f. Hành trình về phương Nam
Huệ Năng đến chùa Đông Thiền được hơn 8 tháng, chỉ chuyên lo việc giã
gạo, bửa củi trong khuôn viên nhà bếp của chùa. Một hôm, Ngũ Tổ đi ngang
qua chỗ làm việc, chợt nhìn thấy Huệ Năng liền gọi đến bảo rằng:
“Ta thấy chỗ biết của ông có thể dùng được, nhưng e có kẻ xấu làm hại
ông, cho nên không nói chuyện, ông có biết hay không?”
Huệ Năng thưa: “Đệ tử biết ý thầy, nên chẳng dám ra phía trước, để người
khác đừng hay biết.”
Ngày kia, Ngũ Tổ gọi các môn đồ lại đông đủ mà dạy rằng:
“Các ông nghe ta bảo đây. Người đời sanh tử là việc lớn, các ông suốt
ngày chỉ lo việc cầu phước mà chẳng cầu ra khỏi biển khổ sanh tử. Tánh
mình nếu mê, phước nào cứu đặng? Các ông hãy lui ra, tự quan sát trí
tuệ, lấy tánh Bát-nhã nơi bản tâm mình, mỗi người làm một bài kệ đem
trình ta xem. Nếu ai ngộ đạo, ta sẽ truyền pháp và y cho làm Tổ thứ sáu.
Phải nhanh chóng lên, chẳng được chậm trễ. Nếu còn phải suy nghĩ là
chẳng phải chỗ dùng được. Nếu thật người thấy tánh, vừa nghe lời nói
liền phải thấy ngay. Người như vậy, cho dù có vung đao ra trận cũng vẫn
thấy biết.”
Đồ chúng nghe rồi lui ra, bảo nhau rằng: “Chúng ta chẳng cần phải lắng
lòng dụng ý viết kệ trình Hòa thượng làm chi. Thượng tọa Thần Tú hiện là
Giáo thọ, ắt là sẽ được. Bọn ta có làm kệ cũng chỉ uổng tâm lực mà
thôi!”
Rồi tất cả đều buông xuôi, tự nghĩ rằng: “Từ đây về sau, chúng ta chỉ
cần nương theo sư Thần Tú, còn phải phiền lòng làm kệ mà chi?”
Khi ấy, Thần Tú lại suy nghĩ rằng: “Mọi người chẳng làm kệ, vì ta đây
đối với họ là thầy Giáo thọ. Còn như ta lại cần phải làm kệ trình Hòa
thượng, vì nếu chẳng trình kệ thì Hòa thượng làm sao biết được chỗ hiểu
trong lòng ta sâu cạn thế nào? Ý ta trình kệ, nếu vì cầu Pháp tức là
việc tốt, nếu vì cầu ngôi Tổ tức là việc xấu, chẳng khác nào như kẻ phàm
phu muốn đoạt ngôi Thánh. Nhưng nếu không trình kệ, rốt cuộc lại chẳng
được Pháp. Thật là khó lắm, khó lắm thay!”
Trước phòng Ngũ Tổ có ba gian mái hiên, ngài định mời quan Cung phụng là
Lư Trân vẽ tranh minh hoạ kinh Lăng-già và biểu đồ truyền thừa năm vị Tổ
để lưu truyền. Thần Tú làm kệ xong, đã mấy lần muốn đem trình, nhưng cứ
lên đến trước thềm thì trong lòng hoảng hốt, mồ hôi ra khắp người, muốn
trình mà chẳng được. Trải qua 4 ngày, đến 13 lần như vậy, chẳng trình kệ
được! Thần Tú bèn suy nghĩ:
“Chi bằng viết vào vách dưới mái hiên, khiến cho Hòa thượng xem thấy.
Nếu Ngài bảo là hay, thì ta ra lễ bái, nhận là mình làm. Còn nếu Ngài
bảo là chẳng được, thì thật uổng công bao năm ở núi, nhận sự lễ bái của
người, còn tu hành gì nữa?”
Nghĩ sao làm vậy, canh ba đêm ấy chẳng cho ai biết, Thần Tú tự mình cầm
đèn đến viết bài kệ đã làm lên vách mái hiên phía nam để trình chỗ hiểu
biết trong tâm mình. Kệ rằng:
Thân là cây Bồ-đề,
Tâm như đài gương sáng.
Thường siêng lau siêng rửa,
Chớ để bám bụi nhơ.
Thần Tú viết kệ rồi lui về phòng, không ai hay biết. Lại suy nghĩ rằng:
“Ngày mai, Ngũ Tổ thấy kệ mà vui mừng, tức là ta có duyên với Pháp. Còn
nếu ngài bảo chẳng được, tức là ta ngu mê, nghiệp chướng còn nặng, chẳng
thể đắc Pháp. Ý Thánh thật khó lường!”
