CHƯƠNG VI
RÙPA: SẮC
PHẦN MỘT - SAMUDDESA: TÓM LƯỢC
I. PÀLI VĂN
1) Ettàvatà vibhattà hi sappabhedappavattikà.
Cittacetasikà dhammà rùpam dàni pavuccati.
II. THÍCH VĂN:
Ettàvatà: Cho đến đây. Vibhattà:
Ðã chia chẻ, phân biệt. Sappabhêdà: Với những phân loại. Sappavattikà:
Với sự diễn tiến. Cittacetasikà: Tâm và Tâm sở. Rùpam: Sắc. Dàni: Nay.
Pavuccati: Ðược nói đến.
III. VIỆT VĂN:
Từ trước cho đến đây, đã phân
biệt các tâm và tâm sở pháp với những phân loại và các diễn tiến. Nay sẽ
nói đến các sắc pháp.
IV. THÍCH NGHĨA:
Từ trước cho đến đây là chỉ chương
I cho đến chương V đã phân tích các
tâm (citta) và các tâm sở (Cetasikà). Với các phân loại là chỉ cho chương
I, chương II và chương III đã phân
tích các loại tâm và tâm sở một cách chi ly và rõ ràng. Với sự diễn tiến
là chỉ cho chương IV đã nói
đến 7 loại lộ trình của tâm trong khi
đang sống, và chương V
đã nói
đến các cảnh giới và sự diễn tiến của tâm thức khi tái sanh
(Patisandhicitta).
I. PÀLI VĂN
2) Samuddesà vibhàgà ca samutthànà kalàpato
Pavattikkamato càti pancadhà tattha sangaho.
II. THÍCH VĂN:
Samuddesà: Tổng kê. Vibhàgà: Các phân loại. Samutthànà: Sự sanh khởi.
Kalàpa: Các tổng hợp. Pavattikkama: Hình thức diễn tiến. Pancadhà: Có 5
phần. Tattha: Ở đây. Sangaho: Tập yếu.
III. VIỆT VĂN:
Nay chúng ta bàn đến tổng yếu của sắc
pháp theo 5 đề mục như sau: Tổng kê, Phân loại, Sự sanh khởi, các
tổng hợp và hình thức diễn tiến của các sắc pháp.
IV. THÍCH NGHĨA:
Một hòn đá có sắc trắng, cứng, tròn
và nặng. Ðó là những đặc tánh của hòn
đá. Chúng ta không thể tìm thấy một
hòn đá mà không có những
đặc tánh trên hay những
đặc tánh khác. Nói một cách khác, chúng ta
khó có thể nghĩ đến sự hiện hữu của một vật chất ngoài những
đặc tánh liên hệ của vật chất ấy. Nếu
chúng ta loại trừ những đặc tánh của một thân
thể thời thân thể tự dưng không còn tồn tại. Các sắc pháp thật sự
chỉ là sự tổng hợp của những đức tánh luôn
luôn biến động. Do vậy các sắc pháp được tên là Rùpa nghĩa là những
gì luôn luôn biến động. Chữ Rùpa chỉ
chung cho các sắc pháp và chỉ riêng cho những
đối tượng con mắt thấy.
Chữ Samuddesà có nghĩa là giải
thích sơ lược.
Samutthànà: bàn đến sự sanh khởi các phần
tử của sắc phép như 10 phần tử sắc pháp tác thành con mắt v.v...,
do 4 nguyên nhân tạo ra là Kamma (nghiệp), Citta (tâm), Utu (thời tiết) và
Àhàrà (đồ ăn).
Kalàpa chỉ cho những tổng hợp tạo
thành sắc pháp như thân thập pháp, mắt thập pháp v.v...
Pavattikkamà chỉ cho sự hiện thành các sắc pháp tùy theo sanh thú, thời
gian và các loại chúng sanh.
I. PÀLI VĂN.
3) Cattàri mahàbhùtàni catunnam ca mahàbhùtànam upàdàya rùpam ti
duvidhampetam rùpam ekàdasavidhena sangaham gacchati.
II. THÍCH VĂN:
Cattàri mahàbhùtàni: Bốn Ðại chủng Catunnam Mahàbhùtànam upàdàya
rùpam: Tứ Ðại chủng sở tạo sắc. Duvidham: Hai loại. Ekàdasavidha: 11
thứ. Sangaham gacchati: gồm có.
III. VIỆT VĂN:
Sắc pháp có 2 loại: 4 Ðại chủng và những sắc do 4 Ðại tạo thành. Hai
loại này gồm tất cả 28 sắc pháp.
IV. THÍCH NGHĨA:
Mahàbhùtàni là 4 Ðại chủng tức là Ðịa, Thủy, Hỏa và Phong, bốn phần tử
căn bản không thể rời nhau và tác
thành mọi sắc pháp, từ nhỏ đến lớn, từ vi
trần cho đến núi cao.
Upàdàya rùpàni là Tứ Ðại Sở tạo
sắc, là các sắc do 4 Ðại họp lại tác thành. Cái gì cứng gọi là Ðịa
đại, tánh cứng không thể tách rời Ðịa
đại mà chính là căn
tánh của Ðịa đại. Không có Ðịa
đại nào mà không cứng. Cũng vậy, cái
gì ướt là Thủy đại, cái gì nóng là Hỏa
đại và cái gì
động là Phong
đại. Các sắc pháp khác, do 4 Ðại chủng
này tác thành gọi là 4 Ðại sở tạo sắc hay Upàdàya rùpàni.
I. PÀLI VĂN:
4. a) Pathavì - dhàtu, àpo - dhàtu, tejodhàtu, vàyo-dhàtu bhùtarùpam
nàma. Cakkhu, sotam, ghànam, jivhà, kàyo, pasàda-rùpam nàma. Rùpam,
saddo, gandho, raso, àpodhàtu-vajjitam bhùtattayasankhàtam photthabbam
gocararùpam nàma. Itthattam purisattam, bhàva-rùpam nàma. Hadayavatthu
hadayarùpam nàma. Jivitindriyam Jivita-rùpam nàma. Kabalinkàro àhàro
àhàra-rùpam nàma.
b) Iti ca atthàrasavidhampetam rùpam sabhàvarùpam salakkhanarùpam,
nipphanna-rùpam, rùpa-rùpam sammasana-rùpam ti ca sangaham gacchati.
II. THÍCH VĂN:
Pathavì-dhatu: Ðịa giới. Àpo-dhàtu: Thủy giới. Tejo-dhàtu: Hỏa giới.
Vàyo - dhàtu: Phong giới. Bhùta-rùpam: Ðại chủng sắc. Cakkhu: Mắt.
Sotam: Tai. Ghànam: Mũi. Jivhà: Lưỡi. Kàyo: Thân. Pasàda-rùpam: Tịnh
sắc. Rùpam: Sắc. Saddo: Tiếng. Gandho: Hương. Raso: Vị. Àpovajjitam: Trừ
thủy đại. Bhùtattayasankhàtam: Ðược
gọi là ba Ðại chủng. Photthabbam: Xúc. Gocararùpam: Hành cảnh sắc.
Itthattam: nữ tánh. Purisattam: Nam tánh. Bhàvarùpam: Bản tánh sắc.
Hadayavatthu: Tâm cơ. Hadayarùpam: Mạng sắc, Tâm sở y. Jìvitindriyam:
Mạng-căn.
Jìvitarùpam: Tâm sắc. Kabalinkàro àhàro: Ðoàn thực. Àhàra-rùpam: Thực
sắc. Atthàrasavidham: 18 loại. Sabhàvarùpam: Tự tánh sắc.
Salakkhana-rùpam: Tự tướng sắc. Nipphannarùpam: Sở-tạo-sắc. Rùpa-rùpam:
Sắc sắc. Sammasanarùpam: Tư duy sắc.
III. VIỆT VĂN:
a) Ðịa giới, Thủy giới, Hỏa giới, Phong giới gọi là Ðại chủng sắc.
Mắt, tai, mũi, lưỡi thân gọi là Tịnh sắc. Sắc, tiếng, hương, vị và xúc
cũng gọi là ba đại chủng trừ Thủy đại, được
gọi là Hành-cảnh sắc. Nữ tánh, nam tánh gọi là Bản tánh sắc. Tâm
cơ gọi là Tâm sở y sắc. Mạng căn gọi là
mạng sắc. Ðoàn thực gọi là thực sắc.
b) Như vậy, 18 loại sắc pháp được phân
loại theo tự tánh, tự tướng của chúng, theo khả năng chịu sự chi phối,
chịu sự biến đổi và theo khả năng có
thể dùng để tu quán tưởng.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Dhàtu: Giới, có nghĩa là cái gì có mang theo
đặc tướng của mình.
