k. Đốn giáo và Tiệm giáo
Những khác biệt giữa hai vị đại sư Huệ Năng và Thần Tú như chúng ta đã
bàn đến trong phần trước có thể xem là nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt
giữa hai tông Nam, Bắc do họ dẫn dắt. Điều này không có gì khó hiểu, bởi
vì điều tất nhiên là mỗi vị đều dựa vào những kinh nghiệm tu tập và thực
chứng của mình để giáo hoá đồ chúng. Vì thế, con đường mà mỗi vị đi qua
cũng chính là con đường mà những truyền nhân của họ tiếp tục nối bước.
Đại sư Thần Tú đã đến cùng Thiền tông với một sự chuẩn bị chu đáo về mặt
tri thức. Một điều hoàn toàn tự nhiên là những tri thức ấy không thuộc
về phẩm chất bẩm sinh của mỗi con người, mà chỉ có thể đạt được thông
qua con đường học tập chuyên cần. Chính điều này đã ghi lại dấu ấn quan
trọng trong bài kệ trình kiến giải của ngài: “Thường siêng lau, siêng
rửa.” Vì thế, phương thức tu tập cũng như tông chỉ của Bắc tông chính là
sự chuyên cần tu tập.
Theo Bắc tông thì hết thảy chúng sinh đều sẵn có tánh giác ngộ, nhưng
chỉ do tập khí vô minh phiền não từ nhiều đời che lấp nên khiến cho tánh
giác ấy phải bị che mờ, khác nào tấm gương sáng phủ đầy bụi bặm. Vì thế,
người tu tập khi hiểu được điều này phải hết sức nỗ lực tinh cần, trừ bỏ
dần dần những tập khí vô minh phiền não, cho đến khi nào tánh giác được
hiển lộ thì sẽ đạt đến sự giải thoát.
Quá trình “trừ bỏ dần dần” như vừa nói chính là cái mà Bắc tông gọi là
“tiệm tu”. Chữ tiệm có nghĩa là dần dần, từ từ, có nghĩa là hiệu quả tu
tập sẽ đạt được một cách chầm chậm, từ từ, nhưng chắc chắn không thể
không có được. Chỉ cần hành giả có sự chuyên cần nỗ lực và kiên trì, bền
chí, thì điều tất yếu là con đường đi đến giác ngộ sẽ mỗi ngày đều được
thu ngắn lại.
Khác hẳn với Đại sư Thần Tú, Đại sư Huệ Năng đã đến cùng Thiền tông với
tâm nhiệt thành và một tri thức hoàn toàn trống rỗng, nếu chúng ta hiểu
tri thức như là những kiến thức có được qua sự học hỏi, nghiên cứu. Tuy
nhiên, ngay khi được biết về Đại sư Huệ Năng, chúng ta đã thấy là ngài
tỏ ra có một trực giác cực kỳ bén nhạy. Khi ngài tình cờ được nghe người
khách lạ tụng kinh Kim Cang, dù chưa biết đó là kinh gì, cũng như trước
đó chưa từng có chút hiểu biết gì về Phật pháp, nhưng ngài đã ngay lập
tức trực nhận được ý kinh. Khả năng trực nhận của ngài xuyên qua những
giới hạn chuyển tải của ngôn ngữ, bởi ngài đã tiếp nhận những điều trong
kinh không bằng sự phân tích ngữ nghĩa thông thường như hầu hết chúng
ta, mà là thông qua trực giác bén nhạy để nắm bắt ngay những ý nghĩa
thuộc về phần tinh tuý, sâu xa nhất. Chính khả năng này đã giúp cho ngài
ngay trong lần đầu tiếp cận với kinh Kim Cang đã nhận ra ngay là tất cả
những ý nghĩa sâu kín nhất đều nằm trong bộ kinh này. Và chính vì thế mà
ngài đã quyết định lên đường tìm đến với người giảng kinh: Ngũ Tổ Hoằng
Nhẫn.
Suốt cuộc hành trình 30 ngày tìm đến huyện Hoàng Mai, chắc chắn trong
tâm ngài đã không ngừng tiếp tục suy xét về những gì đã nhận hiểu được
trong lần đầu nghe kinh Kim Cang. Vì thế mà ngay trong lần hội kiến đầu
tiên với Ngũ Tổ, ngài đã không bỏ lỡ cơ hội để nhờ Ngũ Tổ xác nhận lại
những gì đã nhận hiểu được. Vì thế, chúng ta mới nghe được mẩu đối thoại
cực kỳ mãnh liệt khi một vị đệ tử vừa mới đến tham vấn lần đầu tiên đã
đặt ngay ra những vấn đề thuộc về cốt tuỷ của Thiền tông, như “Phật tánh
bình đẳng, tự tâm thường sinh trí huệ, chẳng lìa tự tánh tức là ruộng
phước”...
