt bất
dị để tỏ rõ nghĩa.
Nay lại nói lý sơ lược nghĩa của bát bất sở
dĩ quán thông hết thảy kinh luận. Phải biết, chỗ thuyết pháp của phật
chẳng ngoài chân tục hai đế. Tục đế pháp tướng tuy biến hoá vô thường mà
là cái thế tục chỗ cùng thấy, nên gọi là tục. Chân đế pháp tánh thì
thường hằng chẳng biến, mà là bản thể của các pháp, nên gọi là chân.
Phật thuyết nhị đế đều dùng nghĩa của bát bất để thuyết minh nó. Gọi là
đế là tỏ rõ sự lý của nó xác thực chẳng hư. Hết thảy chúng sanh sở dĩ
luân hồi sanh tử, khổ thú vô biên, không có gì khác, là do mê nghĩa bát
bất của tục đế. Hết thảy thanh văn, cho đến quyền vị bồ tát sở dĩ có
biến dịch sanh tử, vô minh chưa hết, không có gì khác, do mê nghĩa bát
bất của chân đế. Tóm lại chỉ vì ở bát bất nghĩa đế nầy mê có sâu cạn,
ngộ có cao thấp, nên có chia ra lục đạo rối ren, tam thừa sai biệt. Phật
vì một đại sự nhân duyên xuất hiện ở thế gian tức là vì khiến chúng
sanh liễu thoát hai thứ sanh tử nầy, nên thuyết bao nhiêu thứ pháp để
khai thị chúng nó khiến được ngộ nhập mà thôi. Mà bao nhiêu thứ pháp
không ra ngoài nghĩa bát bất của chân tục nhị đế, nên nghĩa nầy thông
suốt hết thảy kinh luận. Chữ BẤT có hai nghĩa : 1) nghĩa là phá, phá sự
trước hết thảy tướng của chúng sanh. 2) nghĩa làm cho mất, làm mất
tướng, hiển ra tánh. Nhưng phá có hai nghĩa : chẳng những phá cái trước
hữu, mà phá luôn cái trước không, làm cho mất cũng có hai nghĩa, chẳng
những làm mất tướng hiển ra tánh, lại cũng làm cho mất tánh mà hiển ra
tướng, khiến cho viên dung.
Nay thử đem câu bất sanh bất diệt nói
ra cương yếu của nó, lại lấy câu bất nhất bất dị để quán thông nó.
Trước theo tục đế, để nói, người trong thế tục không ai chẳng chấp cho
là thực sanh thực diệt, phật bảo chúng nó rằng : đều chẳng phải thực,
chỉ do nhân duyên tụ hợp giả hiện ra tướng sanh, lúc nhân duyên tan rã
giả hiện ra tướng diệt mà thôi, còn tánh của mày sao đã từng sanh diệt?
Bèn chỉ chấp tướng mà mê muội tánh là cái khổ của mày có luân hồi sanh
tử vậy. Ðây là theo tục đế để hiển trung đạo. Trung đạo hiển thì chẳng
phải là tục đế mà là chân đế rồi, cho nên trị cái bịnh trước hữu. Lại
theo chân đế nói, nhị thừa thánh hiền, quyền vị bồ tát lại chấp bất sanh
bất diệt. Phật bảo chúng nó rằng : bất sanh bất diệt là đối trị phàm
phu trước tướng sanh diệt mà thôi, sao có thể bỏ một chấp nầy lại sanh
một chấp khác. Phải biết tánh và tướng chẳng hai, không và hữu đồng
thời, hữu tức là không nên cái sanh diệt của tục đế là giả sanh giả
diệt, không tức là hữu nên cái bất sanh bất diệt của chân đế cũng là giả
bất sanh giả bất diệt. Mày đã kiến tánh, chính là tốt hơn hết hiện ra
tướng tùy duyên độ sanh. Vả tánh vốn chẳng ly tướng, bèn chỉ chấp tánh
mà ghét chán tướng, nên mày sở dĩ có cái khổ biến dịch sanh tử, đây là
theo chân đế hiển trung đạo. Trung đạo hiển tức là tối thượng thừa, nhứt
phật thừa, sở dĩ trị bịnh trước không.
Lấy bất nhất bất dị quán
thông cả nhị đế, là vì tục đế chấp sanh chấp diệt, thì sanh và diệt bất
nhất, chẳng chấp mà bất sanh bất diệt thì sanh và diệt bất dị. Chân đế
chấp bất sanh bất diệt, thì bất sanh bất diệt và sanh diệt bất nhất,
chẳng chấp mà tánh và tướng bất nhị, không và hữu đồng thời, thì sanh
diệt và bất sanh bất diệt bất dị. Vì chưng đã không và hữu đồng thời thì
lúc bất sanh bất diệt không ngại gì mà hiện ra sanh diệt. Tuy hiện sanh
diệt nhưng là bất sanh bất diệt. Ðây gọi là chẳng trụ sanh tử, chẳng
trụ niết bàn, thì nhất dị đều chẳng thể nói. Ngay luôn cả cái danh từ
bất nhất bất dị đều mất đi. Do đây mà xem, có thể biết hết thảy đều
chẳng thể chấp mà cũng không nên chấp, nên câu bát bất là diệu nghĩa để
hoá trừ chấp kiến, mà nghĩa của bất nhất bất dị thì có thể quán thông
các câu nầy.
Nghĩa của các câu nầy đều là hiển pháp pháp đều như,
vì pháp pháp đều như là trung đạo viên dung đệ nhất nghĩa, nên các câu
bát bất cũng là trung đạo viên dung đệ nhất nghĩa, nhưng mùi vị của pháp
chẳng giống vậy thôi! Làm sao nói như thế? Vì pháp pháp đều như là viên
hiển, chỗ gọi là BIỂU THUYÊN, hai tông Thiên Thai, Hoa Nghiêm y theo
nghĩa nầy mà xây dựng nên. Nghĩa của các câu bát bất là cương tông của
bát nhã tức là lấy khiển làm hiển, chỗ gọi gọi là GIÀ-THUYÊN. Tam Luận
Tông y theo nghĩa nầy mà xây dựng nên. Thiền Tông cũng là tông chỉ khiển
đãng của bát nhã, nhưng lại chẳng giảng giáo nghĩa. Phải biết, ắt trước
phải khiển đãng mới hiển viên dung, ngay như kinh nầy ắt ở sau ly tướng
ly niệm mới thuyết pháp pháp đều như, có thể thấy tông chỉ của phật
vậy. Vì cớ gì? Vì chấp kiến chưa khiển thì há có thể viên dung, vả lại
chấp trước cái viên dung thì cũng chẳng phải là viên dung. Khởi Tín Luận
sở dĩ tỏ rõ bất không phải từ không mà ra. Kẻ xây dựng viên tông thuyết
viên nghĩa, chẳng phải là không thuyết nghĩa khiển đãng, nhưng thuyết
khiển đãng cũng dính mùi vị viên. Kẻ tông khiển đãng như Tam Luận Tông
v.v.. cũng chẳng phải không thuyết nghĩa viên dung, nhưng thuyết viên
dung cũng dính mùi vị khiển đãng. Nên thuyết của họ như dao sắc rìu bén
không cái cứng chắc nào mà chẳng phá huỷ, đọc thuyết nầy như nước lạnh
xối vào lưng, phát ra tỉnh ngộ sâu cho người đọc.
Ðáng cảm khái
là từ khi bát nhã chẳng xương minh ở thế gian, thì ngay đến các sách của
Trí Ðộ Luận, Tam Luận Tông từ xưa đến nay ít có người hỏi thăm tới, nên
từ đời Ðường đến nay chỉ có thiền môn là có rất nhiều người xuất chúng,
duyên cớ nầy có thể suy nghĩ sâu vậy. Phải biết, người học nếu chẳng
được từ khiển đãng mà dụng công, chỉ ghi nhớ tụng đọc được mấy nghĩa
viên dung thì sao có thể phá được tình chấp của mình? Tình chấp chẳng
trừ bỏ thì làm sao đạt đến viên dung. Kinh nầy nói : "hết thảy chư phật
và a nậu đa la tam miệu tam bồ đề của chư phật đều từ kinh nầy ra",
chính là đích xác chỉ thị bát nhã là cửa trọng yếu để nhập phật, nấc
thang để thành thánh. Việc nầy quan hệ cho sự thịnh suy của pháp môn,
quan hệ cho sự thành bại của người học cực trọng đại, nên tôi phải nói
ra thống thiết.
Tam Luận Tông đã tông bát nhã, nên kẻ học bát nhã
thì các sách của Tam Luận Tông chẳng thể nào mà không nghiên cứu, nếu
chẳng thể đọc khắp hết, thì ắt phải đọc một hai thứ để nếm mùi vị của
pháp ngõ hầu tông chỉ lớn của bát nhã dễ được lĩnh hội, như Ðại Trí Ðộ
Luận, Ðại Thừa Huyền Luận, Trung Luận Sớ v.v...rất đủ để phá cố chấp của
người ta, mở cửa giác ngộ cho người ta. Nhưng nghĩa đã sâu kín, văn lại
uyên áo, chỉ ở chỗ phải đọc kỹ, yên tĩnh mà lĩnh hội để tham cứu. Tuy
thế nếu bảo tham cứu các sách nói trên liền ở nghĩa thú của bát nhã đều
hiểu thấu thì lại là chẳng phải. Phải biết, những nghĩa của bát bất
chẳng qua là cương tông của bát nhã mà thôi! Trong bát nhã những nghĩa
lý khúc chiết sâu xa vi tế, nếu chẳng theo kịp chỗ ly tướng ly niệm tham
cứu một cách chân thực thì sao có thể hiểu thấu, lý nầy lại chẳng thể
nào mà không biết. Vì chưng đại cương thì bất dị, mà tế vi thì bất nhất.
Chẳng những thế, ngay đến tám hội trước, và bảy hội sau chỗ thuyết bát
nhã so sánh với kinh nầy lại cũng như thế. Tông chỉ lớn của cương tông
thì hội nầy hội kia chẳng khác, còn nghĩa lý ý vị vi diệu thì hội nầy
hội kia chẳng một, cho nên một bộ kinh có tông chỉ của một bộ kinh,
thuyết pháp của một bộ kinh, há có thể thông một bộ liền thông hết thảy
các bộ? Phải biết, phật thuyết là cảnh giới của phật, chỗ bảo là thực
tướng các pháp chỉ có phật và phật mới có thể cứu cánh, các vị đại bồ
tát còn chửa cứu cánh, huống chi kẻ phàm phu. Cho nên ở trên hội
Hoa-Nghiêm, Thiện-Tài chỗ tham 53 vị thiện tri thức đều nói : "tôi chỉ
biết pháp-môn nầy, còn các pháp môn khác thì chẳng biết" là lời nói
thực, chẳng phải là lời khiêm tốn. Cho nên bực cổ đức như các ngài Trí
Giả, Gia Tường, Hiền Thủ bình sanh chỉ hoằng dương mấy thứ kinh luận, vì
chưng sức học chỉ có thể đến thế. Ðây chính là chỗ cao chỗ chân thực
của các vị cổ đức, kẻ hậu học phải nên bắt chước. Chẳng những nghĩa các
câu bát bất ở Tam Luận chỉ có thể tỏ rõ cương yếu của bát nhã, còn chỉ
thú vi tế thì vẫn là ở là ở người học tự mình lĩnh hội. Ngay đến ngày
nay có một người đem nghĩa lý kinh nầy ra viết sách, lập thuyết mỗi mỗi
tuyên bố bày tỏ ra, nhưng có được một cuốn sách nầy chẳng qua chỉ thêm
một sự giúp sức mà thôi, lại cũng vẫn là ở chỗ người học tự mình lĩnh
hội. Vì cớ gì? Vì người nầy dẫu rằng đã thành bồ tát, mà cảnh giới của
phật rốt cuộc chưa thể cứu cánh, ngay đến đốn ngộ giống như phật, rốt
ráo có thể tuyên dương triệt để, mà kẻ đọc cuốn sách của người nầy nếu
chưa trừ khử cái chướng thì vẫn chưa thể lĩnh hội triệt để, vẫn còn phải
day về chỗ ly tướng ly niệm chân thực tham cứu mà sau mới có thể khế
nhập. Ngay đến nghĩa hai khoa chỗ tỏ rõ chẳng chấp nhứt, chẳng chấp dị
nầy, sau khi nghe được ắt phải dùng pháp ấn nầy day về trên hết thảy
pháp ấn-chứng một cách vi mật. Lại phải dùng pháp ấn nầy day về tự tâm
mình ấn chứng, day về chỗ chưa khởi tâm động niệm ấn chứng, như thế ngõ
hầu có hy vọng có thể thông đạt. Nếu chỉ nghe nói nghĩa của hai khoa nầy
mà được hiểu rõ thì chỉ có thể gọi là hiểu rõ, chẳng thể gọi là thông
đạt, lý nầy càng chẳng thể nào mà không biết. Thông đạt có nghĩa là
thông ra bốn phía, đạt đến tám phía, không còn mảy may chướng ngại. Nên
nếu ở tự tâm mình, ở trên hết thảy pháp, thực hành mà nó còn chút ít
chướng ngại liền chẳng phải là thông đạt. Dưới đây tỏ rõ chánh tri chính
là nói một kiểu mẫu khiến người học tuân theo, lấy chỗ thấy của bất
nhất bất dị day về chỗ hành của tâm mình và trên hết thảy pháp hiểu rõ
cái sở dĩ nhiên của nó để cầu thông đạt mà vô ngã.
Hành của tâm
mình có nghĩa là hành động của tâm, tức là khởi tâm động niệm. Các pháp
có nghĩa là cảnh ở ngoài. Theo nội tâm, ngoại cảnh để tỏ rõ chánh trí, ý
ở chỗ khiến cho biết rằng nghĩa của nó không có cảnh, chỉ có thức,
ngoài tâm ra không có pháp. Ngoài tâm ra không có pháp, nên pháp pháp
chẳng ngoài một chân như, nhưng chúng sanh ngoài bị cảnh tướng làm mê,
trong bị tâm niệm nhiễu loạn chẳng thể chứng đắc, nên bát nhã sở dĩ
khiến phải ly tướng ly niệm. Tánh thể không tịch vốn không có niệm, nên
nói chẳng thể đắc. Các pháp, không pháp nào chẳng là duyên hội giả hiện
ra tướng sanh, vốn nó vô sanh, đây gọi là đương thể tức không. Vậy nên
theo tâm hành và các pháp mà nói thì chẳng một, mà theo chẳng thể đắc và
duyên sanh mà nói thì chẳng khác. Bất nhứt bất dị là nghĩa chư pháp
như. Phải biết như thế. Biết như thế gọi là biết chánh, là vì cái biết
nầy là y theo chỗ chứng tri của vô thượng chánh đẳng chánh giác mà biết.
Biết như thế thì biết cái sở dĩ nhiên phải ly tướng ly niệm. Ly tướng
ly niệm chính sở dĩ vô ngã.
Tu Bồ Ðề ! Ư ý vân hà, như
nhất Hằng Hà trung sở hữu sa, hữu như thị đẳng Hằng Hà, thị chư Hằng Hà
sở hữu sa số, phật thế giới như thị ninh vi đa phủ? Thậm đa thế tôn.
Dịch
nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, ở ý ông ra sao, như chỗ có cát trong một sông
Hằng, có những sông Hằng như thế, Phật thế giới như chỗ có cát của các
sông Hằng như thế là nhiều hay chăng? Thưa thế tôn, rất nhiều.
Trong
bản lưu thông trên chữ đẳng có thêm một chữ sa, bản xưa không có, có
thể bỏ chữ đó đi. Sắp sửa tỏ rõ chánh tri mà thừa tiếp thuyết hà sa
trong viên kiến nói ở trên, để làm đầu mối dẫn ra là có ý hiển nghĩa tỏ
rõ ở dưới đây chẳng phải kẻ phàm tình tục kiến chấp nhất dị chỗ có thể
hiểu rõ. Ắt trước phải khai viên kiến của mình, chẳng chấp nhất dị mới
có thể khai chánh tri nầy, và lại vì hiển chỗ thuyết dưới đây, phải lấy
nghĩa bất nhứt bất dị để thông nó. Trước khi nói chúng sanh vọng tâm cho
đến các pháp, mà ắt mượn đặt ra thí dụ, lấy cát thí dụ sông, lại lấy
thí dụ cát ở trong sông để nói, ý hiển vọng tâm và hết thảy pháp ra
nhiều tầng lớp không cùng, dắt dẫn càng nhiều chẳng thể kể xiết. Vả lại
để hiển vọng tâm pháp tướng như huyễn như hoá, đều là giả hữu, đây đều
là lời nói chỉ điểm thân thiết, nếu xem là không có quan hệ khẩn yếu như
lời nói thừa, thì cô phụ văn của kinh.
Mở miệng ra nói một câu :
"Ư ý vân hà," là muốn mở chánh tri của người nầy, cho nên trước thử
thăm hỏi chỗ thấy của nó, ý nầy suốt thẳng đến câu bất khả đắc, chẳng
phải chỉ hỏi là nhiều chăng. Chữ "như" là lời hiển thí dụ. Cát chỗ có
trong một sông Hằng đã không có số có thể tính, như thị đẳng : là trỏ vô
số cát, có nghĩa là nếu có những sông Hằng thì số của nó cùng với cát
chỗ có của trong một sông Hằng bằng nhau, cũng như nói vô số sông Hằng
Thị chư Hằng Hà : là trỏ câu trên vô số Hằng Hà mà nói. Cát có ở vô số
Hằng Hà, số nó há có số lượng ư? Phật thế giới tức là đại thiên thế
giới, mỗi một đại thiên thế giới là khu vực của một phật, nên gọi là
phật thế giới. Như thị : là trỏ câu vô lượng ở trên mà nói, có nghĩa là
vô lượng thế giới. Ninh vi đa phủ : nghĩa là có thể tính được là nhiều
chăng? Câu thậm đa thế tôn : là lời đáp của trưởng lão. Khoa nầy chỉ đặt
ra thí dụ để làm dẫn cho văn dưới, vì chưng lấy cát vô số để so sánh
thí dụ thế giới nhiều, đều là mượn để hiển văn dưới tâm chúng sanh
nhiều, như lai biết hết.
Phật cáo Tu Bồ Ðề! Nhĩ sở quốc độ trung, sở hữu chúng sanh nhược can chủng tâm,như lai bất tri.
Dịch nghĩa: Phật bảo Tu Bồ Ðề : Trong chỗ quốc độ đó chỗ có chúng sanh bao nhiêu thứ tâm, như lai biết hết.
Trong
kinh phàm nêu lên câu : phật cáo, đều là lời trịnh trọng khiến kẻ đọc
kinh trịnh trọng day về lời nói ở dưới. Nhĩ sở : nghĩa như bao nhiêu đó,
trỏ văn trên vô lượng để nói. Vô lượng quốc độ cũng như nói vô lượng
thế giới, nhưng thế giới là danh từ phổ thông, quốc độ là danh từ riêng
biệt. Nay sắp sửa nói chúng sanh nên đổi ra nói quốc độ mà chẳng nói thế
giới. Vì cớ gì? Vì đem danh từ riêng biệt quốc độ ra để nói là hiển
chúng sanh có nhiều thứ sai biệt, chỗ bảo là mười phương sát độ chỗ có
chúng sanh nhiều thứ sai biệt là vậy. Vì chưng bảo chẳng kể chúng sanh
sai biệt thuộc tộc loại sắc thân nào, lớn là trời, người, nhỏ đến con
kiến, tâm của chúng nó phật đều biết hết. Khoa trên chẳng những nói thế
giới, mà nói phật thế giới cũng có tôn chỉ sâu. Phải biết, thế giới chấp
trì chẳng hư hoại đã đành là do nghiệp lực của chúng sanh, nhưng nếu
chẳng nhờ lực từ bi oai thần của phật nhiếp trì, thì do nghiệp lực ác
trược của chúng sanh sớm chẳng biết đã thành ra trạng huống không thể
chịu nổi rồi. Hết thảy chúng sanh đều được nhờ ân của phật mà chẳng tự
biết, cũng như loài động vật thực vật, loài bay trên không, lặn dưới
nước mà được sanh thành là hoàn toàn được sự ban ơn của ánh sáng mặt
trời mà chẳng biết, cũng giống như thế. Tục ngữ có câu :"sấm sét mưa móc
đều là ơn trời," trời mà có ơn, thực do phật thi ơn vậy. Thử xem chỗ
thuyết của các kinh đại thừa, Phạm Vương, Ðế Thích cho đến Nhựt Nguyệt
thiên tử, hết thảy chư thần đều ở trước mặt phật phát nguyện hộ trì
chúng sanh, cho nên biết sự chấp trì thế giới thực nhờ sức từ bi oai
thần ơn của phật. Tóm lại kinh nầy một câu một chữ, một danh từ, một tên
gọi đều gồm diệu nghĩa, chẳng thể bỏ qua. Thế giới quốc độ đã nhiều đến
vô lượng, thì chúng sanh ở trong đó số nó nhiều, còn thể nào nói ra
được, huống chi tâm của chúng sanh ư? Thiệt chỗ gọi là bất khả thuyết,
bất khả thuyết vậy. Vì cớ gì? Vì đã là tâm của chúng sanh thì niệm niệm
chẳng ngừng . Nay đem một chúng sanh ra nói, tâm của nó nhiều còn không
có con số, huống chi tâm của bất khả thuyết chúng sanh ư, nên lấy nhược
can chủng để bao gồm nó. Nhược can chủng : có nghĩa là sai biệt nhiều,
không có số có thể thuyết, khoa trên do một số Hằng Hà mà nói trong đó
vô số cát, do vô số cát mà nói là vô số Hằng Hà, do vô số Hằng Hà mà nói
số cát vô lượng ở trong đó, lại do số cát vô lượng mà nói thế giới vô
lượng. Khoa nầy lại do vô lượng thế giới mà nói bất khả thuyết chúng
sanh ở trong đó, rồi sau mới do bất khả thuyết chúng sanh mà nói bất khả
thuyết, bất khả thuyết tâm của chúng nó. Sở dĩ từng tầng từng lớp lần
lượt nói như thế, là đã để hiển nghĩa bất nhất, để nổi lên nghĩa bất dị ở
văn dưới, vả để dẫn khởi câu "như lai tất tri". Cho đến việc bất nhất
mà đều biết hết thì há là tri kiến sai biệt chỗ có thể biết hết ư? Thế
tôn vì chưng lấy nghĩa "Như '' mà biết hết những cái đó, cho nên gọi là
"Như lai tất tri", nghĩa nầy cùng với câu như lai thuyết ở dưới ứng với
nhau, tóm lại là để chỉ thị bồ tát phải nên biết như thế. Như lai biết
hết những cái đó là gì, câu hà dĩ cố ở khoa dưới chính là tỏ rõ nghĩa
nầy. Tâm của chúng sanh rốt ráo ra sao, lại câu sở dĩ giả hà ở khoa dưới
chính là tỏ rõ nghĩa nầy.
Hà dĩ cố? Như lai thuyết chư tâm dai vi phi tâm, thị danh vi tâm.
Dịch nghĩa : Vì cớ gì? Như lai nói các tâm đều là chẳng phải tâm, nên gọi tên là tâm.
Chư
tâm : là trỏ câu nhược can chủng tâm ở khoa trên mà nói, câu phi tâm là
theo tánh mà nói, ám chỉ chẳng phải chân tâm, chân tâm tức là tánh. Câu
thị danh, theo tánh mà nói gọi là tâm chỉ là giả danh là tâm mà thôi,
ám chỉ nó là vọng tâm. Vọng tâm tức là tâm thiên-lưu ở văn dưới,
thiên-lưu liền có tướng nên gọi là thị danh, danh là danh tướng. Chỗ nầy
chẳng nên đem chân và vọng điểm phá, chỉ có thể nói hỗn hợp bao gồm cả
hai. Vì là vọng chẳng phải chân, nên khoa dưới liền mới nói cái sở dĩ
nhiên của nó. Nếu chỗ nầy nói tọac ra thì khoa dưới liền thành văn thừa.