Pathavì dhàtu gọi là Ðịa giới, vì giống như
đất, nó dùng
để nâng đỡ và làm nền tảng cho các sắc
khác cùng hòa hợp. Pathavì (Phạm văn Prthivi)
cũng viết là Pathavi, puthavi, puthuvi, puthuvi, từ ngữ căn
puth nghĩa là trương ra, dãn ra. Không có Ðịa giới, thời các vật
không thể choán một chỗ nào.
Àpodhàtu: Thủy giới, từ ngữ căn Ap nghĩa là
đến, hay từ à - ngữ căn
pày nghĩa là lớn lên hay tăng lên.
Theo đạo Phật, chính Thủy giới này làm
dính lại các phần tử tạo thành các sắc pháp, khỏi phải phân tán.
Tejodhàtu: Hỏa-giới, từ ngữ căn Tej nghĩa
là làm cho sắc bén, làm cho thành thục. Sự linh hoạt và thành thục
của sự vật là nhờ ở Hỏa đại này. Cả
lạnh và nóng là đặc tánh của Hỏa đại, chớ
không phải lạnh là đặc tánh của Thủy
đại như nhiều người đã hiểu lầm.
Vàyo dhàtu: Phong giới. Vàyo từ ngữ căn Vày
nghĩa là rung động. Tánh của Phong đại là
động, công năng của Phong đại là làm
cho lớn.
Pasàdarùpa: Tịnh sắc là phần tử nhạy cảm của 5 căn
như: con mắt thịt của chúng ta gồm 2 phần:
- Sasambhàra cakkhu: Phù trần căn gồm có
bốn Ðại chủng (Ðịa, thủy hỏa, phong) bốn Ðại chủng sở tạo là sắc,
hương, vị ojà (tư dưỡng tố) và jìvitindriya (mạng-căn).
- Phần thứ hai là Pasàda-rùpa (Tịnh-sắc) là phần ở chính giữa con ngươi
và nhờ tịnh sắc này mà con mắt có thể thấy. Như vậy con mắt gồm có 10 phần
và tịnh sắc là một phần trong ấy. Các Pasàdarùpa khác của tai, mũi, lưỡi,
thân cần được hiểu tương tự. Riêng
tịnh sắc của thân có mặt khắp cả thân thể, trừ ở nơi tóc, móng tay và da
đã khô
đét.
Gocararùpa: Hành-cảnh-sắc tức là đối tượng
của các căn. Rùpa, chữ Rùpa đây chỉ
cho cả màu sắc và hình tướng. Photthabba: xúc, chỉ cho ba Ðại, trừ
Thủy đại, vì Thủy
đại quá tế nhị nên xúc không thể cảm
giác. Ví dụ nước chẳng hạn, lạnh thuộc về Hỏa
đại, mềm dịu của nước thuộc Ðịa đại và
áp lực của nước thuộc Phong đại.
Hadayavatthu: Tâm cơ hay là cứ điểm của
tâm thức. Tập "Dhammasangani" (Pháp tụ) không nói đến sắc pháp này.
Trong tập Atthasàlinì, Hadayavatthu được giải
thích là Cittassa vatthu (cứ điểm của
tâm-thức). Như vậy chúng ta thấy rõ
đức Phật không chỉ rõ một cứ điểm nào
cho tâm thức, hoặc là quả tim hay đầu não.
Trong thời Ngài, theo truyền thống Upanishad, thời quả tim là cứ
điểm của tâm thức. Theo các vị sớ giải như Ngài
Buddhaghosa và Anuruddha, thì cứ điểm của tâm
thức cũng là trái tim. Thật sự đức
Phật chưa thấy chỉ rõ cứ điểm của tâm
thức là chỗ nào và trong tập Patthàna,
đức Phật nói đến cứ điểm của tâm-thức bằng danh từ chung yam rùpam
nissàya (y cứ trên sắc-pháp này).
Jìvitindriya: Ðây chỉ cho sắc-mạng-căn, và
trong 52 tâm-sở có nói đến Danh mạng căn là
một trong bảy Biến-hành tâm-sở. Chính sắc mạng căn
này đã khởi một lần với
Patisandhicitta (Kiết-sanh-thức) khi đi đầu
thai, cũng một lúc với sắc pháp tiên khởi.
Kabalìkàro àhàro: Ðoàn-thực, sở dĩ gọi vậy là các thức
ăn thô cứng có thể viên thành từng
miếng nhỏ. Sabhàvarùpa: Tự-tánh sắc, như tánh cứng, tánh ướt v.v... chỉ
cho tánh của 4 Ðại-chủng.
Salakkhanarùpa: Tự-tướng-sắc, chỉ cho tướng vô thường, khổ, vô ngã của
các sắc-pháp.
Nipphannarùpa: là các sắc-pháp do Kamma (nghiệp), Citta (tâm) v.v...
tạo ra.
Rùparùpa: chữ rùpa đầu theo nghĩa của
ngữ-căn là biến đổi.
Sammasanarùpa, vì các sắc-pháp có thể dùng
để quán tưởng.
I. PÀLI VĂN.
5) Àkàsadhàtu pariccheda-rùpam nàma. Kàya-vinnatti, vacì - vinnatti
vinnatti - rùpam nàma. Rùpassa lahutà, mudutà, kammannatà
vinnatti-dvayam vikàra-rùpam nàma. Rùpassa upacayo, santati, jaratà
aniccatà lakkhana-rùpam nàma Jàti-rùpameva panettha upacayasantatinàmena
pavuccatìti. Ekàdasa - vidhampetam rùpam atthavìsatividham hoti
sarùpavasena.
II. THÍCH VĂN.
- Àkàsadhàtu: Không-giới. Pariccheda-rùpam: Hạn-giới-sắc.
Kàya-vinnatti: Thân-biểu. Vacì-vinnatti: Ngữ-biểu. Vinnatti-rùpa:
Biểu-sắc. Lahutà: Khinh-khoái, lanh nhẹ. Mudutà: Nhu-nhuyến. Kammannatà:
Kham-nhậm. Vinnatti dvayam: Hai biểu sắc. Vikàrarùpam: Biến-hóa-sắc.
Upacaya: Sanh. Santati: Trú. Jaratà: Lão. Aniccatà: Tánh vô-thường.
Lakkhanarùpam: Tướng-sắc. Sarùpavasena: Tùy theo
đặc - tánh của chúng.
III. VIỆT VĂN.
- 5) Không giới được gọi là
hạn-giới sắc. Thân biểu, ngữ biểu được gọi
là Biểu sắc. Tánh kinh - khoái, nhu - nhuyến, kham-nhậm của sắc,
hai biểu sắc được gọi là Biến-hóa
sắc. Sanh-khởi, an-trú, lụn tàn và tánh vô thường của sắc
được gọi là Tướng sắc. Ở
đây tánh sanh-khởi và an-trú cũng
được gọi là Sanh sắc. Như vậy 11
sắc-pháp này được xem như là 28, tùy
theo đặc-tánh sắc pháp của chúng.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Chữ Àkàsadhàtu (Hư-không-giới) được xem
là một trong 28 sắc-pháp, không phải hư không trên trời như thường
được hiểu, mà cốt chỉ khoảng trống
đã hạn chế và phân chia các sắc pháp
với nhau, vì vậy nên mới gọi là Paricchedarùpa (Hạn-giới sắc). Abhidhamma
xem Hư-không-giới được cấu-tạo bởi 4 pháp:
Nghiệp, tâm, thời tiết và đồ ăn.
Vikàrarùpa chỉ cho tánh biến-hóa của sắc pháp.
Lahutà chỉ cho sức khỏe thân thể và được
ví như một thanh sắt được nung đỏ cả ngày.
Mudutà được ví như một tấm da được đập
nhồi thật nhu nhuyến và Kammannatà đối
nghịch với tánh cứng rắn của thân thể và
được ví như vàng khéo giũa, khéo mài.
Lakkhanarùpa: Tướng sắc được gọi vậy vì
có những tướng sai khác trong các giai đoạn
sanh (uppàda), trú (thiti) và diệt (bhanga).
Upacaya (sanh khởi) được xem là sự
sanh khởi đầu tiên của ba thân thập
pháp (kàyadasaka), tánh thập pháp (bhàvadasaka) và cơ thập pháp (vatthu
dasaka), khi mới thác sanh. Sự sanh-khởi tiếp tục của ba thập pháp này, từ
khi thác sanh cho đến mạng chung được xem là
giai đoạn santati (an-trú). Cả giai đoạn
up-acaya và santati đôi khi được xem
như là jàti (sanh). Do vậy, số các sắc pháp chỉ còn 27 chớ không
phải 28. Tuổi thọ của một sắc pháp hữu-vi thường là 17 tâm sát-na. Tâm sát
na đầu là Upacaya, tâm sát-na cuối là
Aniccatà và 15 tâm sát-na ở giữa là Jaratà (già, tàn lụn).
Aniccatà chỉ giai đoạn sắc bị hủy hoại.
Trừ 5 rùpas (sắc-pháp) vinnatti, jàti, jarà và aniccatà, còn 23 sắc
còn lại chỉ được tuổi thọ là 17 tâm
sát-na.