Thần Tú ở trong phòng trằn trọc suy tưởng mãi, nằm ngồi chẳng yên, cho
đến tận canh năm.
Sáng ra, Ngũ Tổ mời quan Cung phụng họ Lư đến chỗ vách tường mái hiên
phía nam để vẽ biểu đồ. Chợt thấy bài kệ ấy, liền nói rằng:
“Quan Cung phụng thôi chẳng cần vẽ nữa. Thật đã làm nhọc ngài từ xa đến
đây! Kinh dạy rằng: ‘Những gì có hình tướng đều là hư vọng.’ Vậy nên chỉ
cần lưu lại bài kệ này cho người trì tụng. Y theo kệ này tu khỏi đọa nẻo
ác, y theo kệ này tu, được lợi ích lớn.”
Nói rồi sai đệ tử đốt hương lễ kính, bảo mọi người đều nên tụng kệ này.
Mọi người tụng kệ đều khen ngợi: “Hay lắm thay!”
Khoảng canh ba, Ngũ Tổ gọi Thần Tú vào phòng, hỏi rằng:
“Bài kệ là của ông làm phải không?”
Thần Tú thưa: “Quả thật là Tú này làm, chẳng dám vọng cầu ngôi Tổ, chỉ
mong Hòa thượng từ bi xem coi có chút trí tuệ nào hay chăng?”
Ngũ Tổ nói: “Ông làm bài kệ này chưa thấy được bản tánh, chỉ như đến
ngoài cửa, chưa vào được trong. Như đem chỗ hiểu biết ấy mà cầu đạo Vô
thượng Bồ-đề thì quyết chẳng thể được. Vô thượng Bồ-đề vốn tự bản tâm,
thấy tự bản tánh, chẳng sanh chẳng diệt. Bất cứ lúc nào, niệm tưởng nào
cũng đều tự thấy biết, muôn pháp không ngăn ngại, một pháp chân thật thì
hết thảy pháp đều chân thật, muôn cảnh tự như như. Tâm như như đó tức là
chân thật. Nếu thấy biết được như vậy, tức là tự tánh Vô thượng Bồ-đề.
Ông nên lui về suy nghĩ trong một hai ngày nữa, làm một bài kệ khác
trình ta xem. Nếu kệ của ông vào được trong cửa, ta sẽ truyền pháp và
y.”
Thần Tú làm lễ lui ra. Lại qua vài ngày, làm kệ chẳng được, trong lòng
hoảng hốt, tâm thần chẳng yên, mơ màng như trong mộng, lúc đi lúc ngồi
đều chẳng được an vui.
Hai hôm sau, có một chú tiểu đi ngang qua chỗ giã gạo, tụng bài kệ của
Thần Tú. Ngài Huệ Năng vừa nghe qua, biết ngay bài kệ ấy chưa thấy được
bản tánh. Tuy ngài chưa hề được dạy dỗ giáo pháp, nhưng đã sớm nhận hiểu
được đại ý, liền hỏi chú tiểu ấy rằng: “Người tụng kệ gì vậy?”
Chú tiểu nói: “Gã mường mán này, thật không biết gì sao? Đại sư có nói:
Người đời sanh tử là việc lớn. Ngài muốn truyền pháp và y, nên dạy môn
đồ làm kệ trình. Nếu ai ngộ được đại ý, Ngài sẽ trao y và pháp, cho làm
Tổ thứ sáu. Thượng tọa Thần Tú viết bài kệ này trên vách tường hiên phía
nam. Đại sư bảo mọi người đều nên tụng, tu theo kệ ấy khỏi đọa nẻo ác,
tu theo kệ ấy, có lợi ích lớn.”
Ngài Huệ Năng liền nói: “Này chú! Tôi giã gạo nơi đây đã hơn tám tháng
rồi, chưa hề lên tới trước chùa. Mong được chú dẫn tôi tới trước bài kệ
đó để lễ bái.”
Chú tiểu liền dẫn ngài Huệ Năng đến chỗ trước bài kệ. Ngài nói: “Huệ
Năng không biết chữ, xin chú đọc giúp cho được nghe.”
Khi ấy, có quan Biệt giá Giang Châu là Trương Nhật Dụng đang đứng gần
đó, liền cao giọng đọc bài kệ lên. Ngài Huệ Năng nghe rồi liền nói: “Tôi
cũng có một bài kệ, mong quan Biệt giá viết giúp tôi.”