Hà dĩ cố : là lời tự hỏi chúng sanh có bao nhiêu thứ tâm, như
lai vì cớ gì biết hết ư? Dưới câu như lai thuyết là tự mình đáp. Ðáp
rằng : tuy nói bao nhiêu thứ mà như lai biết nó thực có thể bao gồm làm
một thứ : đều là chẳng phải tâm, chỉ là giả danh tâm mà thôi! Xem biểu
diện kinh văn giống như chỉ thuyết minh như lai có thể biết hết, mà chưa
nói ra cái cớ gì biết hết như vậy, thực ra thì cái cớ biết hết đã phản
ảnh ở trong đó. Cớ đó ở chỗ nào? Ở hai chữ như lai, vì như lai là nghĩa
chư pháp như. Như là chân như, là tánh đồng thể, đã chứng tánh đồng thể
liền thành đại viên kính trí, cho nên hết thảy chúng sanh khởi tâm động
niệm, trong tâm kính của phật thấy biết rõ ràng phân minh. Vả tâm của
phật là vô niệm, nên biết kẻ động niệm đều chẳng phải là tâm, đây là cái
cớ biết hết. Khoa trên nói : như lai biết hết, khoa nầy nói như lai
thuyết, chính là tỏ rõ phật y theo nghĩa của như mà biết, y theo nghĩa
của như mà thuyết. Xưa ở thời vua Ðại Tông nhà Ðường, ở phương tây có
một vị tỳ kheo tới, mọi người gọi vị tỳ kheo nầy là Ðại-Nhĩ tam-tạng, vị
này tự nói là có tha tâm thông. Vua Ðại Tông thỉnh Nam Dương Trung quốc
sư (một vị đại đức của Thiền tông) thí nghiệm vị tỳ kheo nầy ra sao?
Ngồi im một lát, quốc sư hỏi : lão tăng nay ở chỗ nào? Ðáp : ở Tây Xuyên
xem đua ghe. Một lát sư lại hỏi nữa. Trả lời rằng : ở trên cầu Thiên
Tân xem trò chơi bú dù. Sư im lặng một lát lại hỏi nữa, thì liền không
biết đâu mà trả lời. Sư mắng rằng : "tha tâm thông ở chỗ nào đâu?" Tha
tâm thông là biết việc trong tâm của người khác. Trung quốc sư trước cố ý
khởi niệm bỗng ở Tây Xuyên, bỗng ở trên cầu để thử vị tỳ kheo nầy. Ðến
sau tâm vắng lặng không còn khởi niệm, niệm đã chẳng khởi bèn không theo
chỗ nào mà biết được. Lấy việc nầy làm chứng câu như lai biết hết thì
lại còn đợi gì phải nói nữa! Phải biết, tâm niệm của phàm phu tuy quỉ
thần cũng biết, chỗ bảo là : tâm cơ vừa mới động sớm đã bị thần biết,
còn niệm vi tế thì chỉ có bồ tát, la hán có thể biết, mà phật thì không
niệm nào là chẳng biết. Lời mắng của Trung quốc sư, kẻ chẳng hiểu ý cho
là không tin tha tâm thông, như thế thì chẳng phải. Ý mắng nầy không ra
ngoài hai thứ : phải biết thần thông chẳng thể chấp, nếu chấp nó nhẹ thì
bày trò sanh ra tai hại, chấp nặng thì trước ma phát cuồng, đây là lấy
lý mà nói. Ðệ tử của Trung quốc-sư rất đông, vua Ðại Tông cũng là một đệ
tử của ngài, khoe khoang ưa chuộng kỳ dị là thường tình con người, nếu
đại chúng coi trọng việc thần thông nầy thì đã đủ làm chướng ngại cho sự
tu hành, lại còn sợ làm hại cho pháp môn. Ðem việc nầy ra mà nói thì
Ðại Nhĩ tam tạng nầy thần thông ắt chẳng cao, nếu sự thông của vị nầy
cao thì khởi niệm vi tế cũng có thể biết, ngay đến chẳng khởi niệm cũng
có thể biết là nó chưa khởi niệm, sao đến nỗi lúc Trung quốc-sư tâm vắng
lặng, liền sợ hãi chẳng còn biết nói ra sao nữa? Thông đã chẳng cao mà ở
trong đại chúng tự khoe là đắc thông, dấu tích gần như là bày trò, rõ
ràng là trái với lời phật dạy (phật khiến các đệ tử nếu chẳng gặp việc
bất đắc dĩ, phật không chịu cho hiển thần thông), quốc-sư mắng vị tỳ
kheo nầy là ý ở chỗ đó. Phải biết, tam minh, lục thông là việc bổn phận
của người học phật, nhưng lúc tu hành chẳng nên chú trọng việc nầy, sợ
chạy vào ma đạo. Lúc sạch hết vô minh thì thần thông tự đắc, mà sau khi
đắc thần thông rồi cũng chẳng nên khoe cho người khác biết, sợ những kẻ
bày đặt chuyện quái lạ mượn cớ nầy để nói ra thì có rất nhiều hậu hoạn.
Phía
trên, từ cát mà đến sông, mà đến cát, mà đến thế giới, mà đến quốc độ,
mà đến chúng sanh, sự tướng bao nhiêu thứ chẳng giống nhau, mà qui kết ở
tâm chúng sanh, chẳng phải chỉ trỏ ngoài tâm ra không có pháp mà
thôi.Vì chưng nói sông là để thí dụ tâm niệm lưu động, nói cát là để thí
dụ tâm niệm đầy khít, nói cát là sông là để thí dụ tâm niệm từ vi-tế mà
hiển-trước, nói cát của sông là để thí dụ tâm niệm do tổng quát mà
riêng biệt. Từ cát sông mà nói đến thế giới, quốc độ, chúng sanh, là để
thí dụ tâm niệm của chúng sanh đã trôi lăn chẳng ngừng (như sông), lại
cố kết chẳng hoá (như độ), đã nhỏ nhít không gì so sánh (như cát), lại
rong ruổi không cùng cực (như thế giới), có cái nhậm vận mà nổi dậy (như
sông, cát), có cái xếp đặt mà làm nên (như quốc độ), có nguồn chảy, có
gốc ngọn, có phổ thông, (như thế giới), có riêng biệt (như quốc độ), có
cái riêng biệt trong cái riêng biệt (như chúng sanh), cho nên mới nói
bao nhiêu thứ tâm. Như trên chỗ nói gồm có hai tầng bất nhất bất dị,
ngoài là sông núi đất lớn, trong là ngũ uẩn sắc thân, sự tướng của những
cái nầy rất là bất nhất, mà đều là vật hiện ra của tâm chúng sanh, ấy
là bất dị. Lại nữa, chúng sanh tâm niệm nhiều đến bao nhiêu thứ, ấy là
bất nhất, mà đều là chẳng phải tâm, ấy là bất dị. Ðây đều là chỗ kẻ phát
bồ đề phải nên biết rõ, nhưng hai tầng bất nhất bất dị nầy còn chẳng
qua làm dẫn-án cho văn dưới thôi. Tóm lại mà nói, nghĩa các câu bất nhất
bất dị đã hiển pháp pháp đều như, tức là hiển không có pháp nhứt định,
khiến người tu hành phải ở trên hết thảy các pháp xem và dùng một cách
linh hoạt, chẳng sanh ra câu nệ chấp trước. Nên phật có lúc thuyết bất
nhứt để hiển cái bất dị, có lúc thuyết bất dị để hiển cái bất nhứt, có
lúc nhứt dị đều thuyết để hiển tuy bất nhứt mà bất dị, tuy bất dị mà bất
nhứt. Có lúc thuyết nhứt dị đều chẳng phải, để hiển luôn cả bất nhứt
bất dị cũng chẳng thể thuyết, đều là để khiển trừ tình chấp, khiển rồi
lại khiển, công hành đến chỗ đều chẳng thể thuyết, thì chứng chư pháp
nhứt như. Phật thuyết các câu hữu vô đều là nghĩa này. Tóm lại là để tỏ
rõ chỗ nào cũng chẳng thể trước, để trị bịnh chỗ nào cũng trước của
chúng sanh mà thôi! Chẳng kể thế pháp, hay xuất thế pháp đều phải y theo
nghĩa này mà quán, y theo nghĩa này mà hành.
Sở dĩ giả hà? Tu Bồ Ðề! Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc.
Dịch nghĩa: Sở dĩ ra sao? Tu Bồ Ðể ơi, tâm quá khứ chẳng thể đắc, tâm hiện tại chẳng thể đắc, tâm vị lai chẳng thể đắc.
Khoa
nầy thuyết minh cái sở dĩ nhiên của chẳng phải tâm. Quá khứ, hiện tại,
vị lai gọi là tam tế. Tế có nghĩa là biên-tế, có ý là giới hạn. Quá khứ
chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai, hiện tại chẳng phải quá khứ, vị
lai, vị lai chẳng phải hiện tại, quá khứ, mỗi cái có biên tế, nên gọi là
tam tế. Tâm niệm đã có tam tế nên gọi là thiên-lưu, thiên-lưu có nghĩa
là tâm như làn sóng trước làn sóng sau của nước đẩy xô nhau mà tới, dời
đổi lưu động chẳng ngừng. Ðây tức là hành trong : sắc thụ tưởng hành
thức (ngũ uẩn). Hành có nghĩa là hành động, có ý là thiên-lưu. Vì chưng
nhân tâm niệm của chúng sanh một sát na chẳng ngừng, nên gọi là
thiên-lưu, vì nó thiên lưu, nên có quá khứ, hiện tại, vị lai. Thế nhưng
quá khứ đã qua đi, hiện tại lại chẳng trụ, vị lai còn chưa tới, nên đều
chẳng thể đắc. Nói một cách nghiêm khắc thiết thực, thì chỉ có quá khứ,
vị lai mà không có hiện tại. Vì chưng từng sát na, sát na mà qua đi, làm
gì có thể đắc, chẳng thể đắc thì rõ ràng là đương thể tức không. Còn
như chân tâm thì thường trụ bất động, tuyệt nhiên chẳng phải thiên-lưu.
Chỉ vì chúng sanh từ vô thủy đến nay chưa từng ly niệm, niệm là vật sanh
diệt, nên thành thiên-lưu, cho nên là chẳng phải tâm, tức là nói chẳng
phải chân tâm thường trụ. Tâm sanh diệt là vọng, chẳng phải chân, vì
chân tâm vốn chẳng sanh diệt. Ðã sanh diệt chẳng ngừng thì làm gì có vật
có thực, nên nói : thị danh vi tâm.
Khoa trên tỏ rõ viên kiến,
là khiến kẻ chẳng hiểu rõ lý tự cho mình là phải, hiểu thấu không cái
phải nào là chẳng phải cái phải, còn là nói cái đương nhiên của chẳng
thể chấp, ở đây tỏ rõ trong chánh tri thì tỏ rõ cái sở dĩ nhiên của
chẳng thể chấp, cho nên nói : "sở dĩ giả hà", tức là ý của khoa nầy. Vì
chưng bảo : mày ở hết thảy pháp chấp thủ, là tại trong ý mày ắt tự cho
là có cái năng thủ, biết đâu ngay một niệm năng thủ nầy tam tế thiên lưu
đương hạ tức không. Niệm còn chẳng thể đắc, còn có cái gì là năng thủ
ư? Ba câu nói chẳng thể đắc thực là lời nói như dùi đâm vào tâm, liền
khiến cho ngã kiến không chỗ nào an lập. Kinh Lăng Nghiêm nói : "Hết
thảy chúng sanh từ vô thủy đến nay, sanh tử nối tiếp nhau, đều do chẳng
biết thường trụ chân tâm, tánh tịnh minh thể, mà dùng các vọng tưởng,
tưởng nầy chẳng chân cho nên có luân chuyển". Phải biết, chúng sanh từ
vô thủy đến nay nhận vọng làm chân, bèn khiến cho sanh tử luân chuyển là
vì hết thảy duy tâm tạo, cái khổ của sanh tử luân chuyển thực do tâm
của nó sanh diệt luân chuyển mà thôi. Vì một khi nói đến tướng, ắt có
sanh diệt. Chú trọng ở chỗ tâm chẳng theo tướng mà động (động tức là
hành, tức là thiên lưu) thì liền trừ hết thảy khổ. Chỗ gọi là liễu sanh
tử, ra khỏi luân hồi là liễu tâm mà thôi, tâm ra khỏi mà thôi. Nên người
tu hành bước thứ nhứt liền trước phải hiểu rõ lý nầy, phân biện cho rõ
cái nào là chân cái nào là vọng, thực ra thì hết sức dễ phân biện. Nói
một cách cạn thì phân biệt chấp trước là vọng, chẳng phân biệt chấp
trước là chân. Nói một cách sâu thì chân tâm vô niệm, khởi niệm liền
vọng (từ hành duyên thức, nên khởi niệm là gốc của phân biệt chấp
trước). Chỗ gọi là tu chứng, không có cái gì khác, chỉ là trừ vọng mà
thôi. Vọng làm sao trừ? Ly niệm mà thôi. Ly niệm thì phân biệt chấp
trước tự mình không có, chân tâm tự mình thấy, sanh tử tự mình liễu
thoát, ly được một phần thì thấy được một phần, ly được cứu cánh thì
thấy được cứu cánh. Hết thảy chúng sanh sở dĩ nhận vọng làm chân là do ở
không biết tâm là chẳng thể đắc. Vì cớ gì không biết? Vì do ở tâm thô,
chẳng phân biện nó là sanh, trụ, dị, diệt, sát na nối tiếp nhau. Nếu
biết nó là sát na nối tiếp nhau, thì biết là thiên-lưu mà chẳng thể đắc
vậy. Ðã chẳng thể đắc thì chấp nó làm gì? Vả lại tự cho là năng chấp mà
thực không thể chấp, chỉ tăng thêm nghiệp lực mà thôi, thiệt là ngu si,
đáng thương! Lý nầy chỉ có phật biết nó, thuyết nó, mà là cái người tu
hành chỗ kíp nên giác ngộ, nên trong tỏ rõ chánh tri, trước tiên liền
nói việc nầy, vì cớ việc nầy là then chốt thành phàm phu, hay thành bực
thánh. Do đây mà xem, kinh nầy tuy ly tướng ly niệm đều nói, mà thực ra
thì qui về ở trong ly niệm, chẳng qua lấy ly tướng làm phương tiện để ly
niệm mà thôi! Kịp đến niệm ly thì thấy tướng tức là thấy tánh, mặc sức
tùy duyên hiện tướng độ rộng chúng sanh, không mảy may chướng ngại. Vì
cớ gì? Vì tâm niệm đã ly, thì ở tướng chẳng ly mà tự nó ly.
Nghĩa
khoa nầy sâu không đáy, trên nói chẳng thể đắc là theo vọng tâm tỏ rõ
nghĩa, biết đâu rằng phật thuyết khoa nầy tông chỉ rất lớn còn chẳng
phải ở chỗ nầy. Tông chỉ ra sao? Chỗ khiến người học tức vọng chứng
chân, đốn khế hợp vô sanh. Vì sao nói thế? Vì tâm tam tế thiên lưu tức
là vô minh duyên hành, vô minh là bất giác. Hết thảy chúng sanh ban đầu
chẳng giác biết niệm niệm thiên lưu, nên theo đó mà phân biệt chấp
trước, phân biệt liền thành thức thứ sáu, chấp trước liền thành thức thứ
bảy thì hành duyên thức vậy. Trong nầy nói như lai biết, là khiến người
học phải biết như thế. Biết tức là giác, vả như lai bảo chúng nó rằng
tâm thiên lưu đương hạ tức không, thực chẳng thể đắc, chính là khiến
người học mau mau giác ngộ, phải thẳng xuống day về chỗ chẳng thể đắc
quán chiếu khế nhập, thì vắng vắng lặng lặng, ngay đó tức là thường trụ
chân tâm, chính chỗ gọi là:"cuồng tâm chẳng ngừng nghỉ, nghỉ tức là bồ
đề". Nên nghĩa của khoa nầy là tỏ rõ pháp môn rất viên, cực đốn, trực
chỉ hướng thượng. Xưa nhị tổ hỏi sơ tổ pháp an tâm. Tổ nói : "đem tâm
lại đây an cho ông". Nhị tổ thưa : "tìm tâm rốt ráo chẳng thể đắc". Tổ
nói : "ta đã an tâm cho ông xong", chính cùng với chỗ nói trong nầy cùng
một mùi vị pháp, phải biết như thế, chớ phụ ân của phật. Nên nghĩa câu
"phi tâm thị danh vi tâm" ở khoa trên cũng có thể gồm tỏ rõ chân tâm. Vì
chân tâm vô danh vô tướng, duy nhất không tịch, nói là chân tâm cũng
chẳng phải tâm, chỉ là giả danh mà thôi! Cổ đức sở dĩ nói : "nói giống
như một vật tức chẳng trúng".
Do đây mà xem, khoa nầy cũng đủ hai
tầng bất nhất bất dị, quá khứ tâm hiện tại tâm, vị lai tâm là bất nhứt,
đều chẳng thể đắc là bất dị. Lại tâm thiên lưu và tâm thường trụ là bất
nhứt. Biết tâm chẳng thể đắc mà ngay lúc đó không tịch là bất dị. Hợp
với chỗ nói ở khoa trên cộng làm bốn tầng. Phải biết, phật nói quanh co
bốn tầng nầy là khai thị phương tiện tu quán. Phương tiện ra sao? Trước
quán cái bất nhất của khí, giới, căn, thân giống như cát sông Hằng mà
tiêu về ở tâm của chúng sanh cùng có đầy đủ mà vô dị. Rồi lại tiến lên
quán tâm niệm có bao nhiêu thứ bất nhất, mà tiêu về dai phi, thị danh,
chỗ bất dị của các thứ tâm. Lại quán tâm sở dĩ đều chẳng phải tâm do có
cái bất nhất của tam tế thiên lưu, thì tiêu về ở cái chẳng thể đắc của
tam tế bất dị. Phải biết, bất dị là nghĩa của như. Từng bước từng bước
một, từ bất nhứt quán bất dị, thì từng bước từng bước một xu hướng chân
như. Rồi lại quán sâu tâm thiên lưu, tâm thường trụ, tuy nói là bất
nhất, chẳng qua là sự khác của tánh và tướng, thế thì ly tướng, hội về
tánh mà tiêu về ở cái đại không vốn chẳng thể đắc thì còn có cái gì là
khác đâu? Như thế thì vắng lặng mà sáng tỏ, sáng tỏ mà vắng lặng chẳng
sanh một niệm vậy. Một niệm chẳng sanh mà thực tướng sanh, há chẳng phải
công phu tu một lần vượt lên đi thẳng vào ư? Thật hết sức hay, hết sức
hay! Nay vì các ông mỗi mỗi nói ra, nếu có thể y theo nghĩa nầy mà tu
quán hành, thì một ngày ngàn dặm còn đợi gì nói nữa. Phải biết nghĩa của
bốn tầng, tầng tầng đi sâu vào, mà từng bước từng bước từ bất nhứt vào
bất dị, tức là từng bước, từng bước trừ phân biệt chấp trước, lại cũng
tức là từng bước từng bước vô ngã. Cho đến một niệm chẳng sanh thì nhân
ngã, pháp ngã còn tồn tại gì nữa ư! Thiệt là diệu pháp của vô ngã. Bồ
tát chẳng day về chỗ nầy thông đạt, lại day về chỗ nào thông đạt? Một
khoa lớn này là khai phật chánh tri, là khiến khai phật chánh giác. Nên
nghe dạy như thế, liền phải khai như thế, khai như thế tức là giác như
thế, giác như thế liền có thể chứng như thế. Ðại pháp viên đốn còn có
pháp nào hơn thế nữa. Khoa lớn chư pháp duyên sanh ở dưới lại cũng như
thế, khai nó giác nó, mà một cái là day về trên tâm hành khai giác, một
cái là day về trên các pháp khai giác, song phương đều tiến lên, thì tâm
và cảnh đều mất, ngã và pháp đều không, chính chỗ bảo là vô ngã tướng,
vô pháp tướng diệc vô phi pháp tướng, mà ly hết thảy chư tướng thì gọi
là chư phật. Giáo hạ tuy danh tự, lời nói rất nhiều, mà không có pháp
nào ngay thẳng đúng rõ như pháp này. Tông hạ đánh, hét xen lẫn, mà không
có pháp nào rõ ràng minh bạch như pháp này, nguyện cùng với các ông
cùng gắng sức.
Tiêu đề của một khoa lớn nầy bao gồm nghĩa rất
nhiều, trước phải mỗi mỗi nói rõ, thì vào văn mới dễ lĩnh hội. Một khoa
tâm hành ở trên là theo nội tâm để rõ nghĩa. Một khoa chư pháp nầy là
theo ngoại cảnh để rõ nghĩa. Sự tướng ngoại cảnh rất nhiều, nên nói :
chư pháp. Chư pháp nhiều chẳng đếm xiết, sẽ từ chỗ nào bắt đầu nói? Nay
theo phước báo và pháp thí để tỏ rõ nghĩa, thì có thể cai quát, thu
nhiếp hết thảy pháp. Vì chưng nghĩa của phước báo mà tỏ rõ, thì việc
chẳng phải phước báo có thể lấy thông lệ mà biết, Bố thí liền nhiếp lục
độ, lục độ liền nhiếp vạn hạnh mà trong bố thí thì lấy pháp thí là rất
thiết yếu, nếu nghĩa của pháp thí tỏ rõ thì chỗ có lục độ vạn hạnh đều
có thể lấy thông lệ mà biết. Pháp thí là thiện hành, nghĩa của thiện
hành tỏ rõ, thì việc chẳng phải thiện hành cũng có thể lấy thông lệ mà
biết. Ðến như hai chữ duyên sanh phải chia ra từng điều để nói. Lúc nãy
nói bao gồm nghĩa rất nhiều là trỏ cái nầy mà nói.
1) Trong Nội
Ðiển hai chữ nhân duyên, có lúc chia ra nói, có lúc hợp lại nói. Chia ra
nói, nhân là nhân, duyên là duyên chẳng thể lộn xộn. Hợp lại nói, nói
nhân tức là nhiếp duyên, nói duyên tức là nhiếp nhân. Vì chưng thân nhân
gọi đó là nhân, sơ nhân tức là duyên, nên có thể hợp lại nói. Một lời
nói duyên sanh nầy là hợp lại nói, chỗ gọi là nhân duyên sanh pháp, nhân
duyên sanh pháp có nghĩa là sự sanh của hết thảy pháp chẳng ngoài nhân
duyên, không có pháp nào bỗng nhiên mà nổi dậy. Nên pháp là quả chỗ nhân
duyên sanh. Nhân duyên sanh pháp không khác gì nói hết thảy pháp chẳng
ngoài nhân quả, mà phước đức và cụ túc thân tướng là theo quả báo để tỏ
rõ nghĩa, pháp thí là theo nhân hành để tỏ rõ nghĩa. Ðã hết thảy pháp
không ngoài nhân quả, nên tận thu nhiếp hết thảy pháp.