I. PÀLI VĂN.
- 6. Bhutappasàdavisayà bhàvo hadayami-ccapi.
Jìvitàhàrarùpehi atthàrasavidham tathà.
Paricchedo ca vinnatti vikàro lakkhanantica.
Aniphannà dasà ceti attha-vìsavidham bhave.
II. THÍCH VĂN.
- Visaya đây giống như gocara là
hành-cảnh-sắc. Aniphannà: Bất-hoàn-sắc hay phi-sở-tạo-sắc.
III. VIỆT VĂN.
- 6) Như vậy, tóm lại có tất cả là 28 sắc pháp: Ðại-chủng 4, Tịnh sắc
5, Hành-cảnh sắc 4, Bản - tánh sắc 2, Tâm-cơ hay Tâm-sở-y sắc 1, mạng
sắc 1, Thực sắc 1, cộng là 18 sắc. Lại thêm 10 phi-sở-tạo sắc là
Hạn-giới sắc 1, Biểu sắc 2, Biến-hóa sắc 3 và Tướng sắc 4.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Ðoạn này chỉ là đoạn tóm tắt đoạn trước
mà thôi, kể rõ 18 và 10 sắc-pháp, cộng thành 28 sắc pháp tất cả.
PHẦN HAI - RÙPAVIBHÀGO: PHÂN LOẠI CÁC SẮC PHÁP
I. PÀLI VĂN.
- 7. Sabbam ca panetam rùpam ahetukam, sappaccayam, sàsavam,
sankhatam, lokiyam, kàmàvacaram, anàrammanam, appahàtabbamevàti
ekavidhampi ajjhattika-bàhiràdivasena bahudhà bhedam gacchati.
II. THÍCH VĂN.
- Sabbam: Tất cả. Ahetukam: Vô nhân. Sappaccayam: Hữu duyên. Sàsavam:
Hữu lậu. Sankhatam: Hữu vi. Lokiyam: Thuộc thế gian. Kàmàvacaram: Thuộc
dục-giới. Anàrammanam: Phi-sở-duyên. Appahàtabbam: Phi-sở-đoạn.
Ekavidhampi: Chỉ có một. Ajjhattika: Nội sắc. Bàhirà: Ngoại sắc.
Àdi: Vân vân. Bahudhà: Nhiều loại. Bhedam gacchati: Ðược phân chia.
III. VIỆT VĂN
- 7) Tất cả các sắc-pháp là vô nhân, hữu duyên, hữu lậu, hữu vi,
thuộc thế gian, thuộc dục giới, thuộc phi-sở-duyên, phi-sở-đoạn.
Như vậy, sắc-pháp chỉ có một. Nếu chia thành nội-sắc, ngoại-sắc
v.v..., thì sắc pháp chia thành nhiều loại.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Vô-nhân vì các sắc-pháp không tương ứng với các nhân tham, sân, si,
vô tham, vô sân, vô si, Hữu-duyên vì chỉ có sự hiện-hữu tương
đối, liên hệ
đến 4 nguyên nhân Kamma, citta, utu và
àhàra (Nghiệp, tâm, thời tiết và đồ ăn).
Hữu lậu, vì trở thành
đối tượng của dục vọng. Hữu vi, vì bị
chi phối bởi 4 nguyên nhân Kamma, citta, utu, àhàra. Thuộc thế gian, vì
phụ thuộc vào 5 thủ uẩn. Thuộc Dục giới, vì nằm trong phạm vi của giới-vức
Dục lạc.
Phi sở duyên, vì không nhận thức được đối
tượng. Phi sở đoạn, vì các sắc pháp không bị tuần tự phải
đoạn diệt như các phiền não. Ở
đây, không có nghĩa là các sắc-pháp
không bị vô thường chi phối.
I. PÀLI VĂN.
- 8) Pasàdasankhàtam pancavidhampi ajjhattika-rùpam nàma, itaram
bàhira-rùpam.
Pasàda - hadaya - ankhàtam chabbidhampi vatthu - rùpam nàma, Itaram
avatthu-rùpam.
Pasàdavinnattisankhàtam sattavidhampi dvàrarùpam nàma; Itaram
advàrarùpam.
Pasàda-bhàva-jìvitasankhàtam atthavidham pi indriya-rùpam nàma; Itaram
anindriya-rùpam.
Pasàda-visayasankhàtam dvàdasavidham pi olàrika rùpam, santike-rùpam
sappatigharùpan ca; Itaram sukhuma-rùpam durerùpam, appatigha-rùpan ca.
Kammajam upàdinna-rùpam; Itaram anupàdinna - rùpam.
Rùpàyatanam sanidassana-rùpam; Itaram anidassana rùpam.
Cakkhadi-dvayam asampatta-vasena, ghànàdittayam sampattavasena ti
panca-vidhampi gocaraggàhika-rùpam; Itaram agocaraggàhika-rùpam.
Vanno, gandho, raso, ojà, bhùta-catukkam ceti atthavi-dhampi
avinibbhoga-rùpam; Itaram vinibbhoga-rùpam.
II. THÍCH VĂN.
- Sankhàtam: Ðược gọi là. Pancavi-dhampi: Có 5 loại. Chabbidhampi: Có
6 loại. Sattavidhampi: Có 7 loại. Dvàrarùpam: Môn sắc. Advàra-rùpam: Phi
môn sắc. Atthavidhampi: Có 8 loại. Indriya-rùpam: Căn
sắc. Anindriya-rùpam: Phi căn sắc.
Dvàdasavidhampi: có 12 loại. Olàrika-rùpam: Thô sắc.
Santike-rùpam: Cận sắc. Sappatigharùpam: Hữu
đối-sắc. Sukkhuma-rùpam: Tế sắc.
Dùre-rùpam: Viễn sắc. Appatigha-rùpam: Phi hữu
đối sắc. Kammajam: Nghiệp sanh. Upàdinna-rùpam:
Hữu chấp thọ sắc. Rùpàyatanam: Sắc nhập. Sanidassana-rùpam: Hữu kiến
sắc. Anidassana-rùpam: Phi hữu kiến sắc. Cakkhàdi-dvayam: Hai nhãn căn
v.v... Asampattavasena: Không cần đạt đến đối tượng. Gocaragg-àhikarùpam:
Thủ cảnh sắc.
Agocaraggàhikarùpam: Bất thủ cảnh sắc. Vanno: Hiễn sắc. Gandho:
Hương. Raso: Vị. Ojà: Thực tố. Avinibbhogarùpam: Bất-giản-biệt-sắc.
Vinibbhogarù-pam: Giản biệt sắc.
III. VIỆT VĂN.
- 8) Năm loại Tịnh căn gọi là nội
sắc; các sắc khác gọi là ngoại sắc.
Sáu loại Tịnh sắc, tâm sở y gọi là sở y sắc, các sắc khác gọi là Phi
sở y sắc.
Bảy loại Tịnh sắc và biểu sắc gọi là môn sắc; các sắc khác gọi là Phi
môn sắc.
Tám loại Tịnh sắc, Bổn tánh sắc và mạng sắc gọi là căn
sắc; các sắc khác gọi là Phi căn
sắc.
Mười hai loại Tịnh sắc, Hành cảnh sắc gọi là thô sắc, cận sắc, hữu
đối sắc; các sắc khác gọi là tế sắc,
viễn sắc và phi hữu đối sắc.
Các sắc do nghiệp sanh gọi là Hữu chấp thọ sắc; các sắc khác gọi là
Phi hữu chấp thọ sắc.
Sắc nhập gọi là Hữu kiến sắc; các sắc khác gọi là Phi hữu kiến sắc.
Hai nhãn căn và nhĩ căn
không cần đạt đến đối tượng. Ba căn tỷ, thiệt và thân căn
cần đạt đến đối tượng. Năm căn này gọi là thủ cảnh sắc; các sắc
khác gọi là Bất thủ cảnh sắc.
Tám loại sắc, hiễn sắc, hương, vị, thực tố và bốn Ðại-chủng gọi là
Bất giản biệt-sắc; các sắc khác gọi là giản biệt sắc.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Pasàdarùpa: Tịnh-sắc, sở dĩ gọi là căn
sắc vì Tịnh sắc này chi phối 9 sắc còn lại trong 10 sắc. Upàdinnam:
Hữu chấp thọ, vì 18 sắc do nghiệp sanh đều bị
tham - ái và tà - kiến chấp thọ, chi phối. Gocaraggàhikarùpam:
Thủ-cảnh sắc, sở dĩ gọi vậy vì các sắc này lấy 5 trần làm
đối cảnh. Ojà: Thực-tố,
được xem như một sắc-pháp và có khả-năng
tạo ra các sắc khác. Avinibbhogarùpam: Bất giản biệt sắc, vì tám
sắc này không thể rời nhau.
I. PÀLI VĂN.
- 9) Iccevamatthavìsati-vidhampi ca vicakkhanà
Ajjhattikàdibhedene vibhajanti yathàraham.
