CHƯƠNG I
CITTA (TÂM VƯƠNG)
KỆ NHẬP ÐỀ
I. PÀLI VĂN.
- 1a) Sammàsambuddhamatulam Sasaddhammaganuttamam Abhivàdiya
bhàsissam Abhidhammatthasanghan.
II. THÍCH VĂN.
- Sammàsambuddha: Chánh đẳng giác:
Atula: Vô tỷ, không thể so sánh. Sasaddhamma: Với diệu pháp. Gana:
Chúng. Uttamam: Vô thượng. Abhivàdiya: Sau khi đảnh lễ. Bhàsissam: Tôi sẽ nói.
Abhidhammathasangaha: Tên quyển sách.
III. VIỆT VĂN.
- 1a) Sau khi đảnh lễ đấng Chánh đẳng
giác vô tỷ, Diệu pháp và vô thượng Tăng
chúng, tôi sẽ nói đến tập Abhidhammatthasangaha.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Abhidhamma nghĩa là Vô thượng pháp hay Thắng pháp. Attha nghĩa là
vật. Sangaha nghĩa là tập yếu. Dhamma ở đây
có nghĩa là giáo lý. Theo tập Atthasàlinì Abhi có nghĩa là Atireka,
cao hơn, lớn hơn hay Visittha, đặc biệt, thù
thắng. Abhidhamma nghĩa là thắng pháp vì pháp này giúp người tự giải
thoát, hay vì pháp này thù thắng hơn Kinh tạng và Luật tạng. Trong Kinh
tạng hay Luật tạng, đức Phật thường dùng
những danh từ Tục đế như người, loài
vật, hữu tình... Trong tạng Abhidhamma, mọi pháp đều được chia chẻ rất tỉ mỉ và các chữ
trừu tượng như năm uẩn, mười hai xứ được dùng.
Như vậy, vì giáo lý dạy rất đặc biệt, vì
giáo lý này đưa đến tự giải thoát, vì
phương pháp phân tích rất đặc biệt, nên
gọi là Abhidhamma.
BỐN THẮNG PHÁP
I. PÀLI VĂN.
-1b) Tattha vuttàbhidhammatthà catudhà paramatthato, Cittam cetasikam
rùpam nibbànamiti sabbathà.
II. THÍCH VĂN.
- Tattha: Ở đây. Vutta: Ðược nói đến. Abhidhammattha. Các vật, các pháp
thuộc Abhidhamma. Catudhà: Có 4 loại. Paramatthato: Theo Ðệ nhứt
nghĩa đế. Sabbathà: Tất cả.
III. VIỆT VĂN.
- 1b) Theo Ðệ nhứt nghĩa đế, các pháp
thuộc Abhidhamma có bốn tất cả: Tâm, Tâm sở, Sắc và Niết bàn.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Có hai sự thật (đế): Tục đế và
Ðệ
nhứt nghĩa đế, Tục đế (Sammuti-sacca) là
sự thật ngoài mặt, sự thật của thế tình. Còn Ðệ nhứt nghĩa đế
(Paramattha-sacca) là sự thật tuyệt đối. Ví dụ cái bàn chúng ta thấy là
tục đế. Theo đệ nhứt nghĩa đế, cái gọi là
cái bàn, sự thật gồm nhiều cơ năng và đặc tánh.
Cũng vậy, trong kinh tạng, đức Phật thường
dùng những danh từ thông thường như người đàn ông,
đàn bà, hữu tình, tự ngã... nhưng trong Abhidhamma, đức Phật dùng những danh từ rất đặc biệt, như Khandha (uẩn), Dhàtu
(giới), Àyatana (xứ)...
Chữ Paramattha có nhiều ý nghĩa trong Abhidhamma. Parama nghĩa là không
thay đổi (aviparìta), trừu tượng
(Nibbattita) Attha nghĩa là vật, pháp Paramattha nghĩa là những vật không
thay đổi, hay trừu tượng. Tuy dùng chữ
không thay đổi, nhưng đừng hiểu lầm là
những vật này trường cữu, thường còn. Một chậu bằng đồng không phải là một Paramattha, vì
nó luôn luôn thay đổi và có thể nấu
chảy và biến thành cái bình. Cái chậu và cái bình có thể phân tích và chia
chẻ thành những sức mạnh vật lý căn bản và
những đặc tánh. Sức mạnh và những đặc tánh ấy được gọi là Rùpaparamattha
trong Abhidhamma. Chúng cũng bị thay đổi,
nhưng đặc tánh của những sắc pháp này là giống nhau và được tìm thấy trong cái chậu cũng như
trong cái bình. Chúng gìn giữ đặc tánh của
chúng trong mọi sự kết hợp của chúng và vì vậy trong sớ giải,
Parama có nghĩa là không thay đổi hay thực
có. Attha ở đây có nghĩa là vật chớ không phải là ý nghĩa.
Có 4 Paramattha hay thực thể trừu tượng, bao trùm mọi vật nhập thế và
siêu thế. Như cái gọi là hữu tình thuộc về nhập thế. Còn Nibbàna thuộc
siêu thế. Loài hữu tình gồm có Nàma (Danh) và Rùpa (Sắc). Theo Abhidhamma,
Rùpa gồm cả những đơn vị căn bản của vật chất
và những thay đổi vật chất. Abhidhamma
kể đến 25 sắc pháp. Nàma gồm cả Tâm và Tâm sở.
Theo Abhidhamma, cái gọi là hữu tình gồm có năm
uẩn (khandha): Rùpa (sắc), Vedanà (thọ), Sannà (tưởng), Sankhàrà
(hành) và Vinnàna (thức).
Tâm, Tâm sở (trừ 8 Siêu thế tâm và những Tâm sở câu hữu) và Sắc thuộc
nhập thế (Lokiya), và Nibbàna thuộc Siêu thế (Lokuttara). Niết bàn là thực
thế cứu cánh, độc nhất. Ba pháp còn
lại được gọi là thực thể vì chúng là
những vật hiện hữu (Vijjamàna dhammà). Ngoài ra, chúng không thể chia nhỏ,
không thay đổi và trừu tượng.
Paramattha thứ nhất là Citta, từ ngữ căn
Cit là suy nghĩ. Theo sớ giải, Citta có nghĩa là nhận thức sự hiện
hữu của đối tượng (cinteti: vijànàti).
Ðây không có nghĩa có người nghĩ đến đối
tượng. Theo nghĩa của Abhidhamma, Citta nên định nghĩa là sự nhận thức có mặt của
một đối tượng, vì không có nghĩa có
một linh hồn suy nghĩ.
Citta, Ceta, Cittuppàda, Nàma, Mana Vinnàna đều là những chữ đồng nghĩa theo Abhidhamma, không có sự phân
biệt giữa Citta và Vinnàna (tâm và Thức). Khi cái gọi là vật hữu
tình được chia thành hai phần, thời
dùng chữ Nàma (Danh). Khi chia thành năm uẩn,
thời chữ Vinnàna (Thức) được dùng.
BỐN LOẠI TÂM
I. - PÀLI VĂN.
- 2) Tattha cittam tàva catubbidham kàmàvacaram, rùpàvacaram,
arùpàvacaram, lokuttaranceti.
II. THÍCH VĂN.
- Tattha: Ở đây. Catubbidham hoti: Có
bốn loại. Kàmàvacaram: Dục giới. Rùpàvacaram: Sắc giới.
Arùpàvacaram: Vô sắc giới. Lokuttaram: Siêu thế giới.
III. VIỆT VĂN.
- 2) Ở đây, có 4 loại tâm: Dục giới, Sắc
giới, Vô sắc giới và Siêu thế giới.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Kàmà: Dục, hoặc là ái dục hay là những
đối tượng của ái dục như sắc, thanh, hương, vị, xúc. Avacara: nghĩa là
lãnh vực địa giới hoạt động. Những tâm vương
khởi lên hệ thuộc với các văn và đối tượng của chúng nên gọi là Dục
giới tâm. Sắc giới tâm là những tâm từ đệ
nhứt thiền đến đệ ngũ thiền ở cõi Sắc giới. Sở dĩ gọi là Sắc giới
tâm vì tâm này khởi lên do dùng các sắc pháp
để tu thiền định. Vô sắc giới tâm là những tâm từ đệ nhứt thiền đến đệ tứ thiền ở cõi Vô
sắc giới. Sở dĩ gọi là Vô sắc giới vì tâm này khởi lên do dùng Vô sắc pháp để tu thiền định. Loka uttara: Lokuttara,
nghĩa là Siêu thế, ra ngoài sự hạn cuộc của dục giới, sắc giới và
vô sắc giới. Do quán tưởng ba pháp ấn vô thường, khổ, vô ngã, chứng được các thánh vị, không còn là phàm
phu nữa nên gọi là siêu thế, ra ngoài sự hạn cuộc của dục giới, sắc giới,
và vô sắc giới.
Theo Pàli Abhidhamma, có tất cả là 89 Tâm vương, 54 Dục giới tâm, 15
Sắc giới tâm, 12 Vô sắc giới tâm và 8 Siêu thế tâm.
BẤT THIỆN TÂM
I. PÀLA VĂN.
- 3) Tattha katamam kàmàvacaram? Somanassasahagatam
ditthigatasampayuttam asankhàrikamekam, sasankhàtikamekam.
Somanassasahagatam ditthigatavippayuttam asankhàrikamekam
sasankhàrikamekam. Upekkhàsahagatam ditthigatasampayuttam
asankhàrikamekam, sasankhàrikamekam. Upekkhàsahagatam
ditthigatavippayuttam asankhàrikamekam, sasankhàrikamekam ti. Imàni
attha pi lobhasahagatàni cittàni nàma.
II. THÍCH VĂN.
- Katamam: Có bao nhiêu. Somanassasahagatam: Câu hữu với hỷ.
Ditthigatasampayuttam: Tương ưng với tà kiến. Sasankhàrikamekam: Không
cần nhắc bảo: Sasankhàrikamekam: Cần được
nhắc bảo. Ditthigatavippayuttam: Không tương ưng với tà kiến.
Upekkhàsahagatam: Câu hữu với xả. Imàni: Những tâm này Attha: Tám
Lobhasahagatàni cittàni nàma: Gọi là những tâm câu hữu với tham.