2) Chư
pháp duyên sanh có nghĩa là hết thảy pháp vốn nó vô sanh, chỉ do nhân
duyên tụ hội giả hiện ra tướng sanh mà thôi. Ý nầy vì chưng tỏ rõ chư
pháp là giả tướng mà chẳng phải chân tánh, vì tánh là cái vốn có đầy đủ
vạn cổ thường hằng, chẳng phải là cái nhân duyên tụ hội mà sanh, nên
tiêu đề là : "vô tánh" ấy là nói nó chỉ có tướng, mà không có tánh. Phải
biết, chỗ nói tánh ở sách phật đều trỏ tánh của tâm thể mà nói, cùng
với thuyết của sách thế tục nói vật-tánh, tánh cách tuyệt nhiên chẳng
giống nhau. Mà hết thảy pháp đã đều là tướng giả hiện ra, thì có thể
biết đương thể của hết thảy pháp như huyễn như hoá, như hoa đốm trong
không, như bóng trăng trong nước, tuyệt nhiên chẳng phải là vật có thực,
nên tiêu đề là "thể không" Chữ thể nầy là trỏ đương thể mà nói, như tục
ngữ chỗ gọi là bản thân, mà chẳng phải là tánh thể. Thế nên nghĩa của
duyên sanh tức là hiển nó có tướng, không có tánh, đương thể là không mà
thôi. Phước đức và cụ túc thân tướng hiển nghĩa vô tánh, pháp thì hiển
nghĩa thể không, nên phân phối ra nói. Do đó có thể biết nói duyên sanh
không khác nào nói chẳng thể đắc, mà nói chẳng thể đắc không khác gì nói
duyên sanh. Vì cớ gì? Vì hành động của tâm cũng là pháp duyên sanh, chỗ
gọi là vô minh duyên hành là vậy. Chúng sanh chỗ chỗ chấp trước, một
khi nói chấp trước liền có năng và sở. Ðem một phương diện năng chấp ra
nói, đều là vọng niệm, đem một phương diện sở chấp ra nói tức là chư
pháp. Nay bảo nó rằng : mầy cho là có cái năng chấp ư? Tâm hành chẳng
thể đắc, thì ý năng chấp đương hạ tức không. Lại bảo nó rằng : Mầy cho
là có cái sở chấp ư? Chư pháp duyên sanh, pháp chỗ sở chấp lại cũng
đương hạ tức không. Khai thị như thế, tức là đem chấp kiến của chúng
sanh từ trên căn bản lật đổ. Nếu kẻ phát bồ đề thông đạt lý nầy thì ngã
kiến có thể tiêu tan đi mất. Vì cớ gì? Vì cái nổi dậy của ngã kiến là
nổi dậy ở chấp thực, đã nhận vọng niệm làm chân tâm, lại lấy chư pháp
làm thực có, bèn đến nỗi ngã kiến chẳng thể khiển trừ. Nên muốn khiển
ngã chấp, rất diệu là quán không. Phật có tên là y-vương, lại có tên là
không vương, tức là bảo có thể y trị bịnh chấp thực của chúng sanh.
3)
Duyên sanh và chẳng thể đắc đều tỏ rõ nghĩa tức không, như trên đã nói
thì đã đành như vậy. Thế nhưng tôn chỉ lớn tuy chẳng khác mà bao gồm
nghĩa rộng hẹp thì chẳng một, vì chưng nghĩa của bất khả đắc (chẳng thể
được) chỉ tỏ rõ tức không, nghĩa của duyên sanh đã tỏ rõ tức không, lại
gồm tỏ rõ tức giả. Vọng niệm là lý do thành phàm phu, như muốn liễu sanh
tử chứng thánh quả ắt phải dứt niệm, cho nên chỉ nói chẳng thể đắc,
chẳng nên nói duyên sanh. Chư pháp đã đành là chẳng nên thủ trước, cũng
chẳng nên đoạn diệt, cho nên chỉ nên nói duyên sanh, chẳng nên nói chẳng
thể đắc. Sao gọi là tức không tức giả? Phải biết, hết thảy pháp đều chỉ
là duyên sanh vốn nó là không, đây sở dĩ nói tức phi. Thế nhưng đã là
duyên sanh, thì chẳng phải là không có cái giả hữu, đây sở dĩ nói thị
danh. Nên pháp và phi pháp đều chẳng nên thủ. Vả hết thảy pháp tuy thể
không mà duyên sanh ấy là cái không của tức giả, sở dĩ tuy tuyệt nhiên
chẳng phải chân thực, mà sự tướng nghiễm nhiên, đây sở dĩ chúng sanh khó
ra khỏi đường mê vậy. Vì hết thảy pháp chính duyên sanh nhưng thể
không, ấy là cái giả của tức không, sở dĩ tuy sự tướng nghiễm nhiên mà
tuyệt nhiên chẳng phải chân thực, đây là người tu hành sở dĩ phải gấp
rút giác ngộ vậy. Giác ngộ ra sao? Là chẳng trước không hữu mà thôi! Làm
sao mà có thể chẳng trước? Cốt yếu ở ly tướng, ly niệm. Ắt ly tướng, ly
niệm mới có thể tùy duyên mà chẳng biến, chẳng biến mà tùy duyên.
4)
Trước nói 2 khoa tâm hành và chư pháp là khai thị công phu tu một lần
vượt lên đi thẳng vào, nhưng trong đó cũng có cái tuy bất dị mà bất
nhất, chẳng thể nào mà không phân biện. Vì chưng day thẳng vào tâm hành
chỗ chẳng thể đắc để khế nhập, là khế nhập vào tánh thể không tịch, nếu
day thẳng vào chỗ chư pháp duyên sanh để khế nhập, là khế nhập vào thể,
tướng, dụng như thực không, như thực bất không, cũng là khế nhập vào
tánh đức tịch chiếu đồng thời. Thế nhưng được cái thể mới có thể khởi
dụng, cái bất không phải ở từ cái không mà ra. Nếu chẳng ly niệm thì
tịch còn chưa có khả năng, còn nói gì đến chiếu. Nên người học ở môn
thực hành ắt phải không hữu chẳng trước, mà ở môn quán ắt phải một cái
không đến suốt đáy, lý nầy chẳng thể nào mà không biết. Tóm lại, tâm
hành chẳng thể đắc là phải ly niệm, chư pháp duyên sanh là phải ly tướng
không hữu hai bên. Trước chẳng đã nói ly niệm là cứu cánh của ly tướng,
ly tướng là phương tiện của ly niệm ư? Nên dụng công phải lấy ly niệm
làm chủ. Lúc nếu niệm ly thì tướng không hữu hai bên ắt chẳng nói ly mà
tự nó viên ly. Tuy vậy nghĩa của chư pháp duyên sanh tức không tức giả,
kẻ ly niệm cũng chẳng thể nào chẳng thông đạt nó, để làm sự bù giúp.
Phải biết, tâm tánh vốn không hữu đồng thời, nên các pháp duy tâm chỗ
hiện ra cũng không pháp nào là chẳng không hữu đồng thời. Nay quán chư
pháp duyên sanh tức không tức hữu, ấy là không khác gì quán tâm tánh tức
không tức hữu. Nếu chỉ biết ly niệm mà chẳng biết tu cái quán nầy, sợ
rằng rơi vào thiên không, mà chẳng đạt đến tịch tức chiếu, chiếu tức
tịch. Nên sau khi thuyết tâm hành chẳng thể đắc, lại thuyết chư pháp
duyên sanh, lý nầy lại chẳng thể nào mà không biết, đây là chánh tri của
phật, phải nên khai chánh tri như thế.
5) Trên nói sự bất dị của
tánh và chư pháp không hữu đồng thời, nhưng trong đó cũng có cái bất
nhứt chẳng thể nào mà không phân biện. Vì chưng chân tâm chẳng những là
chân không mà lại là chân hữu, chân không vì ly danh tuyệt tướng, chân
hữu vì thường hằng bất biến. Còn hết thảy duyên sanh pháp thì chẳng thế,
vốn không có vật này, chỉ hiện ra giả tướng mà thôi, là cái chân không
giả hữu. (Bàn một cách thiết thực thì còn chẳng đủ để nói chân không,
chỉ có thể bảo đó là giả không, vì cái không của các pháp là do cái giả
hữu hình thành mà thôi. Ðã chẳng phải là vật có thực, thì không hữu
chẳng thể nói được nay hãy tùy thuận nghĩa xưa nói là chân không giả
hữu). Vì nó vốn không nên nói là giả hữu, vì nó giả hữu nên biết nó là
vốn không. Vì muốn tỏ rõ cái không hữu của nó là tương đối, tương hình
mà thành, nên nói không hữu đồng thời. Chẳng giống như chân tâm là cái
không ly danh tuyệt tướng, cái hữu thường hằng chẳng biến đều là tuyệt
đối, nó đồng thời đều có đầy đủ, ban đầu chẳng phải là cái tương đối,
tương hình mà thành, nên gọi nó là chân, nên có thể làm thể của hết thảy
pháp. Lại nữa, chân tâm đã vạn cổ thường hằng, nên nói vốn chẳng sanh,
còn hết thảy pháp cũng gọi là cái vốn chẳng sanh là vì giả hiện ra tướng
sanh, hình thành là vốn nó chẳng sanh mà thôi. Thực ra thì vốn không có
vật này, không có chỗ nào bảo là chẳng sanh vậy. Nên cái danh từ vốn
chẳng sanh tuy không khác mà thực ra một cái chân một cái giả cũng lại
bất nhứt. Hoặc nói : ngoài tâm không có pháp, tâm sanh thì bao nhiêu thứ
pháp sanh ra, tâm nầy vì chưng là trỏ vọng tâm mà nói. Thế thì phật, bồ
tát đã không có vọng niệm mà có thể hiện ra bao nhiêu thứ cảnh tướng
cũng thực do tâm mà hiện ra, đây là do ở nhân địa phát đại bi nguyện tùy
duyên độ chúng sanh, nên sau khi chứng quả, tuy chẳng khởi niệm, mà nhờ
sức bi nguyện huân tập từ hồi xưa liền có thể tùy cơ cảm duyên, hiện
các cảnh tướng. Nghĩa nầy thấy tản mát ở các kinh luận, và ở cuốn Ðại
Thừa Chỉ Quán, nên lúc tu nhân ắt phải bi nguyện đầy đủ, quán sâu nghĩa
chư pháp duyên sanh, khiến cho huân tập thành hạt giống, thì mới có thể ở
trong đại định tùy duyên thị hiện. Những nghĩa nói trên đều là chỗ
người tu hành phải nên biết rõ. Nếu chẳng thế, ắt nghi rằng sau khi
chứng quả tại sao niệm còn chưa sạch? Hoặc nghi vô niệm thì không có chỗ
hiện ra. Hoặc nghi chân tâm và các pháp đồng nhứt, tức không tức hữu,
đồng nhứt vốn chẳng sanh, thì cái gì là thể của các pháp ư? Nay nhân
tiện nói ra đây.
Từ lúc khai kinh đến đây chỗ nói các nghĩa được
hai khoa tâm hành chẳng thể đắc, chư pháp duyên sanh nầy bèn hiểu thấu
cái sở dĩ nhiên của nó. Vì chưng nói các câu tâm không, hết thảy đều phi
v.v... nghĩa là vì tâm hành chẳng thể đắc, nói các câu hai bên chẳng
trước, hết thảy đều thị v.v... nghĩa là vì chư pháp duyên sanh. Nên một
khoa lớn khai phật tri kiến nầy thực là bộ phận rất trọng yếu của trọn
bộ kinh, chỗ thuyết từ trước đến sau đều là khai phật tri kiến. Kẻ tín
tín cái nầy, kẻ giải giải cái nầy, kẻ tu tu cái nầy, kẻ chứng chứng cái
nầy. Hợp bốn cái tín giải hành chứng mới đem công phu của chữ KHAI làm
xong, tín là mới khai, rồi giải, rồi hành rồi chứng là cứu cánh khai.
Tu Bồ Ðề ! Ư ý vân hà? Nhược hữu nhân mãn tam thiên
đại thiên thế giới thất bảo dĩ dụng bố thí, thị nhân dĩ thị nhân duyên
đắc phước đa phủ? Như thị thế tôn ! Thử nhân dĩ thị nhân duyên đắc phước
thậm đa.
Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, ở ý ông ra sao, nếu
có người lấy đầy ba ngàn đại thiên thế giới thất bảo dùng để bố thí,
người nầy vì nhân duyên nầy được phước nhiều chăng? Thưa thế tôn, đúng
như thế, người nầy lấy nhân duyên nầy được phước rất nhiều.
Bố
thí thế giới thất bảo, trước đã nói rồi. Ðem cái đã nói phát minh nghĩa
duyên sanh là có tôn chỉ vi diệu, vì chưng tỏ rõ ở trên chỗ nói hết thảy
pháp tướng đều phải lấy nghĩa duyên sanh để thông nó. Trung Luận nói :
"Pháp nhân duyên sanh, tức không tức giả". Phải biết, chẳng những pháp
chỗ sanh ra tức không tức giả, mà nhân duyên lại cũng tức không tức giả.
Nhân duyên tức không tức giả, nên tuy chẳng trước tướng mà phải hành bố
thí, nên trước sở dĩ nói : "ưng vô sở trụ, hành ư bố thí". Nhân duyên
tức giả tức không, nên tuy hành bố thí mà phải chẳng trước tướng, nên
trước sở dĩ nói : "ưng bố thí bất trụ ư tướng". Pháp chỗ sanh tức không
tức giả, nên tuy đương thể tức không mà duyên hội thì sanh, nên trước sở
dĩ nhiều lần nói : "thị danh". Pháp chỗ sanh tức giả tức không, nên tuy
duyên hội thì sanh mà đương thể tức không, nên trước sở dĩ nhiều lần
nói : "tức phi".
Khoa nầy là tỏ rõ một cách tổng quát nghĩa duyên
sanh. Sao gọi là tỏ rõ tổng quát? Vì từ nhân duyên bố thí nói đến phước
đức. Phước đức tức là pháp của nhân duyên bố thí chỗ sanh ra. Nên bố
thí là nhân, phước đức là quả, nhân quả đều nói, nên nói là tỏ rõ tổng
quát. Ở dưới báo thân chỉ theo quả mà nói, liền có thể lấy thông lệ biết
có quả ắt có nhân. Một khoa pháp thí giống như chỉ nói nhân, cũng có
thể lấy thông lệ biết nhân quả không cùng tận. Vì chưng ắt năng thí sở
thí và kẻ nghe pháp thí mỗi cái có nhân duyên, vả cùng một lúc tụ hội
thì mới có việc pháp thí nầy phát sanh ra. Ðây là một pháp thí nầy tức
là vô số nhân duyên tụ hội chỗ sanh ra. Mà tương lai quả của mỗi chỗ đắc
thì lại do nhân duyên của một pháp thí này sanh ra, há chẳng phải nhân
quả không cùng tận ư? Bố thí là việc lớn trong cửa phật còn chẳng ly
duyên sanh, chẳng ly nhân quả, thì dư hết thảy pháp có thể biết được.
Nên theo mấy việc nầy mà nói để bày tỏ ra cái thông lệ. Chỗ gọi là tỏ rõ
một cách tổng quát lại có một nghĩa. Khoa nầy chỉ nói phiếm phước đức,
mà khoa dưới thì nói báo thân. Chứng đắc báo thân có thể bảo là phước
đức nhiều. Khoa nầy nói phiếm bố thí, khoa dưới lại chuyên theo pháp thí
mà nói, đều chẳng khác gì vì khoa nầy trỏ ra thực, nên cũng có thể phán
khoa nầy là tỏ rõ tổng quát, phán hai khoa dưới báo thân, pháp thí là
tỏ rõ riêng biệt.
Trong nửa bộ trước, lời đáp của trưởng lão đều
nói PHẤT DÃ. Ngay như chẳng đáp phất dã, cũng từ trước không đáp NHƯ
THỊ. Nửa bộ sau chỉ trong khai phật tri kiến đáp như thị rất nhiều.
(Ngoài ra chỉ có một chỗ dĩ tam thập nhị tướng quán như lai là nói như
thị). Kinh nầy chữ chữ đều bao gồm nghĩa sâu, thì có thể biết phàm đáp
"như thị" quyết chẳng phải là lời nói phù phiếm, thực thừa tiếp cái đã
nói trước, biểu thị nghĩa chư pháp nhứt như, hết thảy đều thị. Trước nói
nhứt như, đều thị là tỏ rõ dung tướng, hội về tánh. Nghĩa chỗ tỏ rõ của
chư pháp duyên sanh này cũng ý ở dung tướng, hội về tánh. Trưởng lão
thâm giải nghĩa thú nên trước đáp như thị, nối tiếp đó nói : "thử nhân
dĩ thị nhân duyên đắc phước thậm đa," chính là chỉ thị người tu hành
phải lĩnh hội đạo lý của chư pháp duyên sanh để thông đạt hết thảy pháp
đều là nhứt như mà thôi ! Vì đạo lý của duyên sanh là tức không tức giả.
Quán chiếu tức không tức giả để khế hợp vào như thực không, như thực
bất không, thì dung tướng của các pháp mà hội về tánh nhứt như. Trước
nói: "bất trụ tướng bố thí phước đức bất khả tư lượng," nay nói : "đắc
phước rất nhiều," rất nhiều là bất khả tư lượng. Tôn chỉ kinh nầy xu
hướng chú trọng khoa dưới, chỗ nói khoa nầy chẳng qua làm dẫn-án khoa
dưới mà thôi. Nên một tầng bất trụ tướng trong nầy chưa nói, mà khoa
dưới nói.
Tu Bồ Ðề ! Nhược phước đức hữu thực, như lai bất thuyết đắc phước đức đa. Dĩ phước đức vô cố như lai thuyết đắc phước đức đa.
Dịch
nghĩa: Tu Bồ Ðề ơi, nếu phước đức có thực, như lai chẳng nói được phước
đức nhiều. Vì không có phước đức cho nên như lai nói được phước đức
nhiều.
Khoa nầy là ý chánh của phật. Nói khoa trên chính là vì
dẫn khởi khoa nầy. Khoa nầy lời nói và tôn chỉ sâu xa vi tế, phải chia
ra mấy tầng để tỏ rõ.
Khoa trên đã tỏ rõ phước đức là pháp duyên
sanh, đã do duyên hội mới sanh ra thì há được có thực. Có thực liền
chẳng phải duyên sanh nếu chẳng phải duyên sanh thì phước đức liền không
có đường nào để được nó, vì hết thảy pháp từ xưa đến nay không có cái
nào bỗng dưng mà được, nên nói : "nếu phước đức có thực như lai chẳng
nói được phước đức nhiều". Chữ "dĩ" có nghĩa là vì, chữ "vô" nghĩa là
không có thực, chính đối với văn trên có thực mà nói, có nghĩa là nhân
vì cớ phước đức là pháp duyên sanh tức không tức giả mà không có thực.
Hết thảy chúng sanh nếu có thể làm bố thí, lục độ, trồng sâu nhân duyên,
thì nhân duyên tụ hội, phước đức liền sanh. Tụ hội có ý là thành thục.
Nên nói : vì cớ phước đức không có, như lai nói được phước đức nhiều.
Trong
kinh hai chữ "thuyết" phải nên để mắt vào, ý hiển ngoài mặt nói phước
đức, mà ở phía trong là nói bố thí. Vì cớ gì? Vì nếu chấp phước đức có
thực là chẳng biết nó là pháp duyên sanh. Chẳng biết là duyên sanh liền
chẳng biết chú trọng ở trên cái nhân. Nếu chẳng tu nhân bố thí thì sao
tới quả phước đức? Nên như lai chẳng nói được phước đức nhiều. Biết đâu
rằng chính vì phước đức đương thể tức không mà không có thực, bèn là
pháp nhân duyên sanh tức không tức giả, nên kẻ muốn đắc quả chỉ tu nhân
của nó, nếu siêng năng làm bố thí thì phước đức tự nó đến, nên như lai
nói : được phước đức nhiều. Như chỗ nói trên, tôn chỉ lớn trong kinh đã
hiểu rõ, nhưng còn chưa nói suốt. Vì cớ gì? Vì chỉ nói xong cái quan hệ
của được và không được, còn cái quan hệ của nhiều và chẳng nhiều còn
chưa nói ra. Phải biết, phật nói duyên sanh chú trọng ở khiến người ta
hiểu suốt hết thảy pháp tức không tức giả để thông đạt vô ngã, dung
tướng hội về tánh. Tầng nghĩa lý nầy phải trước nói rõ đầu đuôi, liền dễ
hiểu rõ. Pháp pháp, không pháp nào là chẳng phải chỗ nhân duyên sanh
ra, bố thí cũng là duyên sanh. Thế thì nhân duyên của phước đức là bố
thí, còn nhân duyên của bố thí là gì? Phải biết, nhân duyên của bố thí
là phát tâm vậy. Phát tâm nhỏ thì bố thí nhỏ, phước đức cũng nhỏ, phát
tâm lớn thì bố thí lớn, phước đức cũng lớn. Thế thì phát tâm sao gọi là
lớn? Là bất trụ tướng mà thôi ! Tâm có chỗ trụ thì có chỗ trói buộc,
không trụ thì không trói buộc, không có phạm vi nên lớn. Cho nên muốn bố
thí chẳng trụ tướng, ắt trước phải ở phước đức chẳng trụ tướng, nếu chú
ý ở phước đức ấy là lấy phước đức làm có thực, liền trụ tướng vậy. Ðã ở
phước đức trụ tướng mà hành bố thí, ấy là phước đức hành bố thí, thì bố
thí cũng trụ ở tướng vậy. Vì chưng thế tôn thuyết khoa nầy, là đem lời
nói chỗ bất trụ tướng bố thí phía trước lại phát huy thêm vào triệt để,
không khác gì đối với kẻ trụ tướng bố thí nói rõ chỗ căn bịnh của nó ra.
Vì chưng bố thí sở dĩ trụ tướng đều là tham cầu phước đức mà thôi. Ba
chữ "như lai thuyết" trong câu văn rất trọng yếu, có nghĩa là y theo
nghĩa "như" mà thuyết. Vì chưng bảo nếu ở lý duyên sanh chưa thể hiểu
suốt rõ, chỉ biết vì nhân duyên bố thí có thể được phước đức, bèn tham
cầu phước đức để hành bố thí thì lầm to. Biết đâu rằng phật nói duyên
sanh là khiến thể hội pháp duyên sanh tức không tức giả, mà ở pháp chẳng
chấp, tiêu về tánh nhứt như mà thôi. Nếu cho phước đức là có thực, thế
ắt tham cầu phước đức để hành bố thí mà trụ ở tướng. Ðã trụ ở tướng là
hướng ngoại dong ruổi tìm cầu mà trái với tánh. Như thế thì vì cớ nhân
duyên bố thí chẳng phải là không có phước đức, nhưng vì cớ nhân duyên
trụ tướng phước đức chỗ được đều là phước đức thô tục ở trong tam giới,
dẫu rằng được sanh về cõi trời hữu-đỉnh rốt cuộc vẫn là cái nhân khổ,
nên y theo nghĩa "như" chẳng nói được phước đức nhiều. Nếu hiểu rõ đạo
lý duyên sanh một cách triệt để, quán hết thảy pháp tức không tức giả,
tức giả tức không, không có luôn cả cái niệm phước đức, chỉ vì lợi ích
chúng sanh tu tam đàn ly tướng, tức là phước tuệ song tu, bi trí cụ túc,
ắt được bất khả tư nghị, bất khả xưng lượng, vô biên công đức, tức là
vô thượng bồ đề quả. Y theo nghĩa "như" mà nói, người nầy được phước đức
nhiều vậy thay !
Xem tông chỉ kinh nầy đủ thấy đạo lý nhân quả
ắt phải triệt để hiểu rõ, nếu chỉ biết thuyết nhân quả thô thiển, mà
chẳng hiểu rõ suốt lý của nó, thì nhân nhỏ quả cũng nhỏ. Phải biết,
thuyết nhân quả của phật tuyệt nhiên chẳng thể xem giống như thuyết nhân
quả trong điển tích ngoại đạo, và trong sách vở thế tục. Ðạo lý nhân
quả chỗ nói trong kinh phật là triệt để viên mãn, là hết sức tinh vi,
đều là dùng tam đế : tức không, tức giả, tức trung để thuyết minh, hoặc
dùng lý bát bất của nhị đế để thuyết minh. Ắt phải hiểu rõ nghĩa lý của
nhị đế, tam đế, thì thuyết nhân quả của phật mới có thể hiểu rõ triệt
để. Rồi sau mới biết đạo lý nhân quả chỗ phật thuyết rộng lớn viên diệu,
thế pháp, xuất thế pháp cũng chẳng thể vượt ra ngoài, rồi sau mới biết
nhân quả đáng sợ, khởi một chút niệm liền rơi vào nhân quả, cần gì phải
đợi đến thực hành ư? Rồi sau mới biết phật pháp là cái người nào cũng
phải cần, chẳng những kẻ học phật phải hiểu rõ phật lý, ngay muốn thành
tư cách một con người cũng chẳng thể nào không hiểu rõ phật lý. Muốn
thiệt hiểu rõ thế gian pháp cũng chẳng thể nào chẳng trước hiểu rõ phật
lý. Rồi sau mới biết ly tướng, ly niệm quan hệ trọng đại, quyết chẳng
đến nỗi coi rẻ, quyết chẳng dám sợ khó, mới có thể phát đại tâm, tu
thắng hành, chứng diệu quả.