II. THÍCH VĂN.
- Atthavìsati: 28. Vicakkhanà: Vị sáng suốt. Vibhajanti: chia chẻ,
phân biệt. Yathàraham: Tùy theo.
III. VIỆT VĂN.
- 9) Như vậy, các vị sáng suốt phân biệt có 28 sắc-pháp, tùy theo sự
phân chia theo nội sắc v.v...
PHẦN BA - RÙPASAMUTTHÀNA: SẮC SINH KHỞI
I. PÀLI VĂN.
- 10. Kammam, cittam, utu, àhàro ceti cattàri rùpasamutthànàni nàma.
II. THÍCH VĂN.
- Kammam: Nghiệp. Utu: Thời tiết.
III. VIỆT VĂN.
- 10) Nghiệp, tâm, thời tiết và đồ ăn là
bốn nguyên nhân sanh khởi các sắc pháp.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Ðạo Phật không tìm kiếm nguyên nhân đầu
tiên sinh khởi ra các pháp mà chỉ chấp nhận sự hiện hữu các sắc
pháp và tìm kiếm những ảnh hưởng gì tác thành các sắc pháp. Theo luận
Abhidhamma, có 4 nguyên nhân sanh khởi các sắc pháp: Nghiệp, Tâm, thời
tiết và đồ ăn.
I. PÀLI VĂN.
- 11. Tattha kàmàvacaram rùpàvacaram ceti pancavìsa-tividhampi
kusalàkusalakammamabhisankhatam ajjhattikasantàne kammasamutthànarùpam
patisandhimupà-dàya khane samutthàpeti.
II. THÍCH VĂN.
- Kàmàvacaram: Dục-giới. Rùpàvacaram. Sắc-giới. Pancavìsati: 25.
Kusalàkusalakammamabhi Sankhatam: Tạo ra bởi thiện và bất thiện nghiệp.
Ajjhattikasantàne: Nội-tương-tục. Kammasamutthànarùpam: Sắc do nghiệp
tác thành. Patisandhimupàdàya: Bắt đầu từ
kiết-sanh-thức. Khane khane. Từng sát-na.
III. VIỆT VĂN.
- 11. Ở đây 25 tâm ở Dục-giới và
sắc-giới, bị chi phối bởi thiện, bất thiện nghiệp (ở quá khứ) tác thành
các sắc-pháp do nghiệp sanh trên tự thân người, trong từng sát na bắt
đầu từ kiết-sanh-tâm, (Patisandhi).
IV. THÍCH NGHĨA.
- Kammaja: Do nghiệp sanh. Nghiệp đây chỉ
các Thiện và bất-thiện-nghiệp trong quá khứ, thuộc Dục-giới và
Sắc-giới vì chỉ những nghiệp này mới tạo ra Sắc-pháp. 25 tâm này gồm 12
Bất-thiện-tâm, 8 Thiện-tâm ở Dục-giới và 5 Thiện-tâm ở Sắc-giới. Một
thiện, bất-thiện-nghiệp trong khi lâm chung khiến kiết-sanh-tâm
(Patisandhicitta) khởi lên trong đời sau. Cùng
với kiết sanh tâm này, các sắc-pháp do nghiệp quá khứ chi phối khởi lên
trong từng sát-na, như ngọn lửa của cây đèn,
cho đến tâm sát-na thứ 17, khi con người lâm
chung.
Khi được thai sanh, do kết quả nghiệp quá
khứ, ba loại thập pháp (dasaka) được sanh-khởi; Kàyadasaka (thân
thập pháp), Bhàvadasaka (Tánh thập pháp) và Vatthudasaka (Tâm sở y thập
pháp). Thân thập pháp gồm có 4 Ðại-chủng, 4
đại-sở-tạo (Hiển sắc, Hương, vị, thực tố) mạng-căn và Thân
tịnh-sắc. Tánh thập pháp và Tâm-sở-y thập pháp cũng gồm các pháp tương tợ.
I. PÀLI VĂN.
- 12. (a) Arùpa-vipàka - dvipancavinnàna-vajjitam
pancasattatividhampi cittam cittasamutthànarùpam
pathama-bhavangamupàdàya Jàyantameva samutthàpeti.
(b) Tattha appanà-javanam iriyàpathampi sannàmeti.
Votthapana-kàmàvacarajavanàbhinnà pana vinnattimpi samutthà-penti.
Somanassajavanàni panettha terasa hasanampi janenti.
II. THÍCH VĂN.
- Arù pavipàka: Vô-sắc dị-thục. Dvipanc-avinnàna-vijjitam: Trừ 10
thức. Pancasattatividhampi cittam: 75 tâm. Cittasamutthànarùpam:
Sắc-pháp do tâm sanh. Path-amabhavanganupàdàya: Từ bhavanga
đầu tiên mới sanh. Jày-antam: Ðược
sanh. Appanà-javanam: An-chỉ tốc-hành-tâm. Iriyàpatham: Uy-nghi, cử-chỉ.
Sannàmeti: Làm cho cong xuống. Votthapana: Quyết-định-tâm.
Àbhinnà: Thắng-trí, thần-thông trí. Vinnalti: Biểu-thị.
Somanassajavana. Tốc-hành-tâm câu-hữu với Hỷ. Terasa: 13. Hasana: Tiếu
sanh tâm. Janenti: Làm cho sanh.
III. VIỆT VĂN.
- 12. (a) 75 tâm trừ vô-sắc dị-thục-tâm và 10 thức-tâm, tạo thành các
sắc-pháp do tâm sanh, từ khi hữu phần mới sinh khởi.
(b) Ở đây, an-chỉ tốc-hành-tâm
điều-hòa uy-nghi của thân thể. Nhưng
các quyết-định-tâm, Dục-giới-tốc-hành-tâm
và thắng-trí tạo các (thân) biểu và (khẩu) biểu. Mười ba tốc-hành tâm
câu-hữu với hỷ cũng tạo ra sự cười.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Cittaja: Do tâm sanh, tâm không có hành-tướng nhưng có khả năng
tạo ra sắc-pháp (Rùpa). Nói một cách khác, thiện-tâm và
bất-thiện-tâm tạo ra những sắc-pháp tốt đẹp
hay không tốt đẹp. Ðiều này rất rõ ràng khi nhận xét các hiện tướng
vật lý nơi con người thay đổi do tư tưởng
người ấy thay đổi. Theo Abhidhamma, từ sát-na đầu tiên Bha-vanga
khởi lên, nghĩa là liền sau khi kiết-sanh-thức khởi, các sắc pháp do tâm
tạo đã bắt
đầu được tạo ra. Kiết sanh thức không tạo ra
các pháp do tâm tạo vì đã có
nghiệp (kamma) tạo giúp và vì kiết sanh thức mới sanh vào một
đời sống mới. Không một sắc pháp nào
do tâm sanh được khởi lên, trong giai
đoạn trú và diệt của Sát-na-tâm vì tâm
sát-na khi ấy yếu đuối. Mười tâm thức không
đủ khả năng để cấu tạo các sắc-pháp. Bốn vô-sắc Dị-thục không tạo sắc-pháp
vì các thiền vô-sắc-giới được phát
triển nhờ không tham ái sắc-pháp.
Các Thiền-tâm rất cần thiết để tạo các
sắc-pháp do tâm tạo. Một người chứng cảnh Thiền có thể tạo những sắc-pháp
rất mạnh mẽ khiến người tu thiền có thể sống không cần ăn uống. Những ai
có hoạt động tâm linh mạnh đều có sức mạnh dưỡng sinh. Một người sống thọ
hưởng an lạc Niết-Bàn có thể sống không
ăn uống trong nhiều ngày. Như
đức Phật, sau khi thành
đạo, sống không ăn uống trong 19 ngày.
Trong 79 tâm, 26 Tốc hành-tâm (10 sắc-giới-thiện và Duy-tác-tâm, 8
Vô-sắc-thiện và Duy-tác-tâm cùng với 8 Siêu-thế-tâm) có thể tạo những cử
chỉ thân thể như bay trên không, độn thổ, đi
trên nước v.v...
Ở đây Votthapanacitta (Quyết-định-tâm) là
ý-môn-hướng-tâm (manodvàràvajjana). Các Dục-giới Tốc-hành-tâm (29) là 12
Bất-thiện-tâm, 1 Tiếu-sanh-tâm và 16 Tịnh-quang-thiện và Duy-tác-tâm.
Abhinnà Città (Thắng-trí-tâm) là 2 đệ-ngũ
Thiền thiện và Duy-tác-tâm, câu-hữu với Xả và tương ưng với Trí.
13 Tốc-hành-tâm câu-hữu với Hỷ là 4 Bất-thiện-tâm và 8 Tịnh-Quang-thiện
tâm và Duy-tác-tâm câu-hữu với Hỷ và 1 Tiếu-sanh-tâm câu-hữu với Hỷ.