Quan Biệt giá nói: “Ông cũng làm được kệ sao? Thật là việc ít có!”
Ngài Huệ Năng liền bảo quan Biệt giá: “Muốn học đạo Vô thượng Bồ-đề,
chẳng nên khinh người mới học. Người thấp hèn có khi có trí tuệ cao
thượng, người cao thượng có khi không trí tuệ. Nếu khinh người thì mắc
tội không kể xiết!”
Quan Biệt giá nói: “Được rồi, ông chỉ việc đọc kệ đi, ta viết giúp cho.
Nếu ông đắc Pháp, nên tiếp độ ta trước, chớ quên lời.”
Ngài Huệ Năng liền đọc kệ rằng:
Bồ-đề vốn chẳng phải cây,
Gương sáng cũng chẳng phải đài.
Xưa nay vốn không một vật,
Chỗ nào bám được bụi nhơ?
Bài kệ được viết xong, đồ chúng đều kinh hãi, ai nấy sửng sốt bảo nhau
rằng: “Lạ thay! Thật là không thể lấy bề ngoài để xét đoán người! Sao
lâu nay chúng ta lại dám sai khiến vị Bồ Tát mang xác phàm này?”
Ngũ Tổ thấy mọi người kinh động, e có kẻ xấu ghen ghét làm hại Huệ Năng,
bèn lấy chiếc dép chà lên xóa ngay bài kệ đi và nói rằng: “Cũng chưa
thấy tánh.” Đồ chúng đều nghe vậy.
Hôm sau, Ngũ Tổ đến chỗ giã gạo, thấy Huệ Năng lưng đeo đá, giã gạo,
liền bảo rằng: “Người cầu đạo, vì pháp quên mình đến thế sao?” Rồi lại
hỏi: “Gạo đã trắng chưa?” Ngài Huệ Năng thưa: “Gạo trắng đã lâu, còn
thiếu người sàng gạo.” Ngũ Tổ liền dùng gậy gõ lên thành cối ba cái rồi
đi.
Ngài Huệ Năng hiểu ý Ngũ Tổ, chờ trống canh ba vừa điểm liền vào thất.
Ngũ Tổ lấy áo cà-sa che quanh, chẳng cho ai trông thấy, rồi giảng kinh
Kim Cang cho nghe. Đến câu “Nên sanh tâm từ chỗ không bám víu vào đâu
cả.” Huệ Năng vừa nghe liền đại ngộ, hiểu rằng hết thảy muôn pháp chẳng
rời tự tánh.
Ngài Huệ Năng khi ấy thưa với Ngũ Tổ rằng: “Thật không ngờ tự tánh vốn
tự thanh tịnh! Thật không ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt! Thật không
ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ! Thật không ngờ tự tánh vốn chẳng lay động!
Thật không ngờ tự tánh sanh ra muôn pháp!’
Ngũ Tổ biết là Huệ Năng đã ngộ bản tánh, liền bảo rằng: “Chẳng biết bản
tâm, học pháp vô ích. Nếu tự biết bản tâm, tự thấy bản tánh, tức là bậc
trượng phu, là thầy của hàng trời, người, là Phật.”
Ngài Huệ Năng thọ pháp vào canh ba, chẳng ai hay biết. Ngũ Tổ truyền
pháp Đốn giáo và y bát, dạy rằng: “Nay ông là Tổ đời thứ sáu, khéo tự
giữ gìn, rộng độ chúng sanh, lưu truyền đạo pháp cho đời sau, đừng để
dứt mất. Hãy nghe bài kệ này:
Tình khởi nên gieo giống,
Vòng nhân quả loanh quanh.
Không tình cũng không giống,
Không tánh cũng không sanh.”
Ngũ Tổ lại nói: “Thuở xưa, Đại sư Đạt-ma mới đến đất này, lòng người
chưa tin sâu vững nên truyền y này như vật làm tin, đời đời truyền nối.
Còn việc truyền pháp tất phải lấy tâm truyền tâm, khiến cho tự ngộ, tự
chứng. Từ xưa, chư Phật chỉ truyền bản thể, chư Tổ ngầm nối bản tâm. Y
bát là đầu mối sanh ra tranh đoạt, đến ông không nên truyền nữa. Nếu
truyền y này thì nguy đến tính mạng. Ông nên mau đi đi, kẻo có người làm
hại.”
Ngài Huệ Năng thưa hỏi: “Giờ con biết đi đâu?”
Ngũ Tổ đáp: “Gặp Hoài thì ngừng; gặp Hội thì ẩn.”
Ngài Huệ Năng nhận y bát đang lúc canh ba, thưa với Ngũ Tổ rằng:
“Huệ Năng người miền Nam, không thông thạo đường đi ở núi này, làm sao
ra được đến cửa sông?”