III. VIỆT VĂN.
- 3) Ở đây có bao nhiêu Dục giới
tâm? Một tâm câu hữu với hỷ, tương ưng với tà kiến, không cần nhắc bảo,
một tâm cần được nhắc bảo. Một tâm câu hữu
với hỷ không tương ưng với tà kiến, không cần nhắc bảo, một tâm
cần được nhắc bảo. Một tâm câu hữu với xả,
tương ưng với tà kiến, không cần nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo. Tám tâm này gọi là
tâm câu hữu với tham.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Trong 89 Dục giới tâm, có 12 bất thiện tâm chia thành 8 tâm câu hữu
với tham, hai tâm câu hữu với sân, hai tâm câu hữu với si. Trước hết là 8
tâm câu hữu với tham.
Tâm đầu là tâm câu hữu với hỷ,
tương ưng với tà kiến, không cần nhắc bảo. Khi một người làm một việc bất
thiện một cách thích thú, thì tâm người ấy câu hữu với hỷ
(somanassasahagatam), nếu làm một cách thản nhiên thời câu hữu với xả
(Upekkhàsahagatam). Có người nghĩ rằng giết sanh vật để cúng tế, cướp bóc giết hại những người
không đồng với tín ngưỡng của mình là những việc phải, việc thiện,
thời tâm của người ấy tương ưng với tà kiến (ditthigatasampayattam). Trái
lại, không có những tà kiến ấy gọi là Ditthigatavippayuttam. Có người làm
việc ác một cách tự nhiên, mau lẹ không cần người khuyến khích xui giục,
thời tâm ấy gọi là Asankhàrikam (không cần nhắc bảo). Nếu cần người xui
giục khuyên bảo mới làm thì gọi là sasankhàrikam.
Trong chương trước, tâm chia thành bốn tùy theo cảnh giới, như Dục giới
tâm, Sắc giới tâm, Vô sắc giới tâm và Siêu thế tâm. Tâm cũng có thể chia
làm 4 loại tùy theo tánh cách của chúng, như Akusala (bất thiện), Kusala
(thiện), Vipàka (dị thục) và Kiriyà (duy tác). Sở dĩ gọi là Bất thiện vì
chúng phát sanh từ Lobha (tham) Dosa (sân) và Moha (si). Trái với bất
thiện tâm là Thiên tâm (Kusala) vì chúng phát sanh từ Alobha (vô tham),
Adosa (vô sân) và Amoha (vô si). Nhưng Bất thiện tâm và thiện tâm thuộc về
Kamma (nghiệp) và kết quả Dị thục của những tâm này gọi là Vipàka (Dị thục
tâm). Cả Kamma và Vipàka thuộc về ý. Còn tâm Kiriyà (Duy tác) là tâm của
vị A la hán, tuy có hành động nhưng không có
kết quả dị thục vì đã diệt trừ
sanh tử.
HAI SÂN TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 4) Domanassasahagatam patighasampayuttam asankhàrikamekam,
sasànkhàrikamekamekam ti imàni dvepi patighacittàni nàma.
II. THÍCH VĂN.
- Domanassasahagatam: Câu hữu với ưu Patighasampayuttam: Tương ưng
với hận. Asankhàrikam: Không cần nhắc bảo: Sasankhàrikamekam: Một tâm
cần được nhắc bảo. Dve: Hai. Patighacittàni:
Những hận tâm.
III. VIỆT VĂN.
- 4) Một tâm câu hữu với ưu, tương ưng với hận, không cần nhắc bảo,
một tâm cần được nhắc bảo. Hai tâm này
gọi là tâm cân hữu với hận.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Khi một vật khiến ta không ưa thích hoặc trở ngại sự thực hiện ý muốn
của mình, chúng ta bắt đầu ghét vật ấy. Dần
dần sự ghét ấy tăng lên một mức độ đến
nỗi chỉ nghĩ đến vật ấy cũng khiến ta tức tối, chán ghét. Tâm trạng như
vậy gọi là Domanassa. Domanassa thúc dục kích thích chúng ta muốn
tiêu diệt, công phá vật ta chán bỏ, sự kích thích ấy gọi là Patigha hay
hận. Tâm ấy là asankhàrika, nếu trong khi giận dữ, một người làm một tội
ác không gì ngần ngại, không cần người xui giục khuyên bảo. Tâm ấy là
sasankhàrika nếu có ngần ngại, cần có người xui giục sai bảo mới làm.
Trong 2 tâm này, lẽ dĩ nhiên không có somanassa (hỷ), hay upekkhà (xả),
cũng không tương ưng với tà kiến vì khi quá tức giận, không còn thì giờ mà
suy nghĩ phải với trái nữa.
Lobha, dosa, và moha là ba bất
thiện căn.
Lobha từ ngữ căn Lubh nghĩa là nắm giữ, ôm ấp. Dosa từ ngữ căn
Dus nghĩa là không bằng lòng. Patigha, Pati: nghĩa là đối, Gha
(han) có nghĩa là đánh chạm nhau. Moha từ ngữ căn Muh nghĩa là
mê lầm. Theo Abhidhamma, Moha có mặt trong tất cả bất thiện tâm.
Lobha và
Dosa không khởi ra một mình mà phải có Moha. Moha có thể khởi một
mình và được gọi là Momùha.
Somanassa: Su là tốt, thiện. Mana: ý, nghĩa là thiện ý, hoan hỷ.
Upekkhà: Upa là ngang, không thiên lệch; Ikkh: là thấy không thiên về hỷ
và ưu, đứng ở giữa nên có nghĩa là xả.
Ditthi từ ngữ căn dis nghĩa là thấy,
nhận thức. Sankhàrika từ chữ san nghĩa là tốt và kar nghĩa là làm. Trong
Abhidhamma, chữ Sankhàra có nhiều nghĩa, phải hiểu và phân biệt cho rõ
ràng. Dùng với 5 uẩn, Sankhàra là hành uẩn, nghĩa là các tâm sở trừ thọ và
tưởng. Dùng với mười hai nhân duyên, Sankhàra có nghĩa là mọi hành động cố ý, thiện hay ác. Sankhàra cũng
có nghĩa là thay đổi, biến dịch và
dùng chỉ cho các pháp hữu vi. Ở đây, Sankhàra
có nghĩa là khuyến khích, sai bảo.
HAI SI TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 5) Upekkhàsahagatam vicikicchàsampayuttamekam, upekkhàsahagatam
uddhaccasampayuttamekam ti dve pi momùhacittàni nàma. Iccevam sabbathà
pi dvàdasàkusalacittàni samattàni.
II. THÍCH VĂN.
- Vicikicchàsampayuttam: Tương ưng với nghi. Ekam: Một.
Uddhaccasampayuttam: Tương ưng với trạo cử. Momùhacittàni: Những si tâm.
Iccevam: Iti + Evam: Là như vậy. Dvàdasa: 12. Sabbathà:Toàn mọi phương
diện. Akusalacittàni: Những tâm bất thiện. Samattàni: Tất cả.
III. VIỆT VĂN.
- 5) Một tâm câu hữu với xả, tương ưng với nghi. Một tâm câu hữu với
xả, tương ưng với trạo cử. Như vậy hai tâm này được gọi là si tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Moha: Si, là một điều kiện tất yếu đối
với các bất thiện pháp. Lobha và Dosa (tham, sân) không thể khởi
lên nếu không có Moha (si). Nhưng nếu chỉ có Moha thôi, thời khiến cho tâm
trí bị mê mờ. Nên tâm ấy được gọi là
"Momùhacitta. Một tâm trí như vậy khó mà hiểu sự vật rất rõ ràng, có nhiều
nghi ngờ, nên gọi là vicikacchàsampayuttam. Một si tâm cũng không thể
chuyên nhất trên một đối tượng nào.
Tâm ấy xao động, nếu xao động mạnh thì
gọi là Uddhaccasampayuttam: tương ưng với trạo cử. Hai tâm này không thể
có Somanassa (hỷ) hay Domanassa (Ưu). Chúng tương ưng với Upekkhà (xả).
Nghi và trạo cử khởi lên do mê mờ, không thể tự dụng ý tạo lên được, vì mê mờ và hiểu biết tương
phản. Lại không thể có ai xui giục để nghi
ngờ và trạo cử nên không có asankhàrika và sasankhàrika.
Vickicchà: theo luận sớ có 2 nghĩa: 1) Vici: Vicinanto là tìm hiểu, điều tra + Kiccchati nghĩa là mệt mỏi,
phật ý. Phật ý do suy tư, phân vân. 2) Vi: Không có + Cikicchà: phương
thuốc của trí tuệ. Vicikicchà nghĩa là không có phương thuốc của trí tuệ.
Uddhacca: U nghĩa cùng khắp + Dhu nghĩa là rung động. Tâm trạng của con người bị xúc động quá
mạnh.
Kusala có những nghĩa như sau:
1. Ku: bất thiện + Sa: làm cho rung
động. Kusala là diệt trừ điều bất
thiện.
2. Kusa: Ku: bất thiện + Sa: nói láo + La: cắt, chặt. Nghĩa là cắt
diệt những gì nói láo một cách đê
hèn.
3. Ku: bất thiện + Su: làm cho tiêu tan. Cái làm diệt trừ bất thiện
là Kusa hay trí tuệ. La: cắt. Cái gì cắt
đứt bất thiện với trí tuệ, được gọi là Kusala.
4. Kusa là một loại cỏ. Loại cỏ này cắt bàn tay với hai khía lá sắc
bén. Cũng vậy Kusala cắt các phiền não.
TỔNG KẾT 12 BẤT THIỆN TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 6) Atthadhà lobhamùlàni, dosamùlàni ca dvidhà mohamùlàni ca dvéti,
dvàdasàkusalà siyum.
II. THÍCH VĂN.
- Atthadhà: Có 8 loại. Lobhamùlàni: Tham căn.
Dosamùlàni: Sân căn. Ca: Và.
Dvidhà: Có hai loại. Akusalà: Bất thiện. Siyum: (từ động từ Asa): Chúng có thể có.