Các người phàm phu khi cười lớn hay mỉm cười là kinh nghiệm 4 Bất -
thiện - tâm và 4 Tịnh - quang - tâm ; các vị Sekha (Hữu - học) cũng kinh
nghiệm các tâm tương tợ trừ 2 Bất thiện tâm tương ứng với tà kiến. Các vị
A-La-Hán kinh nghiệm 4 Duy-tác-tâm và một Tiếu - sanh - tâm. Các
đức Phật chỉ mỉm cười với 4
Tịnh-quang-Duy-tác-tâm.
I. PÀLI VĂN.
- 13) Sìtunhotusamannàtà tejodhàtu-thitippattà’va utusamutthàna-rùpam
ajjhattam ca bahiddhà ca yathàraham samutthàpeti.
II. THÍCH VĂN.
- Sìtunhotusamannàtà: Gồm cả lạnh và nóng. Tejodhàtu: Hỏa-đại.
Thitippattà: Ðạt đến trú vị.
Utusamutthàna-rufpam: Các sắc-pháp do thời-tiết sanh. Ajjhattam
ca bahiddhà ca: Nội và ngoại.
III. VIỆT VĂN.
- 13) Hỏa đại gồm cả lạnh và
nóng, khi đạt đến trú-vị bắt đầu tạo ra, tùy
theo trường hợp, các sắc-pháp nội và ngoại, do thời tiết sanh.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Chúng ta đã biết khi thác sanh,
nghiệp tạo ra ba: thân thập pháp, tánh thập pháp và Tâm-sở y thập pháp.
Hỏa-đại ở bên trong, gồm trong 3 loại
thập pháp này cùng với hỏa-đại ở ngoài,
tạo ra các sắc-pháp do thời-tiết sanh, tại trú-vị của kiết-sanh-thức. Tại
sanh-khởi-vị, Hỏa-đại do Nghiệp sanh thay thế
hỏa đại do tâm sanh. Utu ở đây được dùng theo nghĩa tejodhàtu (Hỏa-đại)
gồm cả lạnh và nóng. Nói cho thật
đúng, chính Hỏa-đại cả nội với ngoại, tạo ra sắc-pháp. Các sắc-pháp do
thời-tiết chung tạo ra, cũng gồm vào loại do thời-tiết sanh.
I. PÀLI VĂN.
- 14) Ojà-sankhàto àhàto àhàrasamutthà-narùpam ajjho-haranakàle
thànappatto samutthàpeti.
II. THÍCH VĂN.
- Ojà-sankhàto: Ðược gọi là thực-tố. Ajjhoharanakàle: Khi
đang được tiêu hóa. Khànappatto: Khi
đạt đến trú-vị.
III. VIỆT VĂN.
- 14) Món ăn, được gọi là thực
tố, khi được tiêu hóa và
đạt đến trú vị, tạo ra các sắc-pháp do các
món ăn sanh.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Àhàra (món ăn) nghĩa là chất
ăn trong các món ăn vật-chất và ojà
(thực tố) chứa trong các sắc-pháp do nghiệp sanh, do tâm sanh và do thời
tiết sanh. Nội ojà (thực tố), được ngoại thực
tố giúp đỡ mới tạo ra các sắc pháp, khi đạt đến trú vị và trú vị
này kéo dài đến 49 (tiểu) tâm sát-na. Các
sắc-pháp khởi lên khi thực tố được tiêu
hóa khắp thân thể. Nội thực tố một mình không thể tạo ra các sắc-pháp, nếu
không có sự giúp đỡ của ngoại thực tố.
I. PÀLI VĂN.
- 15) Tatha hadaya - indriya - rùpàni kamajàneva. Vinnattidvayam
cittajameva. Saddo cittotujo. Lahutàdittayam utu-cittàhàrehi sambhoti.
Avinibbhoga - rùpàni ceva àkàsadhàtu ca catùhi sambhùtàni. Lakkhana -
rùpàni na kutocijàyanti.
II. THÍCH VĂN.
- Hadaya: Quả tim hay tâm-sở-y. Indriya-rùpàni: Căn
sắc. Sambhoti: Khởi lên. Avinibbhogarùpàni: Bất-giản-biệt-sắc.
Àkàsadhàtu: Hư - không - giới. Sambhùtàni: Ðược sanh ra. Kutoci: Từ
đâu. Jàyanti: Ðược sanh ra.
III. VIỆT VĂN.
- 15) Ở đây quả tim và (8) căn-sắc
do nghiệp sanh. Hai (thân) biểu và (khẩu) biểu chỉ do tâm sanh.
Tiếng do tâm và thời tiết sanh. Ba tánh khinh khoái, v.v... (nhu nhuyến,
kham nhẫn) do thời tiết, tâm và các món ăn
sanh. Bất giản-biệt-sắc và hư-không-giới do 4 nhân sanh. Các
tướng sắc không do một nhân nào khởi ra (vì chúng là tánh tự nhiên của
mọi đời sống).
IV. THÍCH NGHĨA.
- Quả tim hay sở-y-sắc và 8 căn-sắc (mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, nam tánh, nữ tánh và mạng căn)
hoàn toàn do nghiệp sanh. Như vậy Jìvitindriya (mạng căn)
trong các động vật như người và các loài thú cần phải phần biệt với
các bất - động - vật khác như cây và
các vật chất, vô tri, vì chúng không phải do nghiệp sanh. Chúng vẫn có sự
sống, nhưng khác với sự sống của con người và cây cối. Ðiều chú ý ở
đây là hư - không - giới
được xem là do cả 4 nhân sanh. Tiếng
nói có giọng do tâm sanh, không có giọng do thời tiết sanh. Các
điệu nhạc do người đánh hay thổi là do
thời tiết sanh và bị chi phối bởi tâm.
I. PÀLI VĂN.
- 16) Atthàrasa pannarasa terasa dvàdasàti ca,
kamma-cittotukàhàrajàni honti yathàkkamam. Jàyamànàdirùpànam sabhàvattà
hi kevalam, Lakkhanàni na jàyanti kehicìti pakàsitam.
II. THÍCH VĂN.
- Kamma-cittotukàhàrajàni: Do nghiệp, tâm, thời tiết và
đồ ăn sanh ra. Sabhàvattà: Vì tự
tánh thiên nhiên là vậy. Kevalam: Toàn diện.
III. VIỆT VĂN.
- 16) 18, 15, 13 và 12 sắc-pháp tùy thuộc khởi lên do Nghiệp, tâm,
thời tiết và đồ ăn. Các tướng của sắc pháp
khởi lên v.v... không do nhân gì tạo ra, vì tự tánh thiên nhiên
là như vậy.
IV. THÍCH NGHĨA.
- 18 sắc-pháp do nghiệp sanh: Bất-giản-biệt-sắc 8 + Hư-không-giới 1 +
Sở-y-sắc 1 + Sắc-căn 8.
15 sắc-pháp do tâm sanh: Bất-giản-biệt-sắc 8 + Hư-không giới 1 + Tiếng
1 + Biến-hóa-sắc 3 + Biểu sắc 2.
13 sắc-pháp do thời tiết sanh: Bất-giản-biệt-sắc 8 + Hư-không-giới 1 +
Biến - hóa sắc 3 + Tiếng 1.
12 sắc-pháp do đồ ăn sanh:
Bất-giản-biệt-sắc 8 + Hư-không-giới 1 + Biến hóa sắc 3.
4 Lakkhana (Sắc tướng) là chung cho tất cả sắc pháp, không có sắc pháp
nào không có 4 giới này.
PHẦN BỐN - KÀLAPA-YOJANÀ: TỔNG HỢP CÁC SẮC
I. PÀLI VĂN.
- 17) Ekuppàdà ekanirodhà ekanissayà sahavuttino ekavìsati rùpakalàpà
nàma.
II. THÍCH VĂN.
- Ekuppàdà: Ðồng sanh. Ekanirodhà: Ðồng diệt. Ekanissayà: Ðồng y chỉ.
Sahavuttino: Cùng sống với nhau.
III. VIỆT VĂN.
- 17) Có tất cả là 21 sắc tổng hợp, vì những sắc này
đồng khởi, đồng diệt, đồng y-chỉ và
đồng sống với nhau.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Các sắc pháp chỉ là sự tổ hợp của nhiều
đặc tánh, kết hợp lại dưới những hình thức và mức
độ khác nhau. Sự tổng hợp của những đặc tánh
này được gọi là Kalàpa. Có tất
cả là 21 loại tổng hợp, 9 loại do nghiệp tạo, 6 bởi Tâm, 4 bởi thời tiết
và 2 bởi đồ ăn.
I. PÀLI VĂN.
- 18) Tattha jìvitam avinibbhogarùpam ca cakkhunà saha cakkhudasakam
ti pavuccati. Tathà sotàdìhi saddhim sota-dasakam, ghànadasakam,
Jivhàdasakam, kàya-dasakam, itthibhàvadasakam, pumbhàvadasakam,
vatthudasakam ceti yathàkkamam yojetabbam. Avinibbhoga-rùpamena jìvitena
saha jìvitanavakanti pavuccati. Ime nava kamma-samutthànakalàpà.