Hiện nay người hữu tâm phần nhiều đều
biết xương minh thuyết nhân quả, tìm kiếm sự thực, ấn tống ra sách vở
để mong cứu vớt nhân tâm đã bị chìm đắm, kéo lại thế vận nguy hiểm, đây
là việc rất tốt lại là việc cực cần yếu. Nhưng thường thường có kẻ chẳng
muốn coi những loại sách nầy, họ cho là rất thô thiển. Thế thì sao
chẳng day về trong đại thừa phật pháp mà tìm cầu, như các nghĩa lý của
nhị đế, tam đế v.v... đều là chân thuyên của phật thuyết nhân quả, là đệ
nhứt nghĩa của nhân quả. Hiểu rõ được phần nhỏ thì có ích phần nhỏ,
hiểu rõ được phần lớn thì có ích phần lớn. Tóm lại nhân quả của phật
thuyết có thể khiến người ta thành thiện nhân, hiền nhân, thánh nhân ở
thế gian, cho đến thành bồ tát, thành phật, nó rộng lớn viên diệu biết
là bao nhiêu !
Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Phật khả dĩ cụ túc
sắc thân kiến phủ? Phất dã thế tôn! Như lai bất ưng dĩ sắc thân kiến. Hà
dĩ cố? Như lai thuyết cụ túc sắc thân tức phi cụ túc sắc thân, thị danh
cụ túc sắc thân.
Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, ở ý ông ra
sao? Phật có thể lấy cụ túc sắc thân thấy chăng? Thưa thế tôn chẳng thể,
như lai chẳng nên lấy sắc thân thấy. Vì cớ gì? Như lai nói cụ túc sắc
thân tức là chẳng phải cụ túc sắc thân, nên gọi tên là cụ túc sắc thân.
Bản
lưu thông chép : như lai bất ưng dĩ cụ túc sắc thân kiến. Câu nầy người
đời Ðường viết kinh không có chữ cụ túc, có thể bỏ chữ đó đi. Cụ túc
sắc thân và khoa dưới cụ túc chư tướng, người xưa có nhiều thứ thuyết.
Hoặc hợp sắc thân và chư tướng hỗn hợp lại mà nói là kim thân cao trượng
sáu, thì nói là ứng thân. Hoặc chia ra trỏ sắc thân làm 80 thứ hảo, các
tướng làm 32 tướng, đây cũng là hiểu theo ứng thân. Hoặc bảo sắc thân
là báo thân, chư tướng là ứng, hoá thân. Chỉ có Ðạt Thiên pháp sư đầu
nhà Thanh thì nói các tướng sắc thân phải theo báo thân mà nói, thuyết
nầy rất tinh, phải nên theo. Vì chưng trong kinh đã ở các tướng sắc thân
đều nói là đầy đủ, đầy đủ là nghĩa viên mãn, đó là trỏ báo thân công
hành viên mãn, vạn đức trang nghiêm mà nói, xác tạc không còn nghi ngờ
gì nữa, vì ứng hoá thân của kim thân cao trượng sáu, 32 tướng v.v...
cùng với nghĩa công hành cụ túc, trang nghiêm cụ túc không hợp.
Nơi
phần thân tướng nầy gồm có yếu nghĩa. Vì chưng sắc thân gọi là cụ túc,
chính vì chư tướng của nó cụ túc mà thôi. Nên sắc thân là sở trang
nghiêm, chư tướng là năng trang nghiêm, chia ra mà nói ý ở hiển nó có
năng có sở, chính là pháp duyên sanh vậy. Còn như tánh vốn đầy đủ chỉ
một cái không tịch, đã chẳng phải là sắc tướng, thì làm gì có sự phân
biệt năng trang nghiêm sở trang nghiêm.
Câu ngắn : phất dã, có
nghĩa là : cũng có thể, mà cũng chẳng thể, vì chưng pháp thân, báo thân
chẳng một mà chẳng khác, nếu hội về tánh chẳng khác thì có thể thấy, nếu
chấp trước tướng chẳng một thì chẳng thể thấy. Nên nối tiếp nói : "như
lai bất ưng dĩ sắc thân kiến" trên nói phất dã, dưới nói bất ưng, chính
hô ứng nhau, ý tỏ rõ chẳng phải bảo có thể hay không có thể, chỉ chẳng
nên mà thôi. Nói như lai, nói dĩ, đều bao gồm tinh nghĩa. Nói một chữ dĩ
là ý chấp tướng hiển nhiên. Như lai là nghĩa chư pháp như, là tánh bất
dị. Sắc thân là tướng bất nhất, há nên chấp cái tướng bất nhất thấy cái
tánh bất dị, câu nói nầy bao gồm : nếu làm mất cái tướng đi thì có thể
thấy tánh.
Dưới câu hà dĩ cố là tỏ rõ nghĩa bất ưng. Như lai
thuyết là theo tánh mà thuyết. Theo tánh mà thuyết cụ túc sắc thân, thì
sắc thân là quả báo của nhiều kiếp tu nhân chỗ hiện ra, là pháp duyên
sanh. Duyên sanh chẳng phải là tánh, tức giả tức không, nên nói tức phi
cụ túc sắc thân.Thế nhưng đã là bổn tánh tùy duyên chỗ hiện ra tướng tu
nhân đắc quả, tuy đương thể là không mà tức không tức giả, danh tướng
nghiễm nhiên, nên nói : thị danh cụ túc sắc thân. Tức phi, thị danh cụ
túc chư tướng ở khoa dưới cũng giải thích như vậy. Tóm lại là để tỏ rõ
báo thân cũng là pháp duyên sanh, tức giả tức không, tức không tức giả.
Nếu chẳng hiểu rõ nghĩa tức giả tức không, thế ắt chấp tướng mà mê muội
tánh, tánh tướng cách biệt mà bất nhất, thì sao có thể kiến tánh được?
Nếu chẳng hiểu rõ nghĩa tức không tức giả, lại ắt chấp tánh mà phế
tướng, tánh và tướng lại cách biệt mà bất nhất, chỗ kiến thực chẳng phải
là toàn tánh vô tướng vô bất tướng, thì cũng sao có thể gọi là kiến
tánh ư? Nên ắt hiểu sâu đạo lý duyên sanh, thể hội cụ túc sắc thân là
tức giả tức không, tức không tức giả mà hai bên chẳng trước, rồi sau
tánh tướng viên dung mà bất dị, thì kiến tướng tức là kiến tánh. Chỗ
kiến nầy là vô tướng vô bất tướng, cũng tức là toàn tánh như thực không,
như thực bất không. Thắng báo thân của như lai còn là duyên sanh, thì
có thể biết hết thảy pháp đều là duyên sanh, nên hết thảy pháp đều chẳng
thể chấp, chấp thì ắt rơi vào một bên. Chấp tức là thủ trước. Tâm có
chỗ thủ, vì cớ do nó động niệm. Nên muốn không thủ trước một cái gì, thì
chỉ có ly niệm mà thôi. Phải biết, tông chỉ của phật thuyết chư pháp
duyên sanh ở chỗ khiến người ta thể hội đạo lý tức giả tức không, tức
không tức giả, biết hết thảy pháp vốn không thể chấp, lại cũng chẳng cần
chấp, để ly niệm thôi! Sở dĩ khiến ly niệm, là nếu tu nhân ly niệm, ắt
được quả vô niệm, vẫn chẳng phải ngoài pháp duyên sanh vậy. Vô niệm tức
là phật trí, là chân như. Do đây có thể thấy thế gian pháp, xuất thế
gian pháp đều là duyên sanh tức đều là nhân quả. Kẻ không có trí tuệ do
ác nhân chiêu ác quả, do thiện nhân chiêu thiện quả, do nhân nhỏ chiêu
quả nhỏ, do nhân hữu lậu chiêu quả hữu lậu. Nếu khai phật tri kiến thì
có thể do thù thắng nhân chiêu thù thắng quả. Sao gọi là thù thắng? Là
vô niệm mà thôi. Tóm lại pháp pháp đều là duyên sanh, nên pháp pháp đều
là tức không tức giả, cho nên ở thế pháp, xuất thế pháp đều phải hai bên
chẳng trước, mà muốn chẳng trước triệt để thì chỉ có ly niệm. Lại thế
pháp, xuất thế pháp đều là duyên sanh, nên thế gian, xuất thế gian chẳng
ngoài nhân quả, cho nên nhân ly niệm liền chứng quả vô niệm chân như.
Phàm
chỗ thuyết tức phi thị danh ở trước ở sau đều là vì tỏ rõ nghĩa nầy,
đều phải lấy chỗ thuyết ở trên mà thông nó. Phía trước còn chưa nói rõ
nghĩa chư pháp duyên sanh, nên chẳng thể nào mà không phát huy ra một
cách thống khoái như thế, mà nay thì phải như thế mà thông đạt nghĩa đó.
Phải biết, thể lệ kinh nầy là từ nói rời rạc ra đến hoàn chỉnh, trước
diễn dịch mà sau qui nạp, nên chỗ nói phía trước được chỗ nói phía sau
để chứng nó, nghĩa của nó càng sáng rỏ, nên sở dĩ khiến bồ tát thông
đạt, có nghĩa là phải lấy nghĩa sau để thông đạt nghĩa trước. Giảng
thuyết trọn bộ kinh văn, ắt phải thuận theo cạn sâu thứ tự lần lượt tùy
theo văn mà giảng. Nên lúc giảng nửa bộ trước chỉ có thể bao gồm thu
nhiếp nghĩa lớn của nửa bộ sau, dứt khoát chẳng thể nào đem nghĩa nói
sau ở trong chỗ nói trước mà nói ra thống khoái. Vì cớ gì? Vì văn trước
có mệnh ý của văn trước. Nếu chỉ ngó ngàng nói nghĩa lớn, mà chẳng ngó
ngàng tới đầu mối của nó, liền đem kinh nghĩa vốn nó có từng điều rành
rẽ, nói ra lộn xộn không đầu đuôi, trái lại khiến kẻ nghe không hiểu gì
hết. Nhưng nói đến nghĩa sau, nếu chẳng đem nghĩa trước xỏ xâu lại mà
qui nạp vào, liền thành ra rời rạc, chẳng những chỗ nói không có chỗ qui
nạp, ngay đến chỗ nói sau cũng không thấy tinh nghĩa, kẻ nghe lại cũng
không hiểu gì hết. Người chú thích kinh nếu phạm bịnh nầy thì kẻ đọc lời
chú thích bàng hoàng mê ly, chẳng phanh ra đầu mối, đầu mối còn chưa tỏ
mà muốn cầu hiểu sâu thì rất khó. Tóm lại, kinh nầy khó giảng, nửa bộ
trước nửa bộ sau chẳng khác gì nhau, mà chỗ khó giảng của nửa bộ trước
nửa bộ sau thì lại chẳng một. Chỗ khó giảng của nửa bộ trước, khó ở yếu
nghĩa phần nhiều ở nửa bộ sau, lúc giảng thường thường phạm vào văn nửa
bộ sau, chỉ có thể nói một cách bóng bẩy mà chẳng thể nói ra thống khoái
chỗ mình muốn nói. Chỗ khó giảng ở nửa bộ sau, khó ở lý sâu, cảnh vi
tế, lời nói ra chẳng dễ gì hình dung, vả lại chỗ chỗ phải ngó tới một
tầng ly danh tuyệt tướng, tuy có thể nói ra thống khoái chỗ mình muốn
nói, nhưng chẳng thể nói kết thúc lại một chữ, làm bít cửa giác ngộ của
người ta. Các bực thiện tri thức có kẻ phát đại tâm muốn hoằng dương
kinh nầy thì lý nầy chẳng thể nào mà không biết.
Tu Bồ
Ðề ! Ư ý vân hà? Như lai khả dĩ cụ túc chư tướng kiến phủ? Phất dã thế
tôn ! Như lai bất ưng dĩ cụ túc chư tướng kiến. Hà dĩ cố? Như lai thuyết
chư tướng cụ túc tức phi cụ túc, thị danh chư tướng cụ túc.
Dịch
nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, ở ý ông ra sao? Như lai có thể lấy các tướng cụ
túc thấy chăng? Thưa thế tôn chẳng thể, như lai chẳng nên lấy các tướng
cụ túc thấy. Vì cớ gì? Như lai nói các tướng cụ túc tức chẳng phải cụ
túc nên gọi tên là các tướng cụ túc.
Hảo là tên khác của tướng,
có nghĩa là tùy theo hình tướng của nó lại phân biệt kỹ có bao nhiêu cái
tốt của tướng nó, nên nói là tùy hình hảo. Nay nói cụ túc chư tướng,
liền nhiếp có hảo ở trong đó, nếu không có hảo thì chẳng thể gọi là chư
tướng cụ túc. Tầm thường chỗ nói 32 tướng, 80 thứ hảo là ứng thân tướng
hảo, còn báo thân tướng hảo như chỗ nói trong phẩm Tướng Hải ở kinh Hoa
Nghiêm; "trên đỉnh đầu như lai có 32 bảo trang nghiêm tướng, khoảng lông
mày, mắt, mũi, răng, môi, cổ, mỗi cái có một trang nghiêm tướng. Lưỡi
có 4 tướng, miệng có 5 tướng, vai mặt 2 tướng, vai trái 3 tướng. Trước
ngực 1 tướng tức là tướng chữ (vạn) cát tường. Phía trái phía mặt của
ngực có chung 10 tướng, tay trái tay mặt có chung 13 tướng, âm tạng một
tướng, hai mông đít, hai vế, hai đùi cộng 6 tướng, lỗ chân lông 1 tướng,
hai chân cộng 13 tướng". Ở trên cộng lại là 97 thứ diệu tướng gọi là
đại nhân tướng. Muốn biết danh xưng tướng trạng của nó có thể xem ở kinh
văn. Nhưng đây còn là nói sơ lược, nếu nói cụ túc thì có mười hoa tạng
thế giới hải vi trần số đại nhân tướng, vì chưng báo thân tướng hảo thì
nhiều vô lượng vô biên. Nay nói cụ túc là trỏ tướng nầy mà nói. Kinh Hoa
Nghiêm nói : "Mỗi mỗi bộ phận của thân có chúng bảo diệu tướng để làm
trang nghiêm". Do ý kinh nầy, có thể biết danh từ cụ túc sắc thân, chính
là vì cụ túc chư tướng mà gọi. Nên trước nói : "chư tướng là năng trang
nghiêm, sắc thân là sở trang nghiêm", nghĩa khác cũng giống như trước.
Phàm khoa trên chỗ thuyết những nghĩa : "tức phi, thị danh" đều thông
với nghĩa nầy, không cần nói thêm nữa. Chư tướng cụ túc tức là cụ túc
chư tướng. Sắc thân tướng hảo của phật sở dĩ gọi là đệ nhứt thù thắng
tức là ở hai chữ cụ túc, nên nói lộn lên lộn xuống để thấy ý.
Từ
khai kinh đến đây, đem thân tướng ra vấn đáp đã có ba lần, mà mỗi lần
chỗ tỏ rõ nghĩa chẳng giống nhau. Nay chia ra làm ba tầng để nói cho
tiện thông đạt, một tầng lại đi sâu vào một tầng.
1) Lần đầu hỏi :
có thể lấy thân tướng thấy như lai chăng, chỉ nói hai chữ thân tướng ấy
là hết thảy thân tướng đều nói ở trong đó, chẳng phải là chuyên trỏ
thân tướng của phật. Như lai là thông trỏ tự tánh, chẳng phải là chuyên
trỏ phật. Lần thứ nhì hỏi : Có thể lấy 32 tướng thấy như lai chăng là
chuyên theo phật để nói, nhưng là nói ứng thân. Lần nầy lời hỏi là cụ
túc sắc thân, cụ túc chư tướng, là theo báo thân của phật mà nói.
2)
Vấn đáp lần đầu chính thừa tiếp sau câu bất ưng trụ tướng, nên chỉ nói :
thân tướng tức phi thân tướng, mà chẳng nói : thị danh, để hiển nghĩa
tướng đều là hư vọng, cho nên chẳng nên trụ. Lần vấn đáp thứ nhì vì
chính tỏ rõ chẳng hoại giả danh nên tức phi, thị danh đều nói, để hiển
nghĩa theo tướng thì phi, theo tánh thì thị, hai bên chẳng trụ. Lần nầy
chính tỏ rõ chư pháp duyên sanh, nên cũng nói luôn cả hai tức phi, thị
danh để hiển pháp duyên sanh, nghĩa không hữu đồng thời.
3) Lời
hỏi hai lần trước : "có thể lấy thân tướng thấy như lai chăng, có thể
lấy 32 tướng thấy như lai chăng?" Như lai là tên gọi của tánh đức, thấy
như lai cũng như nói thấy tánh. Phải biết, chẳng nên trụ tướng là thấy
tánh. Tánh thì chân thực, tướng thì hư vọng, đuổi theo vọng liền trái
với chân, nên muốn thấy tánh thì chẳng nên trụ tướng. Nhưng lần đầu lấy
thân tướng để tỏ rõ chẳng nên trụ, vì thân tướng và tánh rất là mật
thiết. Thân tướng còn là hư vọng thì các tướng khác có thể biết được.
Thân tướng còn chẳng nên trụ, thì các tướng khác chẳng nên trụ có thể
biết được. Nhưng chỗ gọi là chẳng trụ tức là phải ở trên cái tướng liền
thấy nó là chẳng phải tướng, đó là chẳng trụ thì liền có thể thấy tánh,
chẳng phải bảo là hoại tướng mà sau thấy tánh. Thân tướng như thế, thì
các tướng khác cũng đều như thế. Ðây là nghĩa chỗ tỏ rõ lần vấn đáp thứ
nhứt. Lần thứ nhì chẳng hoại giả danh là nói ở sau ly danh tự tướng, ly
ngôn thuyết tướng, nên theo danh của 32 tướng mà nói, để tỏ rõ nghĩa
chân thực của ly tướng. Có ý bảo là : tánh chân như, cảnh giới ly niệm
chẳng thể lấy tên để gọi, chẳng thể lấy lời nói để nói ra, chẳng thể lấy
tướng để hình dung, nên phải ly danh, ngôn, tướng để tự chứng. Nhưng
chỗ gọi là ly danh ngôn tướng là phải biết tánh chẳng phải là danh ngôn,
chỗ biểu hiện ra được, chẳng phải là bảo không danh, không ngôn, không
tướng. Chỉ ở cái giả tướng của danh ngôn mà tâm chẳng thủ trước tức là
ly, liền thấy tánh. Ứng hoá thân của như lai chẳng rõ ràng có danh ngôn
32 tướng ư? Mà tướng nầy thực là chỗ hiển hiện của như lai, nên ở tướng
chẳng trước liền thấy như lai. Biết được danh ngôn 32 tướng của ứng hoá
thân phải làm sao ly, thì biết danh ngôn của hết thảy pháp tướng phải
làm sao ly vậy. Ðây là nghĩa chỗ tỏ rõ của sự vấn đáp lần thứ hai. Lần
nầy ban đầu hỏi : "phật có thể lấy cụ túc sắc thân thấy chăng?" thứ nhì
hỏi : "như lai có thể lấy cụ túc sắc thân thấy chăng?" Hoặc nói phật,
hoặc nói như lai đều có tinh nghĩa. Vả câu hỏi ban đầu chỉ nên nói phật,
câu hỏi lần thứ nhì chỉ nên nói như lai chẳng thể dời đổi. Vì cớ gì?
Phải biết, phật là tên gọi của quả đức, cụ túc sắc thân tức là thân quả
báo, nên nói cụ túc sắc thân phải nói danh từ phật, để hiển thân nầy là
thân báo đắc của kẻ chứng quả thành phật. Như lai là tên gọi của tánh
đức, cụ túc chư tướng là tướng của tánh đức viên minh hiển hiện ra, nên
nói cụ túc chư tướng phải nói danh từ như lai, để hiển tướng nầy chính
là tướng hiển thành của kẻ chứng chân như tánh đức. Nên chữ phật ở trên
cùng với câu cụ túc sắc thân cùng nói, để tỏ rõ nhân quả chẳng phải hư,
thứ nhì chữ như lai cùng với câu cụ túc chư tướng cùng nói, để tỏ rõ
tánh và tướng nhứt như. Tôi trước đã nhiều lần nói La Thập đại sư dịch
kinh nầy một chữ chẳng lạm, chữ chữ đều bao gồm tinh nghĩa, chữ chữ
chẳng có thể sơ sót bỏ qua, xem mấy khoa nầy càng đủ để chứng minh. Thế
thì thân nầy đã là báo thân của phật quả, làm sao chẳng nên lấy thân nầy
thấy ư? Phải biết, phật có thể lấy sắc thân thấy, còn phật tánh, sao có
thể lấy sắc thân thấy ư? Thấy phật phải thấy phật tánh, há chỉ thấy
phật thân mà thôi ư? Nên chẳng nói phật chẳng nên lấy sắc thân thấy, mà
nói như lai chẳng nên lấy sắc thân thấy là vì thế. Câu hỏi : "phật có
thể lấy sắc thân thấy chăng" chính là thăm nghiệm chỗ thấy ra sao, vì
chưng hỏi có thể thấy pháp thân phật ư, hay chỉ thấy sắc thân phật ư? Cụ
túc chư tướng đã là tánh đức viên hiện ra thì làm sao chẳng nên lấy chư
tướng thấy ư? Phải biết tánh và tướng tuy nhứt như, nhưng tướng thì
chẳng phải tánh, chỗ bảo là : trong viên dung có hành bố, chẳng thể sống
lượng lờ mờ được. Nên nếu diệt tướng đi mà quán tánh, đã có quan niệm
không có tướng thì sao lại chẳng thể thấy tánh. Nếu chấp tướng để thấy
tánh thì chỉ có quan niệm của tướng, tánh sao lại có thể thấy được, nên
chẳng bảo như lai bất khả (chẳng thể) dĩ cụ túc chư tướng kiến, mà nói
như lai bất ưng (chẳng nên) dĩ cụ túc chư tướng kiến, là vì thế. Mà lời
hỏi : "như lai khả dĩ cụ túc chư tướng kiến phủ," cũng là thăm nghiệm
chỗ thấy ra sao? Vì chưng tánh và tướng tuy bất nhứt mà thực bất dị, tuy
bất dị mà thực bất nhứt, có thể ở tánh tướng biết sâu nghĩa thú, mà mở
lớn viên kiến chẳng chấp nhứt, chẳng chấp dị ư?