III. VIỆT VĂN.
- 6) Tham căn có tám, sân căn có hai và
si căn cũng có hai. Như vậy Bất thiện tâm
có 12.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Ðây là bài kệ tóm tắt đoạn trên,
kê rõ có tất cả là tám tham tâm, hai sân tâm và hai si tâm, tổng cộng có
12 Bất thiện tâm.
18 VÔ NHÂN TÂM: 7 BẤT THIỆN DỊ THỤC TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 7) Upekkhàsahagatam cakkhuvinnànam, tathà sotavinnànam,
ghànavinnànam, jivhàvinnànam, dukkhasahagatam kàyavinnànam,
upekkhàsahagatam sampaticchanacittam, upekkhàsahagatam
santìranacittanceti. Imàni satta pi akusalavipàkàhetukacittàni nàma.
II. THÍCH VĂN.
- Cakkhuvinnànam: Nhãn thức. Tathà: Cũng như vậy. Sotavinnànam: Nhĩ
thức. Ghànavinnànam: Tỷ thức. Jivhàvinnànam: Thiệt thức.
Dukkhasahagatam: Câu hữu với khổ. Kàyàvinnànam: Thân thức.
Sampaticchanacittam: Tiếp thọ tâm. Santìranacitam: Suy đạc tâm. Imàni satta: Bảy (tâm) này.
Akusalavipàka: Bất thiện dị thục. Ahetuka: Vô nhân.
III. VIỆT VĂN.
- 7) Nhãn thức câu hữu với xả, cũng vậy nhĩ thức, tỷ thức, thiệt
thức, thân thức câu hữu với khổ, tiếp thọ tâm câu hữu với xả, suy đạc tâm câu hữu với xả. Bảy tâm này
gọi là Bất thiện dị thục vô nhân tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Một tâm yếu ớt không thể có một trong 6 nhân sau đây: Tham, Sân, si, vô tham, vô sân, vô si. Nên
những tâm ấy gọi là Ahetukacitta (vô nhân tâm). Có tất cả là 18 vô nhân
tâm: 15 dị thục tâm và 3 duy tác tâm. 15 dị thục tâm lại chia làm hai: 7
Bất thiện dị thục tâm và 8 Thiện dị thục tâm.
Nay nói đến 7 Bất thiện dị thục
tâm. Khi
chúng ta thọ lãnh một sự kích thích, một cảm giác sẽ khởi ra trong
nội tâm. Nếu thuộc về sự thấy, thời giảm giác ấy là nhãn thức
(cakkhuvinnàna). Nếu thuộc về sự nghe thì cảm giác ấy gọi là nhĩ
thức
(Sotavinnàna). Nếu thuộc về ngửi thì gọi là tỷ thức
(Ghànavinnàna). Nếu
thuộc về nếm thì gọi là thiệt thức (Jivhàvinnàna). Nếu thuộc về
cảm xúc
thì gọi là thân thức (Kàyavinnàna). Sau khi cảm giác khởi lên, tâm
thọ
lãnh vật kích thích ở ngoài như là một đối
tượng. Tâm ấy gọi là Tiếp thọ tâm (Sampaticchana); sau khi lãnh
thọ, tâm ấy bắt đầu tìm hiểu, điều tra đối tượng nên gọi là Suy
đạc tâm (Santìrana). Những hành động thiện ác trong đời trước đem đến
kết quả
lạc khổ trong hiện tại, lạc khổ thuộc vô ký tánh nên biến dị mà
thục gọi là dị thục (Vipàka). Lại nhơn và quả cách một đời, ở nơi
dị thời mà thục nên gọi là
dị thục. Do những nghiệp thiện ác đời trước,
tùy theo sức mạnh và tánh chất của các nghiệp nên đời nay sinh ra
đã có những tánh tình
như thế nào. Bảy tâm kể trên không câu hữu với Somanassa (Hỷ) hay
Domanassa (Ưu) vì chúng quá yếu ớt và muội lược, nên chỉ có thể
câu hữu
với Upekkhà (Xả). Tuy vậy, Kàyavinnàna (Thân thức) lại câu hữu với
Dukkha
(Khổ) vì thân thức cảm xúc mạnh hơn. Do tạo các ác nghiệp đời
trước, nên thọ quả hiện tại là
khổ.
5 Bất thiện dị thục thức với 5 Thiện dị thục thức này thường được dùng danh từ Dvipancavinnàna. Hai
Sampaticchana và Pancadvàràvajjana được gọi là
Manodhàtu (ý giới). Các tâm khác được gọi là
Manovinnànadhàtu (y thức giới).
TÁM THIỆN DỊ THỤC TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 8) Upekkhà-sahagatam cakkhuvinnànam, tathà sotavinnànam,
ghànavinnànam, jivhàvinnànam, sukhasahagatam kàyavinnànam,
upekkhàsahagatam sampaticchanacittam, somanassasahagatam
santìranacittam, upekkhàsahagatam santìranacittam citi imàni attha pi
kusalavipàkàhetukacittàni nàma.
II. THÍCH VĂN.
- Sukhasahagatam: Câu hữu với lạc. Attha: Tám.
Kusalavipàkàhetukacittàni: Những thiện dị thục vô nhân tâm.
III. VIỆT VĂN.
- 8) Nhãn thức câu hữu với xả, cũng vậy nhĩ thức, tỷ thức, thiệt
thức, thân thức câu hữu với lạc, tiếp thọ tâm câu hữu với xả, suy đạc tâm câu hữu với hỷ, suy đạc tâm câu hữu
với xả. Tám tâm này gọi là Thiện dị thục vô nhân tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Ðoạn này giống với đoạn trên, số
7, chỉ khác là về thân thức, câu hữu với lạc, và có thêm một tâm là suy đạc tâm câu hữu với hỷ.
BA VÔ NHÂN DUY TÁC TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 9) Upekkhàsahagatam pancadvàràvajjanacittam,tathà
manodvàràvajjanacittam, somanassasahagatam hasituppàdacittam ceti imàni
tìni pi ahetukakriyàcittàni nàma. Iccevam sabbathà pi
atthàrasàhetukacittàni samattàni.
II. THÍCH VĂN.
- Pancadvàràvajjanacittam: Ngũ môn hướng tâm. Manodvàràvajjanacittam:
Ý môn hướng tâm. Hasituppàdacittam: Tiếu sanh tâm. Imàni: Những tâm này.
Tìni: Ba. Ahetukakriyàcittàni: Vô nhân duy tác tâm. Nàma: Gọi là.
Iccevam: Iti + evam: như vậy. Sabbathà pi: Tổng cộng tất cả.
Attharasàhetukacittàni: 18 Vô nhân tâm. Samattàni: Tất cả.
III. VIỆT VĂN.
- 9) Câu hữu với xả, ngũ môn hướng tâm; cũng vậy, ý môn hướng tâm;
câu hữu với hỷ, tiếu sanh tâm. Ba tâm này gọi là Vô nhân duy tác tâm.
Như vậy, tổng cộng có tất cả là 18 Vô nhân tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Kriyà nghĩa là duy tác, chỉ có hành động
chớ không có quả dị thục. Hai tâm pancadvàràvajjanacitta và
Manodvàràvajjanacitta chỉ là những khuynh hướng máy móc của tâm, khi một
kích thích được nhận lãnh ở ngoài hay
một tư tưởng được thâu nhận từ bên
trong. Chúng vừa là Ahetuka (vô nhân) vừa là Kriyà (duy tác), vì không thể
gieo quả. Hasituppàda, nụ cười của vị A la hán cũng Ahetuka và Kriyà (vô
nhân và Duy Tác).
Muốn hiểu các vô nhân tâm, cần phải hiểu lộ trình của tâm. Khi năm
căn xúc chạm với 5 trần, thời lộ trình của tâm ngang qua 5 căn
khởi lên. Khi ý căn xúc phạm với pháp
trần thời lộ trình của tâm ngang qua ý căn
khởi lên.
Lộ trình của tâm ngang qua năm căn có thể
dùng ví dụ sau đây để diễn tả. Một
người nằm ngủ dưới gốc cây xoài. Một trái xoài rơi xuống và lăn
đến bên mình người ấy. Người ấy giựt mình ngồi dậy và tìm biết cái
gì để làm mình giựt mình thức giấc.
Người này thấy trái xoài, lượm lên, ngửi và xem xét trái xoài, khi được biết trái xoài đã chín, người ấy ăn trái xoài.
1. "Người ấy đang ngủ" chỉ cho trạng thái
thụ động của tâm thức, trôi chảy không có gì làm xao động. Trạng thái này gọi là Bhavanga,
hữu phần hay tiềm thức.
2. "Ngồi dậy và tìm biết cái gì đã
làm mình thức giấc" chỉ cho trạng thái muội lược của tâm thức khi tâm thức đang tìm xem ngoại trần kích thích
mình thuộc về mắt, tai, mũi, lưỡi hay thân. Tâm này gọi là
Pancadvàràvajjana hay ngũ môn hướng tâm.
3. "Thấy trái xoài" chỉ cho sự sanh khởi của thức, hoặc thuộc con mắt,
hoặc 4 căn khác. Thức này hoàn toàn
thuần túy, không có một suy tư gì. Nếu thuộc con mắt thì gọi là
Cakkhuvinnàna (nhãn thức), nếu thuộc tai thì gọi là Sotavinnàna (nhĩ
thức), nếu thuộc mũi thì gọi là Ghànavinnàna (tỷ thức), nếu thuộc lưỡi thì
gọi là Jivhàvinnàna (thiệt thức), nếu thuộc thân thì gọi là Kàyavinnàna
(thân thức).
4. "Lượm trái xoài" chỉ cho trạng thái của tâm thức, lãnh thọ sự kích
thích của một ngoại vật. Tâm này gọi là Sampaticchana (tiếp thọ tâm).
"Ngửi và tìm xem trái xoài" chỉ
cho trạng thái của tâm thức suy nghĩ đối tượng và tìm hiểu đối tượng với
những kinh nghiệm quá khứ của mình.
Tâm này gọi là Santìrana hay Suy đạc tâm.
6. "Xác định trái xoài đã chín và tốt" chỉ cho tâm thức xác định vị trí của đối tượng theo sự hiểu biết
của mình. Tâm này gọi là Votthapana hay Xác định tâm.