Với những vấn đề liên tiếp và dồn dập đặt ra như thế, việc Ngũ Tổ nhận
ra ngay trí tuệ siêu phàm của ngài cũng là điều dễ hiểu. Và sự mặc nhiên
không quở trách của Ngũ Tổ chính là đã âm thầm ấn chứng cho sự nhận hiểu
của ngài Huệ Năng. Chính sự ấn chứng này đã là động lực giúp cho Huệ
Năng yên tâm đi xuống nhà bếp, làm công việc giã gạo, bửa củi trong 8
tháng sau đó để tiếp tục chiêm nghiệm về những chân lý vừa loé sáng
trong nội tâm của ngài. Để rồi sau đó, qua mẩu đối thoại ngắn ngủi giữa
hai người bên cối giã gạo trong nhà bếp, một lần nữa Ngũ Tổ lại xác nhận
cho những kết quả nội chứng của Huệ Năng trong thời gian qua là hoàn
toàn đúng hướng. Nhờ đó mà những kinh nghiệm tu chứng trong nội tâm của
ngài Huệ Năng mới có thể tiếp tục phát triển đến mức có thể được bộc lộ
ra qua bài kệ đối đáp với Đại sư Thần Tú như chúng ta đã biết.
Và đến lúc này thì Ngũ Tổ biết là Huệ Năng đã thực sự nhận hiểu được chỗ
tinh yếu của Thiền tông, nên ngay hôm sau đã gọi ngài vào thiền thất để
giảng kinh Kim Cang và truyền y bát. Chính lần giảng kinh duy nhất và
cuối cùng này đã phá vỡ tất cả những rào cản còn sót lại trong nội tâm
ngài Huệ Năng, khi ngài bừng ngộ và thốt ra những lời bày tỏ sự ngạc
nhiên trước chỗ thấy biết rốt ráo của chính mình:
“Ngờ đâu tự tánh vốn tự thanh tịnh!
Ngờ đâu tự tánh vốn chẳng sanh diệt!
Ngờ đâu tự tánh vốn tự đầy đủ!
Ngờ đâu tự tánh vốn chẳng lay động!
Ngờ đâu tự tánh sanh ra muôn pháp!”
Như vậy, ngài Huệ Năng đã nhận sự giáo hoá của Ngũ Tổ theo cách riêng
của mình, và cũng qua đó tạo ra một tiền lệ cho Nam tông Đốn giáo của
ngài về sau. Thiền Nam tông vì thế không truyền trao qua sự nghiên tầm
giáo điển, mà hướng thẳng đến phần cốt lõi tinh yếu nhất chỉ có thể trực
nhận qua kinh nghiệm tu chứng nội tâm. Trong Đàn Kinh có nói đến sự
truyền thừa của Nam tông lấy Đàn Kinh làm căn bản, nhưng điều đó hoàn
toàn không có nghĩa là các thiền sư phải học tập, nghiền ngẫm những ý
nghĩa trong Đàn Kinh. Điều đó chỉ có nghĩa là những ai chưa nắm hiểu
được những chỗ tinh yếu, cốt lõi trong Đàn Kinh – mà cũng là trong Thiền
tông – thì chưa thể xem là đã được truyền thừa.
Thật ra, chính trong Đàn Kinh cũng có nhắc đến sự phân biệt đốn, tiệm
của thời bấy giờ với sự nhấn mạnh quan điểm “pháp vô đốn tiệm”. Sự phân
ra đốn hay tiệm chỉ là do cách tiếp nhận của con người có nhanh, chậm
khác nhau. Vì thế, không thể cho rằng đốn và tiệm là 2 pháp khác nhau.
Thông thường, chúng ta tiếp cận và nhận biết về thực tại qua hai cách
khác nhau: trực tiếp và gián tiếp. Chẳng hạn, khi chúng ta nếm một múi
quít và nhận biết được những mùi vị của nó, đó là cách trực tiếp; còn
khi chúng ta thông qua sự mô tả bởi các từ ngữ như thơm, rất thơm, chua,
hơi chua, ngọt, rất ngọt.v.v... để nhận biết, đó là cách gián tiếp.