Lại nữa, lời hai
câu hỏi lần nầy cùng với hai câu hỏi lần trước rất không giống nhau, nên
tỏ nghĩa cũng rất không giống nhau. Vì chưng lời hỏi hai lần trước là
hỏi : khã dĩ thân tướng, hoặc tam thập nhị tướng kiến như lai phủ, đều
là theo bên kẻ thấy mà nói, tức theo nhân vị mà nói. Còn hai lần lời hỏi
ở đây là hỏi phật, như lai khả dĩ cụ túc sắc thân chư tướng kiến phủ,
là theo bên phật, như lai mà nói, tức là theo quả vị mà nói, nên phải
theo quả vị để tỏ rõ nghĩa. Làm sao tỏ rõ? Phải biết, sự chứng quả của
phật cũng do duyên khởi, huống chi sắc thân. Tánh quang như lai chiếu mà
thường tịch, làm gì có các tướng, nên đều nói tức phi. Liền lại phải
biết đã nhân viên mà quả mãn bèn có cụ túc sắc thân, tuy chiếu mà tịch,
tuy tịch mà chiếu, thì chẳng phải là không có cụ túc chư tướng, nên đều
nói là : thị danh. Tức phi là hiển cái không của tức giả, thị danh là
hiển cái giả của tức không, há chỉ hai bên chẳng trước mà lại hai bên
đều dung hội, đây gọi là viên trung. Bồ tát thông đạt vô ngã pháp phải
nên biết như thế. Chẳng những thế, phải biết, các tướng viên mãn là chỗ
hiển hiện của tánh đức viên minh, há có thể chấp bảo là lìa các tướng ra
riêng có pháp thân ư? Nên nói thị danh. Nhưng há có thể chấp chư tướng
duyên sanh tức là pháp thân, nên nói tức phi. Thế thì còn chẳng nên chấp
các tướng như lai hiện ra để thấy như lai, thì kẻ chấp hết thảy pháp
tướng duyên khởi, nó chẳng thể thấy như lai, thật rõ ràng. Nên đều chẳng
nên chấp cũng có thể biết vậy. Cho nên biết rằng cụ túc sắc thân là
thắng báo của cứu cánh giác quả, há có thể chấp bảo là lìa sắc thân ra
riêng có phật tánh ư, nên nói thị danh. Nhưng há có thể chấp sắc thân
duyên khởi tức là phật tánh, nên nói tức phi. Thế thì còn chẳng nên chấp
báo thân trang nghiêm để thấy pháp thân thanh tịnh, thì kẻ chấp thân
ngũ uẩn khổ báo duyên khởi nó chẳng thể thấy tự tánh pháp thân lại rõ
ràng, nên càng chẳng nên chấp lại càng có thể biết. Tóm lại, nói thị
danh khiến nó chẳng thể chấp cái dị, nói tức phi khiến nó chẳng thể chấp
cái nhứt, chẳng chấp nhứt dị, đây là viên kiến. Kiến viên thì tri cũng
chánh, tri chánh thì kiến cũng viên. Nếu biết hết thảy đều là duyên sanh
thì thấy hết thảy pháp bất nhứt bất dị. Thấy nó bất dị mà chẳng ngại gì
bất nhứt, nên vốn nhứt như, mà chư pháp duyên sanh. Thấy nó bất nhứt mà
chẳng ngại gì bất dị, nên tuy chư pháp mà đều là nhứt như, phải thông
đạt như thế.
Trên nói phước đức, phàm thuộc về thiện quả chẳng kể
lớn nhỏ đều là phước đức. Ðây nói thắng báo thân là cái rất lớn rất
thắng trong phước đức. Nhưng chẳng kể lớn nhỏ hơn kém đều là theo quả để
tỏ rõ nghĩa. Theo quả để tỏ rõ nghĩa, là tỏ rõ nó đều là duyên sanh.
Phật thuyết yếu nghĩa duyên sanh nay lại khái quát ba thứ để nói, tiến
sâu vào từng tầng một :
1) Khiến biết thế gian, xuất thế gian
pháp hết thảy đều không, chỉ có nhân quả chẳng không. Vì cớ gì? Vì đều
là pháp duyên sanh, sở dĩ nhân quả đáng sợ, sở dĩ phải tu thắng nhân
chứng thắng quả.
2) Ðã hết thảy đều không, mà nhân quả chẳng
không, nên hết thảy pháp tức không tức giả, vì cớ tức giả cho nên nhân
ắt có quả, nhân thắng thì quả ắt thắng. Vì cớ tức không, cho nên nhân
quả tuy thắng, làm mà cũng như vô sự, đây gọi là hiểu sâu nhân quả.
3)
Phật nói hết thảy pháp duyên sanh, ý ở chỗ tỏ rõ nó vốn chẳng sanh. Nếu
ở trong khoảng nhị lục thời, thế pháp cũng tùy duyên mà làm, xuất thế
pháp chính tùy duyên mà khởi, nhưng con mắt day về chỗ hết thảy pháp vốn
chẳng sanh để xem nó, cũng chẳng tự cho rằng có thể xem, chỉ ở thế
gian, xuất thế gian pháp chính lúc tùy duyên là chính phải xem như thế,
chính lúc phải xem như thế là chính lúc tùy duyên như thế, thì có thể
hứa cho người nầy là một người linh lợi. Trong mà tâm tam tế qui về chỗ
bất khả đắc, ngoài mà hết thảy pháp qui về vốn chẳng sanh, thì ngã pháp
còn chỗ nào chứa núp nữa? Thiệt là một cái xong thì 100 cái xong, thiên
hạ thái bình. Bổn sư dạy chúng ta pháp môn vượt đường thẳng nầy, chúng
ta phải một gánh gánh lên, ra sức bước lên đường phía trước. Chẳng thấy
nói ư : "ngày nay đã qua, mạng sống cũng theo đó mà giảm, như cá ở nơi
nước cạn, có gì là vui?" Nếu cứ như cũ chấp trước, bước đi mà vẫn ngó
trở lại, thì tuy ngày ngày xem kinh nghe pháp hiểu được chút ít nghĩa lý
nhưng có ích chỗ nào đâu? Phải đề phòng sở tri chướng của mình sanh ra,
so với phiền não chướng còn hư hoại hơn. Phải gấp rút bước nhanh lên.
Ở
sau phước đức thắng báo, nối tiếp nói một khoa lớn pháp thí, chính để
hiển thị hết thảy pháp đều là duyên sanh. Vì chưng ắt có nhân duyên bố
thí lục độ mới có thể phát sanh sự tướng phước đức thắng báo, nên phước
đức thắng báo là theo quả mà nói, tức là theo chỗ pháp sanh ra mà nói.
Một khoa pháp thí nầy là theo nhân mà nói. Theo nhân nói là muốn hiển
thị nghĩa duyên sanh vô cùng, nhân quả vô tận. Tại sao nói thế? Phải
biết, một khi nói bố thí liền có ba phương diện : 1) người bố thí, 2)
người được bố thí, 3)Vật bố thí. Nên một khoa lớn pháp thí nầy liền mở
ra làm ba khoa. Trước nói một khoa không có pháp có thể thuyết là theo
kẻ bố thí mà nói, thứ nhì nói một khoa kẻ nghe tánh không là theo kẻ
được bố thí mà nói, thứ ba nói một khoa vô pháp khả đắc là theo vật bố
thí mà nói. Chỗ phật thuyết pháp đều là thuyết chỗ chứng của phật, nên
không có pháp có thể đắc là theo pháp chỗ thí mà nói. Mà đem kẻ bố thí
ra để nói, thì làm sao biết hành cái thí nầy, lại làm sao có thể hành
cái thí này, nhân duyên của nó rất chẳng một vậy. Lại đem người được bố
thí ra để nói thì làm sao thành ra chúng sanh, lại làm sao có thể nghe
pháp, nhân duyên của nó cũng lại rất nhiều. Lại đem vật bố thí ra để
nói, vật này làm sao sanh ra, lại làm sao được, nhân duyên lại có nhiều
thứ. Ðây là theo nhân duyên trên ba phương diện đã ngàn muôn sai biệt,
nói ra không hết. Huống chi ba phương diện nếu chẳng tụ hội ở một thời,
một chỗ thì vẫn là không có một việc pháp thí nầy phát sanh ra, làm sao
mà được tụ hội ư, lại nếu chẳng phải duyên thì chẳng thể được. Do đây có
thể biết hết thảy sự việc đều là nhân duyên chỗ sanh ra, chẳng những là
pháp bố thí nầy. Ðã có một cái duyên pháp thí nầy, lại sẽ phát sanh bao
nhiêu thứ quả, quả lại thành nhân, nhân lại thành quả, quả nhân, nhân
quả từ đó trở đi muôn ngàn sai biệt vĩnh viễn không cùng tận. Có thể
thấy bao nhiêu sự tướng thế gian, xuất thế gian, chỗ gọi là chư pháp lại
không có vật gì khác, chỉ là nhân quả, quả nhân chẳng dứt ở khoảng tâm
và con mắt chúng sanh hiển hiện, biến huyễn ra mà thôi ! Chúng sanh
chẳng biết quán sâu lý nầy, bèn bị nó làm mê hoặc, trỏ ra mà gọi nó đây
là pháp nầy, đây là pháp kia. Biết đâu rằng cái trỏ ra là nhân, ấy là
cái quả của nhân trước, gọi nó là quả, thực là cái nhân của quả sau. Chỗ
gọi là nhân pháp, quả pháp, bản thân nó không có một cái cố định. Ðã
chẳng cố định liền chẳng phải thực tại, há chỉ trong khoảng sát na đều
thành vết tích cũ mà thôi đâu. Thế thì phân biệt cực khổ, chấp trước
vững chắc, cho pháp nầy nhứt định là pháp nầy, há chẳng phải là ngu si
ư? Chẳng những kẻ nhận sự tướng là thực có tức là si, nếu nhận sự tướng
là thực không cũng chưa từng chẳng phải si. Vì cớ gì? Vì hết thảy pháp
chẳng qua là nhân nhân, quả quả lần lượt diễn biến làm loá mắt và tâm
người ta, ban đầu chẳng thể nào ngưng trụ lại một sát na, bèn chấp là
thực có, tự mình sanh trói buộc, chẳng được tự tại, người này là người
hết sức ngu si đã đành chẳng đợi nói nữa. Thế nhưng pháp tuy chẳng phải
thực, mà từ vô thủy đến nay gặp duyên liền khởi, nhân quả, quả nhân sát
na nói tiếp nhau đã chẳng dứt mất. Bèn một mùi vị chấp không, chẳng biết
tùy thuận lý duyên sanh, nhờ nhân thù thắng được chứng quả thù thắng,
đến nỗi đã chẳng thể chứng tánh vốn chẳng phải duyên sanh, vượt ra khỏi ở
ngoài hết thảy các pháp duyên sanh, để tự mình cởi mở cái khổ trói
buộc, được cái vui tự tại. Lại chẳng thể lợi dụng sự lý duyên sanh, tùy
duyên cơ cảm hiển thị bao nhiêu thứ pháp để bạt khổ cho chúng sanh, cho
vui cho chúng sanh. Người nầy chẳng thể vượt ra thì thế ắt rơi xuống. Vì
cớ gì? Vì ác thủ không. (Vì kẻ chẳng chấp có thực, luôn đến nhân quả
cũng chẳng tin, đây là ác thủ không, tỏ rõ thế của nó ắt tạo ác). Dẫu
chẳng ác thủ không mà chỉ nghiêng về ở cái không, tuy có thể vượt ra
duyên sanh mà chẳng thể lợi dụng duyên sanh, thì chìm vào cái không, trệ
vào cái tịch, thành ra người tự liễu. (Loại này chỉ tu nhân nhỏ chứng
quả nhỏ, chẳng biết nhờ thù thắng nhân duyên, được thù thắng quả chứng,
nên tuy có thể vượt ra, tự chứng cái tánh vốn đầy đủ, mà chẳng thể lợi
dụng tùy duyên để độ chúng sanh, như bực nhị thừa là loại này vậy). Cho
nên thế tôn mắng nó rằng : "mầm mục, giống hư hoại, rơi vào hố vô vi".
Hai thứ bịnh chấp không nầy, tuy khổ vui không giống nhau, thăng lên
chìm xuống khác nhau xa, nhưng không có trí tuệ đều là một. Phật thuyết
khoa nầy ý ở khiến người ta hiểu rõ sự lý duyên sanh để tránh khỏi bịnh
chấp hữu chấp không. Mà khiến phát bồ đề tâm tu bồ tát hạnh phải thông
đạt pháp duyên sanh tức không tức giả, tức giả tức không để làm rộng bố
thí, khiến cho tự và tha tùy thuận lý này, không hữu chẳng chấp. Ðã siêu
thoát ra ngoài hiện tượng, lại được nó ở trong vòng, liền thành bồ tát
bi trí đầy đủ. Vì cớ gì? Vì chẳng chấp hữu thì nhân ngã không, chẳng
chấp không thì pháp ngã không, ngã và pháp hai cái đều không tức là thấu
suốt bát nhã chánh trí của tam không, liền chứng lý thể bát nhã không
hữu đồng thời, thành phật còn chẳng khó, há chỉ thành bồ tát mà thôi ư?
Nên nói : "nhược bồ tát thông đạt vô ngã pháp giả, như lai thuyết danh
chân thị bồ tát".
Như chỗ nói trên có thể biết ba phương diện :
kẻ bố thí, kẻ được bố thí, vật bố thí đã là pháp nhân duyên sanh, thì
đều đương thể tức không, nên gọi là tam luân thể không. Thí dụ ba phương
diện là luân (bánh xe) vì bánh xe là vật xoay chuyển chẳng ngừng, lại
vật khác bị bánh xe đè cán lên liền phá hoại không còn, để thí dụ nhân
quả, quả nhân thay đổi nhau diễn biến không ngừng, và để thí dụ tài thí
phá tham lam bỏn xẻn, vô uý thí phá khổ não, pháp thí thì có thể mở
chánh trí phá ba chướng. Chỗ nói ở trên đều là tôn chỉ trọng yếu của
khoa nầy, nay nói ra trước để vào văn so sánh dễ hiểu.
Tu Bồ Ðề ! Nhữ vật vị như lai tác thị niệm : ngã đương hữu sở thuyết pháp, mạc tác thị niệm.
Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, ông chớ bảo như lai làm niệm nầy : ta phải có chỗ thuyết pháp, chớ làm niệm nầy.
Mấy
khoa dưới đây lý và tôn chỉ sâu kín, ấy là nói nó sâu lại ẩn đi chẳng
dễ thấy được. Vả chính diện là tỏ rõ nghĩa như lai thuyết pháp, mà ở
trong lại là dạy bồ tát phải làm sao ly niệm, chỗ bảo là nói ở chỗ nầy
mà ý ở chỗ kia. Nay trước đem nghĩa chính diện chia ra từng tầng nói rõ,
lại nói tôn chỉ trong lời nói nầy. Một chữ niệm trên là ở bên như lai
nói, xem văn có thể biết, còn chữ niệm trong câu "mạc tác thị niệm" là ở
bên trưởng lão nói có nghĩa là ông chẳng nên làm niệm nầy. Chữ niệm nầy
nhiếp chữ vị (bảo) của văn trên, vị là lời nói. Làm lời nói nầy là do ở
làm niệm nầy, nên lấy đừng làm niệm nầy răn nó. Làm ngôn niệm nầy, lỗi
nó ở chỗ nào? Ở bốn chữ "tác niệm ngã đương", mà ngôn niệm nầy tức là
phỉ báng phật, nên răn đừng làm ngôn niệm nầy, đây là lý gì? Văn dưới
câu hà dĩ cố, chính nói rõ cớ đó.
Hà dĩ cố? Nhược nhân ngôn như lai hữu sở thuyết pháp tức vi báng phật, bất năng giải ngã sở thuyết cố.
Dịch nghĩa : Vì cớ gì? Nếu người nào nói như lai có chỗ thuyết pháp tức là phỉ báng phật, vì cớ chẳng có thể hiểu chỗ ta thuyết.
Hà
dĩ cố : là hỏi vì cớ gì chẳng nên làm ngôn niệm nầy. Hữu sở thuyết pháp
: có nghĩa là trong tâm còn tồn tại có pháp chỗ thuyết, tức là ý tác
niệm, ngã đương. Một khi nói lời nầy, tội nó rất lớn, ắt rơi xuống vô
gián địa ngục. Vì cớ gì? Vì tức là phỉ báng phật, đây sở dĩ chẳng nên
làm niệm nầy, làm lời nói nầy vậy. Tại sao tức là phỉ báng phật? Kinh
văn giống như chưa nói rõ, thực ra đã ám thị ở trong hai chữ "như lai"
rồi vậy. Viên chứng bổn tánh mới gọi là như lai, trong tánh không tịch
sao được có niệm, sao lại có ngã? Phàm làm niệm ta phải như thế nào, như
thế nào, là vọng tưởng chưa vắng lặng, ngã chấp chưa không, là kẻ phàm
phu mới như vậy, nếu bảo như lai như thế, thì xem như lai giống như kẻ
phàm phu, chẳng phải phỉ báng là gì? Phải biết, thuyết pháp là báo, hoá
phật, mà chẳng phải là pháp thân như lai. Thế nhưng chứng đắc pháp thân
mới thành báo, hoá thân, nên báo hoá thân và pháp thân tuy bất nhất mà
bất dị. Nên pháp thân không có niệm, không có thuyết, báo, hoá thân tuy
có thuyết mà thực không có niệm. Kinh văn riêng đem như lai ra để nói là
ý ở hiển chỗ nầy, để tỏ bày chớ có nghi phật có niệm thuyết pháp. Một
khi có cái nghi nầy thì không khác gì nghi phật-tánh chẳng không tịch,
chưa chứng pháp thân vậy, lại cũng không khác gì bảo chưa thành phật
vậy, cho nên tức là phỉ báng phật. Lại nữa, sự thuyết pháp của phật đều
là đối cơ, cơ là cơ duyên. Lời nói đối cơ chính tỏ rõ thuyết pháp cũng
là duyên sanh. Duyên sanh thể không, nên pháp vốn là không có pháp, như
lai đã chứng thể không nên thuyết tức là không có thuyết, há được bảo là
có chỗ thuyết pháp ư? Phật sao có thể chẳng khởi niệm mà tùy duyên
thuyết pháp? Là vì sức bi nguyện huân tập lúc tu nhân chỗ đã nói ở phía
trước. Lý nầy Kinh Kim Quang Minh cuốn 10 nói ra rất rõ ràng, chẳng thể
nào không biết, nay dẫn ra đây.
Kinh nói : "Phật không có niệm
nầy : ta nay diễn thuyết 12 phần giáo, lợi ích hữu tình". 12 phần giáo
tức là tam tạng, mở rõ tam tạng làm 12 bộ phận. Câu nói nầy có nghĩa là
phật thuyết kinh, luật, luận tam tạng, lợi ích chúng sanh, ban đầu chẳng
làm niệm ta phải như thế vậy. Kinh lại nói : "Nhưng do từ thiện căn lực
hồi xưa, ở kẻ hữu tình kia, tùy theo căn tánh, ý lạc, thắng giải của
nó, chẳng nổi dậy phân biệt, nhậm vận tế độ, thị giáo lợi hỉ, hết vị lai
tế, không có cùng tận". Câu nầy có nghĩa là tuy chẳng khởi niệm ta phải
thuyết pháp độ chúng sanh, nhưng có thể tùy theo căn tánh của chúng
sanh ý nó chỗ ưa thích, chỗ nó hiểu nghĩa mà thuyết. Vả tuy khéo ứng cơ
duyên như thế, hết vị lai tế khai thị giáo hoá, lợi ích hết thảy, đều
khiến cho hoan hỉ, thuyết pháp vô tận, nhưng cũng không có niệm phân
biệt cơ duyên, ấy là chẳng thể nổi dậy phân biệt mà tự nhiên hợp độ, chỗ
gọi là nhậm vận là vậy. Vì cớ gì có thể như thế? Do ở hồi trước lúc ở
nhân địa sức bi nguyện đầy đủ, quán sâu duyên sanh, huân tập thành chủng
tử (tức là thiện căn) khiến cho như thế. Nhưng lúc tu nhân, một mặt
quán cái giả hữu của duyên sanh, một mặt lại phải quán cái chân không
vốn đầy đủ (kinh nầy trong khoa khai chánh tri, trước nói tâm hành chẳng
thể đắc tức là khiến quán chân không, thứ nhì nói duyên sanh tức là
khiến quán giả hữu). Nếu chẳng chứng đắc tánh chân không, thì tuy bi
nguyện đầy đủ, quán sâu duyên sanh cũng chẳng thể tùy duyên hiện khởi.
Nên kinh văn lại nói :
"Y theo pháp như như, y theo như như trí,
có thể ở việc lợi ích tự và tha mà được tự tại tành tựu, y theo pháp như
như, y theo như như trí mà thuyết bao nhiêu thứ phật pháp, cho đến
thanh văn pháp". Ðây là nói chứng tánh mà sau hai trí thành tựu. Y theo
hai trí nầy thì hết thảy việc tự và tha hai cái đều lợi, đều được tự tại
thành tựu, chẳng những có thể tự tại thuyết bao nhiêu thứ pháp mà thôi.
Chẳng cần khởi niệm phân biệt, tự nhiên mà thành, đó là tự tại. Pháp
như lai có nghĩa là : pháp là pháp tánh, như là chân như, chữ như thứ
nhì là nhứt như. Vì chưng nói cùng với pháp tánh chân như mà nhứt như,
đây là tên khác của căn bản trí, như như trí có nghĩa là : chữ như đầu
là nhứt như, chữ như thứ nhì là chân như, trí là căn bản trí. Vì chưng
nói cùng với chân như căn bản trí nhứt như, tức là tên khác của hậu đắc
trí. Căn bản trí tức là tánh thể, hậu đắc trí mới là tánh dụng. Ðắc thể
mà sau khởi dụng nên kinh khác dịch là hậu đắc trí, đối với hậu đắc mà
tỏ rõ căn bản, nên cũng gọi tên nó là trí, thực ra chỉ là tánh thể, nên
kinh nầy dịch là pháp như như, mà chẳng gọi là trí, mỗi kinh có nghĩa
của nó, đều có thể được cả. Vì chưng căn bản trí là nói nó chiếu chân,
hậu đắc trí là nói nó chiếu tục. Chiếu chân thì chỉ có một tánh quang
không tịch, chẳng gọi nó là trí, có thể được. Nhưng đã tánh quang chiếu
sáng thì gọi nó là trí cũng sao chẳng thể được? Chiếu tục thì soi phân
biệt sự tướng muôn ngàn sai khác, gọi nó là trí đã đành là nên, nhưng
tuy gọi là soi phân biệt mà chẳng phải là khởi niệm phân biệt, nên nói
là như như trí. Kinh lại lấy thí dụ hiển lý của nó rằng : "thí như vô
lượng vô biên thủy kính, vì nương ở ánh sáng, bóng của không được hiện
ra bao nhiêu thứ tướng khác nhau, cái không tức là vô tướng". Thủy kính
là thí dụ tánh, thủy là thí dụ thanh tịnh, kính là thí dụ viên mãn, vô
lượng vô biên là thí dụ tánh ở khắp cả hư không pháp giới. Ánh sáng là
thí dụ hai trí, vì trí là nghĩa quang minh. Không là thí dụ tánh thể
không tịch, bóng là thí dụ vọng niệm, tướng khác nhau là thí dụ sự tướng
sai biệt, vô tướng là thí dụ vô niệm. Câu "cái không tức là vô tướng"
chính là tỏ rõ nghĩa bóng của cái không, lại tỏ rõ tuy hiện ra bao nhiêu
tướng, trong đó vẫn là vô tướng, nên gọi nó là không.
Tóm lại
bảo là thủy kính (gương nước) không có bụi mà phát ra ánh sáng, nương
theo ánh sáng nầy nên có thể ở trong cái không không có bụi hiện bao
nhiêu tướng. Phật tánh cũng như thế, vô niệm không tịch thì trí quang
viên khắp. Y theo trí quang nầy nên trong cái không tịch vô niệm mà được
bao nhiêu sự tự tại thành tựu. Có thể thấy tự tại thành tựu chính là do
vô niệm không tịch mà hiện ra trí quang. Nay bảo : "như lai tác niệm
ngã đương thuyết pháp" liền giống với phàm phu, há là như lai. Ðã chẳng
không tịch lại há có thể thuyết pháp tự tại, chính là chỗ bảo "lấy sự
thấy luân hồi đo lường biển viên giác" không có chỗ nầy. Phải biết,
thuyết pháp như tiếng vang trong hang, cũng như hang trống rỗng thì
truyền tiếng nói đi, hễ có cảm thì ứng, ban sơ không để tâm gì vậy. Lại
như dùi trống và trống ứng với nhau, đánh lớn thì trống kêu lớn, đánh
nhỏ thì trống kêu nhỏ, vừa theo phận của nó tự nhiên như nhiên mà thôi.