7. "Ăn trái xoài" chỉ cho tâm thức
xử sự với đối tượng. Ðây là trạng thái
tâm thức quan trọng nhứt và được gọi là
Javana hay tốc hành tâm.
Nếu là lộ trình của tâm ngang qua ý thức (Manodvàravìthi), thời đối tượng không phải từ ngoài mà chính
tự nội tâm. Lộ trình này bắt đầu từ Manodvàràvajjana
(ý môn hướng tâm) tương đương với Votthapana
(xác định tâm).
Với ví dụ này, chúng ta thấy rõ ý nghĩa và vị trí các tâm như nhãn
thức, tiếp thọ tâm, suy đạc tâm, ngũ môn
hướng tâm và ý môn hướng tâm.
TOÁT YẾU
I. PÀLI VĂN.
- 10) Sattàkusalapàkàni punnàpàkàni atthadhà, kriyàcittàni tìnìti
attharasa ahetukà.
II. THÍCH VĂN.
- Satta: Bảy. Akusala: Bất thiện. Pàkàni: Dị thục. Punna: Thiện.
Atthadhà: Có tám. Tìni: Ba. Attharasa: 18.
III. VIỆT VĂN.
- 10) Bất thiện dị thục có bảy; thiện dị thục có tám; duy tác tâm có
ba; như vậy có 18 vô nhân tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Câu kệ này tóm tắt 18 loại vô nhân tâm. Bảy bất thiện dị thục tâm, 8
thiện dị thục tâm, 3 duy tác tâm, tổng cộng là 18 vô nhân tâm.
CÁC TỊNH QUAN TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 11) Pàpàhetukamuttàni sobhanànì ti vuccare. Ekùnasatthi cittàni
athekanavuti pi và.
II. THÍCH VĂN.
- Pàpa: Bất thiện tâm. Ahetuka: Vô nhân tâm. Muttàni: Trừ. Sobhanàni:
Tịnh quang. Vuccare: Gọi là. Ekùnasatthi: 9. Ekanavuti: 91. Và: Hay là.
Atha: Chữ đệm.
III. VIỆT VĂN.
- 11) Trừ bất thiện tâm và vô nhân tâm, các tâm còn lại gọi là tịnh
quang tâm. Có tất cả là 59 tịnh quang tâm hay 91 tịnh quang tâm.
VI. THÍCH NGHĨA.
- 12) Bất thiện tâm là thối hóa. 18 vô nhân tâm là lưng chừng. Chỉ có
tác Tịnh quang tâm (Sobhana) là tấn hóa, nên gọi tâm này là Sobhana. Có
hai cách tính. 24 Tịnh quang tâm thuộc Dục giới, 15 tâm thuộc Sắc giới, 12
tâm thuộc Vô sắc giới và 8 tâm thuộc Siêu thế giới, cộng là 59 Tịnh Quang
tâm. Nếu lấy 8 tâm thuộc Siêu thế giới nhân với 5 cõi thiền thành 40 tâm
thuộc Siêu thế giới (lokuttara). 24 tâm thuộc Dục giới cộng với 15 tâm
thuộc Sắc giới, 12 tâm thuộc Vô sắc giới với 40 tâm thuộc Siêu thế giới
thành có tất cả là 91 Tịnh Quang tâm (Sobhana).
TÁM DỤC GIỚI TỊNH QUANG THIỆN TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 12) Somanassasahagatam nànasampayuttam asankhàrikamekam,
sasankhàrikamekam. Somanassasahagatam nànavippayuttam asankhàrikamekam
sasankhàrikamekam. Upekkhàsahagatam nànasampayuttam asankhàrikamekam
sasankhàrikamekam. Upekkhàsahgagatam nànavippayuttam asankhàrikamekam
sasankhàrikamekam ti imàni attha pi kàmàvacarakusalacittàni nàma.
II. THÍCH VĂN.
- Nànasampayuttam: Tương ứng với trí. Nànavippayuttam: Không tương
ứng với trí.
III. VIỆT VĂN.
- 12) Một tâm câu hữu với hỷ, tương ứng với trí, không cần nhắc bảo,
một tâm cần được nhắc bảo. Một tâm câu hữu
với hỷ, không tương ứng với trí, không cần nhắc bảo, một tâm cần được
nhắc bảo. Một tâm câu hữu với xả, tương ứng với trí, không cần nhắc bảo,
một tâm cần được nhắc bảo. Một tâm câu hữu với xả, không tương ứng với
trí, không cần nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo. Tám tâm này
gọi là Dục giới thiện tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Các Sobhanacitta về Dục giới có
tất cả là 24: 8 Kusalacittàni (Thiện
tâm), 8 Vipàkacittàni (Dị thục tâm), 8 Kriyàcittàni (Duy tác tâm).
Các
Sobhanacitta này gọi là sahetuka, có nhân, trái với các ahetuka
(Vô nhân)
trong chương trước. Trong 24 kàmàvàcara sobhanacittas, 12 tâm
tương ứng
với vô tham, vô sân, và vô si, 12 tâm tương ứng với vô tham và vô
sân.
Những hành động thiện thông thường là
do 8 tâm kusalacitta này tạo ra. Nếu làm điều
thiện với tâm hoan hỷ thời câu hữu với hỷ. Nếu làm không hoan hỷ
thời câu hữu với xả. Nếu làm với sự hiểu biết là điều phải thời
tương ứng với trí. Nếu làm điều thiện mà không biết việc thiện ấy
là phải thời không tương ứng với trí.
Nếu làm điều thiện không cần ai nhắc bảo là
asankhàrikam, nếu cần nhắc bảo là sasankhàrikam.
Tâm đầu là tâm của một người bố thí
cho một người nghèo một cách hiểu biết, không cần ai nhắc bảo. Nếu cần có
ai khuyến khích hay sau một thời gian suy nghĩ, đó là tâm thứ hai. Một đứa con nít thấy một vị sư và vái chào
liền, không hiểu biết gì, đó là tâm
thứ ba. Nếu làm theo lời khuyên của bà mẹ là tâm thứ tư. 4 tâm còn lại
cũng tương tự nhưng không có hoan hỷ nên câu hữu với xả.
TÁM DỤC GIỚI TỊNH QUANG DỊ THỤC TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 13) Somanassasahagatam nànasampayuttam asankhàrikamekam
sasankhàrikamekam. Somanassasahagatam nànavippayuttam asankhàrikamekam,
sasankhàrikamekam. Upekkhàsahagatam nànasampayuttam asankhàrikamekam,
sasankhàrikamekam. Upekkhàsahagatam nànavippayuttam asankhàrikamekam,
sasankhàrikamekam ti imàni attha pi kàmàvacaravipàkacittàni nàma.
II. THÍCH VĂN.
- Sahekuta: Hữu nhân.
III. VIỆT VĂN.
- 13) Một tâm câu hữu với hỷ, tương ứng với trí, không cần nhắc bảo,
một tâm cần được nhắc bảo. Một tâm câu hữu
với hỷ, không tương ứng với trí, không cần nhắc bảo, một tâm cần được
nhắc bảo. Một tâm câu hữu với xả, tương ứng với trí, không cần nhắc bảo,
một tâm cần được nhắc bảo. Một tâm câu hữu với xả, không tương ứng với
trí, không cần nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo. Tám tâm này
gọi là Hữu nhân dục giới dị thục tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- 8 tâm này là kết quả dị thục của 8 tâm ở trên. 8 vô nhân thiện dị
thục tâm (ahetuka kusalavipàkacitta) cũng là kết quả dị thục của 8 tâm ở
trên. Như vậy 8 thiện tâm (kusalacitta) làm nhơn tạo ra 16 Dị thục tâm
(vipàkacittas), còn 12 bất thiện tâm (akusalacittas) chỉ có 7 Vô nhân bất
thiện dị thục tâm (Ahetukavipàka) mà thôi.
TÁM DỤC GIỚI TỊNH QUANG DUY TÁC TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 14) Somanassasahagatam nanasampayuttam asankhàrikamekam,
asankhàrikamekam. Somanassasahagatam nanavippayuttam asankhàrikamekam,
asankhàrikamekam. Upekkhàsahagatam nànasampayuttam asankhàrikamekam,
sasankhàrikamekam. Upekkhàsahagatam nanavippayuttamasankhàrikamekam,
sasankhàrikamekam ti imàni attha pi sahetukakàmàvacarakriyàcittàni nàma. Iccevam sabbathà pi catuvìsati
sahetukakàmàvacara-kusalavipàkakriyàcittàni samattàni.
II. THÍCH VĂN.
- Kriyàcittàni: Duy tác tâm Catuvìsati: 24, Samattàni: Tất cả.
III. VIỆT VĂN.
- 14) Một tâm câu hữu với hỷ, tương ứng với trí không cần nhắc bảo,
một tâm cần được nhắc bảo. Một tâm câu hữu
với hỷ, không tương ứng với trí không cần nhắc bảo, một tâm cần được
nhắc bảo. Một tâm câu hữu với xả, tương ứng với trí không cần nhắc bảo,
một tâm cần được nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo. Tám tâm này
gọi là Hữu nhân dục giới duy tác tâm. Như vậy có tất cả là 24 Hữu nhân
Dục giới Thiện, Dị thục, Duy tác tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Các đức Phật, các vị A la hán có
thâu
nhận tất cả 23 dị thục tâm, vì các vị này vẫn phải gặt kết quả
thiện và ác của những hành động trong thời
quá khứ cho đến khi mệnh chung. Nhưng các vị này không có 8 Thiện
tâm (Kusalacitta) vì không có chất chứa những mầm giống cho một
đời sau, vì đã diệt trừ mọi phiền trược đưa đến một đời sống khác. Khi
các vị này
làm một việc thiện, thì chỉ là Duy tác mà thôi.
TÓM TẮT 24 DỤC GIỚI TỊNH QUANG TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 15) Vedanànànasankhàrabhedena catuvìsati,
sahetukàkàmàvacara-punnapàkakriyà matà.
II. THÍCH VĂN.
- Vedanà: Thọ, chỉ cho Somanassa Upekkhà (Hỷ và Xã). Nàna: Trí.
