TỨ
THANH TỊNH GIỚI
Catupàrisuddhisìla
Namo
tassaBhagavato
Arahato Sammàsambuddhassa.
Tôi xin đem hết
lòng
thành kính làm lễ đến đức Bhagavà,
Ngài là bậc Araham cao thượng được đắc quả Chánh Biến
Tri (Tam Miệu Tam Bồ Ðề).
Tứ thanh tịnh giới
là:
1) Pàtimokkha
samvarasìla, giới Ba đề mộc xoa (là biệt biệt giải
thoát, giữ được một giới thì thoát khỏi một tội),
2) Indriya
samvarasìla, giới thu thúc lục căn (thanh tịnh).
3) Ajìva
pàrisuddhisìla, giới nuôi mạng chơn chánh (trong
sạch).
4) Paccaya
sannissitasìla, giới quán tưởng thanh tịnh trong khi
thọ dụng bốn món vật dụng.
Ðây xin giảng giải
lần
lượt theo thứ tự, để cho bậc xuất gia nghiên cứu và học
hỏi cho được dễ dàng.
Trước hết giải về
giới Bổn Ba đề mộc xoa luôn cả cách làm lễ phát Lộ
"Uposatha"của Chư Tăng trong nửa tháng một lần để
đọc lại và nhắc nhở 227 điều học của mình đã thọ
trì.
Những
việc phải làm trước khi
đọc giới bổn
(Pubbakarana – Pubbakicca)
Phải có 2 vị Tỳ
Khưu
rành mạch cách làm lễ Phát lộ vấn đáp vớii nhau giữa
Chư Tăng (từ 4 vị trở lên luôn cả 2 vị vấn đáp) như
thế này:
Vị vấn đọc: Namo
tassa Bhagavato Arahato Sammà Sambuddhassa.
Tôi xin đem hết
lòng
thành kính làm lễ đến đức Bhagavà, Ngài là bậc Araham
cao thượng, được đắc quả Chánh Biến Tri (Tam Miệu Tam Bồ
Ðề).
Rồi đọc trình Chư
Tăng đặng hỏi luật vị khác như vầy:
Sunàtu me
bhante (1)
sangho, yati sanghassa pattakallam, aham àyasmantam
(itthannàmam) (2)
vinayam Pucchayyam.
Bạch đại đức Tăng,
xin Chư Tăng nghe tôi, nếu tăng sự này hợp thời thì tôi
xin hỏi luật vị Tỳ Khưu (tên... này).
Kế vị đáp đọc:
Namo tassa
Bhagavato
Arahato Sammà Sambuddhassa. (3 lần) (nghĩa như trên).
Rồi đọc trình Tăng
để trả lời cho vị kia như vầy:
Sunàtu me (1)
sangho, yati
sanghassa pattakallam, aham àyasmantam (itthannàmam) (2) vinayam
puttho (vissajjeyyam).
Bạch đại đức Tăng,
xin chư Tăng nghe tôi, nếu Tăng sự này hợp thời thì tôi
xin trả lời luật cho vị Tỳ Khưu (tên....)
Kế đó người hỏi cứ hỏi tiếp:
VẤN: Sammajjanì
padìpoca, udakam àsanena ca upothassa etàni pubbakarananti
vuccati.
Ukàsa sammajjanì?
Sự quét chùa, đốt
đèn,
múc nước để sẳn, trải chỗ ngồi, hết thảy bốn điều
này gọi là việc phải làm trước khi làm lễ Phát Lộ.
Bạch Ngài, thế nào
gọi
là việc phải quét sạch?
ÐÁP: Sammajjanakarananca.
Sự quét sạch
"trong chỗ làm lễ này vậy."
VẤN: Padìpo ca?
Sự
đốt đèn?
ÐÁP: Padìpo
ujjalananca (idàni suriya lokassa natthitàya padìpa-kiccam
atthi)
"Bây giờ không có
mặt trời nên phải đốt đèn". là sự đốt đèn cho
sáng "trong chỗ này"
VẤN: Udakam
àsannena
ca? Nước và chỗ ngồi thế nào?
ÐÁP: Asanena
saha
pànìya paribhojanìya udakatthapananca. Là sự múc nước uống,
nước xài để sẳn và sự trải chỗ ngồi.
VẤN: Upothassa
etàni
bubbakarananti vuccati? Tất cả phận sự này sao gọi là việc
phải làm của lễ Phát Lộ?
ÐÁP: Etàni
cattàri vattàni sammajjanakaranàdìni sangha sannipàtato pathamam
kattabbattà uposathassa uposathakammassa, pubbakarananti
vuccati,
pubbakaranànìti akkàtàni.