Sự thuyết pháp của phật như thế, như thế ! Vậy cho nên chẳng nên làm
ngôn niệm nầy. Thế nhưng vì cớ gì làm ngôn niệm nầy? Thế tôn suy ra
nguyên cớ của nó rằng : không có gì khác, chỉ vì không hiểu chỗ ta
thuyết mà thôi ! Hoặc nói phía trước thế tôn đã từng có câu hỏi : "như
lai có chỗ thuyết chăng?" Trưởng lão rành rành đáp rằng : "như lai không
chỗ thuyết," tại sao ở đây lại khuyên răn trưởng lão chẳng nên làm ngôn
niệm như lai có chỗ thuyết pháp, lại nói : "chẳng hiểu chỗ thuyết," thế
thì không biết chỗ chẳng hiểu ấy quả nhiên là thuyết cái gì ư? Phải
biết, trưởng lão là đương cơ, đối với trưởng lão nói, ý ở khuyên răn đại
chúng mà thôi. Xem ban sơ nói : "ông đừng bảo," kế tiếp nói : "nếu
người nào nói," thì tức là trỏ ngay trưởng lão. Chỗ gọi là chẳng hiểu,
nếu theo kinh nầy nói, vì chưng đề phòng chưa thể viên giải câu vô hữu
định pháp như lai khả thuyết, và bồ tát vị lợi ích nhứt thiết chúng sanh
ưng như thị bố thí, các câu nói phía trước, thì ở lời nói như lai vô sở
thuyết nầy thế ắt hiểu lầm, các lời nói khác cũng ắt chẳng có thể thông
suốt, sẽ bảo bồ tát còn nên lợi chúng sanh, hành bố thí, huống chi phật
ư? Sự xuất thế của phật nguyên vì thuyết pháp lợi sanh. Vả nay đang
phừng lên thuyết kinh Kim Cương Bát Nhã nầy, thì lời nói như lai vô sở
thuyết, vì chưng bảo là ý thuyết rồi liền thôi, chẳng còn lưu lại một tơ
hào dấu vết. Trước đã chẳng nói rồi ư : "vô hữu định pháp như lai khả
thuyết," có thể biết chỉ không có định pháp như lai khả thuyết thôi, há
không thuyết một cái gì ư? Ðã thuyết rồi thì không có chỗ thuyết, còn
chính lúc thuyết há có thể không chỗ thuyết? Có chỗ thuyết pháp, tuy
chẳng phải là vô niệm, nhưng niệm khác đều có thể ly, cái niệm thuyết
pháp nầy nếu ly thì làm sao độ chúng sanh? Chẳng độ chúng sanh thì làm
sao gọi là phật? Thế cho nên sở dĩ công nhiên nói rằng : "như lai tác
thị niệm ngã đương hữu sở thuyết pháp," mà chẳng biết đó là phỉ báng
phật vậy. Kiến giải của phàm phu thường thường như thế, biết đâu rằng
chính tương phản với phật pháp. Do đây có thể thấy quan hệ của GIẢI lớn
vậy thay! Vì cớ chẳng giải, tà tri tà kiến, đã mang niệm nghi mà tự lầm
mình, lại làm lời nói nầy để phá hoại tín tâm người khác, làm lầm pháp,
làm lầm người, sở dĩ phỉ báng phật tội đến đọa xuống ngục vô gián. Làm
sao biết người nầy chẳng giải ở đây? Xem chỗ nói văn dưới chính là đối
với chỗ nó chẳng giải thống thiết châm biếm nó, khiến cho nó khai giải,
cho nên biết như vậy,
Tu Bồ Ðề ! Thuyết pháp giả vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp.
Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, thuyết pháp là không có pháp có thể thuyết nên gọi tên là thuyết pháp.
Vô
pháp khả thuyết, ý hiển vốn không thể thuyết. Tại sao vốn không thể
thuyết? Vì cớ vốn không có pháp, đã vốn không có pháp thì làm sao có thể
thuyết? Nên nói là vô pháp khả thuyết. Vì cớ gì? Vì hết thảy pháp đều
là duyên sanh. Trước nói : "vô hữu định pháp như lai khả thuyết", chính
tỏ rõ nó vốn không có pháp, chỉ do duyên hội giả hiện huyễn tướng nên
không có định. Bèn chẳng biết day về trên duyên sanh hiểu rõ triệt để,
đến nỗi sanh ra bao nhiêu thứ hiểu lầm, thật là sai lầm vậy.
Pháp
là duyên sanh, thuyết cũng là duyên sanh, thì kẻ thuyết pháp cũng là
duyên sanh. Ðã gọi là duyên sanh thì chẳng phải không có pháp, chẳng
phải là không thuyết, chẳng phải là không có kẻ thuyết. Thế nhưng duyên
sanh vô tánh, đương thể tức không, nên tuy nghiễm nhiên có kẻ thuyết
pháp, chính đương lúc phừng lên mà thuyết hiển nhiên có pháp tức lại là
không thể đắc một cái gì, đây gọi là vô sở thuyết, có nghĩa là thuyết
tức là không thuyết. Nếu cho là có chỗ thuyết, ấy là chẳng biết nó là
duyên sanh mà chấp cho là thực. Hiểu được nghĩa duyên sanh liền biết
pháp vốn không có pháp, nên thuyết tức là không thuyết. Ngay đến kẻ
thuyết pháp cũng là tức không tức giả, tức giả tức không, quyết chẳng
đến nỗi làm bậy ngôn niệm, tội giống như phỉ báng phật. Phàm phu sở dĩ
làm bậy ngôn niệm, căn bản sai lầm của nó đều là cho là đã có kẻ thuyết
pháp thì ắt có pháp chỗ thuyết, nếu không có pháp chỗ thuyết thì không
có kẻ thuyết pháp. Như lai ứng thế nguyên vì thuyết pháp độ chúng sanh,
chẳng phải rành rành có kẻ thuyết pháp ư? Nên nói bậy là : như lai có
chỗ thuyết pháp, ấy là trọn vẹn chẳng hiểu nghĩa ba thân, nhận lầm cho
là pháp thân thuyết pháp, (pháp thân không thuyết, báo hoá thân mới có
thuyết). Rồi lại cho là đã có thuyết pháp, ắt có cái niệm thuyết pháp.
Nếu không có niệm thuyết pháp thì làm sao thuyết pháp? Nên nói bậy là :
"như lai tác niệm ngã đương hữu sở thuyết pháp" ấy là trọn vẹn chẳng
hiểu nghĩa vì vô niệm không tịch mới có thể thuyết pháp. Nên trong văn
chẳng những nói : "không có pháp có thể thuyết", mà nói rằng : "thuyết
pháp là không có pháp có thể thuyết", hai câu hợp lại mà nói, chính sở
dĩ phá phàm tình của nó. Vì cớ gì? Vì đã là thuyết pháp là không có pháp
có thể thuyết, thì nó chẳng thể chấp là thuyết pháp, thật rõ ràng vậy.
Vả chăng còn không có pháp có thể thuyết, thì sao có niệm thuyết pháp ư?
Thế nhưng rành rành có kẻ thuyết pháp, rành rành có pháp có thể thuyết
là gì? Biết đâu rằng "thị danh thuyết pháp" mà thôi. Danh là giả danh,
phải biết vì là giả danh thuyết pháp, sở dĩ tuy gọi tên là thuyết pháp,
không ngại gì không có pháp có thể thuyết. Tuy không có pháp có thể
thuyết, không ngại gì mà gọi tên là thuyết pháp. Lại còn phải biết giả
danh thuyết pháp sở dĩ không có pháp có thể thuyết. Chính vì không có
pháp có thể thuyết bèn có giả danh thuyết pháp và kẻ thuyết pháp. (Vì
không, vô niệm mới thành hai trí, có thể thuyết bao nhiêu thứ phật pháp
như đã dẫn ở Kim Quang Minh kinh phía trước). Nếu hiểu được nghĩa nầy
thì niệm nghi ngờ, lời nói bậy có thể không xảy ra, tội phỉ báng phật
cũng có thể tránh khỏi. Trước nói : "kinh nầy câu thị danh đều phải hiểu
là giả danh, chẳng thể cho là thực". Xem câu "thị danh vi tâm" ở trên
có thể thấy rõ. Mà chỗ nầy câu "thị danh thuyết pháp" lại càng đủ để
chứng minh. Vì chưng nếu cho là thực, mà nói rằng : "đây gọi là thuyết
pháp", ấy là có chỗ thuyết pháp vậy. Một câu như thế thì câu nào cũng
đều như thế, dứt khoát chẳng thể cho là thực để nói.
Ở trên nghĩa
chánh diện đã xong, phải biết một khoa lớn khai phật tri kiến nầy đều
là nói để khiến kẻ phát bồ đề thông đạt lý đó mà trừ ngã kiến, nên "câu
mạc tác thị niệm" trong nầy là răn dạy bố tát chẳng nên khởi niệm, câu
"vật vị như lai tác thị niệm v.v..." là tỏ rõ thuyết pháp còn chẳng nên
có niệm, huống gì những cái khác. Vả lại khiến quán chiếu tánh chân như
vốn không có niệm, tức là lại quán chiếu nghĩa chư pháp như, không và
hữu viên dung. Nói : "tức vi báng phật, bất giải sở thuyết" là tỏ rõ nếu
hoặc khởi niệm liền trái với tôn chỉ của phật, nếu bảo phật có thuyết
pháp há chẳng phải là pháp tánh chưa sạch. Tóm lại, nghĩa bất nhất bất
dị mà chưa hiểu rõ, thì tuy nghe phật pháp ắt khó hiểu thấu, thế ắt chấp
cái hữu nghi cái không, chấp cái không nghi cái hữu, làm lầm pháp lầm
người, tạo nên tội mà chẳng biết. Nên học phật, việc cần yếu thứ nhứt là
ở chỗ kiến viên, biết chánh, chỗ gọi là khai giải là vậy. Nên lại khai
thị nghĩa : "thuyết pháp giả vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp",
khiến nó lĩnh hội thông đạt. Nếu biết được pháp chỗ phật thuyết là pháp
vốn không có pháp, thì biết hết thảy pháp đều như thế. Biết được pháp và
ngôn thuyết và kẻ thuyết pháp đều là duyên sanh, tức không tức giả, tức
giả tức không, hữu danh vô thực, thì biết hết thảy thế gian, xuất thế
gian pháp, hết thảy ngôn thuyết, hết thảy kẻ học pháp cũng đều như thế.
Ðã kẻ thuyết pháp không có pháp có thể thuyết, thì kẻ học pháp đương
nhiên không có pháp có thể chấp. Ðã thuyết pháp vô niệm, thì kẻ học pháp
liền phải quán chiếu chư pháp duyên sanh, thể không, hội về nhứt như.
Sức quán lần lần sâu, phân biệt chấp trước liền lần lần đạm bạc, ngã
kiến liền lần lần trừ, niệm cũng lần ly. Chỗ gọi là thông đạt vô ngã
pháp là như thế, như thế ! Bồ tát phải nên biết như thế. Ðây là mới tỏ
rõ chỉ-thú của vô pháp khả thuyết.
Thứ nhì tỏ rõ ý thêm vào một khoa : kẻ nghe tánh không. Kinh
văn khoa nầy vốn không có ở trong bản dịch của ngài La Thập, ấy là người
sau căn cứ bản dịch của đời Ngụy mà thêm vào. Trước hết thêm vào là sư
Khuy-Cơ đời Ðường, nhưng tăng chúng chưa tin theo hết. Ðến khi một người
xướng lên mà mọi người họa theo, bèn thành định bản là bắt đầu từ sư
Ðạo Ngung đời Nam Ðường khắc thành thạch bản. Thêm vào là có ý gì? Vì có
bài luận của ông Vô-Trước, bài tụng của ngài Di-Lặc đều có nghĩa nầy.
Nhưng bảo bản dịch đời Diêu Tần bỏ sót nghĩa tam luân thể không thì chưa
hẳn như vậy. Vì chưng văn phía trước đã có những câu : "bồ tát vị lợi
ích nhứt thiết chúng sanh ưng như thị bố thí, như lai thuyết nhứt thiết
chư tướng tức thị phi tướng, hựu thuyết nhứt thiết chúng sanh tắc phi
chúng sanh". Bản dịch đời Diêu Tần hoặc lấy trong chư tướng phi tướng,
nhiếp có tướng năng thí sở thí hợp với chúng sanh phi chúng sanh, đủ
hiển tam luân thể không, nên chỗ nầy lược bỏ đi mất một đoạn chúng sanh,
chỉ riêng hiển nghĩa năng và sở hai cái đều không mà thôi. Vì chưng
trên nói thuyết pháp giả vô pháp khả thuyết là tỏ rõ kẻ năng thuyết là
không, dưới nói vô pháp khả đắc là tỏ rõ cái sở thuyết là không. Công
phu tu đến chỗ cực ắt phải năng sở đều không, mới có thể tánh quang rực
rỡ thoát xa căn trần, nghĩa nầy tức là trong Tâm Kinh nói : "vô trí diệc
vô đắc". Bản dịch đời Tần có ý lược đi để hiển cực công của tiến tu,
quyết chẳng phải là sơ sót. Bản dịch đời Tần từng chữ, từng chữ còn
chẳng cẩu thả, sao riêng ở nghĩa nầy lại sơ sót? Tuy thế có một khoa
nầy, nghĩa càng viên mãn, nay phải nói rõ cái cớ phải nên thêm vào.
Ðầu
đời Thanh sư Ðạt Thiên làm cuốn Tân Nhãn Sớ, chia kinh văn làm bốn khoa
lớn : tín, giải, hành, chứng, vì kinh văn rõ ràng có đủ nghĩa nầy. Như
trong khoa sanh tín, trưởng lão trịnh trọng thỉnh hỏi : "phả hữu chúng
sanh sanh thực tín phủ?" Phật cũng trịnh trọng đáp rằng : "hữu trì giới
tu phước giả năng sanh tín tâm", mà cuối khoa lại kết rằng : "phật và vô
thượng bồ đề pháp đều từ kinh này ra", nói từ kinh này ra là chỉ thị
người học phải từ kinh nầy mà vào. Tín là cửa vào đạo nên ở cuối khoa
nầy kết hiển ý nầy. Một khoa khai giải nói rộng quả hành để tỏ rõ nhân
tâm, trưởng lão tự bày tỏ thâm giải nghĩa thú, chính là chỉ thị người ta
phải thâm giải như thế. Phật lại tường tận ấn khả mà kết rằng : "đương
tri kinh nghĩa quả báo dai bất khả tư nghị". Ðương tri có nghĩa là đương
giải (phải hiểu), chỗ để kết nghĩa giải sâu. Một khoa tiến tu nầy trước
tỏ rõ phát tâm không có pháp, kế tiếp khiến khai phật tri kiến, mà phật
kiến tức là chẳng chấp nhứt dị, phật tri tức là tam tế tâm chẳng thể
đắc, hết thảy pháp vốn vô sanh, mà chỗ qui kết lại nói rõ rằng : "dĩ vô
ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả, tu nhứt thiết thiện pháp, tắc
đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề". Vả lại nói : "thiện pháp tức phi
thiện pháp". Ðây là chỉ thị cho người học phải thông đạt nội tâm ngoại
cảnh tức hữu tức không, chẳng chấp nhứt dị, vô ngã vô pháp, lấy làm công
phu tu duy nhất, ý càng hiển rõ. Vì chưng ắt tu nhân vô pháp vô ngã mới
chứng quả bình đẳng pháp giới. Nên trong khoa lớn thứ tư nói rõ : "ư
nhứt thiết pháp vô ngã đắc thành ư nhẫn". Thành nhẫn tức là chứng. Còn
các chỗ nói khác đều là nghĩa bình đẳng pháp giới, chư pháp không tướng,
thì đều thành nghĩa chứng. Tín, giải, hành, chứng, kinh văn, kinh nghĩa
rõ rõ ràng ràng, hiện hiện, thành thành. Tân Nhãn Sớ riêng thấy đến chỗ
nầy là chỗ từ xưa đến nay chưa có của nhà chú kinh nầy. Sớ nầy tên là
Tân Nhãn thiệt là danh đúng với thiệt, nên lần nầy khoa phán y theo
nghĩa nầy, nhưng thêm vào hai mục tổng quát nêu lên : "theo tâm tỏ rõ vô
trụ, theo cảnh tỏ rõ vô trụ", đem cương lĩnh ra khiến cho chỗ tỏ rõ
nghĩa chẳng giống nhau của nửa bộ trước, nửa bộ sau có thể xem mà hiểu
rõ. Phải biết, kinh Hoa Nghiêm là lấy tín, giải, hành, chứng hiển thị
thứ tự nhập đạo viên dung vô ngại. Kinh đó là lúc phật mới thành đạo gia
bị các đại bồ tát, cùng nhau thuyết cảnh giới tự chứng của như lai.
Cảnh giới nầy chính là chư pháp nhứt như, hết thảy đều thị (chẳng tự
thuyết là hiển thị pháp thân không thuyết). Kinh Kim Cương Bát Nhã nầy
là vì chẳng dứt giống phật mà thuyết, cho nên tôi y theo Hoa Nghiêm tín
giải hành chứng thứ tự nhập đạo mà nói, khiến cho kẻ nghe cũng y theo
cái thứ tự viên dung nầy mà nhập đạo, để tỏ ý y bát truyền nhau, đèn đèn
vô tận. Tân Nhãn Sớ đem nhãn mục nầy nêu ra, nên nó sở dĩ hay khéo vậy.
Tín giải hành chứng là nấc thang để nhập đạo đã đành là như thế, nhưng
chữ tín càng cần yếu, ban đầu thành, rốt cuộc thành chỉ có một "tín tâm"
mà thôi, há chỉ tín là cửa nhập đạo thôi ư? Kinh Hoa Nghiêm nói : "Tín
là mẹ công đức của nguồn đạo, nuôi lớn hết thảy các thiện căn", hết thảy
thiện căn nhờ tín mà nuôi lớn, nên sự sự, pháp pháp chẳng thể lìa chữ
tín ra. Ngay như kinh nầy rõ ràng nói : "tín tâm thanh tịnh tắc sanh
thực tướng", đủ thấy một chữ tín suốt thông đến đáy. Vậy nên phật đã
khai thị làm sao mà tín, làm sao mà giải, làm sao mà tu, làm sao mà
chứng, kẻ nghe liền phải mỗi mỗi sanh tâm tín ngưỡng, cũng tín như thị,
giải như thị, cũng tu như thị, cũng chứng như thị. Nếu chẳng như thị,
thì giống như đếm châu báu của người khác, tự mình không có một xu. Thử
xem trong khoa sanh tín đã nói : "trì giới tu phước năng sanh tín tâm dĩ
thử vi thực", để đáp một lời hỏi của trưởng lão. Lại nói : "một niệm
sanh tịnh tín, đắc vô lượng phước đức", đây chính là kẻ thuyết cổ động
cho kẻ nghe có thể sanh tín tâm liền phải khởi tín để trì giới tu phước,
ngõ hầu có thể sanh thực tín, tịnh tín.
Trong văn khai giải, ở
sau khi thâm giải nghĩa thú, thuyết tín càng nhiều, như nói : "tín tâm
thanh tịnh tắc sanh thực tướng, tín giải thụ trì đệ nhứt hi hữu, tín tâm
bất nghịch kỳ phước thắng bỉ, tâm tắc cuồng loạn, hồ nghi bất tín". Nói
trở qua trở lại như thế là đều để hiển thị sự cần yếu của thâm giải,
cũng tức là chỗ để lay tỉnh người học phải ở những nghĩa trong khoa khai
giải nói rõ, sanh khởi tín tâm cũng cầu khai thâm giải như thế, Khai
giải tức là hiểu rõ lý, lý rõ mà sau tín chân, tu thực, mới có khả năng
chứng nhập. Nếu không như thế thì tín mù mờ, tu mù mờ, dùng công phu
uổng vậy, cho nên khoa nầy thuyết tín rất nhiều. Trong văn thành chứng
thứ tự cũng có câu : "ưng như thị tri, như thị kiến, như thị tín giải"
để tỏ bày như lai bình đẳng pháp giới vốn chẳng phải ý tưởng của phàm
phu chỗ tới, dứt khoát chẳng thể dùng phàm tình đo lường. Chỉ phải dốc
lòng tin mới có thể tùy thuận được vào. Do đó mà xem, trong ba khoa lớn :
tín, giải, chứng đã đều đặc biệt nêu hiển lên chữ tín để làm con mắt,
thì một khoa tiến tu chẳng nên riêng thiếu. Thế mà bản dịch đời Tần
riêng ở khoa nầy không có một chữ tín, cho nên phải dẫn bản dịch đời
Ngụy nói về chữ tín ở khoa nầy (bản dịch đời Ngụy trừ khoa nầy ra cũng
không có chữ tín nào riêng biệt) để bù vào bản dịch đời Tần, để làm sự
điểm-tỉnh con mắt của người học, khiến cho biết rằng những pháp môn tiến
tu mà khoa nầy khai thị đều phải thâm tín, y theo đó mà hành. Chẳng
những thế, văn trước câu "chư tướng phi tướng, chúng sanh phi chúng
sanh" tuy đủ hiển tam luân thể không, nhưng trong nầy gồm nói thị danh,
đã hiển tức không, lại hiển tức giả, nghĩa càng đầy đủ. Nên tuy đã có
văn trước, cũng chẳng hiểm trùng điệp. Vì chưng văn trước chỉ nói tức
phi, sở dĩ tỏ rõ bố thí phải chẳng trụ tướng. Văn đây gồm nói thị danh,
sở dĩ tỏ rõ pháp thí và chúng sanh đều là pháp duyên sanh, tức không tức
giả, phải chẳng trụ tướng mà thí, tức giả tức không, phải thí mà chẳng
trụ tướng, nên chẳng trùng điệp. Lại nữa, nghĩa của chư pháp duyên sanh,
nếu chỉ có hai hoa phước đức, thắng báo, mà chẳng theo bố thí để tỏ rõ
nghĩa là chỉ thuyết theo về quả, mà không thuyết theo về nhân thì nghĩa
cũng còn sơ sót. Vả lại theo tam luân thể không để tỏ rõ nghĩa, liền
nhiếp có nghĩa năng và sở hai cái đều mất ở đó, vì chưng người năng thí,
và pháp sở thí đã đành là năng sở đối đãi, mà người thí pháp và chúng
sanh nghe pháp, cũng là năng sở đối đãi, nên nói tam luân thể không cùng
với nghĩa năng sở hai cái đều mất ban đầu chẳng trở ngại nhau. Nếu chỉ
tỏ rõ năng và sở hai cái đều mất, bèn chẳng nhiếp tam luân thể không.
Nên ở khoa nầy riêng chẳng y theo nguyên bản, mà thêm vào ý ở chỗ đó.
Nhĩ thời Tuệ Mạng Tu Bồ Ðề bạch phật ngôn : thế tôn, phả hữu chúng sanh ư vị lai thế văn thuyết thị pháp sanh tín tâm phủ?Dịch
nghĩa : Lúc bấy giờ Tuệ Mạng Tu Bồ Ðề thưa phật rằng : Thưa thế tôn, có
nhiều chúng sanh ở đời vị lai nghe thuyết pháp nầy sanh tín tâm chăng?
