CHƯƠNG IX
KAMMATTHÀNA: NGHIỆP XỨ
hay ÐỐI TƯỢNG TU HÀNH
PHẦN MỘT - SAMATHA KAMMATTHÀNA: CHỈ NGHIỆP XỨ
I. PÀLI VĂN.
- 1) Samathavipassanànam bhàvanànam ito param, Kammatthànam
pavakkhàmi duvidham pi yathàkkamam.
2 - 5) Tattha samatha-sangahe tàva, dasa kasinàni, dasa asubhà, dasa
anussatiyo, catasso appamannàyo, ekà sannà, ekam vavatthànam cattàro
àruppà ceti sattavidhena samathakammatthàna-sangaho. Ràgacarito,
dosacarito, mohacarito, saddhàcarito, buddhi-carito, vitakkacarito ceti
chabbidhena caritasangaho. Parikamma-bhàvanà, Upacàra-bhàvanà,
appanàbhàvanà, ceti tisso bhàvanà. Pari-kammanimittam, uggahanimittam,
patibhàganimittanceti tìni nimittàni ca veditabbàni.
II. THÍCH VĂN.
- Samatha: Chỉ. Vipassanà: Quán. Itoparam: Từ
đây trở đi. Sangaho: Tập yếu. Kasina: Biến
xứ quán pháp. Asubhà: Bất tịnh. Vavathànam: Sai biệt (Huệ)
Kammatthàna: Nghiệp xứ, Hành xứ, công án. Ràgaccarito: Tham hành giả.
Dosacarito: Sân hành giả. Mohacarito: Si hành giả. Saddhàcarito: Tín
hành giả. Buddhicarito: Giác hành giả. Vitakkacarito: Tầm hành giả.
Parikammabhàvanà: Dự bị tu tập. Upacàrabhàvanà: Cận hành tu tập. Appanà
bhàvanà: An chỉ tu tập. Uggahanimitta: Thủ tướng (hay thô tướng).
Patibhàganimitta: Tợ tướng (hay quang tướng).
III. VIỆT VĂN.
- 1) Từ nay tôi sẽ giảng về hai nghiệp xứ tu tập, chỉ tu tập và quán
tu tập.
2 - 5) Ở nơi đây, về chỉ tập yếu, cần
phải hiểu các pháp như sau: 10 biến xứ quán pháp, 10 bất tịnh pháp, 10
niệm pháp, 4 vô lượng pháp, 1 tưởng pháp, 1 sai biệt huệ pháp, 4 vô sắc
pháp, như vậy chỉ nghiệp xứ tập yếu có bảy loại.
Tham hành giả, Sân hành giả, Si hành giả, Tín hành giả, Giác hành giả
và Tầm hành giả. Như vậy có tất cả sáu loại hành giả.
Dự bị tu tập, Cận hành, tu tập, An chỉ tu tập như vậy có tất cả ba
loại tu tập. Chuẩn bị tướng, Thủ tướng (hay thô tướng), và Tợ tướng (hay
quang tướng), như vậy có tất cả ba tướng.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Có 5 pháp làm trở ngại cho sự tu thiền và tu quán là 5 Triền cái:
Kàmacchanda: Dục ái, Vyàpàda: Sân, Thìna - middha: Thụy miên,
Uddhaccakukkucca: Trạo cử, Vicikicchà: Nghi. Do ảnh hưởng 5 Triền cái,
chúng ta không thể tu thiền định hay quán ba
pháp ấn; khổ, vô thường và vô ngã. Các phương pháp tu hành dẫn
đến diệt trừ 5 Triền cái này gọi là
Samathabhàvanà, chỉ tu tập và chỉ chứng được
khi đạt đến Sắc Thiền và Vô Sắc Thiền, và các
đối tượng dùng
để thực hiện các thiền định trên gọi
là Samatha-kammatthàna: Chỉ nghiệp xứ. Người tu hành chỉ có thể diệt trừ
hoàn toàn các Triền cái ở Siêu Thế Giới bằng cách quán tưởng thực tánh
khổ, vô thường và vô ngã của sự vật. Các phương pháp tu hành quán tưởng
được gọi là Vipassanàbhàvanà (Quán tu
tập) và các đối tượng để tu hành gọi
là Vipassanà Kammatthànà: Quán nghiệp xứ.
I. PÀLI VĂN.
- 6) Pathavì-kasinam, àpo-kasinam, tejokasinam, vàyo-kasinam,
nìla-kasinam, pìta-kasinam, lohitakasinam, odàtakasinam, àkàsa-kasinam,
àlokakasinanceti imànidasa kasinàni nàma.
7) Uddhumàtakam, vinìlakam, vipubbakam, vicchiddakam, vikkhàyitakam,
vikkhittakam, hatavikkhittakam, lohitakam, puluvakam, atthikanceti ime
dasa asubhà nàma.
8) Buddhànussati, dhammànussati, sanghànussati, sìlànussati,
càgànussati, devatànussati, upasamànussati, maranànussati, kàyagatàsati,
ànàpànasati ceti imà dasa anussatiyo nàma.
9) Mettà, karunà, mudità, upekkhà ceti imà catasso appamannàyo nàma
brahmavihàrà ti pi vuccanti.
10) Àhàre patikkùlasannà ekà sannà nàma,
Catudhàtuvavatthànam ekam vavatthànam nàma.
11) Àkàsànancàyatanàdayo cattàro àruppànàmàti sabbathà pi
samathaniddese cattàlìsa kammathànàni bhavanti.
II. THÍCH VĂN.
- Uddhumàtakam: Bành trướng tướng. Vinìlakam: Thanh ứ tướng.
Vipubbakam: Nồng lạn tướng. Vicchiddakam: Ðoạn hoại tướng.
Vikkhàyitakam: Thực hám tướng. Vikkhittakam: Tán loạn tướng. Hata -
vikkhittakam: Chiết đoạn tán loạn tướng.
Lohitakam: Huyết đồ tướng. Puluvakam: Trùng tụ tướng. Atthikam:
Hài cốt tướng Upasamànussati: Tịch tịnh tùy niệm.
III. VIỆT VĂN.
- 6) Ðịa biến xứ quán pháp, Thủy biến xứ quán pháp, Hỏa biến xứ quán
pháp, Phong biến xứ quán pháp, Thanh biến xứ quán pháp, Hoàng biến xứ
quán pháp, Huyết biến xứ quán pháp, Bạch biến xứ quán pháp, Không biến
xứ quán pháp, Quang biến xứ quán pháp, như vậy là 10 biến xứ quán pháp.
7) Bành trướng tướng, Thanh ứ tướng, Nồng lạn tướng, Ðoạn hoại tướng,
Thực hám tướng, Tán loạn tướng, Chiết đoạn
tán loạn tướng, Huyết đồ tướng, Trùng tụ tướng, Hài cốt tướng,
như vậy là 10 bất tịnh quán.
8) Phật niệm, Pháp niệm, Tăng niệm, Giới
niệm, Thí niệm, Thiên niệm, Tịch tịnh niệm, Tử niệm, Thân niệm,
Sổ tức niệm. Như vậy là 10 niệm,
9) Từ, Bi, Hỷ, Xả, như vậy là 4 vô lượng tâm hay gọi là Phạm Trú.
10) Yếm nghịch tưởng đối với các thức ăn
gọi là nhứt tưởng. Bốn giới sai biệt gọi là nhứt sai biệt.
11) Hư không vô biên v.v... gọi là 4 vô sắc pháp.
Như vậy có tất cả là 40 nghiệp xứ trong chỉ Tu tập.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Kammatthàma: Kamma là nghiệp, đây chỉ
Thiền, hay đúng hơn hành động tu
thiền. Thàma có nghĩa là xứ, Căn cứ
hay thời cơ, đây chỉ cho đối tượng hay sự hành trì. Kammatthàna như
vậy có nghĩa là các đối tượng để tu thiền và
có 40 Kammatthàna tất cả.
Samatha: Sam nghĩa là nhiếp phục, trạng thái an chỉ khi nhiếp phục
được các triền cái. Samatha đồng nghĩa với
Samàdhi (Ðịnh), đưa đến tu hành
Thiền (Jhàna). Với định, các phiền não
chỉ được nhiếp phục, chớ không đoạn trừ hẳn.
Vipassanà: Vi + dis nghĩa là thấy nhiều cách, tức là tánh khổ, vô
thường và vô ngã của sự vật. Mục đích của
vipassanà (Quán) là thấy sự vật đúng
thực tánh của nó.
Carita: Hành chỉ cho bản tánh hồn nhiên của con người khi không bị chi
phối hay suy tư về điều gì. Có 6 tánh:
Người tham căn, người sân căn, người si căn,
người tín căn, người trí căn và người tầm căn.
Các loại tánh này phối hợp thành 63 tánh và cộng thêm Ditthacarita
thành có tất cả 64 tánh.
Tu tập có 3 giai đoạn. Giai đoạn đầu gọi là
Parikammabhàvanà (Dự bị tu tập); giai đoạn
thứ hai, từ khi tạo được hình ảnh đối
tượng, tạm ngăn trừ các triền cái cho đến khi chứng được gotrabhù
(Chuyển tánh) trong lộ trình của Tốc hành tâm (Javana). Giai
đoạn này gọi là Upacàrabhàvanà hay Cận
hành tu tập. Giai đoạn thứ ba tiếp theo
Gotrabhù được gọi là
Appanàbhàvanà (An chỉ tu tập), sở dĩ gọi vậy vì Vitakka (Tầm) một Thiền
chi, vẫn gắn chặt trên đối tượng tu tập.
Lộ trình của Thiền như sau: Manodvàràvajjana (Ý môn hướng tâm),
Parikamma (Chuẩn bị tâm), Upacàra (Cận hành tâm), Anuloma (Thuận thứ tâm),
Gotrabhù (Chuyển tánh tâm), Appanà (An chỉ tâm) và Bhavanga (Hữu phần).
Mọi đối tượng, như Kasina dùng
để tu tập gọi là Parikammanimitta
(Chuẩn bị tướng). Cùng một đối tượng ấy, khi
được thấy với mắt nhắm gọi là Uggahanimitta (Thủ tướng hay thô
tướng), và cũng hình ảnh ấy, khi không còn các tỳ vết,
được gọi là Patibhàganimitta (Tợ tướng
hay quang tướng), khi dùng như một đối tượng
của Upacàra và Appanà bhàvanà.
Kasina có nghĩa là khắp tất cả, toàn thể. Sở dĩ gọi vậy vì ánh sáng
phát sanh từ Thủ tướng hay Tợ tướng đều chiếu
khắp tất cả, không bị hạn chế.