Sankhàra: Nhắc bảo. Bhedena: Chia chẻ, phân loại. Sahetu: Có nhân.
Kàmàvacara: Dục giới. Punna: Thiện. Pàka: Vipàka: Dị thục. Kriyà: Duy
tác. Matà: Ðược biết là.
III. VIỆT VĂN.
- 15) 24 loại Dục giới thiện, dị thục, duy tác có nhân để chia chẻ theo thọ (hỷ hay xả), trí (có
hay không có trí) và được nhắc bảo
(hay không nhắc bảo).
IV. THÍCH NGHĨA.
- Câu kệ này tóm tắt 24 loại Sobhanacitta (Tịnh Quang tâm) được biết là có nhân, Dục giới, Thiện,
Dị thục hay Duy tác.
TỔNG QUÁT 54 DỤC GIỚI TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 16) Kàme tevìsa pàkàni, punnàpunnàni vìsati; Ekàdasa Kriyà ceti,
catupannàsa Sabbathà.
II. THÍCH VĂN.
- Kàme: Ở Dục giới. Tevìsa: 23 Pàkàni: Vipàkàni: Dị thục. Punna:
Thiện Apunnàni: Bất thiện. Vìsa: 20. Ekàdasa: 11. Kriyà: Duy tác.
Catupannàsa: 54. Sabbathà: Tất cả.
III. VIỆT VĂN.
- 16) Ở Dục giới có 23 dị thục tâm, 20 thiện và bất thiện tâm, 11 duy
tác tâm. Như vậy có tất cả là 54 tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- 23 Dị thục tâm: 15 Vô nhân + 8 Tịnh Quang. 20 Thiện và bất thiện: 12
Bất thiện + 8 thiện. II Duy tác tâm: 3 Vô nhân +8 Dị thục (Tịnh Quang).
Tổng cộng là 54 Tâm.
SẮC GIỚI TÂM: 5 SẮC GIỚI THIỆN TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 17) Vitakka-vicàra - pìtisukhekaggatàsahitam
pathamajjhànakusalacittam. Vicàrapìtisukhekaggatàsahitam
dutiyajjhàna-kusalacittam. Pìtisukhekaggatàsahitam
tatiyajjhànakusalacittam. Sukhekaggatàsahitam
catutthajjhànakusalacittam. Upekkhekaggatàsahitam
pancamajjhànakusalacittam ceti imàni pancapi rùpàvacarakusalacittàni
nàma.
II. THÍCH VĂN.
- Vitakha: Tầm. Vicàra: Tứ. Pìti: Hỷ. Sukha: Lạc. Ekaggatà: Nhứt tâm.
Sahitom: Câu hữu. Pathama: Ðệ nhất Jhàna: Thiền. Kusalacittam: Thiện
tâm. Dutiya: Ðệ nhị. Tatiya: Ðệ tam. Catuttha: Ðệ tứ. Upekkhà: Xả.
Pancama: Ðệ ngũ. Panca: Năm. Rùpàvacara:
Sắc giới.
III. VIỆT VĂN.
- 17) Ðệ nhứt thiền thiện tâm câu hữu với tầm, tứ, hỷ, lạc và nhứt
tâm. Ðệ nhị thiền thiện tâm câu hữu với tứ, hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ tam
thiền thiện tâm câu hữu với hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ tứ thiền thiện tâm
câu hữu với lạc và nhứt tâm Ðệ ngũ thiền thiện tâm câu hữu với xả và
nhất tâm. Như vậy năm tâm này được gọi là Sắc giới thiện tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Tâm ở Dục giới luôn luôn dao
động, bị
chi phối bởi dục lạc nên không thể
định tỉnh. Vì vậy có người tu hành muốn chứng được định tâm. Vị ấy
lấy một hình tròn độ hơn một gang tay và dùng đất màu hồng trét bằng.
Vật ấy gọi là
Parikamma Nimitta, hay Sơ tướng. Người tu hành ngồi và nhìn đối
tượng ấy hết sức chăm chú cho đến khi
nhắm mắt mà vẫn có thể thấy một hình tròn sáng hiện ra. Ðó tức là
Uggaha Nimitta (thô tướng). Uggaha Nimitta này còn thô sơ và còn
những dấu
vết dọc ngang của đối tượng trét đất trước.
Với đối tượng này, người tu hành lại chuyên chú định tâm quán sát
cho đến khi trở thành
Pàtibhàga Nimitta (quang tướng). Quang tướng này thành một vòng
trong sáng
không một tì vết nào cả, mà chỉ do tưởng tượng hình thành mà thôi.
Người
tu hành vẫn tiếp tục định tâm trên
Pàtibhàga Nimitta này cho đến khi chứng được
đệ nhất thiền (Pathamajjhàna).
Khi chứng được Ðệ nhứt thiền, thời 5 Nìvarana
(Triền cái): Kàmacchando: Dục cái, Vyàpàda: Sân, Thìnamiddha: Hôn trầm,
Uddhacca-kukkucca: Trạo cử và Vicikicchà: Nghi) được diệt trừ và 5 Thiền chi sau đây được hiện ra: Vitakka (tầm), Vicàra
(tứ), Pìti (hỷ), Sukka (lạc) và Ekaggatà (nhứt tâm). Khi người ấy tu đến định thứ hai, thì không có
Vitakka; khi chứng đến thiền thứ ba thời
không có Vicàra. Khi đến thiền thứ tư
thời Pìti không còn. Khi đến thiền thứ
năm thì Sukha không còn và được thế vào
bởi Upekkhà (Xả). Như vậy dần dần tâm của người tu thiền định chỉ còn Upekkhà và Ekaggatà mà
thôi.
Vitakka xuất xứ từ vi + takk nghĩa là suy nghĩ. Ở đây có nghĩa là đưa đến và quy tụ trên đối tượng. Do vitakka sanh ra mà
thìna-middha (hôn trầm) được diệt trừ.
Vicàra
xuất từ vi + car nghĩa là di chuyển, đây có
nghĩa là tìm tòi, tức là để tâm trên đối tượng. Khi có vicàra thời diệt trừ được vicikichà (nghi). Vitakka ví như
con ong bay đến bông hoa. Vicàra ví
như con ong bay xung quanh cái bông ấy.
Pìti nghĩa là hỷ, từ chữ Pì nghĩa
là hoan hỷ, sung sướng. Khi có Pìti thời diệt trừ được Vyàpàda (sân).
Sukha nghĩa là
lạc. Khi có Sukha thời không có Uddhacca và Kukkucca (trạo cử). Pìti khiến
ta thích ý đối với một đối tượng còn
Sukha giúp ta hưởng thọ đối tượng ấy.
Upekkhà
có nghĩa là thấy (Jkkhati) một cách vô tư (upa: yuttito) nghĩa là thấy một đối tượng với một tâm trí bình tĩnh.
Nghĩa này chỉ dùng với Sobhana citta mà thôi.
Ekaggatà (eka + aggatà)
nghĩa là nhứt tâm. Khi đã có định thì phải có Ekaggatà. Khi có
Ekaggatà thời trừ diệt được Kàmacchanda
(tham dục).
Thiền định Bhàvanà có hai loại:
Samatha (chỉ) và Vipassanà (quán). Samatha, chỉ, nghĩa là tịch tỉnh nhờ tu
5 thiền mà chứng được. Chính nhờ tu Samatha mà
chứng được Abhìnnà (thắng trí thần
thông). Còn Vipassanà là thấy sự vật đúng với
sự thật. Chính nhờ Vipassanà mà chứng
được thánh quả.
Do 3 nghĩa nên gọi là Sắc giới. Vì dùng sắc pháp làm đối tượng tu hành mà chứng được thiền tâm. Vì ở sắc giới, vẫn còn
có tế sắc. Và vì do chứng các thiền tâm này nên sau khi chết, có thể được sanh ở cõi Sắc giới thiên.
Jhàna từ ngữ căn Jhe (suy tư). Ngài
Buddhaghosa định nghĩa:
Àramman’upanijjhànato paccanìkajhàpanato và jhànam. Jhàna được gọi vậy là vì suy tư chín chắn
trên đối tượng hay vì đốt cháy những vật chướng ngại (Nìvarana:
Triền cái).
Lộ trình của thiền tâm được diễn tiến như
sau:
- Khi Bhavanga (Hữu phần) được dừng lại, thời ý môn hướng tâm khởi lên
với đối tượng là quang tướng
(Patibhàganimitta). Tiếp đến là Tốc
hành tâm (Javana), Tốc hành này bắt đầu với
Parikamma (chuẩn bị) hay Upacàra (Cận
định) tùy theo trường hợp. Tiếp đến là
Anuloma (thuận thứ). Chính ở giai đoạn này
mà tâm mới chắc chắn chứng được Appanà
(An chỉ). Tiếp đến là Gotrabhù (chuyển
tánh) Gotra chỉ cho Dục giới tánh; Bhù là chinh phục. Mọi tâm sát na đến đây thuộc về Dục giới. Sau Gotrabhù
sẽ đến Appanà (An chỉ) và thuộc về Sắc
giới. Ở đây, Appanà (An chỉ), cả 5
thiền chi đều có mặt ở Sơ thiền. Như vậy sự
diễn tiến lộ trình của thiền tâm như sau: Bhavanga,
manodvàràvajjana, Parikamma, Upacàra, Anuloma, Gotrabhù, Appanà (Hữu phần,
ý môn hướng tâm, chuẩn bị, cận hành, thuận thứ, chuyển tánh, an chỉ).
SẮC GIỚI DỊ THỤC TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 18) Vitakkavicàrapìtisukhekaggatàsahitam pathamajjhànavipàkacittam.
Vicàrapìtisukhekaggatàsahitam dutiyajjhànavipàkacittam.
Pìtisukhekaggatàsahitam tatiyajjhànavipàkacittam. Sukhekaggatàsahitam
catutthajjhànavipàkacittam. Upekkhekaggatàsahitam
pancamajjhànavipàkacitam ceti imàni panca pi rùpàvacaravipàkacittàni
nàma.