Trong thực tế, kinh nghiệm trực tiếp về thực tại của chúng ta không thể
bao trùm hết thảy mọi phạm vi đời sống. Vì thế, sự nhận biết thông qua
sự mô tả bằng ngôn ngữ là điều tất nhiên cần thiết. Chẳng hạn, chúng ta
không thể nếm biết hết tất cả các loại trái cây trên trái đất này, nên
tất yếu sẽ có rất nhiều loại ta chỉ được nghe nói hoặc đọc thấy qua sách
báo, và chỉ có thể biết về chúng qua cách gián tiếp như thế mà thôi.
Những kinh nghiệm sống được mã hoá qua kênh ngôn ngữ tạo ra điều kiện
thuận lợi để trao truyền vượt qua thời gian và không gian, chẳng hạn như
từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ địa phương này sang địa phương khác,
thông qua chữ viết. Và những kinh nghiệm sống được diễn đạt qua ngôn
ngữ, nhất là dưới hình thức chữ viết, tạo thành cái gọi là tri thức. Vì
thế, tri thức là những kinh nghiệm cụ thể có thể được truyền từ người
này sang người khác, từ nơi này sang nơi khác.
Ngược lại, những kinh nghiệm sống trực tiếp không bao giờ có thể được
truyền từ người này qua người khác. Nếu bạn muốn nhận biết trực tiếp về
hương vị trái sầu riêng của Nam bộ, bạn chỉ có một cách duy nhất là phải
nếm thử nó! Và điều quan trọng là, mọi sự mô tả bằng ngôn ngữ khi so
sánh với sự nhận biết trực tiếp này bao giờ cũng sẽ có một độ lệch nhất
định.
Dù muốn hay không, tất cả chúng ta vẫn luôn phải tiếp cận và nhận hiểu
thực tại qua cả hai phương thức trực tiếp và gián tiếp. Đơn giản chỉ là
vì chúng bổ sung cho nhau để giúp ta có được những hiểu biết và kinh
nghiệm sâu rộng nhất, tối ưu nhất về thực tại.
Kinh nghiệm trực tiếp là sự nhận biết chính xác nhất về thực tại, nhưng
giới hạn của nó là không thể bao trùm mọi khía cạnh của đời sống. Trong
khi đó, sự nhận biết gián tiếp thông qua tri thức bao giờ cũng có những
độ lệch nhất định, nhưng nó có thể giúp chúng ta mở rộng hiểu biết đến
hầu như tất cả mọi khía cạnh của đời sống.
Mặt khác, kinh nghiệm gián tiếp được chuyển tải qua ngôn ngữ, nên tất
yếu nó phải chịu sự quy định, giới hạn của ngôn ngữ. Khi sử dụng ngôn
ngữ để truyền đạt kinh nghiệm, chúng ta luôn phải chấp nhận những giới
hạn này ở một mức độ tương đối nào đó. Lấy ví dụ, để mô tả về màu sắc,
chúng ta chỉ có một số lượng giới hạn tên gọi các màu, nhưng trong thực
tại thì số lượng màu sắc khác nhau lại không có giới hạn. Vì thế, những
màu sắc gần giống nhau đến một mức độ nào đó sẽ có cùng một tên gọi như
nhau, vì sự phân biệt chính xác hơn thế nữa sẽ là vượt quá giới hạn diễn
đạt của ngôn ngữ.
Vấn đề chúng ta cần nhấn mạnh ở đây là, kinh nghiệm thiền chứng phải là
một kinh nghiệm trực tiếp. Nếu chúng ta dựa vào tri thức để mong đạt đến
sự chứng ngộ, điều đó sẽ mãi mãi không bao giờ xảy ra. Đây chính là ý
nghĩa trong lời nhận xét của Ngũ Tổ về bài kệ của ngài Thần Tú:
“Ông làm kệ này chưa thấy được bản tánh, chỉ đến ngoài cửa, chưa vào
được trong. Như đem chỗ hiểu biết ấy mà cầu đạo Vô thượng Bồ-đề thì
quyết chẳng thể được.”
Giới hạn của Tiệm giáo chính là ở điểm này. Trong khi việc nghiên tầm
giáo điển, tụng niệm kinh điển vẫn luôn mang đến cho chúng ta những lợi
ích nhất định, thì trong thực tế vẫn vĩnh viễn không bao giờ có thể mang
đến cho chúng ta kinh nghiệm chứng ngộ, trừ khi chúng ta nhận ra được
giới hạn đó và tự mình quay sang tiếp xúc một cách trực tiếp với thực
tại. Trường hợp của thiền sư Pháp Đạt là một ví dụ minh hoạ cụ thể cho
nhận xét này.