Kàyagatàsati quán thân là quán 32 bộ phận của thân thể như sau: Tóc,
lông, móng tay, móng chân, răng, da, thịt,
gân, xương, tủy, trái cật, tim, gan, hoành cách mạc, tỳ tạng
(splun), phổi, màng da mỏng, ruột, bao tử, phẩn, mật, niêm dịch, mũ, máu,
mồ hôi, bạch huyết, nước mắt, mỡ, nướng miếng, nước
đàm, nước nhớt và nước tiểu.
Anàpànasati: Sổ tức, Àna là thở vô. Apàna là thở ra. Có nhiều sách giải
thích ngược lại. Phương pháp này có thể đưa
đến nhứt tâm và cuối cùng đưa đến quán
và A La Hán quả. Phương pháp này được
giải thích rõ ràng trong kinh Satipatthànasutta và trong tập
Visuddhimagga.
Brahmavihàra: Phạm trú hay 4 vô lượng tâm, Brahma ở
đây có nghĩa là cao thượng Vihàra có
nghĩa là Trú hay một thái độ, một lối sống.
Sở dĩ gọi là vô lượng tâm Appamannà vì các tâm tư này phóng ra tất
cả chúng sanh, không có giới hạn.
Mettà (Phạm văn Maitrì): Từ
được định nghĩa là cái gì làm mủi
lòng, làm cho tâm mềm dịu lại. Ðây không phải tình yêu xác thịt hay tình
cảm cá nhân. Ðối nghịch trực tiếp của Mettà là Hận thù, hằn học. Ðối
nghịch gián tiếp là tình cảm cá nhân (pema). Mettà bao trùm tất cả chúng
sanh, không có hạn chế, thượng đỉnh của Mettà
là tự hòa mình với tất cả chúng sanh, nghĩa là tha thiết muốn toàn thể
chúng sanh được hạnh phúc. Ðặc tánh
của từ là một thái độ từ hòa. Từ diệt
trừ Sân hận.
Karunà: Bi là cái gì làm cho tâm của người thiện rung
động khi thấy các người khác đau khổ hay cái
gì làm cho người khác bớt đau khổ.
Ðặc tánh của Bi là diệt trừ sự đau khổ
của những người khác. Kẻ thù trực tiếp của Bi là himsà (Hại) và kẻ
thù gián tiếp là domanassa (ưu), Bi bao trùm mọi chúng sanh
đau khổ và diệt trừ
độc ác.
Mudità: Hỷ, không phải chỉ cảm tình suông mà còn có nghĩa hoan hỷ. Kẻ
thù trực tiếp là ganh ghét và kẻ thù gián tiếp của hoan lạc, (Pahàsa). Ðặc
tánh của Hỷ là vui sướng trước sự giàu sang và thành công của người khác.
Hỷ bao trùm những chúng sanh giàu sang, diệt trừ sự bực bội (arati) và là
một cử chỉ tán thán.
Upekkhà: xả, nghĩa là không tham không sân. Không phải là một sự thản
nhiên vô tri, mà chính là một thái độ trầm
tĩnh tuyệt diệu hay một tâm hồn khéo thăng bằng. Chính là một trạng
thái tâm linh thăng bằng trầm tĩnh trước
những thành bại của cuộc đời như khen
chê, vui khổ, lời lỗ, có danh không danh. Kẻ thù trực tiếp là tham
ái (ràga) và kẻ thù gián tiếp là sự vô tình. Upekkhà loại bỏ mọi tham
đắm, giận ghét. Thái độ vô tư là
đặc tánh của Upakkhà. Ở
đây, upekkhà không phải là một cảm
giác vô lạc vô khổ, mà chính là một đức tánh
tối thượng có nghĩa một sự thăng bằng tâm trí. Xả bao gồm cả Thiện ác,
thương, ghét, thích hay không ưa thích.
Àhàre patikkùlasannà: Yểm nghịch tưởng đối
với thức ăn khi phải đi tìm, khi ăn
v.v... Catudhàtuvavatthànam: Bốn giới sai biệt tức là quán sát 4
Ðại, Ðịa, thủy, hỏa, phong về tướng đặc biệt
của mỗi Ðại chủng.
I. PÀLI VĂN.
- 12) Caritàsu pana dasa asubhà, kàya-gatà satisankhàtà
kotthàsabhàvanà ràgacaritassa sappàyà. Catasso appamannàyo, nìlàdìni ca
cattàri kasinàni dosacaritassa, ànàpànam mohacaritassa, vitakkacaritassa
ca. Buddhànussatiàdayo cha saddhàcaritassa,
maranùpasama-sannàvavatthànàni buddhicaritassa. Sesàni pana sabbàni pi
kammatthànàni sabbesampi sappàyàni. Tatthàpi kasinesu puthulam
mohacaritassa, khuddakam vitakkacaritassevàti.
13) Bhàvanàsu pana sabbatthàpi parikamnna-bhàvanà labbhateva.
Buddhànussati àdisu atthasu, sannàvavatthànesu càti dasasu kammatthànesu
upacàra-bhàvanà va sampajjati, natthi appanà. Sesesu pana samatimsa
kammatthànesu appanàbhàvanà pi sampajjati.
II. THÍCH VĂN.
- Kotthàsabhàvanà: Quán tưởng các phần của thân. Puthulam: Lớn.
III. VIỆT VĂN.
- 12) Ðối với tánh tình, 10 bất tịnh quán và thân hành niệm, như quán
các thân phần, hợp với tham hành giả. 4 vô lượng tâm và bốn xứ biến xứ
như xanh v.v... hợp với Sân hành giả. (Vì
đối tượng quá sâu và rộng lớn). Pháp sổ tức hợp với Si hành giả
và Tầm hành giả. Lục niệm như niệm Phật v.v... hợp với Tín hành giả. Tử
niệm, Tịch tịnh niệm, Yểm nghịch tưởng đối
với thức ăn, hợp với Giác hành giả. Tất cả các nghiệp xứ còn lại
hợp với tất cả tánh tình. Ở nơi đây, đối
với các biến xứ quán pháp (Kasina) thứ lớn hợp với si hành giả,
và thứ nhỏ hợp với Tầm hành giả.
13) Ðối với các loại tu tập (bhàvanà), chuẩn bị tu tập có thể do tất
cả nghiệp xứ pháp chứng được. Trong mười
nghiệp xứ pháp, như 8 niệm bắt đầu Phật niệm v.v... Nhứt tưởng và
nhứt sai biệt, chỉ chứng được Cận hành
tu tập, nhưng không chứng được an chỉ tu
tập (vì đối tượng quá thô và
cần Tầm tâm sở để quán). Trong các nghiệp
xứ pháp còn lại, an chỉ tu tập có thể chứng
được. (10 Kasinà + 10 Asubha + 2
Anussati + 4 Appamannà + 4 Aruppà).
I. PÀLI VĂN.
- 14) Tatthàpi dasa kasinàni, ànàpànanca pancakajjhànikàni, dasa
asubhà, kàyagatàsati ca pathamajjhànikà, mettàdayo tayo catukkajjhànikà.
Upekkhà pancamajjhànikà ti chabbìsati rùpàvacarajjhànikàni
kammatthànàni. Cattàro àruppà pana àruppajjhànikàti.
II. VIỆT VĂN.
- 14) Ở nơi đây, 10 Biến Xứ quán pháp và
Sổ tức giúp chứng được 5 Thiền, 10 pháp Bất
Tịnh và Thân hành niệm giúp chứng
được Sơ Thiền. Ba vô lượng tâm đầu như Từ v.v... giúp chứng được bốn
Thiền. Xả giúp chứng được Thiền thứ năm. Như vậy 26 Nghiệp xứ giúp chứng
Sắc Thiền. Còn Bốn vô sắc giúp chứng Vô sắc Thiền.
III. THÍCH NGHĨA.
- Sở dĩ ba vô lượng tâm đầu không giúp
chứng được Thiền thứ năm vì Xả chỉ tìm thấy ở Thiền thứ 5, và bốn
Thiền đầu không thể nhờ Xả mà tu chứng
được.
I. PÀLI VĂN.
- 15 - 19) Nimittesu pana parikammanimittam, uggahanimittana ca
sabbathàpi yathàraham pariyàyena labbhanteva. Patibhàganimittam pana
kasinàsubha-kotthàsànàpànesveva labbhati. Tattha hi
patibhàganimittamàrabbha upacàrasamàdhi, appanàsamàdhi ca pavattanti.
Katham? Àdikammikassa hi pathavìmandalàdisu nimittam ugganhantassa tam
àlambanam parikammanimittanti pavuccati. Sà ca bhàvanà parikammabhàvanà
nàma.
Yadà pana tannimittam cittena samuggahitam hoti, cakkhunà
passantasseva manodvàrassa àpàthamàgatam, tadà tameva àrammanam
uggahanimịttam nàma. Sà ca bhàvanà samàdhìyati. Tathà samàhitassa
panetassa tato param tasmim uggahanimitte parikammasamàdhinà
bhàvanamanuyunjantassa yadà tappatibhàgam vatthudhammavimuccitam
pannattisankhàtam bhàvanàmayamàlambanam citte sannisinnam samappitam
hoti, Tadà patibhàganimittam samuppannanti pavuccati. Tato patthàya
patibandhavippahìnà kàmàvacarasamàdhisankhàtà upacàrabhàvanà nipphannà
nàma hoti. Tato param tameva patibhàganimittam upacàrasamàdhinà
samàsevantassa rùpàvacara pathamajjhànamappeti. Tato param tameva
pathamajjhànam, àvajjanà samàpajjanà adhitthànà; vutthànà paccavekkhanà
ceti imàhi pancahi vasìtàhi vasìbhùtam katvà vitakkàdikamolàrikangam
pahànàya, vicàràdisukhumanguppattiyà padahato yathàkkamam
dutiyajjhànàdayo yathàrahamappenti.
20) Iccevam pathavì kasinàdisu dvàvìsati kammatthànesu
patibhàganimittamupalabbhati. Avasesesu pana appamannà sattapannattiyam
pavattanti.
II. THÍCH VĂN.
- Àdikammika: Người mới tập. Pariyàyena: Theo phương tiện.
Patibhàganimittàrabbha: Dựa trên tợ tướng. Cittena samuggahitam: Ðược
tâm chấp nhận. Cakkhunà passantasseva: Giống như
được mắt thấy. Bhàvanamanuyunjantassa:
Với người đang tu tập.
Vatthudhammavimuccitam: Giải thoát khỏi những tỳ vết. Pannatti: Thi
thiết, khái niệm, giả danh, giả pháp, Bhàvanàmayamàlambanam: một
đối tượng nhờ định sanh. Sannissinnam: Khéo
an trú. Samappitam: khéo tập trung. Nipphanna: Ðược tạo ra, làm
ra. Samàsevati: Khéo liên hệ, khéo thực hành. À-vajjanà: Sự chuyển
hướng. Samàpajjanà: Sự nhập định. Aditthànà:
Sự trú định Vutthànà: Sự xuất
định. Paccavekkhanà: Sự quán sát.