II. THÍCH VĂN.
- Cakkhudasakam: Mắt thập pháp. Itthibhàvadasakam: Nữ tánh thập pháp.
Pumbhàvadasakam: Nam tánh thập pháp. Yojetabbam: Cần phải
được kết hợp.
III. VIỆT VĂN.
- 18) Ở đây, mạng căn, 8 vô giản biệt
sắc và con mắt gọi là mắt thập pháp. Cũng vậy, với tai v.v...
được gọi là tai thập pháp, mũi thập
pháp, lưỡi thập pháp, thân thập pháp, nữ tánh thập pháp, nam tánh thập
pháp, sở-y-chỉ thập pháp, được kết hợp tùy
theo trường hợp, 8 vô giản-biệt-sắc cùng với mạng-căn
được gọi là mạng-căn cửu pháp. Như
vậy có chín tổng-hợp-sắc do nghiệp sanh.
I. PÀLI VĂN.
- 19) Avinibbhoga-rùpam pana suddhatthakam. Tadeva kàyavinnattiyà
saha kàyavinnattinavakam, vacì-vinnattisaddehi ca saha
vacìvinnattidasakam. Lahutàdìhi saddhim lahutàdekàdasakam.
Kàya-vinnattilahutàdidvàdasakam, vacìvinnattisadda-lahutàditerasakam
ceti cha cittasamutthànakalàpà.
II. THÍCH VĂN.
- Suddhatthaka: Thuần tám pháp. Kàyavinnattinavakam: Thân biểu cửu
pháp.
III. VIỆT VĂN.
- 19) Tám vô-giản biệt-sắc gọi là thuần 8 pháp. Tám pháp này cùng với
thân-biểu cộng thành thân-biểu cửu pháp. Cùng với khẩu-biểu và tiếng
cộng thành khẩu-biểu 10 pháp. Cùng với khinh khoái tánh v.v... cộng
thành khinh khoái-tánh v.v... 11 pháp. Cùng với thân biểu,
khinh-khoái-tánh v,v... cộng thành thân-biểu, khinh-khoái-tánh v.v... 12
pháp: cùng với khẩu biểu, tiếng, khinh-khoái-tánh v.v... cộng thành khẩu
biểu, tiếng, khinh khoái tánh v.v... 13 pháp. Như vậy có tổng hợp sắc do
tâm sanh.
I. PÀLI VĂN.
- 20) Suddhatthakam, saddanavakam, lahutàdekàdasakam
saddalahutàdi-dvàdasakam ceti cattàro utusamutthàna-kalàpà.
II. THÍCH VĂN.
- Suddhatthakam: Thuần bát pháp.
III. VIỆT VĂN.
- 20) Thuần 8 pháp, Tiếng cửu pháp, khinh khoái tánh v.v... 11 pháp;
Tiếng, khinh-khoái-tánh v.v... 12 pháp. Như vậy có bốn tổng-hợp-sắc do
thời tiết sanh.
I. PÀLI VĂN.
- 21) Suddhatthakam, lahutàdekàdasakam ceti dve
àhàrasamutthàna-kalàpà.
II. VIỆT VĂN.
- 21) Thuần bát pháp, khinh khoái tánh v.v... 11 pháp. Như vậy có hai
tổng hợp sắc do đồ ăn sanh.
I. PÀLI VĂN.
- 22) Tattha suddhatthakam, saddanavakam ceti dve
utu-samutthàna-kalàpà bahiddhà pi labbhanti, avasesà pana sabbe pi
ajjhattikameva.
II. THÍCH VĂN.
- Avasesà: Các tổng hợp sắc còn lại.
III. VIỆT VĂN.
- 22) Ở đây, thuần bát pháp, tiếng cửu
pháp, hai tổng hợp sắc do thời-tiết sanh cũng được tìm thấy ở
ngoài (thân). Nhưng tất cả tổng-hợp-sắc còn lại chỉ
được tìm thấy trong nội (thân) mà
thôi.
I. PÀLI VĂN.
- 23) Kamma - cittotukàhàra - samutthànà yathàkkamam.
Nava cha caturo dve-ti kalàpà ekavìsati.
Kalàpànam pariccheda-lakkhanattà vicakkhanà.
Na kalàpangamiccàhu àkàsam lakkhanàni ca.
II. THÍCH VĂN.
- Pariccheda: Hạn giới khu biệt. Vicakkhanà: Những vị có trí.
Kalàpangam: Thành phần của tổng hợp. Àhu: Ðược gọi là. Àkàsam: Hư không.
III. VIỆT VĂN.
- 23) Có 21 loại tổng hợp sắc, 9, 6, 4, 2 tùy theo trường hợp, do
nghiệp sanh, do tâm sanh, do thời tiết sanh và do
đồ ăn sanh.
Vì hư không chỉ hạn giới và các tướng sắc chỉ nêu rõ tánh tự nhiên
của các sắc, nên các vị có trí tuyên bố không thuộc về tổng hợp sắc.
PHẦN NĂM - RÙPAPAVATTIKÀMO:
DIỄN BIẾN SẮC PHÁP
I. PÀLI VĂN.
- 24) Sabbàni pi panetàni rùpàni kàmaloke yathàraham anùnàni
pavattiyam upalabbhanti. Patisandhiyam pana samsedajànan ceva
opapàtikànan ca cakkhu-sota-ghànajivhàkàya-bhàva-vatthu-dasakasankhàtàni
satta-dasakàni pàtubhavanti ukkatthavasena. Omakavasena pana
cakkhu-sota-ghànabhàvadasakàni kadàci pi na labbhanti. Tasmà tesam
vasena kalàpàhàni veditabbà. Gabbha-seyyaka-sattànam pana
kàyabhàvavatthu-dasakasankhàtàni tìni dasakàni pàtubhavanti. Tatthàpi
bhàvadasakam kadàci pi na labbhati. Tato param pavattikàle kamena
cakkhudasakàdìni ca pàtubhavanti.
II. THÍCH VĂN.
- Anùnàni: Không thiếu sót. Pavattiyam: Trong khi chuyển khởi, trong
đời sống hiện tại. Patisandhiyam: Trong khi
gá thai. Samsedajànam: Ðối với hàng thấp sanh. Opapàtikànam: Ðối
với hàng hóa sanh. Ukkatthavasena: Tối đa.
Omakavasena: Tối thiểu. Kadàci: Có
đôi khi. Kàlàpahàni: Không có các loại tổng-hợp-sắc.
Gabbha-seyyakasattànam: Ðối với chúng sanh do thai sanh. Tato param: Từ
đó trở đi. Kamma: Theo thứ tự.
III. VIỆT VĂN.
- 24) Tất cả các sắc pháp ấy, không thiếu sắc nào, tùy theo trường
hợp, tìm kiếm được trong đời hiện sống tại
cõi Dục-giới. Nhưng trong khi gá sanh,
đối với các chúng sanh do thấp sanh và
hóa sanh, tối đa sẽ được khởi lên
bảy tổng hợp sắc là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tánh, tâm-sở-y thập pháp.
Còn tối thiểu thời có đôi khi, mắt, tai,
mũi, tánh thập pháp không khởi được. Do vậy, cần phải hiểu các chúng
sanh kia như là không có các tổng hợp sắc ấy. Ðối với chúng sanh
do thai sanh, ba thập pháp được khởi lên
là thân, tánh và tâm-sở-y. Tuy vậy, đôi
khi, tánh thập pháp không khởi lên. Từ khi gá sanh trở
đi trong suốt đời sống, theo thứ tự, mắt
thập pháp v.v... được khởi lên.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Theo đạo Phật có bốn loại chúng sanh: Noãn
sanh (andaja) do trứng sanh, thai-sanh (jalàbuja) do từ thai sanh ra, thấp
sanh (samsedaja) từ chỗ ướt mà sanh và hóa sanh (opapàtika). Các chúng
sanh sanh trưởng từ nơi ẩm ướt như một loại
động vật hạ đẳng thuộc về thấp sanh. Một số loại thấp sanh thiếu một vài
căn và thiếu nam hay nữ tánh, nhưng
tất cả đều có tâm-sở-y là có tâm hay
thức.
I. PÀLI VĂN.
- 25) Iccevam patisandhimupàdàya kammasamutthànà dutiyacittamupàdàya
cittasamutthànà, thitikàlamupàdàya utusamutthànà ojàpharanamupàdàya
àhàrasamutthànà ceti catusamutthànarùpakalàpasantati kàmaloke dìpajàlà
viya nadìsoto viya ca yàvatàyukam abbocchinnam pavattati.
II. - THÍCH VĂN.
Patisandhimupàdàya: Từ khi tiết sanh thức khởi lên.