Nhĩ
thời là lúc thuyết khoa trước vừa xong, Tuệ Mạng là tên dịch khác của
trưởng lão, đời Ðường thì dịch làm Cụ Thọ. (Danh từ chẳng giống nhau mà
nghĩa giống nhau đều là tên gọi kẻ tuổi cao đức trọng. Bản dịch đời Tần
ưa dùng danh từ xưa sẵn có, nên dịch là trưởng lão. Bản dịch đời Ðường
ưa dùng danh từ mới tạo, nên gọi là Cụ Thọ để bày tỏ ý sanh mạng, tuệ
mạng hai cái đều cụ túc. Bản dịch đời Ngụy thì dịch là Tuệ Mạng, danh từ
nầy giống như chỉ nói một bên, nhưng bảo tuệ là trỏ pháp thân, mạng là
trỏ gồm sanh mạng mà nói cũng có thể được). Phả hữu : có ý là sợ rằng
không có nhiều, ý trưởng lão bảo hiện tại tuy có nhiều, chúng sanh đời
vị lai cách phật càng xa, nghiệp sâu chướng nặng, chưa ắt có nhiều, nên
nói : "ư vị lai thế", bao quát luôn cả ở trên : vô pháp phát tâm cho đến
vô pháp khả thuyết mà nói. Ý bảo : phát tâm tu hành ắt phải y theo
pháp, nay nói vô pháp, lại nói thuyết pháp giả vô pháp khả thuyết, nhưng
bao nhiêu thứ thuyết như thế đều là pháp cả. Chúng sanh đời mạt thế
nghe đó, sợ rằng nó hồ nghi, nên hỏi rằng : "văn thuyết thị pháp sanh
tín tâm phủ?" Phải biết rằng như chỗ nói trên đều là ở pháp chẳng chấp,
tinh tu diệu pháp vô ngã. Ý trưởng lão hỏi chính là chỉ thị người học
phải tín diệu pháp nầy, tu vô ngã hành vậy.
Phật ngôn : Tu Bồ Ðề ! Bỉ phi chúng sanh, phi bất chúng sanh.Dịch nghĩa : Phật nói : Tu Bồ Ðề ơi, chúng nó chẳng phải là chúng sanh mà chẳng phải là bất chúng sanh.
Chữ
bỉ là trỏ chúng sanh nghe pháp, phi chúng sanh là theo tánh mà nói, phi
bất chúng sanh là theo tướng mà nói. Ý nói : bảo nó là phi chúng sanh
ư? Thế nhưng chúng nó là phi bất chúng sanh. Bảo nó là phi bất chúng
sanh ư? Thế nhưng chúng nó là phi chúng sanh, chính hiển nghĩa tức
không, tức giả, tức giả tức không, hết thảy chúng sanh đều là duyên
sanh.
Hà dĩ cố? Tu Bồ Ðề! Chúng sanh chúng sanh giả, như lai thuyết phi chúng sanh, thị danh chúng sanh.
Dịch nghĩa : Vì cớ gì? Tu Bồ Ðề ơi, chúng sanh, chúng sanh là như lai nói chẳng phải chúng sanh nên gọi tên là chúng sanh.
Khoa
nầy giải thích rõ cái cớ bỉ phi chúng sanh, phi bất chúng sanh nói
trên. Chúng sanh, chúng sanh nói lắp đi lắp lại, là thừa tiếp câu trên
phi chúng sanh phi bất chúng sanh mà nói. Như lai thuyết : là theo tánh
mà thuyết. Danh : là danh tướng. Ý nói : hồi nãy bảo phi chúng sanh phi
bất chúng sanh vì là theo tánh mà nói. Vốn đầy đủ phật tánh là chẳng
phải chúng sanh, cho nên bảo bỉ phi chúng sanh, nhưng theo danh tướng
thì là chúng sanh, cho nên bảo bỉ phi bất chúng sanh. Khoa nầy hợp với
khoa trên lời cực viên diệu, nghĩa cực sâu xa, nay chia ra làm ba tầng
để nói :
1) Trưởng lão hỏi chúng sanh nghe pháp như thế nầy có
thể sanh tín chăng? Mà lời đáp chuyên đem chúng sanh ra nói, ở một tầng
sanh tín chẳng nói một lời, há chẳng là chỗ đáp không phải là chỗ hỏi ư?
Thực ra thì không phải vậy, ý hỏi đã trả lời viên mãn rồi, vì chưng là
sự trả lời mà không trả lời. Tại sao nói thế? Vì trưởng lão lo chúng
sanh ở pháp sâu nầy chưa thể sanh tín, do ở chỗ nhận chúng sanh là chúng
sanh, cho nên chẳng tránh khỏi vì chúng nó đam tâm. Thế nhưng là sai
lầm, là chấp tướng mà mê muội tánh. Phải biết, đem tướng ra mà xem tuy
chẳng phải là chúng sanh mà là chúng sanh, nhưng chẳng qua là giả danh
của duyên sanh mà thôi. Duyên sanh chẳng phải tánh, tánh của nó thì trên
bằng với chư phật, vốn chẳng phải là chúng sanh. Thế thì đã đầy đủ phật
tánh, há chẳng thể khai phật chánh tri, vậy nên kẻ nghe pháp nầy há
không thể tín được ư? Cho nên một lời nói phi chúng sanh, phi bất chúng
sanh là gồm có ý : " mạc tác thị thuyết" ở đó.
2) Phật thuyết
khoa nầy, không khác gì dạy chúng sanh phương tiện nghe pháp sanh tín.
Phương tiện ra sao? Trước quán tưởng tự thân mình là rồi. Hết thảy chúng
sanh phải quán những pháp ngũ uẩn nầy chỉ do nhân duyên tụ hội, chẳng
phải sanh mà huyễn sanh ra, vốn nó vô sanh. Nếu biết được nghĩa nầy, thì
ở nghĩa chư pháp duyên sanh tức không tức giả, tức giả tức không, phát
tâm tu hành, không có pháp có thể chấp nói ở trên tự có thể sanh tín
vậy. Phải biết, kẻ thuyết pháp còn không có pháp có thể thuyết, thì kẻ
nương theo pháp phát tâm tu hành sao được có pháp có thể chấp ư?
3)
Khai thị kẻ lợi ích chúng sanh hành bố thí lục độ phải tức tướng ly
tướng. Vì chưng phi bất chúng sanh là khiến thể hội chúng sanh duyên
sanh tức giả, chẳng phải là không có danh chúng sanh, phải vô sở trụ mà
hành bố thí. Nên phía trước sở dĩ nói : "sở hữu nhứt thiết chúng sanh
chi loại dai ưng diệt độ linh nhập vô dư niết bàn," bồ tát phải phát đại
bi nầy. Phi chúng sanh là khiến thể hội chúng sanh duyên sanh tức
không, nguyên chẳng phải là chúng sanh, phải bố thí mà chẳng trụ ở
tướng. Ðây trước sở dĩ nói : "diệt độ nhứt thiết chúng sanh dĩ, nhi vô
nhứt chúng sanh thực diệt độ giả," bồ tát phải đầy đủ đại trí nầy. Tóm
lại nghĩa của duyên sanh thông suốt hết thảy. Nghĩa nầy mà tin được tới
nơi tới chốn, thì các nghĩa khác liền có thể thấu suốt mà tin sâu không
nghi ngờ gì nữa.
Tu Bồ Ðề bạch phật ngôn : thế tôn ! Phật đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề vi vô sở đắc da?Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề thưa phật rằng : Thưa thế tôn, phật đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề là không chỗ đắc chăng?
Ở
phía trên ban đầu theo phước đức mà nói vô thực, vô thực sở dĩ tỏ rõ
duyên sanh tánh không, phước đức lớn không gì hơn là trang nghiêm báo
thân, nên thứ nhì theo cụ túc thân tướng để tỏ rõ tánh không. Hiện thân
tướng nầy nguyên vì thuyết pháp, nên thứ ba theo "thuyết pháp giả vô
pháp khả thuyết" để tỏ rõ tánh không. Thuyết pháp nguyên vì độ sanh, nên
thứ tư theo chúng sanh để tỏ rõ tánh không, một tầng tiến thêm lên một
tầng, tiến đến khoa nầy tức là một cái không suốt đáy, như dưới đáy
thùng thoát ra. Tại sao nói như thế? Phật hiện cụ túc thân tướng đã
nguyên vì thuyết pháp độ sanh, mà chỗ thuyết của phật nguyên là thuyết
chỗ đắc của phật, chỗ gọi là như ngữ. Nay biết đều là duyên sanh, pháp
của duyên sanh đương thể tức không, nên cụ túc thân tướng có danh mà
chẳng phải thực, thuyết pháp cũng có danh mà chẳng phải thực, chúng sanh
cũng có danh mà chẳng phải thực. Thế thì há chẳng phải là đắc tức là
chẳng phải đắc, phật tức là chẳng phải phật, hết thảy đều có danh mà
chẳng phải thực ư? Như thế thì không còn vướng mắc một tơ hào nào, toàn
thể hiển lộ ra vậy, đây là tôn chỉ của khoa nầy.
Trưởng lão trước
nói "Phật ở Nhiên Ðăng phật sở không có pháp đắc a nậu đa la tam miệu
tam bồ đề", nhưng còn cho là lúc phật ở bát địa vì phật chẳng tồn tại có
pháp bồ đề, nên nay thành phật đắc bồ đề. Nay bèn biết chỗ gọi là phật
đắc bồ đề, lại cũng đắc mà không chỗ đắc, ý sâu hơn trước, nên tự bày tỏ
lúc ngài mới giác ngộ mà nói một chữ da (ư), chính là một cái không
triệt để như cảnh tượng giấc mơ mới tỉnh. Ðây là theo sự mà nói. Nếu
theo lý mà nói, trưởng lão đã cùng với như lai tâm tâm in nhau, nay bày
tỏ mới giác ngộ, chính là chỉ thị người học phải cứu xét cùng tận đến
đáy, chẳng khiến còn một tơ hào pháp chấp tồn tại, rồi sau tánh ngã
không hiển ta, thủy giác hợp với bổn giác mà thành đại giác. Trưởng lão
cố ý làm lời nghi vấn lại là để chỉ thị người học tuy đã ngộ như thế,
nhưng phải thỉnh người có con mắt sáng tỏ vì mình chứng minh. Câu trên,
trước nói phật đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề là tỏ rõ theo tu nhân
chứng quả chẳng phải là rốt ráo không đắc quả. Câu dưới mới nói không
chỗ đắc, là tỏ rõ nếu theo pháp mà nói thì chẳng phải là rốt ráo có đắc.
Tóm lại tỏ rõ ý đắc mà không đắc, không đắc mà đắc.
Như
thị, như thị ; Tu Bồ Ðề ! Ngã ư a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, nãi chí
vô hữu thiểu pháp khả đắc, thị danh a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.Dịch
nghĩa : Như thế, như thế; Tu Bồ Ðề ơi, ta ở a nậu đa la tam miệu tam bồ
đề, cho đến không có chút pháp nào có thể đắc, gọi tên là a nậu đa la
tam miệu tam bồ đề.
Nói hai lần như thị là ấn khả chẳng phải là
rốt ráo không đắc, chẳng phải là rốt ráo có đắc ở trên, chỗ ông Tu Bồ Ðề
ngộ là chẳng lầm. Nghĩa của phật thuyết càng sâu, bèn đem câu nói của
trưởng lão lại suy ra gốc của nó, cũng như nói : tại sao không chỗ đắc
ư? Vì nó vốn không có chút pháp nào có thể đắc vậy. Ý nầy chính thừa
tiếp chữ "ngã" mà tới. Ngã không có chút pháp nào có thể đắc chính tỏ rõ
ngã không. Vì là ngã không, còn chẳng thấy có chút pháp nào, thì sao có
chút pháp nào có thể đắc? Ðã không có chút pháp nào có thể đắc lại sao
có ông phật đắc pháp? Nói chữ "nãi chí" chính tỏ rõ nó không rồi lại
không, quét sạch hết thảy, chính đương lúc bấy giờ một niệm chẳng sanh,
vắng vắng, lặng lặng, tánh đức viên minh. Tóm lại, trong tánh không tịch
vốn không có một chút pháp, khiến cho nó thấy có chút pháp chính là ngã
kiến, thì còn có chỗ nào đắc? Chỉ nó chẳng thấy có chút pháp nào có thể
đắc mới là chân đắc. Câu : "ngôn ngã ư vô thượng bồ đề, vô thiểu pháp
khả đắc" thật là khéo, ấy là nói ta chẳng thấy có chút pháp nào có thể
đắc vậy. Ý câu nói nầy bao gồm có : chẳng phải rốt ráo không có pháp,
nên nối tiếp nói : "thị danh a nậu đa la tam miệu tam bồ đề", ý hiển
chẳng phải không có danh ngôn vô thượng bồ đề, lại là để hiểu vô thượng
bồ đề chỉ là danh ngôn, thôi, há có thể trước ư? Nên vô hữu thiểu pháp
khả đắc lại để hiển chỗ gọi là pháp, chỗ gọi là đắc đều là nhân duyên
sanh ra, duyên sanh thể không. Chính đương lúc có danh ngôn như thế, mà
vốn nó không có chút pháp có thể đắc vậy. Nghĩa vô pháp đắc bồ đề phía
trước đến đây phát huy ra không còn sót, thì nghĩa vô pháp phát bồ đề
lại nhân đó mà hiểu rõ triệt để. Chính sở dĩ khai chánh tri cho bồ tát
để được thông đạt vô ngã pháp mà thôi.
Một khoa tâm hành chẳng
thể đắc ở trên là khiển năng chấp, một khoa chư pháp duyên sanh là khiển
sở chấp. Thế nhưng năng và sở đối đãi lôi kéo càng nhiều, nên trong các
pháp sở chấp lại có năng và sở. Như phước đức thắng báo là sở sanh, bố
thí lục độ là năng sanh. Mà đem pháp bố thí ra nói, thì pháp là vật sở
thí, người thuyết pháp là người năng thí. Ðem việc bố thí ra nói thì kẻ
thuyết pháp là năng bố thí, chúng sanh nghe pháp là sở bố thí. Lại phân
biện một cách kỹ lưỡng thì ngã là năng chứng, pháp là sở chứng. Tóm lại
hết thảy sự việc đều là đối đãi, có đối đãi liền có năng sở, có năng sở
liền có phân biệt, có phân biệt liền có chấp trước. Thế nhưng có phân
biệt, tức là thức thứ sáu, chỗ gọi là ngã tướng là vậy. Cho nên mỗi mỗi
tỏ rõ những cái đó đều là duyên sanh, khiến cho biết duyên sanh thể
không, có danh mà chẳng phải thực, ắt phải bước bước quán cái không,
khiển trừ từng tầng từng tầng. Sở dĩ khiển trừ cái pháp ở bên sở, chính
sở dĩ khiển trừ cái ngã ở bên năng, vì chưng hai cái nầy vốn là đối đãi,
hình nhau mà thành, cái kia tiêu thì cái nầy cũng tiêu. Mà trước nói
tâm hành chẳng thể đắc là day thẳng về bên năng để khiển trừ. Nhưng ngã
tướng, ngã kiến chẳng dễ khiển trừ, phần nhiều vì cảnh ngoài đời đổi,
nên ở các pháp lại nói ra tường tế, do đây có thể biết phương pháp dụng
công. Vì chưng khiển năng thì phải khiển sở, khiển sở tức là khiển năng,
khiển năng tức là khiển phân biệt, khiển phân biệt tức là khiển chấp
trước. Phân biệt khiển hết thì thức thứ sáu chuyển chấp trước khiển hết
thì thức thứ bảy chuyển. Hai thức đã chuyển thì ngã và pháp hai cái đều
không, đều là nhứt như. Ðều là nhứt như tức là bình đẳng, nên văn dưới
nối tiếp nói : thị pháp bình đẳng, là hiển ngay tánh thể.
Phục thứ Tu Bồ Ðề ! Thị pháp bình đẳng vô hữu cao hạ, thị danh a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.Dịch nghĩa : Lại nữa Tu Bồ Ðề ơi, pháp nầy bình đẳng không có cao hạ, nên gọi tên là a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Khoa
nầy là tổng kết các nghĩa ở trên. Ở trên chỗ nói như là lý, như là sự,
như là tánh, như là tu, ngàn đầu muôn mối đều qui kết hết ở mấy dòng
nầy, các nghĩa như cái lưới, mấy dòng nầy như giềng mối gồm lại của
lưới, dở giềng mối lên mà sau mắt lưới mở, nên nghĩa của mấy dòng nầy có
thể thấu suốt ở trong lòng thì các nghĩa khác đều được để thông suốt,
đều biết chỗ vận dụng vậy. Nếu chẳng như thế, thì tuy nghe được nhiều
nghĩa, rốt cuộc cảm thấy rời rời rạc rạc. Nghĩa lý nếu chưa thể được chỗ
yếu, thì công phu tu lại sao có thể nắm được chỗ yếu, thế thì sự quan
hệ của khoa nầy lớn vậy, nên phải dốc lòng lĩnh hội chẳng đợi nói nữa.
Phục
thứ : là đem một nghĩa ra để tỏ rõ nghĩa trước, những lời nói phía dưới
đều là thuyết minh cái sở dĩ nhiên của bồ đề không có chút pháp, nên
dùng hai chữ phục thứ để nêu lên. Hai câu "thị pháp bình đẳng, vô hữu
cao hạ" chính là hiển vô thượng bồ đề. Thế nhưng hai chữ thị pháp chẳng
thể cho là thực ở trên bồ đề, chẳng những là hai chữ thị danh chẳng nên
cho là thực mà thôi. Vì cớ gì? Vì tôn chỉ của kinh chính vì kẻ chấp
trước bồ đề khiển cái chấp thực của nó, huống chi chỗ nầy chính tỏ rõ
cái sở dĩ nhiên của bồ đề không có chút pháp, há có thể đem hai chữ thị
pháp cho là thực ở trên vô thượng bồ đề mà giảng. Nếu thực ở trên bồ đề
để giảng há chẳng phải là bồ đề có pháp ư? Tuy Tân Nhãn Sớ cũng chẳng
tránh khỏi bịnh nầy, chỉ có hai lời chú của ông Triệu và ngài Trí Giả
rất hay. Lời chú rằng: "Người không sang hèn, pháp không tốt xấu, sạch
trơn vậy mà bình đẳng ấy là nghĩa của bồ đề". Vì chưng câu trên có nghĩa
là : quan niệm tốt xấu, sang hèn bất bình đẳng sạch trơn vậy mà không
hết thảy, tức là bình và đẳng, đây tức là nghĩa của bồ đề. Thuyết nầy đã
hiển rõ nó chính là bồ đề mà lại chưa từng nói hết, ấy là lý cực cùng
tận, khéo khế hợp với tôn chỉ kinh. Do đây có thể biết chữ "thị pháp" là
bất cứ một pháp nào, cũng như là nói hết thảy pháp.
Vô hữu cao
hạ : chính là hiển bình đẳng, phải biết, hết thảy pháp có cao có hạ là
do ở vọng kiến của chúng sanh phân biệt chấp trước thấy nó như thế mà
thôi! Thực ra thì hết thảy pháp tánh bình đẳng, bình đẳng, làm gì có cao
hạ. Ðã không cao hạ lại làm gì có vô thượng bồ đề pháp, nên nói : "thị
danh a nậu đa la tam miệu tam bồ đề", vì chưng không biết đặt tên là gì,
giả lập ra tên nầy mà thôi! Sở dĩ bồ đề không có chút pháp nào có thể
đắc vậy. Nếu vô thượng bồ đề có chút pháp, đã nói là vô thượng tức là
tướng cao hạ nghiễm nhiên há là tánh bình đẳng ư? Phật mà thành phật
chính vì ngài chứng bình đẳng pháp tánh mà thôi, cho nên nói như lai là
nghĩa của chư pháp như, cho nên thấy hết thảy pháp đều là phật pháp, cho
nên như lai chỗ đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, ở trong đó vô thực
vô hư. Vì cớ gì? Vì chư pháp nhứt như là chư pháp bình đẳng, vì hết thảy
pháp đều là phật pháp là không có cao hạ. Pháp tánh đã bình đẳng nhứt
như, thì có gì là có thể đắc, nên nói vô thực. Chính đương lúc không có
chút pháp nào có thể đắc, mà pháp tánh bình đẳng nhứt như hiển hiện ra
viên mãn, cho nên nói là vô hư.
Phải biết, không có cao hạ là dứt
hết đối đãi, không đối đãi thì thành tuyệt đối, nên giả danh là vô
thượng, không cao hạ thì bình đẳng, nên giả danh là chánh đẳng. Tại sao
không cao hạ, bình đẳng như vậy? Vì cớ nó chẳng giống với phàm phu bất
giác nổi dậy phân biệt chấp trước. Thế nhưng cũng không luôn cả sự chia
ra năng giác sở giác, cho nên giả danh là chánh giác. Do đó có thể biết
chính vì nó chẳng phân biệt pháp, chẳng chấp trước pháp, vả lại không
còn tồn tại pháp kiến, mới gọi là vô thượng chánh đẳng giác mà thôi! Nó
không có chút pháp nào, cũng rõ ràng vậy. Pháp tánh vốn nó như thế. Phật
chỉ hiển cái tánh vốn nó như thế nầy ra mà thôi! Nó không có chút đắc
vậy, thật là rõ ràng, nên nói : "ta ở a nậu đa la tam miệu tam bồ đề,
cho đến không có chút pháp có thể đắc".
Nửa bộ trước khiến ở hết
thảy pháp không trụ, khiển ngã chấp phân biệt của nó, đều là để hiển
tánh bình đẳng. Nửa bộ sau khiến nó ở bồ đề pháp cũng phải không trụ,
khiển câu sanh ngã chấp của nó, lại cũng đều là hiển tánh bình đẳng. Kịp
sau khi thuyết minh nghĩa chư pháp như, lại lấy nghĩa chẳng thể đắc,
không cái tâm năng chấp của nó, lại lấy nghĩa duyên sanh, không cái pháp
nó sở chấp. Năng và sở đều không thì bình đẳng tánh thể bèn hiển ra,
nên nêu khoa nầy là : "trực hiển tánh thể". Có thể thấy chỗ gọi là vô
thượng bồ đề pháp, không là cái gì khác, chỉ là tánh bình đẳng của chư
pháp nhứt như. Nếu có chút bóng dáng của bồ đề pháp, thì sao có thể kiến
tánh? Vì cớ gì? Vì tánh thể không tịch cho nên bình đẳng. Có chút phân
biệt chấp trước liền có chỗ lập, thì còn có gì là không tịch nữa? Có chỗ
lập liền có cao hạ, thì còn có gì là bình đẳng nữa? Bồ tát phải thông
đạt lý nầy, khiển hết phân biệt chấp trước mà vô ngã. Chỗ gọi là hết
thảy pháp tánh vốn không cao hạ, những sự vật ở trước mắt đều như thế
hết thảy, nhưng chúng sanh chẳng biết quán chiếu thì còn biết làm sao
được? Thí như có một sự vật ở đây, hoặc thấy nó cho là đáng mừng, hoặc
thấy nó cho là đáng chán, mà việc đó, vật đó ban đầu chẳng phải vì người
ta mà có khác, đủ thấy hết thảy pháp tánh vốn không cao hạ. Vì sự có
khác của mừng và chán, cái khác nầy là ở con người, không liên quan gì
đến sự vật. Cho nên kẻ đa sầu thì đi đến đâu cũng sầu, tuy gặp cảnh ngộ
chẳng ắt phải sầu mà nó cũng sầu nhíu đôi mày. Kẻ tìm thú vui thì không
lúc nào là chẳng vui, tuy có việc chẳng có thể vui mà nó cũng gượng mở
miệng cười. Hoàn cảnh tuy giống nhau, nhưng chỗ cảm xúc của con người,
muôn người không giống nhau là so ở chỗ thấy chẳng giống nhau vậy. Lại
như đem nước ra mà nói, con người thì thấy nước là nước, cá, rồng thì
thấy là hang hốc chỗ nó ở, tu la thì thấy là dao gậy, quỉ đói thì thấy
là máu mủ. Kinh nói : đây là do nghiệp lực khiến thấy như thế. Phải
biết, nghiệp lực làm sao thành ra cái thấy sai biệt nầy? Chính là do ban
đầu ngã kiến phân biệt chấp trước mỗi người chẳng giống nhau, bèn đến
nỗi tạo nghiệp khác nhau. Còn tuệ nhãn của bực nhị thừa thấy nó vốn
không, ngay đến nước cũng không thấy là nước. Pháp nhãn của bồ tát chẳng
những thấy nó vốn không, lại thấy bao nhiêu thứ sự tướng sai biệt của
nước. Bao nhiêu chỗ thấy chẳng giống nhau như thế, mà nước ban đầu không
có sự phân chia cao hạ như thế. Phật nhãn thì thấy nhứt như. Nhứt như
là tánh của nước vốn không, nên tùy duyên mà hiện các tướng trong, đục,
mà tánh của nước y nhiên vốn không. Hết thảy pháp đều như thế. Ðó gọi là
: thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ. Phải biết, chỗ gọi là bình đẳng
chẳng phải là đem cái cao chặt ra khiến cho nó hạ, đem cái hạ thêm lên
khiến cho nó cao, đây chính là vọng kiến phân biệt chấp trước, lại càng
khiến cho chẳng bình vậy, lại càng khiến cho chẳng đẳng vậy, càng cầu
bình đẳng càng thấy rối loạn vậy. Phật nói bình đẳng là khiến trừ cái
phân biệt, trừ khử cái chấp trước của nó, mặc cho nó cao cao, hạ hạ, mà
tự nó vẫn bình đẳng. Vì tâm mình đã bình, tâm mình đã đẳng, thì trên sự
tướng tuy có cao hạ, cũng tự nó cao cao, tự nó hạ hạ. Mỗi cái noi theo
phận của nó, chẳng nhiễu loạn lẫn nhau, thì hết thảy bình đẳng. Ðây là
nghĩa chân chính của bình đẳng. Vậy nên kẻ ham mộ phong trào bình đẳng
phải tự bắt đầu bình tâm mình, bắt đầu đẳng tâm mình.