Pancavasità: 5 pháp tự tại. Padahati: Cố gắng, chấp nhận,
đối mặt. Sattapannatti. Lấy khái niệm chúng
sanh.
III. VIỆT VĂN.
- 15 - 19) Trong ba tướng, chuẩn bị tướng, thủ tướng có thể chứng
được trong mọi trường hợp, tùy theo
đối tượng. Nhưng tợ tướng chỉ có thể chứng
được với các biến xứ quán pháp, bất tịnh pháp, thân phần pháp và
sổ tức mà thôi.
Chính nhờ tợ tướng mà cận hành định và
an chỉ định được thực hiện như thế nào?
Dầu đối tượng nào trong các biến xứ
quán pháp như địa biến xứ v.v... mà
một người mới tập sự dùng, đối tượng ấy
được gọi là chuẩn bị tướng. Sự tu tập ấy
được gọi là chuẩn bị tu tập. Khi
tướng ấy được tiếp nhận bởi ý và vào
trong ý môn, như là được thấy bởi con mắt,
tướng ấy được gọi là thủ tướng (uggahanimittam). Sự tu tập ấy
được trở thành khá
định tĩnh.
Cũng vậy, khi một tợ tướng, nhờ định
sanh ra, thoát khỏi các tỳ vết ban sơ, được chấp nhận như một khái niệm;
được khéo an trú và tập trung trong tâm trí của một người khéo
định tĩnh, người này tu thiền trên
thủ tướng nhờ chuẩn bị định, như vậy khi ấy
có thể nói rằng tợ tướng đã sanh.
Sau đó, cận hành
định, thoát ly khỏi các ràng buộc,
thuộc Dục giới khởi lên. Rồi vị tu tập tợ tướng với cận hành
định, chứng được sơ thiền của các giới. Bắt
đầu từ đây, do đặt Sơ Thiền này dưới sự kiểm soát của mình bằng năm
pháp tự tại - chuyển hướng, nhập định, trú định, xuất định, quán sát -
vị ấy tinh cần tu tập, do loại bỏ các thô pháp như tầm v.v... và
do phát triển các tế pháp như tứ v.v..., chứng
được, theo thứ lớp, tùy theo trường
hợp, nhị thiền và các thiền kế tiếp.
20) Như vậy, với 22 nghiệp xứ (hay tu pháp) như
đất v.v... chứng được tợ tướng. Nhưng trong
18 nghiệp xứ còn lại, các vô lượng tâm dùng khái niệm chúng sanh
làm đối tượng tu hành.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Kammatthànà nghiệp xứ, hành xứ hay công án. Danh từ này ở
đây dùng theo nghĩa chuyên môn Kamma:
hành động, đây chỉ hành thiền, Thàna:
là xứ, đây chỉ đối tượng tu hành.
Kammatthànà chỉ cho 40 đối tượng tu hành.
Samatha: chỉ, từ ngữ nguyên Sam, làm cho nhiếp phục, an chỉ, do nhiếp
phục các triền cái. Với chỉ hay định, các
phiền não chỉ được nhiếp phục tạm
thời.
Vipassanà: Quán, từ ngữ căn vi + dis, thấy
nghĩa là thấy sự vật là vô thường, khổ và vô ngã. Mục
đích của quán là thấy sự vật cho
đúng với thật tánh để có thể giải thoát.
Carita: Hạnh nghĩa là bẩm tánh của một cá nhân,
được phát lộ một cách hồn nhiên, khỏi
phải bị lo lắng chút gì. Bẩm tánh con người khác nhau vì hành
động mỗi người khác nhau. Có người tánh tham
nặng (Ràgacarita), có người tánh sân nặng (dosacarita), có người
tánh si nặng (mohacarita) - Vitakkacarita là người tánh hay giao
động. Saddhàcarita là người nặng lòng
tin, và Buddhacarita là hạng người thông minh. Như vậy có 6 loại tánh,
phối hợp lại với nhau có đến 63 tánh, cộng thêm
ditthicarita, kiến hành giả, có tất cả là 64 tánh.
Những giai đoạn sơ khởi trong sự tu hành
được gọi là Parikammabhàvanà, chuẩn bị
tu tập. Từ khi chứng được tợ tướng và
tạm nhiếp phục các triền cái đến Gotrabhù
(chuyển tánh) trong lộ trình Jhàna Javana (Thiền tốc hành)
được gọi là Upacàrabhàvanà hay Cận
hành tu tập. Tâm sát-na liền sau chuyển tánh
được gọi là Appanà hay An chỉ tâm, vì tầm tâm sở (vitakka), thiền
chi thứ nhất an trú mạnh và chắc vào đối
tượng.
Lộ trình thiền tâm như sau: Ý môn hướng tâm - chuẩn bị tâm - Cận hành
tâm - Thuận thứ tâm - Chuyển tánh tâm - An chỉ tâm - Hữu phần.
Mọi đối tượng tu hành như Kasina
(Biến xứ quán pháp), dùng để chuẩn bị tu tập
gọi là Parikammanimitta (chuẩn bị tướng). Cùng một
đối tượng ấy, khi tâm thấy với hai mắt nhắm
gọi là Uggahanimitta (Thủ tướng). Hình ảnh tưởng tượng của
đối tượng ấy, thoát khỏi mọi tỳ vết, được gọi
là Patibhàganimitta (Tợ tướng), khi
được dùng để tu tập cho Cận hành
tu tập và An chỉ tu tập.
Kasina: Biến xứ quán pháp, nghĩa là hoàn toàn,
đầy đủ, khắp tất cả, sở dĩ gọi vậy vì
ánh sáng phát xuất từ tợ tướng chiếu khắp tất cả không có hạn chế.
Sự diễn tiến toàn diện trong sự tu tập Samatha (chỉ) từ khi ban sơ cho
đến chứng quả sơ thiền được diễn tả sơ lược
như sau:
Người tu hành lựa một đối tượng (Kammatthàna)
tùy theo tánh tình của mình, và nếu được, nên
hỏi ý kiến vị Thiền sư. Rồi người tu tập hạn chế mọi tư tưởng phiêu lưu và
chú tâm vào đối tượng được đặt tên
chuyên môn là Parikammanimitta (Chuẩn bị tướng).
Vị này ngó đối tượng với cặp mắt đều đặn và
hoàn toàn chú tâm vào đối tượng ấy. Khi người
ấy hoàn toàn chú tâm như vậy, một hình ảnh của
đối tượng hiện ra, dầu hai mắt vẫn nhắm.
Ðây là quả chứng đầu tiên trong
diễn tiến tu hành. Hình ảnh này có đủ các tỳ
vết của đối tượng và được gọi là
Uggahanimitta hay Thủ tướng.
Người tu hành cảm thấy tâm đã an
bài, tâm hoan hỷ chú tâm vào thủ tướng. Sau khi vẫn tiếp tục tu hành, các
tỳ vết của thủ tướng bị tiêu diệt và trở thành một hình tròn thật sáng
suốt. Hình ảnh này được gọi là
Patibhàganimitta hay tợ tướng. Ðây cũng là một thành quả quan trọng nữa
của vị tu hành. Nhưng điều nên nhớ là
Tợ tướng chỉ có thể khởi lên khi tu hành với 22 Kammatthàna hay nghiệp xứ,
tức là 10 Kasina (Biến xứ quán pháp), 10 Bất tịnh quán, Kàyagatasati (thân
phần niệm) và Ànàpànasati (Sổ tức quán).
Chuẩn bị tướng và Thủ tướng có thể chứng
được với tất cả Kammatthàna (nghiệp xứ).
Khi tợ tướng hiện ra, cận hành định trở thành
rất mạnh và mọi triền cái được diệt trừ và
5 thiền chi: Tầm, tứ, hỷ, lạc, nhứt tâm được
hiện khởi, sơ thiền chứng được và đạt
đến An-chỉ định (Appanà).
Ðến đây, người tu hành thận trọng
không muốn chứng các cảnh giới thiền cao hơn, trước khi huấn luyện, cảnh
giới thiền mới chứng được cho thuần thục. Có
5 phương pháp huấn luyện cho cảnh giới thiền được thuần thục:
i) người tu hành phải có thể chứng cảnh giới thiền bất cứ lúc nào và
chỗ nào cũng được. Như vậy gọi là
àvajjanàvasì hay chuyển hướng tự tại.
ii) Người tu hành phải có thể nhập thiền bất cứ lúc nào và chỗ nào
cũng được. Như vậy gọi là
Samàpajjanà vasì hay nhập thiền tự tại.
iii) Người tu hành phải có thể an trú cảnh giới thiền bất cứ lúc nào
và chỗ nào, và lâu dài hay ngắn hạn tùy theo ý muốn. Như vậy gọi là
Adhitthànà vasì hay an trú tự tại.
iv) Người tu hành phải có thể xuất định
bất cứ lúc nào và chỗ nào cũng được.
Như vậy gọi là Utthàna vasì hay xuất
định tự tại.
v) Người tu hành phải có thể quán sát trở lại cảnh giới thiền bất cứ
lúc nào và tại chỗ nào, lâu mau tùy theo ý muốn. Như vậy gọi là
Paccavekkhanà vasì hay quán sát tự tại.
Cách làm Pathavikasina (Ðịa biến xứ) như sau. Làm một hình tròn, một
gang bốn ngón tay đường kính, trét đất sét màu
hồng trời bình minh, ấn xuống cho bằng phẳng. Nếu không có
đủ đất sét màu hồng, có thể dùng
đất sét khác đặt ở dưới. Vòng tròn ấy
được gọi là Kasina mandala hay
pari-kammanimitta (Chuẩn bị tướng). Người tu hành
đặt hình tròn ấy cách xa mình khoảng 2
1/2 cubits (18 đến 22 inches - 1 inch = 2,54
phân), rồi chú tâm vào đối tượng ấy,
vừa nói thầm Pathavi v.v... Sau một thời gian tu tập, người tu hành
có thể nhắm mắt nhưng vẫn thấy đối tượng.
Ðối tượng ấy được gọi là
Uggahanimitta hay thủ tướng. Rồi vị ấy chú tâm
đến thủ tướng cho đến khi chứng được tợ
tướng, không còn những tỳ vết cũ. Tướng ấy
được gọi là Patibhàganimitta hay Tợ
tướng. Khi người tu hành luôn luôn chú tâm trên tợ tướng, vị ấy chứng
được cận hành
định. Ðến
đây 5 triền cái được nhiếp phục và cuối cùng chứng
được An chỉ định.