Thiền sư Pháp Đạt tụng kinh Pháp Hoa có đến 3.000 lượt, vẫn không đạt
ngộ. Khi gặp Lục Tổ Đại sư, được ngài chỉ cho chỗ pháp yếu liền tự nhiên
bừng ngộ. Chỗ pháp yếu đó vốn dĩ cũng không nằm ngoài kinh Pháp Hoa,
nhưng Pháp Đạt trước đó dù đã tụng kinh rất lâu vẫn không nắm hiểu được
là vì quá chấp chặt vào ngôn ngữ mà không tự mình trực nhận được chỗ
tinh yếu bằng vào kinh nghiệm tự thân. Vì thế, những chỉ dẫn của Lục Tổ
là cực kỳ quan trọng đối với ông lúc này:
“Nếu có thể ở nơi tướng lìa được tướng, ở nơi không lìa được không, tức
là trong ngoài đều chẳng mê. Nếu ngộ pháp ấy, trong một niệm tâm liền
khai mở. Đó là khai mở tri kiến Phật.”
Toàn bộ kinh Pháp Hoa cũng chỉ nhắm đến một việc duy nhất là khai mở tri
kiến Phật. Nhưng Pháp Đạt tụng niệm hơn 3.000 lượt vẫn không nhận ra!
Những chỉ dẫn của Lục Tổ sở dĩ có thể giúp ông bừng ngộ là vì nó không
nhằm giải thích thêm nữa, mà chỉ nhằm kéo ông trở về với thực tại để tự
mình có thể trực nhận được cái gọi là “tri kiến Phật”. Đó chính là ý
nghĩa của việc mà Lục Tổ gọi là “chuyển Pháp Hoa”, hoàn toàn trái ngược
với trước đó là “bị Pháp Hoa chuyển”.
Sự lệch hướng của Bắc tông về sau chính là ở chỗ họ đã chuyển sang dựa
vào sự tích luỹ tri thức để xem đó là sự nghiệp tu tập. Thật ra thì sự
nỗ lực công phu chuyên cần vốn dĩ là yếu tố cần thiết cho tất cả những
người tu tập, cho dù là theo tông phái nào. Nhưng nỗ lực chuyên cần tinh
tấn theo hướng nào thì đó mới chính là vấn đề tông chỉ của từng tông
phái.
Đại sư Thần Tú dạy người “thường siêng lau, siêng rửa”, nhưng lau rửa
như thế nào mới là vấn đề quyết định sự sai lầm hay đúng đắn. Nếu sự nỗ
lực chuyên cần đó là để thường xuyên duy trì chánh niệm, chánh định,
chánh tuệ, thì dù là Nam tông cũng không đi ra ngoài con đường đó.
Nhưng trong thực tế sự phát triển của Bắc tông Tiệm giáo đã ngày càng
chuyển dần sang khuynh hướng tích luỹ tri thức. Và đây chính là nguyên
nhân dẫn đến sự suy kiệt, mất dần sinh khí của họ. Trong khi đó, Nam
tông Đốn giáo kể từ sau ngài Huệ Năng đã nở rộ lên những Thần Hội, Hoài
Nhượng, Hành Tư, Huyền Giác... và rất nhiều bậc tông sư khác, ngày càng
phát triển rộng khắp cả đất nước Trung Hoa chứ không chỉ còn riêng ở
phương Nam nữa.
Vì thế, sự phân ra đốn, tiệm vốn chỉ là tuỳ theo căn cơ trí tuệ của
người đời, mà những sai lệch trong sự tu tập của hai tông Nam, Bắc vốn
cũng là do người tu tự tạo ra. Nếu không nắm hiểu được ý chỉ của thiền
Đốn giáo thì dù có xưng là Nam tông cũng không tránh khỏi sai lầm. Như
có thể nắm hiểu được ý chỉ thì dù là Bắc tông mà thực sự “đến được ngoài
cửa” như người xưa thì việc đạt đến chứng ngộ, bước hẳn “vào trong” hẳn
cũng không còn xa lắm! Do đó, nếu ai chỉ biết phân biệt theo tên gọi, tự
cho mình là Nam tông đích truyền, Lâm Tế chánh tông... cũng chưa hẳn đã
có thể thừa đương được những chỗ thâm mật, uyên áo của người xưa. Còn
nếu như nắm hiểu được ý chỉ của tông môn, thẳng đường tu tiến, thì dù có
gọi đó là tiệm hay đốn, Bắc hay Nam cũng chẳng do nơi đó mà có thể làm
thay đổi kết quả tu tập.