Dĩ vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả, tu nhứt thiết thiện pháp tắc đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.Dịch nghĩa : Lấy vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả, tu hết thảy thiện pháp tức là đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Khoa
trên đã lấy : "thị pháp bình đẳng vô hữu cao hạ" hiển ngay tánh thể, mà
tánh thể nầy người người vốn đầy đủ, không người nào là chẳng có, chỉ
vì vọng tưởng (tức là phân biệt) chấp trước, nên chẳng thể chứng đắc.
Phật vì một đại sự nhân duyên xuất hiện ở thế gian là chính vì một đại
sự nhân duyên nầy vậy. Phật thuyết kinh nầy cũng vì một đại sự nhân
duyên nầy vậy. Từ bắt đầu cuốn kinh đến nay, ngàn muôn lời nói, nói
ngang, nói dọc, mở lột ra từng tầng, từng tầng, rửa chải từng tầng từng
tầng, ấy là đích xác rửa sạch một cái bổn lai diện mục đem ra, khiến đại
chúng thể nhận. Thể nhận rõ ràng mới biết rằng nếu chẳng chiếu theo các
nghĩa chỗ thuyết ở trên chân tu một cách thiết thực thì chẳng thể chắng
đắc. Vì chưng tánh thể tuy vốn đầy đủ, nhưng bị phân biệt chấp trước
làm cho dơ bẩn mà chẳng còn là bổn lai diện mục nữa. Nếu chẳng đem tâm
cao hạ, kiến bất bình đẳng trừ khử cho sạch, há thấy được bổn lai diện
mục. Nhưng chỗ nói trong kinh là cái ở trên cuốn sách, chẳng phải là cái
của mình. Muốn cất bước đi, thì chẳng thể nào chẳng mở mắt ra, mà mở
mắt ra, chính vì cất bước đi. Nếu chẳng cất bước đi thì mở mắt ra để làm
gì? Cho nên đã thuyết tám chữ : "thị pháp bình đẳng vô hữu cao hạ", đem
ngay tánh thể hiển thị ra khiến đại chúng mở mắt nhận rõ ràng, liền lại
đem công phu tu cái nầy, chứng cái nầy, trỏ ra đích xác, khiến đại
chúng cất bước đi mới có thể đạt đến mục đích. Muốn tu trọn vẹn ở tánh
ắt phải đem trọn vẹn tánh để khởi tu, sở dĩ kinh nầy mở ra từng tầng
từng tầng ắt khiến hiểu sâu nghĩa thú. Thuyết đến khoa trên lại là hiển
ngay tánh thể, khiến cho đại chúng thể nhận, thực ra là vì sợ chưa thể
hiểu sâu, lầm lấy tâm sanh diệt làm gốc tu nhân. Sở dĩ bực cổ đức tu
hành ắt phải trước ngộ bổn tánh là vì thế. Người xưa chứng đạo so với
người nay nhiều hơn, nguyên nhân rất trọng yếu thực là ở đó.
Y
theo đạo lý nói trên, nên công phu tu chỗ khoa nầy nói đều là mỗi mỗi
châm đối "thị pháp bình đẳng vô hữu cao hạ" mà hạ thủ. Chúng sanh vì cớ
gì ở hết thảy pháp thấy có cao hạ? Không gì khác, vì cớ phân biệt chấp
trước mà thôi! Phân biệt tức là tướng nhân ngã đối đãi, chấp trước tức
là ngã kiến, cho nên thấy có cao hạ mà chẳng bình đẳng, cho nên liền
cùng với tánh thể trái nhau, vậy nên kinh nầy mở miệng liền khiến phát
tâm rộng lớn, hàng phục các tướng ngã nhân. Chữ dĩ : có nghĩa là dùng.
Dùng vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả, cũng như nói dùng tâm
không phân biệt chấp trước. Thiện pháp : tức là chỗ nói bố thí ở trên.
Ðem một độ bố thí ra liền thu nhiếp cả lục độ, lục đồ liền thu nhiếp vạn
hạnh, nên nói là hết thảy thiện pháp. Nói : dùng vô ngã tu hết thảy
thiện pháp là tỏ rõ bất cứ pháp nào đều bình đẳng, Bình đẳng, phải dùng
tâm bình đẳng xem hết thảy pháp, tùy theo pháp nào tương ứng mà tu,
chẳng thể tồn tại tâm cao hạ. Hợp hai câu nầy tức là ý chỗ nói : "ư pháp
ưng vô sở trụ, hành ư bố thí" lúc mới khai kinh. Ưng vô sở trụ có nghĩa
là phải dùng tâm không phân biệt chấp trước. Trụ tức là trước, có chỗ
chấp trước liền có phân biệt, một khi có phân biệt cho nên chấp trước.
Hai việc ứng với nhau liền nổi dậy, chẳng lìa nhau ra. Hành ư bố thí
chính là chỗ bảo tu nhứt thiết thiện pháp.
Câu dĩ vô ngã : nghĩa
là không, là chẳng trước hữu, là tu tuệ. Câu tu nhứt thiết thiện : nghĩa
là hữu, là chẳng trước không, là tu phước. Như thế hai bánh xe đều vần
chuyển, cũng tức là hai bên chẳng trước, thì rõ ràng hợp với trung đạo,
bình đẳng bình đẳng, liền cùng với tánh bình đẳng của a nậu đa la tam
miệu tam bồ đề ứng với nhau, nên nói : "tắc đắc". Tắc đắc có nghĩa là
nhứt định đắc. Ðắc có nghĩa là chứng. Nếu phân tích ra mà nói, dùng tâm
không phân biệt chấp trước tu hết thảy thiện pháp, thì hợp với nghĩa chư
pháp như, là cái nhân thành pháp thân. Phước tuệ hai cái đều nghiêm là
cái nhân thành báo thân, viên tu hết thảy, đắc phương tiện trí là cái
nhân thành hoá thân. Ðã là xứng với tánh mà viên tu, nên có thể tánh đức
viên minh, ba thân hiển hiện, mà thành vô thượng chánh đẳng chánh giác,
nên nói : "tắc đắc". Tóm lại là tỏ rõ nghĩa toàn tánh khởi tu, toàn tu ở
tánh. Dùng nghĩa vô ngã v.v... tu nhứt thiết thiện pháp tức là nhiếp
thuyết trước nghĩa của các câu "bất ưng thủ pháp, bất ưng thủ phi pháp",
cho đến "ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, ưng sanh vô sở trụ tâm". Tức
phi, thị danh đều sở dĩ mở phát ra nghĩa nầy. Tắc đắc vô thượng bồ đề :
cũng là nghĩa tín tâm thanh tịnh tắc sanh thực tướng nói trước. Chẳng
những thế, ngay lúc mới ban đầu chỗ nói một khoa ly tướng tâm tức là
hàng phục, khiến phát nguyện rộng lớn tức là khiến lấy vô ngã, vô nhân,
vô chúng sanh, vô thọ giả tu hết thảy thiện pháp. Thứ nhì lại nói một
khoa chẳng trụ ở tướng tức là chính trụ, khiến hành quảng đại hành cũng
tức là khiến lấy vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả, tu hết thảy
thiện pháp. Trọn bộ kinh văn thực lấy hai khoa mới ban đầu làm chủ yếu,
những chỗ nói sau đều là đem chủ yếu nầy hoặc sớ thích lý thể của nó,
hoặc hiển rõ tu tông của nó, hoặc mổ xẻ cái ẩn-vi của nó, hoặc
phát-dương qui-thú của nó. Ðại khái nửa bộ trước là trước khiến ở trên
cảnh duyên hết thảy pháp chẳng trụ, rồi sau thì khiến ở lúc khởi tâm
động niệm hết thảy pháp chẳng trụ, ấy là đã càng nói càng cần yếu vậy.
Nửa bộ sau mở đầu chương liền khiến lúc khởi tâm động niệm, ngay cả đến
vô thượng bồ đề pháp cũng lại chẳng trụ. Chỗ nói từ đó trở về sau đều
chuyên đối với điểm nầy khiển trừ. Kịp đến nói tam tế tâm chẳng thể đắc,
khiến cho biết cái năng chấp là vọng niệm chẳng thể đắc, mà chẳng phải
là chân tâm. Lại nói chư pháp duyên sanh khiến cho biết hết thảy pháp
đều là tức giả, tức không, đương lúc nó hiển ra muôn tượng xum la tức
lại là rốt ráo chẳng thể đắc. Ngay đến quả báo thân của phật, cho đến bồ
đề pháp chứng đắc, hết thảy đều là huyễn hữu, hết thảy rốt ráo chẳng
thể đắc. Xưa tổ thứ nhì Thiền Tông thỉnh sơ tổ pháp an tâm. Sơ tổ nói :
"đem tâm lại đây ta an cho ông". Tổ thứ nhì sợ hãi hồi lâu thưa rằng :
"tìm tâm rốt ráo chẳng thể đắc". Sơ tổ nói : "ta an tâm cho ông xong
rồi". Sao bảo là an tâm xong rồi ư? Thiệt là vì thường trụ chân tâm của
chúng sanh đã lâu bị cái rốt ráo chẳng thể đắc nó làm cho nhiễu loạn mờ
mịt đi. Biết đâu rằng toàn do tự mình phân biệt chấp trước, khiến cho
phan duyên chẳng ngừng, bèn thành ra tướng mờ ám, rối loạn, chỗ bảo là
"đem cái tâm chấp thủ tâm mình, chẳng phải huyễn mà thành ra huyễn
pháp", là vậy. Nếu biết tướng mờ ám rối loạn vốn nó rốt ráo chẳng thể
đắc, tuyệt đối chẳng chấp thủ, thì ngay lúc đó mát mẻ vậy, nên mới nói :
ta an tâm cho ông đã xong. Ðây cũng như thế, tìm bồ đề chút pháp chẳng
đắc, thì pháp pháp, đầu đầu đều là bồ đề, cần gì tìm chỗ nào khác? Nên
lấy ngay hai câu : "thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ" hiển ngay ra bồ
đề vậy.
Cái bồ đề bình đẳng nầy làm sao có thể hiển ra? Là từ
năng và sở hai cái đều không chỗ nói ở trên mà tới. Năng và sở làm sao
hai cái đều không? Ấy là từ lúc mới khai kinh chỗ thuyết phát nguyện
rộng lớn, làm hành rộng lớn mà tới. Phát nguyện rộng lớn thì chẳng thủ
pháp (vì phát nguyện độ mà không có tướng độ, là chẳng thủ pháp), làm
hành rộng lớn thì chẳng thủ phi pháp, vì thủ pháp, thủ phi pháp đều là
trước ngã nhân chúng sanh thọ giả. Pháp và phi pháp đã đều chẳng thủ thì
ngã nhân chúng sanh thọ giả bốn cái đều không. Bốn cái đều không thì
pháp và phi pháp rốt ráo chẳng thể đắc, cũng tức là tam tế tâm phân biệt
chấp trước rốt ráo chẳng thể đắc, lại cũng tức là năng tu sở tu, cho
đến năng chứng, sở chứng rốt ráo chẳng thể đắc. Bao nhiêu thứ rốt ráo
chẳng thể đắc như thế ấy là thượng trụ chân tâm. Chỗ gọi là "thị pháp
bình đẳng vô hữu cao hạ", liền rốt ráo mà đắc, tức là chỗ bảo ở trên :
"tín tâm thanh tịnh tắc sanh thực tướng" là vậy. Ðây tức là bảo : "dĩ vô
ngã vô nhân, vô chúng sanh vô thọ giả, tu nhứt thiết thiện pháp, tắc
đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề." Tóm lại ba câu kinh văn nầy là
nghĩa qui kết từ lúc khai kinh đến nay chỗ thuyết các câu nói, khiến
được nắm cương yếu nầy để thông đạt các thuyết ở trên, mà chẳng phải ở
ngoài các thuyết ở trên riêng phát ra một nghĩa, phải dung hội như thế
mà quán chiếu nó. Vả lại do chỗ thuyết ở trên mà xem, có thể thấy kinh
nầy mở miệng ra liền là thuyết sự tu, trở về sao bao nhiêu lý tánh đều
là theo trên sự tu mà thuyết. Chẳng ly sự tu mà nói lý tánh là yếu quyết
của thuyết pháp. Vì cớ gì? Vì tức cái hữu để tỏ rõ cái không, ấy là hai
bên chẳng trước, bốn chữ "tức hữu minh không" này bao gồm hết lý thú
của bát nhã, các ông phải nhớ kỹ, y theo đó mà hành, tự hợp với trung
đạo. Chỗ nầy thuyết : "dĩ vô ngã tu nhứt thiết thiện pháp" cũng đầy đủ
nghĩa nầy, vì chưng bảo là đương lúc tu hết thảy thiện pháp mà vô ngã,
nếu chẳng thu hết thảy thiện pháp mà vô ngã thì rất nguy hiểm, vì nếu
chẳng phải là ác thủ không thì là thiên không, phải biết như thế.
Tu Bồ Ðề ! Sở ngôn thiện pháp giả, như lai thuyết phi thiện pháp, thị danh thiện pháp.Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề ơi, chỗ nói thiện pháp là như lai nói chẳng phải thiện pháp nên gọi tên là thiện pháp.
Vô
thượng bồ đề chẳng thể chấp thực, thì hết thảy thiện pháp lại sao có
thể chấp thực? Nếu chấp thực hết thảy thiện pháp thì cùng với chấp thực
vô thượng bồ đề đều có khác gì, nên lại phải khiển nó. Hết thảy thiện
pháp đều là duyên sanh giả hữu, tức hữu tức không, nên y theo nghĩa của
"như" để nói, thì hết thảy thiện pháp ngay lúc đó tức phi thiện pháp,
chỉ có giả danh thôi, sao có thể chấp thực ư? Cho nên nói : "như lai
thuyết phi thiện pháp, thị danh thiện pháp."
Trên nói : lấy vô
ngã tu hết thảy thiện pháp, là theo bên năng tu mà khiển trừ, chỗ nầy
nói : phi thiện pháp, danh thiện pháp, là theo bên sở tu mà khiển trừ,
nếu có pháp sở tu, liền có niệm năng tu. Có sở có năng rõ ràng là có
tướng đối đãi, tức là phân biệt chấp trước. Còn có phân biệt vi tế tồn
tại, thì ngã tướng vẫn tồn tại. Còn có chấp trước vi tế tồn tại thì ngã
kiến vẫn tồn tại, nên phải khiển trừ nó cho hết sạch. Phải biết, lấy vô
ngã v.v... tu hết thảy thiện pháp thì đắc vô thượng bồ đề, là vì nó dùng
tâm không phân biệt chấp trước để tu, cho nên liền đắc bồ đề. Vì chưng
dùng tâm bình đẳng nầy tu, thì pháp tức không có pháp, tu cũng chẳng tồn
tại có năng tu sở tu. Không tu mà tu mới có thể không đắc mà đắc. Nên
chỗ nói khoa nầy là việc đồng thời trong lúc khởi tu, tức là lúc tu hết
thảy thiện pháp,liền quán chiếu phi thiện pháp, danh thiện pháp. Nếu
khiến cho trong tâm của mình thấy có thiện pháp thì chính là ngã kiến,
sao có thể nói lấy vô ngã v.v... tu hết thảy thiện pháp ư? Nói một cách
khác, khoa nầy chính là giải thích rõ cái sở dĩ nhiên của vô ngã, vô
nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả ở văn trên, mà chẳng phải là sau khi tu
hết thảy thiện pháp rồi lại khiển trừ nó, dứt khoát chẳng thể nào cùng
với khoa trên xem tách rời thành hai, phải biết như thế.
*.Xem
chỗ nói ở trên, có thể biết khoa nầy là tổng kết của đem quả ra để tỏ rõ
nhân, mà lại là tổng kết các nghĩa từ bắt đầu thuyết kinh đến nay. Nói
một cách khác, tức là từ lúc bắt đầu khai kinh đến nay chỗ nói các nghĩa
đều là khiến lấy vô ngã tu hết thảy thiện pháp để chứng tánh bình đẳng,
đến đây mới vì đó nói rõ. Kinh nầy lúc mới ban đầu hai khoa phát nguyện
lớn làm hành lớn là tỏ rõ nghĩa mở chương để nói, từ đó trở về sau tính
ra sơ lược đã có nhiều lần kết thúc. Lần thứ nhất là hai câu : "bất ưng
thủ pháp, bất ưng thủ phi pháp," lần thứ nhì là một đoạn : "Ưng như thị
sanh thanh tịnh tâm", lần thứ ba là một đoạn lớn "ưng ly nhứt thiết
tướng phát bồ đề tâm," lần thứ tư là một đoạn lớn "chư pháp như nghĩa,
vô thực vô hư, hết thảy đều thị," nay là lần thứ năm, mà trước sau năm
lần tự nó có cạn sâu thứ tự. Hai câu lần thứ nhứt là kết nghĩa của độ
sanh chẳng trụ tướng, bố thí chẳng trụ tướng. Chẳng trụ tướng là chẳng
nên thủ pháp. Bố thí độ sanh là chẳng nên thủ phi pháp. Lần thứ nhì là
kết làm rộng lục độ phải vô sở trụ, là vì khiến không và hữu chẳng
trước, khiến cho tự tánh thanh tịnh tâm như thực không, như thực bất
không hiện ra. Lần thứ ba kết thúc là tỏ rõ ly tướng mới là phát bồ đề
tâm, chẳng những hai bên chẳng trước, ngay đến cái chẳng trước cũng
chẳng nên trước, nên nói : "ưng sanh vô trụ tâm, hữu trụ tắc phi v.v..."
Kết thúc lần thứ tư là theo quả vị để tỏ rõ cảnh giới của kẻ chứng đắc
tâm thanh tịnh là chẳng trụ một pháp, pháp pháp đều như, là vô ngã.
Khiến cho biết các nghĩa nói trên là vì khiến không lập nên một mảy may
nào, đem phân biệt chấp trước vi tế khiển trừ hết sạch, mới có thể chứng
chỗ phật chứng. Kết thúc lần thứ năm nầy là khai thị rành rẽ hết thảy
pháp tánh vốn bình đẳng, không có cao hạ, nên mỗi mỗi pháp đều chẳng thể
phân biệt chấp trước. Bồ đề pháp đã như thế, thì hết thảy pháp cũng như
thế. Chỉ dùng tâm không phân biệt chấp trước tu hết thảy thiện pháp
không có cao hạ, bình đẳng bình đẳng, liền khế hợp với pháp tánh, liền
thấy bổn lai diện mục tịch và chiếu đồng thời. Trước sau năm lần cạn sâu
thứ tự đã tơ hào chẳng rối, lại như từng giọt nước để trở về nguồn, rất
là tế mật, rất là viên dung.
Tu Bồ Ðề ! Nhược tam thiên
đại thiên thế giới trung sở hữu chư Tu Di sơn vương, như thị đẳng thất
bảo tụ, hữu nhân trì dụng bố thí.Dịch nghĩa : Tu Bồ Ðề
ơi, nếu trong ba nghìn đại thiên thế giới chỗ có các Tu Di sơn vương bao
nhiêu thất bảo như thế tụ lại, có người cầm dùng để bố thí.
Trong
một đại thiên thế giới có mười vạn vạn Tu Di sơn vương, tụ họp thất bảo
nó nhiều giống như thế. Như thị : là trỏ mười vạn vạn mà nói. Cầm thất
bảo nhiều như thế dùng làm bố thí, cái bố thí nầy có thể gọi là thắng,
phước đức lớn cũng có thể biết được. Khoa nầy dẫn ra thí dụ để hiển văn
dưới thụ trì nói rộng kinh nầy thì phước đức lại càng lớn hơn.
Nhược
nhân dĩ thử Bát Nhã Ba La Mật kinh, nãi chí tứ cú kệ đẳng trụ trì, vị
tha nhân thuyết, ư tiền phước đức bách phần bất cập nhất, bách thiên vạn
ức phần, nãi chí toán số thí dụ sở bất năng cập.Dịch
nghĩa : Nếu người nào lấy kinh Bát Nhã Ba La Mật nầy cho đến các tứ cú
kệ thụ trì, vì người khác nói, ở phước đức trước trăm phần chẳng bằng
một phần, trăm ngàn vạn ức phần, cho đến toán số thí dụ chỗ chẳng có thể
bằng.
Bản lưu thông chép là thụ trì độc tụng, nguyên bản không
có chữ độc tụng, vì độc tụng thu nhiếp ở trong thụ trì rồi. Ư tiền phước
đức : chữ ư là ý so sánh, chữ tiền là trỏ văn trên lấy bằng mười vạn
vạn Tu Di sơn vương thất bảo bố thí. Vì chưng bảo rằng cái phước đức như
bố thí phái trước có thể gọi là lớn vậy. Thế nhưng lấy trăm phần, ngàn
phần, muôn phần, ức phần, cho đến phần toán số chẳng thể tính, phần thí
dụ chẳng thể thí dụ phước đức, đều chẳng thể bằng một phần phước đức của
kẻ trì thuyết kinh nầy. Kinh tuy là văn tự, lời nói, nhưng do văn tự
khởi quán chiếu, liền do quán chiếu mà giống nhau, mà chứng từng phần,
mà cứu cánh vô thượng bồ đề, há hết thảy phước đức hữu tướng chỗ có thể
so sánh được ư?
Lúc kết thúc nửa bộ trước nói rõ là chẳng thuyết
đầy đủ, nên nửa bộ sau so sánh hiển thắng, nay mới một lần thấy. Nhưng
mệnh ý so sánh lại cũng cùng với phía trước tôn chỉ khác xa. Phải biết
khoa nầy nói ở sau khi hiển ngay tánh thể. Hiển tánh thể tức là hiển
pháp thân. Trước đã lấy Tu Di sơn vương để thí dụ báo thân, nay lại lấy
thất bảo tụ lại như mười vạn vạn Tu Di sơn vương dùng làm bố thí, mà
phước đức của nó cách rất xa, chẳng bằng kẻ trì thuyết kinh nầy, ý hiển
trì kinh thuyết kinh có thể khiến cho tự và tha cùng chứng pháp thân,
coi cái báo thân kia giống như tiền tài vật ở ngoài thân, sao đủ để so
sánh ư? Phải biết phật hiện báo thân nguyên vì lợi ích chúng sanh, khiến
người khác thụ dụng, chính như dùng tiền tài bố thí khiến người khác
thụ dụng, nên lấy cái nầy làm thí dụ để hiển chứng pháp thân, thì ngay
cả tướng của báo thân cũng chẳng trụ
HẾT CUỐN THỨ BỐN