Ðối với thủy biến xứ (àpokasina), có thể dùng một chậu
đầy nước không có màu, tốt hơn là nước
mưa và chuyên chú trên đối tượng ấy và
nói thầm "àpo, àpo", cho đến khi chứng được
nhất tâm. Muốn làm Hỏa biến xứ (tejokasina) thời
đốt lửa lên rồi ngồi nhìn
đống lửa ấy ngang qua một lỗ tròn,
trên một tấm thảm, một miếng da hay một miếng vải khoảng một gang bốn ngón
đường kính và nói thầm "tejo, tejo".
Muốn tu Phong biến xứ (vàyokasina), chú tâm vào gió thổi ngang qua khung
cửa sổ hay một lỗ trong vách và nói thầm "vàyo, vàyo". Muốn làm sắc biến
xứ (Rùpakasina), người ta dùng hình tròn theo
đúng kích tấc rồi bôi màu xanh, vàng,
đỏ hay trắng, và chú tâm vào màu ấy và thầm
đọc tên màu mình
đang dùng
để tu hành. Người ta dùng các bông hoa có màu xanh, vàng,
đỏ để tu tập. Quang biến xứ (àlokakasina)
có thể dùng mặt trăng hay ánh sáng đèn
không rung động hay trên vòng sáng
chiếu trên tường do mặt trăng hay mặt trời
chiếu vào ngang qua lỗ vách v.v..., và vừa nói thầm "àloka v.v..."
Àkàsakasina, không biến xứ có thể dùng một lỗ hổng, một gang tay và 4 ngón
tay đường kính, trong một ngôi nhà
đóng kín, hay một miếng da hay bức tường
v.v... và nói thầm "akàsa, akàsa".
Ànàpànasati (Sổ tức) là tĩnh niệm trên hơi thở, một phương pháp tu hành
hiện rất phổ thông. Àna nghĩa là thở vào, apàna nghĩa là thở ra, có thể
hiểu trái ngược. Sau đây là một vài
chỉ dẫn sơ lược về pháp môn này.
Sau khi lựa một thế ngồi thích hợp, thở ra rồi ngậm miệng. Xong thở vào
thong thả nhẹ nhàng ngang qua lỗ mũi rồi đếm
một. Rồi thở ra và đếm hai, chú tâm
theo hơi thở ra vào. Như vậy đếm cho
đến 10, luôn luôn chú tâm vào hơi thở. Ban
đầu rất dễ tán loạn tâm nên quên
đếm thường xảy ra. Không có gì
đáng ngại điều đó, chịu khó đếm lại và
hết sức chú tâm vào hơi thở. Dần dần con số có thể tăng
thêm, nhiều lần 10 số. Sau có thể không cần
đếm khi đã thuần thục. Có người thích
đếm, có người không, tùy theo căn
cơ. Ðiểm cần là chú tâm, chớ không phải
đếm. Sau khi tu pháp môn này, thâm tâm
cảm thấy nhẹ nhàng và an tịnh, như bay nổi trên hư không. Phương pháp này
có thể khiến con người nhận chân được tánh vô
thường của sự vật, vì thấy thân thể tùy thuộc vào hơi thở. Hơi thở
ngưng thì thân chết.
I. PÀLI VĂN.
- 21) Àkàsavajjitakasinesu pana yam kinci kasinamugghàtetvà
laddhamàkàsam anantavasena parikammam karontassa pathamàruppamappeti.
Tameva pathamàruppavinnànam anantavasena parikammam karontassa
dutiyàruppamappeti. Tameva pathamàruppavinnànabhàvam pana natthi kinci
ti parikammam karontassa tatiyàruppamappeti. Tatiyàruppam santametam
panìtametanti parikammam karontassa catutthà-ruppamappeti.
22) Avasesesu ca dasasu kammatthànesu
buddhagunàdi-kamàlambanamàrabbha parikammam katvà tasmim nimutte
sàdhukamuggahite tatth’eva parikammam ca samàdhiyati, upacàro ca
sampajjati.
II. THÍCH VĂN.
- Ugghàteti: mở ra, loại trừ. Bhàva: sự hiện hữu. Buddhagunà: các
đức tánh của Ðức Phật.
Sàdhukamuggahite: khéo nắm giữ.
III. PÀLI VĂN.
- 21) Nay, đối với vị tu định lấy hư
không làm đối tượng, loại trừ tất cả
biến xứ pháp chỉ trừ hư không biến xứ pháp và suy nghĩ "hư không
là vô biên", thời sơ thiền vô sắc giới khởi lên. Ðối với vị tu
định lấy sơ thiền vô sắc giới làm
đối tượng, suy nghĩ "Thức là vô
biên", thời đệ nhị thiền vô sắc giới khởi lên.
Ðối với vị tu định lấy sự không có của sơ
thiền vô sắc giới làm đối tượng, và
suy nghĩ "không có vật gì tất cả", đệ tam
thiền vô sắc giới khởi lên. Ðối với vị tu hành, lấy
đệ tam thiền vô sắc giới làm
đối tượng và suy nghĩ "tâm này an
tịnh, tâm này cao thượng", đệ tứ thiền vô
sắc giới khởi lên.
22) Trong 10 nghiệp xứ (đối tượng tu hành)
còn lại, khi sự chuẩn bị tu tập hướng đến
các đối tượng như các đức tánh của Ðức Phật v.v... và khi tướng
ấy được nắm giữ chặt chẽ, khi ấy vị tu hành
được định tĩnh, và cận hành
định được thành tựu.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Brahmavihàra: hay 4 vô lượng tâm, Từ, Bi, Hỷ, Xả. Brahma: Phạm, chỉ
những vị trí cao thượng. Vihàra: Trú, phương pháp, lối sống. Cũng dùng
danh từ Appamannà hay vô lượng tâm. Sở dĩ gọi vậy vì tâm này mở rộng cho
tất cả chúng sanh.
i) Mettà, (sanskrit: Maitri): Từ, được
định nghĩa làm cho lòng mềm lại. Ðây không phải ái tình xác thịt
hay tình thương riêng biệt. Kẻ thù trực tiếp của Từ là sân hận (kodha), kẻ
thù gián tiếp là pema (ái tình). Từ bao trùm tất cả chúng sanh, không trừ
một ai. Tột đỉnh của Từ là sự thể nhập
cá thể với toàn thể chúng sanh, tha thiết muốn tất cả chúng sanh
được hạnh phúc. Thái độ thương tưởng là
cử chỉ chính của Từ.
ii) Karunà: Bi, được định nghĩa như cái gì
làm cho tâm rung động khi thấy người khác đau
khổ hay khiến làm cho người khác đỡ
đau khổ. Ðặc tướng chính là lòng ao ước muốn các người khác hết
đau khổ. Kẻ thù trực tiếp của Bi là
lòng độc ác (hinsà) và kẻ thù gián
tiếp là ưu (domanassa). Bị bao trùm tất cả chúng sanh
đau khổ và diệt trừ
độc ác.
iii) Mudità: Hỷ. Ðây không phải cảm tình suông mà cả một niềm hoan hỷ
khi thấy người khác thành công hay phú quý. Kẻ thù trực tiếp là ganh ghét
và kẻ thù gián tiếp là Pahàsa (hỷ tiếu). Ðặc tướng của Hỷ là sự vui vẻ khi
thấy người khác được giàu sang và
thành công. Hỷ bao trùm các chúng sanh được
giàu sang. Hỷ trừ diệt arati (không hoan hỷ) và là thái
độ tán thưởng của con người.
iv) Upekkhà (Xả) là xem một cách vô tư, không thích không ghét. Không
phải là thản nhiên, nhưng chính là tâm trí thăng
bằng, thái độ thăng bằng giữa những thành công thất bại của
đời, giữa khen chê, khổ lạc,
đắc thất, có danh không danh. Kẻ thù
trực tiếp là ràga (tham) và kẻ thù gián tiếp là lòng sắt
đá, tàn nhẫn. Xả diệt trừ chấp thủ và
ghét bỏ. Thái độ vô tư là
đặc tướng của Xả. Xả không phải là cảm
giác trung lập mà chính là một đức tánh tốt
đẹp. 10 Nghiệp xứ chỉ cho 8 niệm + 1 sanna + 1 vavatthana. Với 10 nghiệp
xứ này, không chứng được An chỉ định.
I. PÀLI VĂN.
- 23 - 24) Abhinnàvasena pavattamànam pana rùpàvacarapancamajjhànam
abhinnàpàdakapancamajjhànà vutthahitvà adhittheyyàdikamàvajjetvà
parikammam karontassa rùpàdisu àlambanesu yathàrahamppeti.
Abhinnà ca nàma
Iddhividham dibbasotam paracittavijànanà,
Pubbenivàsànussati dibbacakkhù ti pancadhà.
II. THÍCH VĂN.
- Abhinnà pàdakapancamajjhànà: Thần thông cơ sở
đệ ngũ thiền. Adhittheyyàdikamàvajjetvà:
Sau khi hướng tâm về sự phát nguyện v.v... Iddhividham: Thần túc thông.
Dibbasotam: Thiên nhĩ. Paracittavijànanà: Tha tâm thông.
Pubbenivàsànussati: Túc mạng thông. Dibbacakkhù: Thiên nhãn thông.
III. VIỆT VĂN.
- 23 - 24) Thoát ra khỏi thiền thứ năm
(dùng làm) cơ sở cho thắng trí, và hướng tâm về sự phát nguyện
v.v... khi người tu hành tu tập thiền định
với các sắc pháp v.v..., thiền thứ năm ở sắc giới sẽ khởi lên,
tùy theo trường hợp, khiến cho các thắng trí
được biểu hiện.
Năm pháp thắng trí là: Thần túc
thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thiên nhãn thông.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Tới đây, người tu hành có thể
chứng các thắng trí hay thần thông. Sau khi dùng một
đối tượng nào cũng
được để chứng thiền thứ năm, vị này
khởi lên từ thiền này, làm mọi sự phát nguyện cần thiết
để chứng một thắng trí đặc biệt nào,
chứng được thiền trên
đối tượng ấy rồi thực hành thắng trí
(thần thông). Ở đây, loại thiền mà
người tu hành chứng được trước khi phát
nguyện được gọi là Pàdaka pancama jhàna, hay thiền thứ năm
làm cơ sở cho các thắng trí; và thiền khi làm các thần thông
được gọi là Abhìnnà jhàna (Thắng trí
thiền). Muốn làm thần thông gì, người tu hành từ Pàdakapancamajhàna khởi
lên, làm các phát nguyện cần thiết và chứng
được thắng trí thiền. Thần túc thông tức là bay trên hư không,
đi trên nước,
độn thổ, tạo ra hình tượng v.v...