Dutiyacittamupàdàya: Từ khi tâm thứ hai khởi lên. Thitikàlamupàdàya: Từ
khi trú thời khởi lên. Ojapharanamupàdàya: Từ khi chất thực tố
được tiêu thụ. Santati: Tương tục.
Dìpajàlàviya: Giống như lửa ngọn đèn.
Nadìsoto viya: Giống như dòng nước. Yàvatàyukam: Cho
đến khi mệnh chung. Abbocchinnam: Không bị
gián đoạn. Pavattati: Chuyển khởi.
III. VIỆT VĂN.
- 25) Như vậy sự tiếp tục của tổng hợp sắc
được tạo ra do 4 cách: Do nghiệp sanh từ
khi mới gá sanh, do tâm sanh từ tâm sát-na thứ hai, do thời tiết sanh từ
khi trú thời, do đồ ăn sanh từ khi thực tố được tiêu thụ - tiếp
tục trôi chảy không bị gián đoạn trong Dục
giới cho đến khi mạng chung, như ngọn lửa của cây đèn hay dòng
sông.
VI. THÍCH NGHĨA.
- Các vị hóa sanh thường vô hình, mắt thịt không thấy
được. Do nghiệp quá khứ chi phối, các chúng
sanh này hóa hiện thình lình, không phải
đi qua thời thai nghén. Thường thường, các vị
Patas (ngạ quỷ), và Devas (chư Thiên) và Brahmà (Phạm Thiên) thuộc
loại hóa sanh.
I. PÀLI VĂN.
- 26) Maranakàle pana cuticittopari-sattara-samacittassa
thitikàlamupàdàya kammaja - rùpàni nuppajjanti. Puretaramuppannàni ca
kammaja-rùpàni cuticittasamakàlameva pavattitvà nirujjhanti. Tato param
cittajàhàrajarùpam ca vocchijjhati. Tato param
utusamutthànarùpaparamparà yàva matakalevarasankhàtà pavattanti.
II. THÍCH VĂN.
- Maranakàle: Khi chết. Cuticittopari: Từ khi tử tâm bắt
đầu. Sattarasamacittassa: Từ sát-na tâm thứ
17. Thitikàlamupàdàya: Kể từ trú thời. Puretaramuppannàni: Ðã
sinh khởi ra trước. Cuticittasamakàlameva: Cho
đến khi tử tâm. Nirujjhanti: Diệt mất.
Vocchijjhati: Bị cắt đứt. Utusamutthànarùpaparamparà: Một sự tiếp
tục các sắc pháp do thời tiết khởi lên. Matakalevarasankhàtà: Cái gọi là
thân chết.
III. VIỆT VĂN.
- 26) Nhưng khi lâm chung, từ sát-na thứ 17 của tử tâm kể lui, bắt
đầu từ trú thời của tâm, các sắc pháp do
nghiệp sanh không hiện khởi nữa. Các sắc pháp do nghiệp sanh đã
khởi từ trước tồn tại cho đến tử tâm rồi
ngừng hẳn. Tiếp theo đó, một sự tiếp tục của các sắc pháp do thời tiết
sanh được kéo dài, tùy theo sự tồn tại của thi thể.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Khi lâm chung, đến sát-na tâm thứ 17 của
tử tâm, khi lộ trình tâm cuối cùng
được chấm dứt với một trong ba đối tượng như sau: Kamma, kammanimitta và
Gati-nimitta (nghiệp, nghiệp tướng và thú tướng) thời sự diễn tiến các sắc
pháp do nghiệp sanh được cắt đứt. Các sắc
pháp do nghiệp sanh đến phút cuối cùng
được chấm dứt với tử tâm. Rồi tâm và các món
đồ ăn cũng chấm dứt sự phát sanh các sắc
pháp. Chỉ còn thời tiết còn ảnh hưởng hoạt
động cho đến khi thi thể bị tan rã
hoàn toàn.
I. PÀLI VĂN.
- 27) Iccevam matasattànam punadeva bhavantare.
Patisandhimupàdàya tathàrupam pavattati.
II. THÍCH VĂN.
- Iccevam: Như vậy. Matasattànam: Ðối với người
đã chết. Punadeva: Lại nữa.
Bhavantare: Trong đời sống kế tiếp.
III. VIỆT VĂN.
- 27) Như vậy, đối với những người chết,
lại nữa trong một đời sống tiếp theo, các sắc-pháp tương tự như vậy khởi
lên, bắt đầu từ kiết-sanh-thức.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Ðoạn này nói đến sự tiếp tục sanh khởi
của các sắc-pháp, qua một đời sống khác, bắt đầu từ kiết-sanh-thức.
I. PÀLI VĂN.
- 28) a) Rùpaloke pana ghàna-jivhà-kàyabhàva-dasakàni ceva
àhàrajakalàpàni ca na labbhanti. Tasmàtesam patisandhikàle
cakkhu-sota-vatthuvasena tìni dasakàni jìvitanavakam ceti cattàro
kammasamutthànkalàpà pavatti-yam cittotusamutthànà ca labbhanti.
Asannasattànam pana cakkhu-sota-vatthu-saddàni pi na labbhanti. Tathà
sabbàni pi cittajarùpàni. Tasmà tesam pati-sandhikàle jìvitanavakameva.
Pavattiyan ca saddavajjitam utu-samutthànarùpam atiricchati.
b) Iccevam kàmarùpàsannisankhàtesu tìsu thànesu
patisan-dhipavattivasena duvidhà rùpapavatti veditabbà.
II. THÍCH VĂN.
- Asannasattànam: Ðối với hữu tình vô tưởng. Saddavajjitam: Trừ
tiếng. Atiricchati: Tiếp tục.
III. VIỆT VĂN.
- 28) a) Ở sắc-giới, thập pháp thuộc mũi, lưỡi, thân, tánh, do
đồ ăn sanh, không khởi lên. Do vậy,
đối với những chúng sanh này, trong
khi tái-sanh, chỉ khởi lên bốn nhóm sắc-pháp do nghiệp sanh, như ba loại
thập pháp thuộc mắt, tai và tâm-sở-y, và một loại cửu pháp thuộc mạng-căn.
Và trong tương-tục-sanh, các sắc-pháp do tâm và thời tiết sanh
tiếp tục khởi lên. Nhưng đối với loài
hữu tình vô-tưởng, mắt, tai, tâm-sở-y, tiếng không khởi lên. Cũng vậy,
tất cả sắc-pháp do tâm sanh không khởi lên. Do vậy,
đối với loại chúng-sanh này, trong
khi tái sanh, chỉ có chín pháp thuộc mạng-căn
khởi lên; và trong khi tương-tục-sanh, trừ tiếng, tất cả sắc-pháp
do thời tiết sanh được khởi lên.
b) Như vậy trong Dục-giới, sắc-giới và vô-tưởng-giới, sự diễn tiến
các sắc-pháp cần phải được hiểu theo hai
phần vị, tái-sanh và tương-tục-sanh.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Một vài loại hóa-sanh ở Dục-giới không có nam hay nữ tánh. Nhưng các
loại hóa sanh ở sắc-giới không những vô-tánh mà còn không có tịnh-sắc căn
của mũi, lưỡi, thân, dầu vẫn có phù-trần-căn
của những căn này. Tịnh-sắc-căn của
các căn này bị mất đi vì không
có sở-dụng cho các vị Phạm-Thiên.
Các loại noãn-sanh cũng được gồm vào
với các loại thai-sanh. Khi tái sanh, các loại này
đều có ba loại thập pháp thuộc thân, tánh và
tâm-sở-y. Có khi chúng không có nam hay nữ tánh. Như vậy các loại trứng có
tâm-sở-y tức là có tâm.
I. PÀLI VĂN.
- 29) Atthavìsati kàmesu honti tevìsa rùpisu
Sattaraseva - sannìnam arùpe natthi kinci pi
Saddo vikàro jaratà maranan c’opapattiyam
Na labbhanti pavattesu na kinci pi na labbhati.
II. THÍCH VĂN.
- Rùpisu: Ở sắc-giới. Asannìnam: Ðối với vô-tưởng chúng sanh.
Opapattiyam: Khi tái-sanh.
III. VIỆT VĂN.
- 29) Tại Dục-giới, có được 28 sắc-pháp,
ở Sắc-giới có 23. Ðối với loài vô-tưởng, chỉ có 17 và ở tại
Vô-sắc-giới, không có một sắc-pháp nào.
Khi tái-sanh, tiếng, biến hóa sắc, già và chết không có
được. Khi tương-tục-sanh thời không
sắc-pháp nào là không có.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Ðây là bài kệ tóm tắt con số hiện diện của các sắc-pháp ở Dục-giới,
Sắc-giới, Vô-sắc-giới và đối với hạng
vô-tưởng chúng-sanh.