II. VIỆT VĂN.
- 18) Ðệ nhứt thiền dị thục tâm câu hữu với tầm, tứ, hỷ, lạc và nhứt
tâm. Ðệ nhị thiền dị thục tâm câu hữu với tứ, hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ
tam thiền dị thục tâm câu hữu với hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ tứ thiền dị
thục tâm câu hữu với lạc và nhứt tâm. Ðệ ngũ thiền dị thục tâm câu hữu
với xả và nhứt tâm. Như vậy năm tâm này
gọi là Sắc giới dị thục tâm.
III. THÍCH VĂN.
- 3 thiện nhân (kusalahetu) alobha, adosa, amoha (vô tham, vô sân, vô
si) rất mạnh trong các tâm rùpàvacarakusalacitta cho nên đem lại các kết quả dị thục giống như các
tâm này đến đời sau.
SẮC GIỚI DUY TÁC TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 19) Vitakkavicàrapìtisukhekaggatàsahitam pathamajjhànakriyàcittam.
Vicàrapìtisukhekaggatàsahitam dutiyajjhànakriyàcittam.
Pìtisukhekaggatasahitam tatiyajjhànakriyàcittam. Sukhekaggatàsahitam
catutthajjhànakriyàcittam. Upekkhekaggatàsahitam
pancamajjhànakriyàcittam ceti imàni panca pi rùpàvacarakriyàcittàni
nàma. Iccevam sabbathà pi pannarasa rùpàvacarakusalavipàkakriyàcittàni
samattàni.
II. THÍCH VĂN.
- Pannarasa: 15. Samattàni: Có tất cả là.
III. VIỆT VĂN.
- 19) Ðệ nhứt thiền duy tác tâm câu hữu với tầm, tứ, hỷ, lạc và nhứt
tâm. Ðệ nhị thiền duy tác tâm câu hữu với tứ, hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ
tam thiền duy tác tâm câu hữu với hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ tứ thiền duy
tác tâm câu hữu với lạc và nhứt tâm. Ðệ ngũ thiền duy tác tâm câu hữu
với xả và nhứt tâm. Như vậy 5 tâm này gọi là Sắc giới duy tác tâm.
Như vậy có tất cả là 15 Sắc giới Thiện, Dị thục và Duy tác tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Các vị La hán cũng tu 5 thiền này. Nhưng không có kết quả Dị thục,
chỉ có duy tác mà thôi nên gọi là kriyàcitta.
TÓM TẮT 15 SẮC GIỚI TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 20) Pancadhà jhànabhedena rùpàvacaramànasam Punnapàkakriyàbhedà tam
pancadasadhà bhave.
II. THÍCH VĂN.
- Pancadhà: Có 5 loại. Jhànabhedena: Phân loại thiền.
Rùpàvacaramànasam: Sắc giới về ý. Punna: Thiện. Pàka: Dị thục. Kriyà:
Duy tác. Bhedà: Phân loại chia chẻ. Tam: Tâm ấy. Pancadasadhà: Có 15
loại. Bhave: Có.
III. VIỆT VĂN.
- 20) Sắc giới tâm có 5 loại phân theo các thiền. Theo thiện, dị thục
và duy tác, có tất cả là 15 thiền tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Câu kệ này tóm tắt các tâm ở Sắc giới. Theo thiền thời Sắc giới tâm
có 5 loại. Theo thiện, dị thục và duy tác thời có đến 15 thiền tâm.
VÔ SẮC GIỚI TÂM: 5 VÔ SẮC GIỚI THIỆN TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 21) Àkàsànancàyatanakusalacittam. Vinnànancàyatanakusalacittam.
Àkincannàyatanakusalacittam. Nevasannànàsannàyatanakusalacittam ceti
imàni cattàri pi arùpàvacarakusalacittàni nàma.
II. THÍCH VĂN.
- Àkàsànancàyatana: Không vô biên xứ. Vinnànancàyatana: Thức vô biên
xứ. Àkincannàyatana: Vô sở hữu xứ. Nevasannànàsannàyatana: Phi tưởng phi
phi tưởng xứ.
III. VIỆT VĂN.
- 21) Không vô biên xứ thiện tâm. Thức vô biên xứ thiện tâm. Vô sở
hữu xứ thiện tâm. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiện tâm. Bốn tâm này gọi
là vô sắc giới thiện tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Người tu hành sau khi chứng các
tâm thiền ở cõi sắc giới muốn tu lên
các cõi thiền ở vô sắc giới. Vị này định tâm
trên Patibhàganimitta (Quang tướng) như đã nói trong chương trước.
Khi vị này
chú tâm, thời một ánh sáng yếu ớt, như con
đom đóm, phát xuất từ đối tượng ấy. Vị tu hành muốn cho ánh sáng
ấy
tràn lan khắp cả hư không, và nay chỉ thấy ánh sáng ấy chiếu khắp
tất cả
mọi chỗ. Cái hư không vô biên ấy không phải là một hiện thực mà
chỉ là một
tưởng tượng gọi là Kasinagghatimàkàsa (hư không phát sanh từ
Kasina). Trên đối tượng ấy, người tu hành chú tâm và
nghĩ "Àkàsa ananto" (Hư không là vô biên) cho
đến khi chứng được đệ nhứt thiền. Rồi vị này chú tâm trên đệ nhứt
Arùpajhàna và suy tưởng:
"Vinnànam anantam" (Thức là vô biên) cho đến
khi chứng được đệ nhị thiền (Vinnànancàyatanam). Muốn chứng đệ tam
thiền, người tu hành lấy đệ nhứt thiền làm đối tượng tu hành và suy
nghĩ "Natthi
kinci" (không có vật gì tất cả). Muốn chứng
đệ tứ thiền, người tu hành lấy đệ tam
thiền làm đối tượng tu hành, và
vì đệ tứ thiền quá tế nhị nên không
thể nói là có tưởng hay không có tưởng.
Năm thiền tâm ở sắc giới khác ở
các thiền
chi, còn bốn thiền ở vô sắc giới sai khác nhau ở đối tượng tu
hành. Ðệ nhứt thiền và đệ tam thiền có hai Pannatti (khái niệm) làm đối
tượng tu hành, tức là khái niệm về
hư không vô biên và khái niệm về vô sở hữu. Ðệ nhị và đệ tứ thiền
lấy đệ nhứt thiền và đệ tam thiền làm đối tượng tu hành. Trong 12 vô sắc
thiền tâm, chỉ có hai thiền chi là xả và nhứt tâm.
Lộ trình của vô sắc giới thiền tâm được
tiến diễn như sau: Manodvàràvajjàna, Parikamma, Upacàra, Anuloma,
Gotrabhù, Àkàsànancàyatana (ý môn hướng tâm, chuẩn bị, cận hành, thuận
thứ, chuyển tánh, hư không vô biên xứ). Parikamma có thể có hay không, tùy
theo trường hợp.
VÔ SẮC GIỚI DỊ THỤC TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 22) Àkàsànancàyatanavipàkacittam. Vinnànancàyatanavipàkacittam.
Àkincannàyatanavipàkacittam. Nevasannanàsannàyatanavipàkacittam ceti
imàni cattàri pi arùpàvacaravipàkacittàni nàma.
II. VIỆT VĂN.
- 22) Không vô biên xứ dị thục tâm. Thức vô biên xứ dị thục tâm. Vô
sở hữu xứ dị thục tâm, Phi tưởng phi phi tưởng xứ dị thục tâm. Bốn tâm
này gọi là vô sắc giới dị thục tâm.
III. THÍCH NGHĨA.
- 4 Tâm này là quả dị thục của bốn thiện tâm vừa kể trên.
VÔ SẮC GIỚI DUY TÁC TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 23) Àkàsànancàyatanakriyàcittam, Vinnànancàyatanakroyàcittam,
Àkincannàyatanakriyàcittam, Nevasannànàsannàyatanakriyàcittam ceti imàni
pi arùpàvacarakriyàcittàni nàma. Iccevam sabbathà pi dvàdasa
arùpàvacarakusalavipàkakriyàcittàni.
II. VIỆT VĂN.
- 23) Không vô biên xứ duy tác tâm. Thức vô biên xứ duy tác tâm. Vô
sở hữu xứ duy tác tâm. Phi tưởng phi phi tưởng xứ duy tác tâm. Bốn tâm
này gọi là Vô sắc giới duy tác tâm. Như vậy, có tất cả 12 Vô sắc giới
thiện, dị thục và duy tác tâm.
III. THÍCH NGHĨA.
- Bốn tâm này do các vị A La Hán tu 4 thiền định vô sắc giới mà có, nhưng không có
kết quả dị thục chỉ có duy tác mà thôi. Cả 12 thiền tâm này chỉ có hai
thiền chi, tức là Upekkhà (Xả) và Ekaggatà (Nhứt tâm).
TÓM TẮT 12 VÔ SẮC GIỚI TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 24) Àlambanappabhedena catudhàruppamànasam, Punnapàkakriyàbhedà
puna dvàdasadhà thitam.
II. THÍCH VĂN.
- 24 Àlambana: Ðối tượng tu hành. Bhedena: Chia chẻ, phân loại.
Catudhà: Bốn loại. Aruppà: Vô sắc. Mànasam: Ý. Puna: Lại nữa.
Dvàdasadhà: 12 loại. Thitam: Ðứng như vậy.
III. VIỆT VĂN.
- 24) Theo đối tượng tu hành,
thời có bốn loại tâm thuộc về sắc giới. Lại nữa, nếu phân loại theo
thiện, dị thục và duy tác thì có 12 tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Ðây là bài kệ tóm tắt 12 vô sắc giới tâm. Nếu chia theo thiện, dị
thục và duy tác thời có đến 12 tâm.
SIÊU THẾ TÂM, SIÊU THẾ ÐẠO TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 25) Sotàpattimaggacittam, Sakadàgàmimaggacittam,
Anàgàmimaggacittam, Arahattamaggacittam ceti imàni cattàri pi
lokuttarakusalacittàni nàma.
II. THÍCH VĂN.
- Sotàpattimaggacittam: Dự lưu đạo tâm.
Sakadàgàmimaggacitam: Nhứt lai đạo
tâm. Anàgàmimaggacittam: Bất lai đạo
tâm. Arahattamaggacittam: A-la-hán đạo tâm. Cattàri: Bốn. Lokuttara
kusalacittàni: Siêu thế thiện tâm.