Thiên nhĩ thông: nghe được tiếng ở xa, nghe
được tiếng muông thú. Tha tâm thông tức là biết
được tâm trí của người khác. Túc mạng thông là
nhớ được những kiếp trước của mình và
của người khác. Thiên nhãn thông, thấy được
những cảnh vật mà mắt phàm không thể thấy
được. Cutùpapàtanàna: Sanh diệt trí
cũng giống như thiên nhãn thông. Anàgatamsanàna: Biết về tương lai
Yathàkammùpaganàna: Tùy nghiệp thú trí. Hai loại trí này
đồng loại với thiên nhãn thông. 5 loại
trí này thuộc thế gian trí. Àsavakkhayanàna: Lậu tận trí thuộc xuất thế
gian.
PHẦN HAI - VIPASSANÀ KAMMATTHÀNA:
Nghiệp xứ của tu quán hay những
đối tượng tu hành
của tu quán.
I. PÀLI VĂN.
- 25 - 29) Vipassanàkammatthàne pana sìlavisuddhi, cittavisuddhi,
ditthivisuddhi, kankhàvitaranavisuddhi, maggàmagganànadassanavisuddhi,
patipadànànadassanavisuddhi, nànadassanavisuddhi ceti sattavidhena
visuddhisangaho. Aniccalakkhanam, dukkhalakkhanam, anattalakkhananceti
tìni lakkhanàni. Aniccànupassanà, dukkhànupassanà, anattànupassanà ceti
tisso anupassànà, dukkhànupassanà. anattànupassanà ceti tisso
anupassànà. Sammassananànam, udayabbayanànambhanganànam, bhayanànam,
àdìnavanànam, muncitukammyatà nànam, patisankhànànam, sankhàrupekkhà
nànam, anulomanànanceti dasa vipassanà nànàni. Sunnato vimokkho,
animitto vimokkho appanihito vimokkho ceti tayo vimokkhà.
Sunnatànupassanà, animittànupassanà, appanihitànupassanà ceti tìni
vimokkhamukkhàni ca veditabbàni.
II. THÍCH VĂN.
- Kankhàvitaranavisuddhi: Ðoạn nghi thanh tịnh.
Maggàmagganànavisuddhi: Ðạo phi đạo tri
kiến thanh tịnh. Patipadànàna dassanavisuddhi: Hành
đạo tri kiến thanh tịnh.
Aniccànupassanà: Vô thường tùy quán. Sammasananànam: Tư duy trí.
Udayabbayanànam: Sanh diệt trí. Bhanganànam: Hoại trí. Bhayanànam: Bố úy
trí. Àdìnavanànam: Quá hoạn trí. Nibbidànànam. Yếm ly trí.
Muncitukammyatà nànam: Dục thoát trí. Patisankhànànam: Giản trạch trí.
Sankhàrupekkhà nànam: Hành xả trí. Anulomanànam: Thuận thứ trí. Sunnato
vimokkho: Không tánh giải thoát. Appanihitavimokkha: Vô nguyện giải
thoát. Vimokkhamukha: Giải thoát môn.
III. VIỆT VĂN.
- 25 - 29) Trong các nghiệp xứ để tu
quán, có bảy thanh tịnh pháp: Giới thanh tịnh, tâm thanh tịnh, kiến
thanh tịnh, đoạn nghi thanh tịnh, đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh, hành
đạo tri kiến thanh tịnh, tri kiến thanh
tịnh. Có ba tướng: Vô thường tướng, Khổ tướng và Vô ngã tướng. Có
ba tùy quán: Vô thường túy quán, Khổ tùy quán, Vô ngã tùy quán. Có 10
loại: Tư duy trí, Sanh diệt trí, Hoại trí, Bố úy trí, Quá hoạn trí, Yếm
ly trí, Thoát dục trí, Giản trạch trí, Hành xả trí, Thuận thứ trí. Có ba
pháp giải thoát. Không tánh giải thoát, Vô tướng giải thoát, Vô nguyện
giải thoát. Có ba giải thoát môn: Không tánh tùy quán, Vô tướng tùy
quán, Vô nguyện tùy quán.
IV. - THÍCH NGHĨA.
- Vipassanà: Quán là giai đoạn thứ ba và
cuối cùng trên con đường đi đến thành
quả. Mục đích chính của quán là thấy
sự việc như thật. Sammasananànam: Tư duy trí là suy tư các uẩn do nhiều
phần tử họp thành. Sanh diệt trí: Suy tư một giai
đoạn khởi lên trong khi một giai
đoạn khác diệt xuống. Hoại trí: Suy nghĩ mọi
vật hướng đến chỗ băng hoại. Bố úy trí: Thế giới như đáng sợ hãi.
Quá hoạn trí: Thế giới đầy những hoạn nạn,
nguy hiểm. Yếm ly trí: Ở đời, rất nhiều sự vật đáng yếm ly. Dục thoát trí:
Thế giới cần phải thoát ly. Giản trạch trí: Lấy trí phân tích sự vật để
giải thoát. Hành xả trí: Thái độ hỷ xả
đối với sự vật hữu vi, không tham, không sân. Thuận thứ trí: Nhờ thực hành
và chứng được 9 trí trên, nên có trí
này. Sở dĩ gọi là thuận thứ vì trí này tùy thuận với 37 trợ
đạo phẩm và hướng
đến giác ngộ, giải thoát.
Không tánh giải thoát: Nhờ quán vô ngã nên
được giải thoát. Vô tướng giải thoát: Nhờ quán vô thường nên không
chấp tướng thường còn. Vô nguyện giải thoát: Nhờ quán khổ, nên không có
muốn tham đắm chút gì.
I. PÀLI VĂN.
- 30) Pàtimokkhasamvarasìlam, indriyasamvarasìlam
àjìvapàrisuddhisilàm, paccayasannissitasìlanceti catupàrisuddhi sìlam,
sìlavisuddhi nàma.
31) Upacàrasamàdhi appanàsamàdhi ceti duvidho pi samàdhi
cittavisuddhi nàma.
32) Lakkhana-rasa-paccupatthàna-padatthàna vasena nàma-rùpapariggaho
ditthivisuddhi nàma.
33) Tesameva ca nàmarùpànam paccaya-pariggaho kankhàvitarana-visuddhi
nàma.
II. THÍCH VĂN.
- Pàtimokkhasamvarasìlam: Biệt giải thoát luật nghi giới.
Indriyasamvarasìlam: Căn luật nghi giới.
Àjìvapàrisuddhisilam: Mạng thanh tịnh giới.
Paccayasannissitasilam: Tư cụ y chỉ giới. Rasa: Vị, tác dụng.
Paccupatthàna: Hiện khởi, hiện trạng. Padatthàna: Trực tiếp nhân.
Pariggaho: Chấp trì, nhiếp thọ, nắm giữ đầy
đủ. Paccaya: Duyên, trợ duyên.
III. VIỆT VĂN.
- 30) Giới thanh tịnh gồm có bốn loại thanh tịnh về giới luật: Biệt
giải thoát luật nghi giới, căn luật nghi
giới, mạng thanh tịnh luật nghi giới, Tư cụ y chỉ giới.
31) Tâm thanh tịnh gồm có hai loại định:
Cận hành định và An chỉ
định.
32) Kiến thanh tịnh nghĩa là sự thấu hiểu trọn vẹn các tướng, tác
dụng, sự hiện khởi và trực tiếp nhân của sắc pháp và tâm pháp.
33) Ðoạn nghi thanh tịnh nghĩa là sự thấu hiểu trọn vẹn các trợ nhân
của những sắc pháp và tâm pháp ấy.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Pàtimokkhasamvara silàm, Pàtimokkha nghĩa là cái gì giúp cho người
tuân theo khỏi bị sa vào các ác thú. Pà có nghĩa là lời dạy của
đức Phật. Atipamokkha: nghĩa là hết
sức quan hệ. Pàtimokkha có nghĩa là lời dạy căn
bản. Vì giới này gìn giữ không làm các hành
động bất thiện nên gọi là Samvara (Hộ
trì). Sìla đấy có nghĩa là chánh trì
(Samàdhàna), làm cho thăng bằng, định tĩnh.
Cũng có nghĩa là Upadhàrana, chống đỡ,
giúp đỡ. Sở dĩ gọi vậy vì giới có khả năng
điều hòa các ý nghĩ, lời nói, việc làm và hoạt
động như một sự giúp đỡ hộ trì cho các
giới khác.
Indriyasamvarasìla nói đến sự nhiếp phục
các căn. Mạng thanh tịnh giới nói đến đời sống của vị Tỳ Kheo, nuôi sống
bằng những hành vi chân chánh. Ðoạn nghi thanh tịnh là sự
đoạn trừ các nghi hoặc về vấn đề nhân quả,
quá khứ, hiện tại và vị lai. Sở dĩ gọi là thanh tịnh vì
đoạn trừ các tà kiến như tự nhiên
sanh, vô nhân sanh v.v... Ðể chứng được sự
thanh tịnh này, người tu hành suy tư
đến những nguyên nhân tạo ra sắc pháp và tâm pháp hiện tại và những
nguyên nhân bảo trì chúng trong hiện tại, vị ấy hiểu rằng khi thọ sanh,
tâm và sắc pháp hiện tại tùy thuộc vào vô minh, ái, thủ và nghiệp quá khứ,
trong khi đang sống, sắc pháp tùy
thuộc vào nghiệp, tâm, thời tiết và đoàn
thực, còn tâm pháp thời tùy thuộc các căn và
các trần tương đương. Nhờ vậy người tu hành
hiểu nguyên nhân thứ hai trong 4 Ðế và trừ
được Nghi.
I. PÀLI VĂN.
- 34) Tato param pana tathàpariggahitesu sappaccayesu te
bhùmakasankhàresu atìtàdibhedabhinnesu khandhàdinayamàrabbha
kalàpavasena sankhipitvà, aniccam khayatthena, dukkham bhayatthena,
anattà asàrakatthenà ti addhànavasena, santativasena, khanavasena và
sammasananànena lakkhanattayam sammasantassa, tesveva paccayavasena
khanavasena ca udayabbayanànena udayabbayam samanupassantassa ca.
Obhàso pìti passaddhi adhimokkho ca paggaho sukham
nànamupatthànamupekkhà ca nikanti ceti.
Obhàsàdivipassanupakkilesa paribandhapariggahavasena
maggàmaggalakkhana-Vavatthànam maggàmagganànadassanavisuddhi nàma.
II. THÍCH VĂN.
- Tebhùmakasankhàresu: Trong các pháp hữu vi thuộc ba giới.
Atìtabhedabhinna: Chỉ chia theo thời gian như quá khứ v.v...
Sappaccayesu: Khởi lên do nhân duyên. Khandhàdinayamàrabbha: Dựa theo
phương thức uẩn v.v... Sankhipitvà: Sau khi tóm tắt, làm ngắn lại.
Kalàpa: Tu tập, Asàraka: Vô kiên thực. Sammasati: Nắm giữ, xúc chạm,
thâm hiểu, tu thiền, tu tập. Paggaha: Tinh cần. Upatthàna: Cận trú, niệm
trú. Nikanti: Dục cầu, hân cầu. Pariggaha: Chấp trì, chấp trước.