PHẦN SÁU - NIBBÀNA: NIẾT BÀN
I. PÀLI VĂN.
- 30) a) Nibbànam pana lokuttarasankhàtam catumagganànena
sacchikàtabbam maggaphalànamàra-mmanabhùtam vànasankhàtàya tanhàya
nikkhantattà nibbànam ti pavuccati.
b) Tadetam sabhàvato ekavidhampi sa-upàdi-sesanibbàna-dhàtu
anupàdisesanibbànadhàtu ceti duvidham hoti kàranapa-riyàyena Tathà
sunnatam animittam appanihitam ceti tividham hoti àkàrabhedena.
II. THÍCH VĂN.
- Lokuttarasankhàtam: Ðược gọi là siêu-thế. Catumagganànena: Do trí
của 4 Ðạo. Sacchikàtabbam: Cần được
chứng-đắc. Maggaphalànamàrammanabhùtam: Trở thành
đối tượng cho Ðạo và Quả.
Vànasankhàtàya tanhàya: Ái được gọi là
Vàna (rừng rậm). Nikkhantattà: Thoát ly. Sabhàvato: Về-tự-tánh.
Ekavidhampi: Chỉ một loại Sa-upàdisesa nibbànadhàtu: Hữu-dư-y Niết-bàn
giới. Anupàdisesanibbànadhàtu: Vô-dư-y Niết-bàn giới. Kàranapariayyena:
Theo phương thức tự kinh nghiệm trước và sau khi chết. Sunnatam: Không,
Animittam: Vô-tướng. Appanihitam: Vô-nguyện. Àkàrabhedena: Theo hành
tướng.
III. VIỆT VĂN.
- 30) a) Còn Niết-Bàn được gọi là
siêu-thế, và phải được chứng ngộ bởi trí
của bốn Ðạo, thành một đối tượng cho
4 Ðạo và 4 Quả và được gọi là
Nibbàna, vì là một sự thoát ly khỏi tham-ái xem như là rừng rậm (Vàna).
b) Niết-Bàn theo tự-tánh chỉ có một loại, theo phương thức tự kinh
nghiệm trước và sau khi chết, có hai: Hữu-dư-y Niết-bàn giới và vô-dư-y
Niết-bàn giới. Còn theo hành tướng thì có ba là: Không, vô-tướng,
vô-nguyện.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Nibbàna hay Nirvàna (Phạm-văn) gồm có Ni
và Vana, Ni có nghĩa là không. Vàna có nghĩa là dệt hay ái. Chính
ái này tác dụng như một sợi dây nối liền các
đời sống của một cá nhân, khi cá nhân này trôi lăn
trong biển sanh-tử. Ni có nghĩa là không, Vàna: có nghĩa là thổi
tắt. Nibbàna có nghĩa là thổi tắt lửa tham ái, sân-hận và si-mê. Niết-Bàn
là nguyên lý cuối cùng (Vatthudhamma) thuộc về siêu thế, ra ngoài thế giới
của tâm và sắc hay 5 uẩn.
Nibbàna được chứng ngộ nhờ trực giác
(paccakkha: Hiện kiến hay Thông-đạt-trí (pativedhanàna) và Anumàna
(Tỷ-lượng), hay Anubodhanàna (tùy-giác-trí). Ðể diễn
đạt hai ý trên, Nibbàna
được xem là cần phải chứng-ngộ bởi trí
tuệ thuộc Bốn Thánh Ðạo và trở thành một đối
tượng cho các Ðạo và Quả.
Về tự tánh (Sabhàvato), Nibbàna là an-tịnh (Santi) và như vậy chỉ có
một (kevala). Niết Bàn này được xem là
hai, tùy theo sự chứng nghiệm trước và sau khi chết. Trong chính văn
có dùng danh từ Kàranapariyàyena, được
các tập sớ Pàli ở Tích Lan giải thích là nguyên nhân
được gọi vậy vì có hữu dư y hay không
có hữu dư y. Sa-upàdisesa: Sa: với; upàdi: 5 uẩn (thân và tâm); Sesa: còn
dư sót lại. Upàdi từ nguyên ngữ upa + à + da, lấy nghĩa là 5 uẩn do tham
ái và tà-kiến chấp chặt. Upàdi cũng có nghĩa là Kilesa (phiền não). Theo
chánh bản và các tập sớ, Nibbàna do các vị Sotàpanna, Sakadàgami và
Anàgami chứng ngộ thuộc Saupàdisesanibbàna-dhàtu vì còn thân và còn phiền
não. Nibbàna của các vị A-La-Hán cũng vẫn là sa-upàdisesa Nibbàna vì các
vị này vẫn còn thân. Chỉ có Niết Bàn của vị A-La-Hán sau khi chết mới gọi
là anupàdisesa-Nibbànadhàtu, vì cả hai ngũ-uẩn và phiền não
đã được
vất bỏ dứt sạch.
Sunnata: không, có nghĩa là không có tham, sân, si hay mọi pháp hữu vi.
Animitta: Vô-tướng, có nghĩa là không còn tướng tham, sân, si hay tướng
các pháp hữu-vi. Appanihita: vô nguyện, nghĩa là không còn
đèo bòng luyến ái gì nữa.
I. PÀLI VĂN.
- 31) Padamaccutamaccantam asankhata-manuttaram
Nibbànamiti bhàsanti vanamuttà mahesayo.
II. THÍCH VĂN.
- Accutapadam: Pháp bất-tử. Accantam: Vô biên. Asankhatam: Vô vi.
Anuttaram: Vô thượng. Bhàsanti: gọi là. Vanamuttà: Thoát khỏi tham-ái.
Mahesayo: Ðại ẩn sĩ.
III. VIỆT VĂN.
- 31) Các vị Ðại Ẩn sĩ đã giải
thoát khỏi tham-ái gọi Niết-Bàn là pháp bất tử, pháp vô biên, pháp vô vi
và pháp vô thượng.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Ðoạn này là những danh từ mà các vị Ðại Ẩn-sĩ gọi Niết-Bàn. Chữ Padam
ở đây có nghĩa là pháp (Dhamma).
I. PÀLI VĂN.
- 32) Iti cittam cetasikam rùpam nibbànamiccapi.
Paramattham pakàsenti catudhà va Tathàgatà
II. THÍCH VĂN.
- Paramattham: Ðệ nhất nghĩa đế. Ca-tudhà:
4 loại
III. VIỆT VĂN.
- 32) Như vậy, các đức Như Lai nêu
rõ bốn pháp đệ nhất nghĩa đế, tức là
Tâm, tâm sở, sắc và Niết-Bàn.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Bản đồ sau đây nêu rõ những loại
tâm nào làm sanh khởi những loại sắc pháp nào.
Chữ viết tắt:
K: Kammaja: Do nghiệp sanh
C: Cittaja: Do tâm sanh
I: Iriyapathà: Cử chỉ uy nghi
H: Hasituppàda: Tiếu-sanh-tâm
V: Vinnatti: Thân biểu và ngữ biểu
+ : Có; -- : Không.
|
K |
C |
I |
H |
V |
4 Tham tâm câu hữu với Hỷ |
+ |
+ |
+ |
+ |
+ |
4 tham tâm câu hữu với Xả |
+ |
+ |
+ |
-- |
+ |
2 Sân tâm và 2 si tâm |
+ |
+ |
+ |
-- |
+ |
10 Thức tâm và 4 vô sắc Dị thục tâm |
-- |
-- |
-- |
-- |
-- |
2 Tiếp thọ, 1 ngũ môn hướng tâm, 3 suy
đạc |
-- |
+ |
-- |
-- |
-- |
1 Ý môn hướng tâm hay quyết-định-tâm |
-- |
+ |
+ |
-- |
+ |
1 Tiếu sanh tâm |
-- |
+ |
+ |
+ |
+ |
5 Sắc giới Thiện-tâm |
+ |
+ |
+ |
-- |
+ |
5 Sắc giới Dị-thục và 5 duy tác |
-- |
+ |
+ |
-- |
-- |
8 Vô sắc thiện và duy tác |
-- |
+ |
+ |
-- |
-- |
8 Siêu thế tâm |
-- |
+ |
+ |
-- |
-- |
4 Tịnh quang câu hữu với Hỷ |
+ |
+ |
+ |
+ |
+ |
4 Tịnh quang câu hữu với Xả |
+ |
+ |
+ |
-- |
+ |
8 Tịnh quang dị-thục |
-- |
+ |
+ |
-- |
-- |
4 Tịnh quang Duy tác, câu hữu với Hỷ |
-- |
+ |
+ |
+ |
+ |
4 Tịnh quang Duy tác, câu hữu với Xả |
+ |
+ |
+ |
-- |
+ |
Ghi chú:
Có thể tham chiếu thêm với:
1) Vi Diệu Pháp Toát Yếu, bản dịch Việt ngữ của Phạm Kim Khánh
(với đầy đủ các ký tự Pàli).
2) A Manual of Abhidhamma, bản dịch Anh ngữ và chú thích của Hòa
Thượng Narada.
-ooOoo-