III. VIỆT VĂN.
- 25) Dự lưu đạo tâm, Nhứt lai đạo tâm,
Bất lai đạo tâm, A-la-hán đạo tâm, bốn tâm này gọi là siêu thế
thiện tâm.
IV. THÍCH NGHĨA:
- Một loài hữu tình ở cõi sắc giới hay vô sắc giới có thể do vô minh
lầm tưởng đời sống ở hai cõi ấy là
vĩnh viễn và hoàn toàn hạnh phúc. Do vậy lòng tham ái được sống phát sanh và do vậy phải tái
sanh sau khi chết. Vị này có thể bị chi phối bởi 10 phiền não sau này:
1. Sakàyaditthi (thân kiến),
2) Vicikicchà (nghi),
3) Sìlabbataparàmàsa (giới cấm thủ),
4) Kàmàràga (Dục ái),
5) Patigha (Sân),
6) Rùparàga (sắc ái),
7) Arùparàga (Vô sắc ái),
8) Màna (mạn)
9) Uddhacca (trạo cử),
10) Avijjà (Vô minh).
Người tu hành, muốn diệt trừ các phiền não trên, quán tưởng về Anicca
(vô thường), Dukkha (khổ) và Anata (vô ngã) và chứng được cõi thiền về Niết Bàn.
Khi người ấy diệt trừ được 3 phiền não
thứ nhứt, vị ấy chứng được quả vị thứ nhứt
được gọi là Sotàpanna tức là Tu đà-hoàn
hay Dự Lưu. Vị này đã dự nhập vào dòng đưa đến Niết bàn. Vị này nhất định sẽ thành A-la-hán sau bảy đời.
Khi vị này làm cho yếu ớt, muội lược hai phiền não kế tiếp, tức là
kàmaràga (dục ái) và Patigha (sân), vị này chứng được quả vị thứ hai và được gọi là Sakadàgàmi, tức là Tư-đà-hàm
hay nhứt-lai. Vị này phải tái sanh một lần nữa, trước khi chứng quả
A-la-hán.
Khi vị này diệt trừ được hai món phiền não
dục ái và sân, vị này chứng được quả vị thứ
ba và được gọi là Anàgàmi, tức
là A-na-hàm hay Bất-Lai. Vị này sẽ, hoặc chứng được quả A-la-hán ngay trong đời này,
hay sẽ tái sinh đến một cõi cao hơn và
từ nơi đó chứng quả Niết bàn.
Khi vị này diệt trừ cà 5 phiền não còn lại, vị này chứng được quả vị thứ tư và được gọi là Arahan tức là A-la-hán.
Khi vị này chứng được các quả vị trên
thời gọi là maggacittam hay đạo tâm. Khi vị này
nhận thức rằng mình đã chứng được các quả vị trên, thời được gọi là Phalacitta hay quả tâm.
Sự chứng ngộ Niết bàn:
Hành giả muốn chứng Niết bàn phải
cố gắng tìm hiểu sự vật đúng với thực tướng. Với nhất tâm, vị ấy quan
sát tự ngã và tìm thấy cái gọi là tự ngã chỉ gồm có danh và sắc.
Khi đã hiểu tự ngã chỉ gồm có danh và
sắc, vị ấy lại tìm hiểu những nguyên nhân tạo ra tự ngã, và nhận
thấy là đời sống hiện tại là do 5 nguyên nhân
vô minh ở quá khứ, ái thủ, kamma (nghiệp) và
đoàn thực của đời hiện tại. Vì
5 nguyên nhân này, tự ngã sanh khởi, và vì hành vi quá khứ chỉ
định hiện tại, hiện tại sẽ chi phối tương
lai. Suy tư như vậy, vị này vượt khỏi các nghi ngờ về quá khứ,
hiện
tại và tương lai (Kankhàvitaranavisuddhi - Ðoạn nghi tịnh). Rồi vị
này
quán mọi pháp hữu vi là vô thường, khổ và vô ngã. Chỗ nào đưa mắt
đến, vị này cũng chỉ thấy ba
tánh này chi phối tất cả. Vị này nhận rằng cuộc đời là một dòng
sông trôi chảy mãi
mãi, không có hạnh phúc nào là chân thật, vì mọi hạnh phúc đưa đến
khổ đau, vì vô thường là đau khổ, và chỗ nào có vô thường và đau khổ,
dĩ nhiên không thể có tự ngã.
Trong khi vị này chú tâm tu thiền tưởng, một ngày kia thình lình tự
thân phát ra hào quang. Vị này cảm thấy hoan lạc vô biên, thân tâm an lạc
nhẹ nhàng, lòng tin nhiệt thành tinh tấn. Tưởng lầm là đã chứng
được thánh quả vì sự hiện hữu của hào quang, vị này tha thiết với
trạng thái tâm tư ấy. Nhưng rồi vị này nhận chân được những sự cám dỗ ấy chỉ là những
phiền não và cố gắng phân biệt giữa tà đạo và
chánh đạo (Maggàmagganànadassana
visuddhi - Ðạo phi đạo tri kiến tịnh).
Nhận định được chánh đạo, vị này
quán tưởng sự sanh khởi (Udayanàna - Sanh trí) và sự diệt trừ (Vayanàna
Diệt trí) của các pháp hữu vi. Ðối với lý sinh diệt, sự diệt trừ để lại một ấn tượng sâu đậm hơn và vị
này hướng tâm quán tưởng đến sự tiêu
diệt các pháp (Bhanganàna - Ðoạn trí). Vị này nhận chân rằng cả tâm pháp
và sắc pháp của mình đều luôn luôn chuyển
biến, không một phút dừng nghỉ. Vị ấy hiểu biết rằng mọi vật chuyển biến
đều đáng ghê sợ (Bhayanàna - Kinh hãi trí). Cả thế giới hiện ra như
một hầm lửa, đầy nguy hiểm. Tiếp theo, vị ấy
suy nghĩ đến sự đau khổ và nguy hiểm (Àdìnavanàna - Hiểm nguy trí)
của thế giới hiện tại và tự cảm thấy chán ghét (Nibbidànàna) và muốn thoát
ly khỏi thế giới này (Muncitukamyatànàna - Dục giải thoát trí).
Với mục đích trên, vị này lại quán
tưởng đến ba pháp ấn (Patisankhà nàna
- Suy tư trí) và tự cảm thấy thản nhiên đối
với mọi pháp hữu vi, không tham ái, không chán ghét đời và mọi pháp
ở thế gian (Upekkhà nàna - Xả trí). Khi đến
trình độ này, vị này lấy một
trong ba pháp ấn, pháp ấn nào đối với mình
rất thích hợp, rồi quán tưởng suy tư cho đến
một ngày kia vị này chứng được Niết bàn.
Lộ trình Javana như sau:
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6+7 |
Parikamma |
Upacàra |
Anuloma |
Gotrabhù |
Magga |
Phala |
Chuẩn bị |
Cận hành |
Thuận thứ |
Chuyển tánh |
Ðạo |
Quả |
Khi không có Parikamma đối với một vị rất
thông minh và sáng suốt, thời quả tâm có đến ba sát-na.
Tám trí này: Udaya, Vaya, Bhanga,
Bhaya, Àdìnava, Nibbidà, Patisankhà
và Upekkhà được gọi chung là Patipadà
Nànadassana Visuddhi. (Ðạo tri kiến tịnh). Khi vị này chứng ngộ
Niết bàn
lần đầu tiên, vị ấy được gọi là Sotàpanna (Dự Lưu). Rồi vị
này tiếp tục diệt trừ các phiền não khác cho
đến khi chứng được quả A-la-hán. Cần để ý là các phiền não được
tuần - tự diệt trừ trong bốn giai đoạn. Ðạo tâm chỉ khởi lên có một sát
na rồi tiếp là quả tâm. Ở Siêu thế
giới, thiện quả tâm đến ngay lập tức nên được gọi là Akàliko.
Ở Dục giới, kamma hay nghiệp chi phối, còn sở Siêu thế giới, thời Pannà
(Trí tuệ) chi phối.
SIÊU THẾ TÂM: 4 QUẢ TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 26) Sotàpattiphalacittam. Sakadàgàmiphalacittam,
Anàgàmiphalacittam, Arahattaphalacittam, ceti imàni cattàri pi
lokuttaravipàkacittàni nàma.
Iccevam sabbathà pi attha lokuttarakusalavipàkacittàni samattàni.
II. VIỆT VĂN.
- 26) Dự lưu quả tâm, nhứt lai quả tâm, bất lai quả tâm, A-la-hán quả
tâm. Bốn tâm này gọi là siêu thế dị thục tâm.
Như vậy có tất cả là tám siêu thế thiện dị thục tâm.
III. THÍCH NGHĨA.
- Ðây cộng thêm bốn dị thục tâm nữa, thành có tất cả là tám siêu thế
tâm: Bốn tâm gọi là siêu thế thiện tâm và bốn tâm gọi là siêu thế dị thục
tâm.
TÓM TẮT CÁC SIÊU THẾ TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 27) Catummaggappabhedena, catudhà kusalam tathà,
Pàkam tassa phalattà ti atthadhànuttarammatam.
II. THÍCH VĂN.
- Catu: Bốn. Magga: Con đường.
Pabhedena: Do sự phân biệt. Catudhà: Có bốn. Tathà: Như vậy.
Pàkam: Dị thục. Phalattà: Quả tánh. Atthadhà: Có tám. Anuttaram: Vô
thượng. Matam: Ðược biết là.
III. VIỆT VĂN.
- 27) Phân biệt về bốn đạo thì có
bốn thiện tâm. Cũng vậy, các tâm dị thục là quả của các tâm trên. Như
vậy được biết là có tám siêu thế tâm
tất cả.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Ðây là bài kệ tóm tắt các siêu thế tâm. Có bốn thiện tâm là bốn con đường và bốn dị thục tâm là kết quả
của bốn con đường trên.
TỔNG PHÂN LOẠI 89 DỤC GIỚI TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 28) Dvàdasàkusalànevam Kusalànekavìsati, Chattimseva vipàkàni
kriyàcittàni vìsati.