Upakkilesa: Tùy phiền não. Vavatthàna: Xác
định, quyết định.
III. VIỆT VĂN.
- 34) Rồi người tu hành suy tư thiền tưởng trên các tâm pháp và sắc
pháp - những pháp này đã
được nắm giữ thâm hiểu với các nhân duyên
theo cách thức đã nói
đến trước, gồm các pháp hữu vi ở ba giới,
thuộc về quá khứ v.v... tùy theo sự phân loại theo uẩn v.v...
Người tu hành quán các pháp là vô thường vì luôn luôn thay
đổi, là
đau khổ vì đáng sợ hãi, là vô
ngã vì không có kiên thực. Rồi vị ấy quán ba
đặc tánh của các pháp, về phương diện thời
gian, liên tục và sát na. Ðối với vị quán sự sanh diệt của các
pháp với sanh diệt trí, hào quang, hỷ, khinh an, thắng giải, tinh cần,
lạc, trí, niệm trú, xả và sự thích thú (đối
với trạng thái ấy) sẽ khởi lên. Ðạo phi
đạo tri kiến thanh tịnh nghĩa là sự
xác định của các đặc tánh đạo phi đạo nhờ
sự thâm hiểu các hiện tượng như hào quang v.v... là những sự trói
buộc tùy phiền não cho tu quán.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Ðạo phi đạo tri kiến thanh tịnh:
Ðây là pháp thanh tịnh thứ năm. Người tu hành
sau khi trừ nghi hoặc, lại tu quán để hiểu
cho thấu đáo vô thường, khổ và vô ngã. Vị này hiểu
đời sống luôn luôn trôi chảy, không bao giờ
dừng nghỉ, hạnh phúc chỉ tạm bợ và đưa
đến thất vọng hoặc khổ đau. Cái gì vô thường là
đau khổ, và
đã là đau
khổ, thời không có cái gì là thực ngã. Sự sinh diệt các pháp trở
thành quá rõ ràng. Khi người tu hành chú tâm quán tưởng, một hào quang tự
thân mình phát ra do sự tu chứng của mình. Vị ấy cảm thấy hoan hỷ, an lạc,
khinh an. Vị tu hành trở thành tinh cần và hỷ xả. Lòng tin tưởng tôn giáo
mãnh liệt hơn (thắng giải), niệm (sati) vững mạnh hơn và trí trở thành
thuần thục. Hiểu lầm tưởng rằng mình đã
chứng Thánh quả, vì có được hào quang,
người tu hành tha thiết mong cầu (nikanti) trạng thái ấy. Nhưng rồi, vị
này hiểu được, ước vọng ấy chính là
tùy phiền não (upakkilesa) ngăn cản quả chứng
và thật sự mình chưa chứng Thánh quả. Do
đó, vị tu hành cố gắng phân biệt giữa
chánh đạo và tà
đạo (maggàmagga). Sở dĩ gọi là thanh
tịnh, vì làm cho rõ ràng thế nào là chánh
đạo. Vị ấy hiểu đây là chánh đạo, kia
là tà đạo.
I. PÀLI VĂN.
- 35) Tathà paribandhavimuttassa passa tassà udayabbayanànato
patthàya yàvànulomà tilakkhanam vipassanàparamparàya patipajjantassa
nava vipassanà-nànàni patipadànanadassanavisuddhi.
36) Tassevam patipajjantassa pana vipassanà paripàkamàgamma idàni
appanà uppajjissatìti bhavangam
vocchijjitvà-uppanna-manodvàràvàvajjanànantaram dve tìni
vipassanacittàni yam kinci aniccàdilakkhanamàrabbha
parikammopacàrànulomanàmena pavattanti. Yà sikhàppattà sà sànulomà
sankhàrupekkhà vutthànagaminì vipassanà ti pavuccati. Tato param
gotrabhùcittam nibbànamàlambitvà putthujjanagottamabhibhavantam
ariyagottamabhisambhontanca pavattati.
Tassànantarameva ca maggo dukkhasaccam parijànanto samudayasaccam
pajahanto nirodhasaccam sacchikaronto, maggasaccam bhàvanàsena
appanàvìthimotarati. Tato param dve tìni phalacittàni pavattitvà
nirujjhanti. Tato param bhavangapàto hoti. Puna bhavangam vocchinditvà
paccavekkhanànànàni pavattanti.
Maggam phalanca nibbànam paccavekkhati pandito
Hìne kilese sese ca paccavekkhati và na và
Chabbisuddhikkamenevam bhàvetabbo catubbidho,
Nànadassanavisuddhi nàma maggo pavuccati.
II. THÍCH VĂN.
- Udayabbayanànato patthàya yàvànulomà: Bắt
đầu từ sanh diệt trí đến thuận thứ trí.
Paramparà: Truyền thừa, triển chuyển. Patipajjati: Bước vào một
con đường, tuân theo một phương pháp. Paripàka:
Thành thục. Ðạt đến tột đỉnh. Vocchijjitvà:
Sau khi phân đoạn, gián đoạn. Sikhàppattà:
Vutthànugàminì vipassanà: Xuất khởi chi quán. Abhibhavati: Chinh phục,
chiến thắng. Abhisambhonta: Sự chứng đạt,
thành tựu. Otarati: Ði xuống.
III. VIỆT VĂN.
- 35) Sau khi đã thoát ly các
chướng ngại đã nói
đến trước, người tu hành quán ba
pháp ấn, và chứng được 9 quán trí pháp, bắt
đầu từ sinh diệt trí đến thuận thứ trí. Như vậy gọi là Hành
đạo tri kiến thanh tịnh.
36) Sau khi đã tu quán như vậy,
do sự thành thục của pháp tu quán, người tu hành nghĩ: "Nay an chỉ
định sẽ khởi". Rồi hữu phần dừng lại, ý môn
hướng tâm khởi lên, tiếp theo là hai hay ba quán tâm, những quán
tâm này lấy các pháp ấn như vô thường v.v... làm
đối tượng. Chúng được gọi là chuẩn
bị, cận hành và thuận thứ tâm.
Xả trí ấy đối với các pháp hữu vi cùng
với thuận thứ trí khi đã thuần thục
cũng được gọi là xuất khởi chí quán.
Sau đó chuyển tánh tâm, lấy Niết Bàn
làm đối tượng khởi lên, vượt lên
trên phàm phu tánh và đạt đến Hiền thánh
tánh.
Tiếp liền theo tâm ấy là (Dự lưu), Ðạo, biết
được Khổ đế, trừ được Tập đế, chứng được
Diệt đế, tu được Ðạo đế, bước vào
lộ trình của An chỉ tâm.
Tiếp theo là hai hay ba quả tâm khởi lên rồi diệt vào trong Hữu phần.
Rồi Hữu phần dừng lại và quán sát trí khởi lên.
Kẻ trí quán sát Ðạo, quả và Niết Bàn.
Có thể quán sát hay không quán sát các phiền não
đã được
diệt trừ và các phiền não khác.
Như vậy con đường Bốn ngành cần
phải được tu tập tuần tự bởi sáu pháp thanh
tịnh.
Con đường ấy được gọi là Tri kiến
thanh tịnh.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Hành đạo tri kiến thanh tịnh là
thanh tịnh thứ sáu. Ðây là danh từ áp dụng chung cho 9 loại trí, bắt
đầu từ sanh diệt trí cho đến thuận thứ trí.
Thuận thứ trí này khởi lên liền trước Chuyển tánh tâm.
Vutthànugàminìvipassanà: Xuất khởi quán là danh từ dùng chung cho
Sankhàrupekkhànàna (Hành xả trí) và Anulomanàna (Thuận thứ trí). Sở dĩ gọi
vậy vì pháp quán này khiến con người thoát khỏi các ác thú và khỏi các
đặc tánh của pháp hữu vi.
Gotrabhù: Chuyển tánh nghĩa là trừ
được phàm phu tánh. Ðối tượng của tâm
này và Niết Bàn, nhưng sự chứng ngộ Niết Bàn do diệt trừ các phiền não
thiệt sự bắt đầu từ Ðạo tâm sát na
tiếp liền theo đó. Sát na tâm đặc biệt này
ở ba Thánh quả cao hơn được gọi là
Vodàna (Thanh tịnh) vì người tu hành nay đã
trở thành bậc Thánh. Dự lưu đạo tâm khởi lên
sau chuyển tánh tâm chính ở đạo tâm này,
người tu hành hiểu Khổ đế, trừ Tập đế, thực
sự chứng Diệt đế lần đầu tiên trong
đời mình.
Bát Chánh đạo được thành tựu toàn
diện ở giai đoạn này. Tâm sát na này
được gọi là Dự Lưu Ðạo
(Sotàpatti-magga). Sota là lưu, giòng hiền thánh. Àpatti: là vào lần
đầu tiên. Sở dĩ gọi là Magga, vì khi
tâm này khởi lên, các phiền não được diệt
trừ. Ðạo tâm (Maggacitta) chỉ khởi lên một lần trong một
đời người, rồi được tiếp theo bởi 2 hay 3 quả
tâm, trước khi rơi vào Hữu phần (Bhavanga). Ðó là lý do tại sao
Dhamma (Pháp) được gọi là Akàliko
nghĩa là hữu hiệu tức khắc.
Paccavekkhananàna: Quán sát trí. Theo lệ thường, sau mỗi giai
đoạn của 4 Thánh quả, người tu hành
quán sát Ðạo và Quả vừa mới chứng được, quán
sát Niết Bàn vừa mới chứng được, quán
sát các phiền não vừa mới đoạn diệt
được, và trong trường hợp ba Thánh quả
đầu, quán sát các phiền não sẽ phải
đoạn diệt. Một vị A La Hán đã đoạn trừ
tất cả phiền não biết rằng mình đã
giải thoát. Có tất cả 19 loại quán sát trí như vậy, 15 thuộc về ba Thánh
quả trên, 4 thuộc về Thánh quả cuối cùng. Câu Pàli "n’àparam
itthatthàya": Không còn trạng thái như vậy nữa, tức chỉ cho sự diễn
tiến quán sát này.
Nànadassanavisuddhi: Tri kiến thanh tịnh chỉ cho quán trí, một trạng
thái tâm lý giác ngộ được tìm thấy ở
Ðạo tâm. Ở dĩ gọi là thanh tịnh, vì thoát khỏi mọi ô nhiễm và phiền não,
vì đã chứng
được 4 Thánh quả.