Tổ đáp: “Ông chẳng phải lo, ta tự đưa ông đi.”
Ngũ Tổ đưa ra đến tận bến Cửu Giang, bảo Huệ Năng lên thuyền, rồi tự cầm
chèo mà chèo đi. Huệ Năng thưa: “Xin Hòa thượng ngồi, để đệ tử chèo.”
Ngũ Tổ nói: “Ta nên độ ông sang sông.”
Huệ Năng thưa: “Khi mê thầy độ, ngộ rồi thì tự độ. Độ tuy là một tiếng,
mà chỗ dùng chẳng giống nhau. Huệ Năng sanh nơi biên địa, giọng nói
không chuẩn, được nhờ Thầy truyền pháp, nay đã ngộ rồi, chỉ nên tự độ.”
Ngũ Tổ nói: “Đúng vậy, đúng vậy! Pháp Phật từ nay về sau do ông mà rộng
truyền. Ông đi rồi, ba năm sau ta sẽ bỏ cõi thế. Ông đi may mắn, gắng
sức về phương Nam. Nên ẩn nhẫn, chớ vội vàng giảng pháp, pháp Phật sẽ
khó mà sanh khởi.”
Ngài Huệ Năng từ biệt Ngũ Tổ, rồi hướng về phương Nam mà đi. Bấy giờ là
vào năm đầu niên hiệu Long Sóc đời vua Đường Cao Tông, tức là năm Tân
Dậu (661).
Ngũ Tổ quay về, luôn mấy ngày chẳng lên giảng đường. Đồ chúng nghi hoặc,
thưa hỏi: “Chẳng hay Hòa thượng có bệnh hoạn, sầu não gì chăng?”
Ngũ Tổ đáp: “Bệnh thì không có bệnh, nhưng y pháp đã về phương Nam rồi.”
Chúng đệ tử lại hỏi: “Ai được truyền thọ?”
Ngũ Tổ đáp: “Năng được rồi.”
Lúc ấy đồ chúng mới biết. Liền có khoảng vài trăm người đuổi theo, muốn
cướp y bát. Trong số đó có một vị tăng tên Huệ Minh, họ Trần, trước đây
từng giữ chức quan võ hàng tứ phẩm, tánh tình thô bạo. Ông này cầm đầu
cả bọn, cố sức đuổi theo. Đuổi riết trong hai tháng, tới núi Đại Dữu thì
bắt kịp.
Lục Tổ khi ấy đặt y bát trên một hòn đá mà nói rằng: “Y bát này là vật
làm tin, há có thể dùng sức mà tranh đoạt được sao?”
Rồi Lục Tổ ẩn vào cỏ rậm. Huệ Minh đuổi tới, đưa tay lấy y bát, cố sức
nhấc lên không nổi, liền gọi lớn rằng: “Hành giả, hành giả! Tôi thật vì
pháp, chẳng phải vì y bát mà đến đây.”
Lục Tổ liền bước ra, lên ngồi trên tảng đá. Huệ Minh lễ bái, nói: “Mong
được ngài vì tôi mà thuyết pháp.”
Lục Tổ nói: “Nếu ông đã vì pháp mà đến đây, vậy nên dứt bỏ hết các
duyên, chớ sanh niệm tưởng, ta sẽ vì ông mà giảng pháp.”
Một lúc lâu sau, Lục Tổ mới nói: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, ngay
trong lúc ấy, mặt mũi xưa nay của Thượng tọa Minh là gì?”
Huệ Minh nghe qua liền bừng tỉnh, hiểu được ý chỉ. Lại hỏi: “Ngoài lời
kín đáo, ý bí mật đó, còn có bí mật nào khác nữa chăng?”
Lục Tổ đáp: “Đã nói ra với ông, tức chẳng phải bí mật. Nếu ông tự soi
xét lại mình, thì chỗ bí mật chính ở nơi ông.”
Huệ Minh thưa: “Tôi tuy theo học với Ngũ Tổ nhưng thật chưa từng nhận ra
mặt mũi của chính mình. Nay nhờ ngài chỉ dạy cho, như người uống nước,
nóng lạnh tự biết. Vậy ngài chính là thầy tôi vậy.”
Lục Tổ nói: “Nếu ông được như vậy, thì ta với ông cùng một thầy, nên
khéo tự giữ gìn.”
Huệ Minh lại hỏi: “Từ nay, Huệ Minh biết đi đâu?”
Lục Tổ đáp: “Đến Viên thì dừng, gặp Mông thì ở.” Huệ Minh lễ bái từ
biệt.