II. THÍCH VĂN.
- Dvàdasa: 12. Akusalàni: Bất thiện. Ẹvam: Như vậy. Kusalàni: Thiện.
Ekavìsati: 21. Chattimsa: 36. Vipàkàni: Dị thục. Kriyàcittàni: Duy tác
tâm. Vìsati: 20.
III. VIỆT VĂN.
- 28) Có 12 Bất thiện tâm, có 21 Thiện tâm, có 36 Dị thục tâm và có
20 Duy tác tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Bài kệ này tóm tắt các tâm đã nói đến từ trước. Có 12 Bất thiện tâm, có 21
Thiện tâm (8 Tịnh Quang tâm ở Dục giới, 5 ở Sắc giới, 4 ở Vô sắc giới và
4 Siêu thế đạo tâm). Có 36 Dị thục tâm (15 Vô
nhân tâm + 8 Tịnh Quang tâm + 5 Sắc giới tâm + 4 Vô sắc giới tâm + 4 Siêu
thế tâm) và 20 Duy tác tâm (3 Vô nhân tâm + 8 Tịnh Quang tâm + 5 Sắc giới
tâm + 4 Vô sắc giới tâm).
TỔNG PHÂN LOẠI 89 TÂM VÀ 121 TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 29) Catupannàsadhà kàme rùpe pannarasìraye. Cittàni dvàdasàruppe
attha-dhànuttara tathà.
Itthamekùnanavutippabhedam pana mànasam,
Ekavìsasatam vàtha vibhajanti vicakkhanà.
II. THÍCH VĂN.
- Catupannàsadhà: 54 loại. Kàme: Ở dục giới. Rùpe: Ở sắc giới.
Pannarasa: 15. Iraye: Ireti, nói đến. Dvàdasa:
12. Àruppe: Ở Vô sắc giới. Atthadhà: Có 8 loại. Anuttare: Ở cõi Siêu thế
giới. Tathà: Như vậy. Ittham: Như vậy. Ekùnanavuti: 89. Pabhedam: Chia
chẻ. Mànasam: Ý. Ekavìsasatam: 121. Và: Hay là. Atha: Ở đây. Vibhajanti: Phân loại, chia chẻ.
Vicakkhanà: Người trí huệ.
III. VIỆT VĂN.
- 29) Ở Dục giới có 54 tâm, ở Sắc giới có 15 tâm, ở Vô sắc giới có 12
tâm, ở Siêu thế giới có 8 tâm. Như vậy 89 tâm này, các nhà có trí lại
chia có 121 tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Bài kệ này tóm tắt tất cả tâm ở Dục giới (54), ở Sắc giới (15), ở Vô
sắc giới (12) và ở Siêu thế giới (8). 89 tâm này lại được các nhà có trí chia thành 121
tâm.
PHÂN LOẠI 121 TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 30) Katham ekùnanavutividham cittam ekavìsasatam hoti?
Vitakkavicàrapìtisukhekaggatàsahitam pathamajjhànasotàpattimaggacittam.
Vicàrapìtisukhekaggatàsahitam dutiyajjhànasotàpattimaggacittam.
Pìtisukhekaggatàsahitam tatiyajjhànasotàpattimaggacittam.
Sukhekaggatàsahitam catutthajjhànasotàpattimaggacittam.
Upekkhekaggatàsahitam pancamajjhànasotàpattimaggacittam ceti imàni panca
pi sotàpattimaggacittàni nàma.
Tathà
sakadàgàmimagga-anàgàmimagga-arahattamaggacittam ceti samavìsati
maggacittàni.
Tathà phalacitàni ceti samacattàlìsa lokuttaracittàni
bhavantìti.
II. THÍCH VĂN.
- Katham: Sao. Ekùnanavutividham: 89 loại. Ekavìsasatam: 121.
Samavìsati: Có vừa 20. Samacattàlìsa: Có vừa 40. Bhavanti: Có.
III. VIỆT VĂN.
- 30) Vì sao 89 tâm lại thành ra 121 tâm? Ðệ nhứt thiền dự lưu đạo tâm, câu hữu với tầm, tứ, hỷ, lạc và
nhất tâm. Ðệ nhị thiền Dự lưu đạo tâm, câu
hữu với tứ, hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ tam thiền Dự lưu đạo tâm, câu hữu với hỷ, lạc và nhứt
tâm. Ðệ tứ thiền Dự lưu đạo tâm, câu hữu
với lạc và nhứt tâm. Ðệ ngũ thiền Dự lưu đạo tâm, câu hữu với xả và nhứt tâm.
Như vậy 5 tâm này gọi là Dự lưu đạo tâm.
Cũng như vậy Nhứt lai đạo tâm, Bất lai đạo tâm, A la hán đạo tâm, có tất
cả là 20 đạo tâm. Cũng như vậy, các
quả tâm. Cộng tất cả là 40 Siêu thế tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Ðoạn này giải thích vì sao 89 tâm trở thành 121 tâm. Dự lưu đạo tâm (Sotàpatti-magga) có thể chia
thành 5 loại, tương ứng với đệ nhứt thiền, đệ
nhị thiền, đệ tam thiền, đệ tứ thiền, đệ ngũ thiền. Các tâm Nhứt lai, Bất
lai, A la hán cũng tương ưng như vậy nên có tất cả là 20 đạo tâm. Các quả tâm cũng tương ưng tương tự
và có 20 quả tâm. Như vậy là có tất cả 40 Siêu thế tâm. Theo sự
phân loại sau, có thặng hơn sự phân loại trước là 32 Siêu thế tâm, chớ
không phải 89 tâm như trước đã nói.
PHÂN LOẠI CÁC SIÊU THẾ TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 31a) Jhànangayogabhedena katvekekam tu pancadhà,
Vuccatànuttaram cittam cattàlisa vidham ti ca.
II. THÍCH VĂN.
- Jhànanga: Các phần tử của thiền. Katvà: Khi đã làm. Ekekam: Mỗi một. Pancadhà: 5
loại Vuccati: Gọi là. Anuttaram cittam: Siêu thế tâm. Cattàlisavidham:
Có 40. Ca: Và.
III. VIỆT VĂN.
- 31a) Tương ưng với các phần tử của Thiền, mỗi tâm Siêu thế nhân với
5 cõi thiền thành có 40 Siêu thế tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Bài kệ này giải thích vì sao 8 Siêu thế tâm trở thành 40 Siêu thế
tâm, tức là lấy tám tâm ấy nhơn với 5 cõi thiền ở Sắc giới.
PHÂN LOẠI CÁC THIỀN TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 31b) Yathà ca rùpàvacaram gayhànuttaram tathà, Pathamàdijjhànabhede
àruppam càpi pancame,
Ekàdasacidham tasmà pathamàdikamìritam,
Jhànamekekamante tu tevìsatividham bhave.
Sattatimsavidham punnam dvipannàsavidham tathà.
Pàkamiccàhu cittàni ekavìsasatam budhà.
II. THÍCH VĂN.
- Yathà tathà: Giống như, cũng như. Rùpàvacaram: Sắc giới. Gayha: Quá
khứ phân từ của Ganhàti, được lấy.
Anuttaram: Vô thượng, đây chỉ cho Siêu thế tâm
Pathamàdijjhànabhede: Theo sự chia chẻ của các thiền từ đệ nhứt thiền trở đi. Àruppam: Vô
sắc giới tâm. Pancame: Thứ năm Ekàdasavidham:
11 loại. Tasmà: Do vậy. Pathamàdikam: Ðệ nhứt thiền v.v... Iritam: Quá
khứ phân từ của Ireti: nói, thuyết. Jhànamekekam: Mỗi thiền. Antam:
Thiền cuối cùng. Tevìsatividham: 23 loại. Bhave: Có. Sattatimsavidham:
37. Dvipannàsavidham: 52 Pàkam: Dị thục. Àhu: Ðã nói: Ekàvìsasatam: 121.
Budhà: Vị sáng suốt.
III. VIỆT VĂN.
- 31b) Cũng như các tâm ở sắc giới, tâm ở siêu thế giới cũng chia chẻ
như vậy (nghĩa là chia thành 5 cõi thiền). Về thứ tự các cõi thiền, từ đệ nhứt thiền v.v... Vô sắc giới tâm được
xem là thiền thứ năm. Do vậy, từ
thiền thứ nhất đến thiền thứ tư, mỗi thiền có 11 tâm. Còn thiền
cuối cùng tức là thiền thứ năm, có đến 23
tâm.
Có 37 thiện tâm, 52 dị thục tâm. Như vậy vị sáng suốt nói rằng có 121
tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Kể thiền tâm, cả sắc giới, vô sắc giới và siêu thế giới, xem vô sắc
giới thiền tâm như Thiền thứ năm, xem
Ðạo tâm và Quả tâm là 40 tâm, thời sự phân chia theo 5 Thiền kể như sau:
- Thiền thứ nhất: 11 tâm
- Thiền thứ hai: 11 tâm
- Thiền thứ ba: 11 tâm
- Thiền thứ tư: 11 tâm
- Thiền thứ năm: 23 tâm
Bản đồ sau đây sẽ nêu rõ:
Các cõi Thiền |
Sắc giới |
Vô sắc giới |
Siêu thế giới |
Tổng cộng |
Thiện |
Dị thục |
Duy thức |
Thiện |
Dị thục |
Duy thức |
Ðạo |
Quả |
Sơ thiền |
1 |
1 |
1 |
|
|
|
4 |
4 |
11 |
Nhị thiền |
1 |
1 |
1 |
|
|
|
4 |
4 |
11 |
Tam thiền |
1 |
1 |
1 |
|
|
|
4 |
4 |
11 |
Tứ thiền |
1 |
1 |
1 |
|
|
|
4 |
4 |
11 |
Ngũ thiền |
1 |
1 |
1 |
4 |
4 |
4 |
4 |
4 |
23 |
Ghi chú:
Có thể tham chiếu thêm với:
1) Vi Diệu Pháp Toát Yếu, bản dịch Việt ngữ của Phạm Kim Khánh
(với đầy đủ các ký tự Pàli).
2) A Manual of Abhidhamma, bản dịch Anh ngữ và chú thích của Hòa
Thượng Narada.
-ooOoo-