I. PÀLI VĂN.
- 37 - 38) Tattha anattànupassanà attàbhinivesam muncantì
sunnatànupassanà nàma vimokkhamukham hoti. Aniccànupassanà
vipallàsanimittam muncantì, animittànupassanà nàma vimokkhamukhạm,
dukkhànupassanà tanhàpanidhim muncantì appanihitànupassanà nàma
vimokkhamukham hoti. Tasmà yadi vutthànagàminì vipassanà anattato
vipassati, sunnato vimokkho nàma hoti maggo. Yadi aniccato vipassati,
animitto vimokkho nàma. Yadi dukkhato vipassati,appanihito vimokkho nàmà
ti ca maggo vipassanàgamanavasena tìni nàmàni labhati. Tathà phalanca
maggàgàmanabhàvanàvasena maggavìthiyam. Phalasamàpattivìthiyam pana
yathàvuttanayena vipassantànam yathàsakam phalamup-pajjamànampi
vipassanàgamanavasena va sunnatàdivimokkhoti ca vuccati. Àlambanavasena
pana sarasavasena ca nàmattayam sabbatha sabbesam pi samameva.
II. THÍCH VĂN.
- Attàbhinivesam: Sự chấp thủ tự ngã. Vipallàsa nimittam: Ðiên
đảo tướng. Panidhi: Thèm muốn, ao
ước. Vipassanàgamanavasena: Tùy theo quán hành.
Maggàgamanabhàvanàvasena: Tùy thuộc sự tu tập theo
đạo hành nào. Phalasamàpatti: Quả
định, đắc quả. Yathàvuttanayena:
Theo như cách thức đã nói
đến trước. Yathàsakam: Mỗi cái tự
mình. Sarasavasena: Tùy theo tác dụng. Samam: Giống nhau.
III. VIỆT VĂN.
-37-38) Ở nơi đây, Vô ngã tùy
quán, diệt trừ được chấp thủ tự ngã
trở thành một giải thoát môn gọi là Chơn không tùy quán. Vô thường tùy
quán diệt trừ được các điên
đảo tướng trở thành một giải thoát
môn gọi là Vô tướng tùy quán. Khổ tùy quán, diệt trừ
được tham ái trở thành một giải
thoát môn, gọi là Vô nguyện tùy quán. Do vậy, nếu với Xuất khởi chí
quán, người tu hành quán vô ngã, Chánh Ðạo ấy
được gọi là chơn không giải thoát.
Nếu Quán vô thường, thời được gọi là
Vô tướng giải thoát. Nếu quán khổ, thời
được gọi là Vô nguyện giải thoát. Như vậy chánh Ðạo
được ba tên tùy theo quán hạnh. Cũng
vậy chánh Quả khởi lên trong Ðạo lộ trình
được ba tên này, tùy thuộc sự tu hành theo Ðạo hành nào.
Tuy vậy, trong lộ trình chứng quả, đối
với vị nào tu quán theo như cách thức
đã nói
đến trước, các quả chứng khởi lên tùy theo các chánh Ðạo, chỉ
được gọi là Chơn không giải thoát
v.v... tùy theo sự quán hành. Nhưng đối với
đối tượng và tác dụng, cả ba tên đều
được áp dụng giống nhau cho tất cả (Ðạo và Quả), trong mọi trường
hợp.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Attàbhinivesa: Chấp thủ tự ngã, như chấp có người hành
động, có người gặt kết quả, đây là
linh hồn, tự ngã của tôi.
Vipallàsanimittam: Ðiên đảo tướng. Có ba
điên đảo tướng: Sannàvipallàsa:
Tưởng điên
đảo, Cittavipallàsa: Tâm
điên đảo.
Ditthivipallàsa: Kiến điên
đảo. Ba điên
đảo này
được trừ diệt nhờ quán vô thường.
Tanhàpanidhi: Những tham ái như cái
này của tôi, đây là hạnh phúc v.v...
I. PÀLI VĂN.
- 39 - 42) Ettha pana sotàpattimaggam bhàvetvà
ditthivicikicchàpahànena pahìnàpàyagamano sattakkhattuparamo sotàpanno
nàma hoti. Sakadàgàmimaggam bhàvetvà ràgadosa-mohànam tanuttà sakadàgàmì
nàma hoti, sakideva imam lokam àgantà. Anàgàmimaggam bhàvetvà
kàmaràgavyàpàdànam anavasesappahànena anàgamì nàma hoti,
anàgantàithattam. Arahattamaggam bhàvetvà anavasesakilesappahànena arahà
nàma hoti, khìnàsavo loke aggadakkhineyyo.
II. THÍCH VĂN.
- Pahìnàpàyagamano: Khỏi phải rơi vào ác thú. Sattakkhattuparamo:
Nhiều nhất là bảy lần. Tanuttà: Làm cho giảm bớt. Aggadakkhineyyo: Ðáng
được tối thượng cúng dường. Khìnàsavo:
Các lậu hoặc diệt tận.
III. VIỆT VĂN.
- 39 - 42) Ở nơi đây, tu tập Dự lưu đạo,
trừ diệt tà kiến và nghi, khỏi rơi vào ác thú, trở thành bậc Dự
Lưu phải sanh vào đời này nhiều nhất
là bảy lần, Tu tập Nhứt lai Ðạo, làm giảm bớt tham, sân, si, người tu
hành trở thành vị Nhứt Lai, chỉ sanh vào
đời này một lần nữa thôi. Tu tập Bất lai Ðạo, diệt trừ hoàn toàn
tham dục và sân, người tu hành trở thành vị Bất Lai, không còn trở lại
đời này nữa. Tu tập A La Hán Ðạo,
diệt trừ hoàn toàn mọi phiền não, người tu hành trở thành bậc A La Hán,
tận diệt các lậu hoặc, đáng được tối thượng
cúng dường ở đời.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Sotàpanno: Vị đã nhập lưu dẫn
đến Niết Bàn
đầu tiên. Có ba hạng Dự Lưu:
i) Những hạng sẽ phải sanh, nhiều nhất bảy lần trong thiên giới hay
nhân giới. Trước khi tái sanh lần thứ 8, những vị này chứng
được A La Hán quả.
ii) Những hạng tái sanh vào các gia đình
quý tộc, hai hay ba lần trước khi chứng quả A La Hán (Kolamkola: Gia
gia).
iii) Những hạng chỉ phải tái sanh một lần, trước khi chứng quả A La
Hán. (Ekabìja: Nhứt chủng).
Một vị Dự lưu tin tưởng Tam Bảo rất mãnh liệt, không bao giờ vi phạm 5
giới hay phạm 5 nghịch tội. Khỏi rơi vào ác thú, các vị này thế nào cũng
được giác ngộ.
Sakadàgàmi: Nhứt lai, những vị chỉ tái sanh làm người một lần nữa. Sau
khi chứng quả Nhất Lai ở đời này, các
vị này có thể tái sanh ở Thiên giới hay chứng quả A La Hán trong khi sống
ở nhân giới. Có 5 hạng Nhứt Lai:
i) Những vị chứng quả Nhứt Lai và nhập Niết Bàn ngay tại cảnh giới
này.
ii) Những vị chứng quả Nhứt Lai tại Thiên giới và nhập Niết Bàn tại
chỗ ấy.
iii) Những vị chứng quả Nhứt Lai ở cảnh giới này và nhập Niết Bàn ở
Thiên giới.
iv) Những vị chứng quả Nhứt Lai ở Thiên giới, và nhập Niết Bàn ở nhân
giới.
v) Những vị chứng quả Nhứt Lai ở cảnh giới hiện tại, và sau khi tái
sanh ở Thiên giới, muốn sanh lại ở nhân giới và nhập Niết Bàn tại cảnh
giới này.
Anàgàmi: Bất lai, không còn sanh vào nhân giới. Các vị này sẽ sanh vào
cõi Suddhàvàsa (Tịnh Cư Thiên) và ở luôn đó
cho đến khi chứng quả A La Hán. Có 5 hạng Bất lai:
i) Những vị chứng Niết Bàn trong tiền bán phần
đời sống ở Tịnh Cư Thiên.
(Antaraparinibbàyi: Trung gian Bát Niết Bàn).
ii) Những vị chứng Niết Bàn trong hậu bán phần
đời sống ở Tịnh Cư Thiên (upahacca
parinibbàyi: Sanh Bát Niết Bàn, tổn hại Bát Niết Bàn).
iii) Những vị chứng Niết Bàn, cần có tinh tấn (sasankhàraparinibhàyi:
Hữu hành Bát Niết Bàn).
iv) Những vị chứng Niết Bàn, không cần tinh tấn
(asankhà-raparinibbàyi: Vô hành Bát Niết Bàn).
v) Những vị vượt qua từ Phạm thiên giới này
đến Phạm thiên khác cao hơn
để chứng Niết Bàn trong Phạm thiên
giới cao nhất. Uddhamsota akanittha-gàmi: Thượng lưu sắc cứu kính thiên
hành giả.
Khi các thiền định được phát triển, tâm
trí trở thành sáng suốt như tấm gương sáng chiếu, soi rõ sự vật.
Nhưng các tâm bất thiện chưa hẳn đã
trừ diệt hoàn toàn, vì với thiền định, các
phiền não tùy miên chỉ tạm nhiếp phục và có thể khởi dậy một cách
bất ngờ. Giới điều hòa lời nói và hành
động, định nhiếp phục tâm trí, chỉ có tuệ,
giai đoạn thứ ba và cuối cùng mới có thể chứng Thánh quả và diệt
trừ tận gốc các phiền não đã
được định tạm thời nhiếp phục.
Ban đầu người tu hành tu tập Kiến
thanh tịnh để thấy như thật các sự vật. Với
nhứt tâm, vị này phân tích cái gọi là con người, và nhận thấy tự
thân chỉ là một sự tổng hợp của các tâm pháp và sắc pháp, luôn luôn thay
đổi biến dịch.
Sau khi đã có quan
điểm đứng đắn về thực tánh cái gọi là
con người, sau khi đã thoát khỏi những
ý niệm sai lạc về tự ngã, người tu hành tìm xem nguyên nhân của tự ngã ấy.
Vị này biết rằng, mọi sự vật ở đời đều do
nhiều nhân duyên họp thành, thuộc quá khứ hay hiện tại, và sự hiện
hữu của đời sống hiện tại là do vô
minh quá khứ (avijjà) và do ái (tanhà), thủ (upàdàna), nghiệp (kamma) và
đoàn thực (àhàra) của hiện tại. Do năm
nhân duyên này, cái gọi là con người sanh ra, và vì nhân quá khứ
chi phối hiện tại, nhân hiện tại cũng sẽ chi phối quả vị lai. Suy tư như
vậy, vị tu hành vượt lên mọi nghi ngờ về quá khứ, hiện tại và tương lai.
Rồi vị tu hành suy tư về lý vô thường, khổ, vô ngã của mọi pháp hữu vi.
Chỗ nào vị này nhìn đến, cũng thấy rõ
ba pháp ấn này chi phối mọi sự vật, đời sống
chỉ là một giòng nước trôi chảy, chi phối bởi nội duyên và ngoại
duyên. Không chỗ nào, vị này thấy hạnh phúc vì mọi vật
đều biến dịch.
Khi tự mình tu quán về thực tánh của đời
sống và luôn luôn chìm sâu trong quán tưởng, một ngày nào
đó, thân mình tự phát hào quang
(obhàsa) trong sự ngạc nhiên của chính mình. Vị tu hành cảm thấy hoan hỷ,
an lạc, khinh an, tu hành tinh tấn hơn, suy tư mãnh liệt hơn, tâm
được an bình, chánh niệm
được mạnh mẽ và trí tuệ trở thành
thuần thục. Hiểu lầm những biến chứng ấy là Thánh quả, nhất là thấy thân
mình có hào quang, người tu hành cảm thấy ưa thích trạng thái này. Nhưng
rồi hiểu rằng những triệu chứng trên là những trở ngại trên
đường tu hành, vị này hướng tâm tu tập
Ðạo phi đạo tri kiến thanh tịnh.
Nhận thức được chánh đạo, vị này tu
tập trở lại, hướng tâm đến sanh trí (udayanàna)
và diệt trí (vayanàna) của mọi pháp hữu vi,
đặc biệt về diệt trí nhiều hơn vì sự biến dịch chịu sự nhận thức rõ
ràng hơn sự sanh khởi. Do đó, vị này
hướng tâm đến diệt trí (bhanganàna) và
nhận thức được cả tâm pháp và sắc pháp
tập hợp thành 5 uẩn luôn luôn biến dịch, không bao giờ giống nhau trong
hai sát na, và người tu hành cảm thấy mọi vật
đều đáng sợ hãi (bhayanàna). Cả thế giới hiện ra như hầm lửa, nguồn
gốc của mọi hiểm nguy. Tiếp theo, vị này hướng tâm
đến quán hoạn trí (àdìnavanàna) thấy
rõ sự nguy hiểm của một thế giới hư ảo và có cảm giác nhàm chán
(nibbidànàna), tiếp theo là một ý chí muốn thoát ly khỏi thế giới giả tạm
này (muncitukàmyatànàna).
Với mục đích này, nhà tu hành tiếp
tục tu quán về ba pháp ấn (patisankhànàna), và sau
đó, có thái độ xả ly với mọi pháp hữu vi -
không tham, không sân đối với sự vật (upekkhànàna: xả trí).
Khi đạt đến trình
độ giải thoát này, vị tu hành lựa một
trong ba pháp ấn để làm
đối tượng đặc biệt để tu hành và nhiệt
tâm tu quán cho đến một ngày nào
đó, chứng được Niết Bàn.
Khi người tu hành chứng được Niết Bàn
lần thứ nhất, vi này được gọi là
Sotàpanna (Dự Lưu), vì đã nhập giòng
hướng đến Niết Bàn. Giòng nước này chỉ
cho 8 Chánh đạo, và vị Dự Lưu không
còn là phàm phu (puthujjana) mà trở thành bậc Thánh (ariya).
Khi chứng được Dự lưu quả, vị tu hành
trừ diệt 3 Kiết sử (samyojàna): Thân kiến, nghi và giới cấm thủ.
Sakkàyaditthi: Thân kiến: Sati + kàya + ditthi, nghĩa là tà kiến xem rằng
một tập thể có hiện hữu. Kàya: tập thể chỉ cho 5 uẩn sắc, thọ, tưởng,
hành, thức uẩn, hay nói một cách khác tâm pháp và sắc pháp. Quan
điểm xem rằng có một tự ngã thường
hằng, khi mà thực sự chỉ là sự kết hợp của tâm pháp và sắc pháp, gọi là
sakkàya ditthi (Thân kiến). Vicikicchà: Nghi ngờ
đối với Phật, Pháp, Tăng, Học giới (Sikkhà),
quá khứ, vị lai, cả quá khứ và vị lai và Lý duyên khởi. Sìlabbataparàmàsa:
Giới cấm thủ, chấp thủ một vài giới cấm và nghi lễ có thể làm con người
được thanh tịnh.
Ðể diệt trừ 7 kiết sử còn lại, vị Dự lưu chỉ sinh lại nhiều nhất 7 lần.
Vị này càng tin tưởng ba ngôi báu, không bao giờ phạm 5 giới, khỏi rơi vào
các ác thú, vì thế nào cũng được giải thoát.
Với lòng tin tưởng càng mới mẻ vì đã
nhìn thấy sơ qua pháp vị Niết Bàn, người tu hành càng tinh tấn tu tập và
chứng quả nhứt lai, với sự giảm thiểu 2 kiết sử kàmaràga: Dục ái và
Patigha: Sân. Khi trừ diệt hoàn toàn 2 kiết sử này, vị tu hành chứng quả
Niết bàn Bất lai, không còn tái sanh ở thế giới này cũng như không còn
sinh ở Thiên giới nào khác, vì mọi Dục ái đã
được đoạn trừ. Sau khi chết, vị này
sanh lên cõi Tịnh Cư Thiên, một cảnh giới dành riêng cho các vị Bất Lai và
A La Hán.
Một cư sĩ có thể chứng quả Bất lai, nếu sống
đời sống độc thân.
Vị Bất Lai, sau khi trừ diệt 5 kiết sử còn lại Rùparàga (Sắc ái),
arùparàga (Vô sắc ái), màna (mạn), uddhacca (Trạo cử), và avijjà (Vô
minh), chứng được quả A La Hán.
Các vị Dự Lưu, Nhứt Lai và Bất Lai được
gọi là Sekha (Hữu học), vì còn phải tu tập. Vị A La Hán
được gọi là Asekha (Vô học) vì không
còn gì phải tu tập.
Một vị A La Hán không còn tái sanh, vì không còn tạo ra các nghiệp
(kamma) mới, và mầm giống tạo thành sắc pháp cũng
được trừ diệt.
Vị A La Hán nhận thức được, những gì
cần làm đã làm xong, một gánh nặng
đã đặt
xuống, mọi hình thức tham ái và mọi bóng dáng vô minh
đã được
trừ diệt. Vị chiêm bái sung sướng,
đứng trên tột đỉnh hơn cả Thiên
giới, thoát ly tất cả nghiệp chướng và kiết sử ở trên
đời.
I. PÀLI VĂN.
- 43 - 45) Phalasamàpattiyo panettha sabbesam pi yathàsakaphalavasena
sàdhàranà va. Nirodhasamàpattisamàpajjanam pana anàgàmìnanceva
arahantananca labbhati. Tattha yathàkkamam
pathamajjhànàdi-mahaggatasamàpattim samàpajjitvà vutthàya tatthagate
sankhàradhamme tattha tatthteva vipassanto yàva àkincannàyatanam gantvà
tato param adhitteyyàdikam pubbakiccam katvà nevasannanàsannàyatanam
samàpajjati. Tassa dvinnam appanàjavànànam parato vocchijjati
cittasantatì. Tato param nirodhasamapanno nàma hoti. Vutthànakàle pana
anàgàmino anàgàmiphalacittam, arahato arahattaphalacittam ekavàramevà
pavattitvà bhavangapàto hoti. Tato param paccavekkhananànam pavattati.
II. THÍCH VĂN.
- Sàdhàranà: Chung cho tất cả. Samàpajjana: Nhập vào,
đi ngang qua. Nirodhasamàpatti: Diệt
tận định. Parato: sau khi. Ekavàram:
Một lần. Pubbakiccam: Tiền công tác.
III. VIỆT VĂN.
- 43 - 45) Ở nơi đây, sự đắc quả là
chung cho tất cả mọi người, tùy theo với quả tương ưng của mình. Nhưng
Diệt tận định chỉ có các vị Bất Lai và
A La Hán chứng được mà thôi.
Trong trường hợp này, một vị tiếp tục chứng các quả
đại hành như sơ thiền v.v... rồi từ
các thiền này khởi lên quán các pháp hữu vi trong mỗi một thiền này. Như
vậy, vị này tiếp tục chứng vô sở hữu xứ thiền. Rồi, sau khi hoàn tất
những tiền công tác như phát nguyện v.v..., vị này chứng Phi tưởng phi
phi tưởng xứ. Sau hai an chỉ tốc hành tâm, dòng tương tục của tâm bị
dừng lại. Tiếp theo vị này chứng Diệt tận
định.
Khi từ định này khởi lên, nếu là
vị Bất Lai, thời Bất Lai quả tâm - nếu là vị A La Hán quả tâm khởi lên
chỉ có một lần rồi chìm xuống Hữu phần. Sau
đó quán sát trí khởi lên.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Nirodhasamàpatti: Diệt tận định. Sở dĩ
gọi vậy vì trong giai đoạn này,
giòng tâm tương tục tạm thời dừng lại không chảy, Tâm dừng lại, nhưng mạng
sống vẫn tiếp tục. Chỉ có vị Bất Lai hay A La Hán
đã chứng các Sắc giới Thiền và Vô sắc
giới Thiền mới chứng được Diệt tận định. Khi
vị tu hành muốn chứng Diệt tận định,
vị này chứng sơ thiền và từ thiền này khởi lên, vị này quán tánh vô
thường, khổ, vô ngã của các pháp hữu vi trong cõi thiền này. Cũng vậy, vị
này chứng các thiền còn lại và quán tương tự cho
đến vô sở hữu xứ ở vô sắc giới. Từ thiền này
khởi lên, vị này phát 4 lời nguyện như sau:
i) Bốn sự cúng dường của mình không bị phá hoại,
ii) Tự mình xuất định khi giáo hội cần đến
mình,
iii) Tự mình sẽ xuất định khi đức Phật cho
gọi
iv) Có nên sống quá hơn bảy ngày từ khi xuất
định.
Vị này phải nghĩ đến tuổi thọ của mình,
vì Diệt tận định này thường kéo dài
đến bảy ngày.
Sau khi đã phát nguyện, vị tu hành
chứng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, cảnh
giới vô sắc cao nhất rồi sống trong định này
đến hai tốc hành sát na tâm. Sau
đó, chứng được Diệt tận định khi giòng
tâm liên tục được dừng lại. Sau bảy ngày,
người tu hành xuất định này, và chứng
được trong một sát na, Bất lai quả tâm nếu là
một vị Bất Lai, hay A La Hán quả tâm, nếu là một vị A La Hán. Sau
đó Hữu phần tâm khởi lên.
-HẾT-
Ghi chú:
Có thể tham chiếu thêm với:
1) Vi Diệu Pháp Toát Yếu, bản dịch Việt ngữ của Phạm Kim Khánh
(với đầy đủ các ký tự Pàli).
2) A Manual of Abhidhamma, bản dịch Anh ngữ và chú thích của Hòa
Thượng Narada.
-ooOoo-