Bốn phận sự này,
nhất
là phải quét sạch là việc phải làm trước, vì trước
khi Chư Tăng hội họp để làm lễ Phát Lộ thì phải làm
cho xong, nên gọi là việc phải làm trước của sự làm lễ
Phát Lộ.
VẤN: Chandapàrisuddhi
utukkhànam nhikkhu gananà caovàdo uposathassa etàni
pubbakiccanti
vuccati; Chanda pàrisuddhi?
Các việc làm như,
đem
sự ưng thuận, tỏ sự trong sạch, sự kể thời tiết, sự
đếm số tăng hội, chỉ dạy cho Tỳ Khưu ni, đều gọi là
phận sự phải làm trước của lễ Phát Lộ.
Vậy chớ thế nào gọi
là sự đem sự thỏa thuận và tỏ sự trong sạch?
ÐÁP: Chandàrahànam
bhikkhùnam chandapàrisuddhi àharananca (idha natthi).
Cách đem sự thỏa
thuận
và sự trong sạch của các vị Tỳ Khưu cần phải đem đó
(nơi đây không cần).
VẤN: Utukkhànam?
Sự kể mùa tiết?
ÐÁP: Hemantàdìnam
tinnam utùnam ettakam atikkantam, etakkam avasitthanti evam utu
àcikkhanam vasena tìni honti (ayam hemanta utu, asmimutumhi
attha
uposathà, iminà pakkhena ekouposatho sampatto, eko uposatho
atikkanto,
eha uposàthà avasitthà (1).
Sự kể mùa tiết là:
theo Phật Giáo một năm có 3 mùa là: mùa lạnh, mùa nóng (nắng)
và mùa mưa, trong ngày làm lễ Phát Lộ ấy nhằm mùa nào,
mùa ấy có mấy kỳ lễ Phát Lộ, đã qua hết bao nhiêu, hiện
tại và sẽ còn mấy kỳ nữa phải khai rõ (như đây là
mùa lạnh, trong mùa này có 8 kỳ lễ Phát Lộ, một kỳ hiện
đương làm, một kỳ đã qua rồi, còn sáu kỳ nữa sẽ tới).
VẤN: Bhikkhugananà
ca? Sự đếm số Tăng hội có bao nhiêu?
ÐÁP: Imasmin
uposathagge, sannipatitànam bhikkhùnam gananà, (...) (1) bhikkhu
honti,
Trong chỗ làm lễ
Phát
Lộ đây, số Chư Tăng hội họp được...... vị (1)
VẤN: Ovàdo?
Sự
chỉ dạy cho Tỳ Khưu ni thế nào?
ÐÁP: Bhikkhuninam
ovàdo dàtabbo (idànipna tàsam natthitàya, so ca ovàdo idha
natthi).
Thầy Tỳ Khưu phải
chỉ
dạy cho các vị Tỳ Khưu ni (bây giờ sự chỉ dạy ấy
không còn nữa, vì không cỏn Tỳ Khưu ni).
VẤN: Uposathassa
etàni pubbakiccanti vuccati?
Các việc này sao
gọi
là phận sự phải làm trước lễ Phát Lộ?
ÐÁP: Etàni
panca kammàni chandàharanadìni patimokkh'uddesato pathamam
kattabbattà, uposathassa uposathakammassa pubbakiccanti vuccati,
pubbakiccànìti akkhatàni.
Hết thảy 5 công
việc,
nhất là đem sự trong sạch, gọi là phận sự phải làm trước,
vì trước khi Chư Tăng làm tăng sự là đọc giới bổn Ba
la đề mộc xoa, các phận sự ấy phải làm cho xong.
VẤN: Uposatho
yâvatikà ca bhikkhù kammappàttà sabhàg'àpattiyo cana vijjanti,
vajjanùya capuggalà tasmim nahomti, pattakallanti vuccati.
Uposatho?
Bốn điều nhất định
là: ngày làm lễ Phát Lộ I, bao nhiêu vị Tỳ Khưu hội họp
để làm lễ ấy (1) không có phạm chung một tội, trong tăng
sự ấy không có người phải xa lánh 1, như thế thì cuộc
lễ Phát Lộ hợp thời nên làm, vậy chớ ngày lễ Phát Lộ
này thế nào?
ÐÁP: Tisu
uposatha divasesu, càtuddasìpannarasì sàmaggìsu, ajj' uposatho
(pannaraso) (1).
Ngày làm lễ Phát Lộ
có 3 là ngày Rằm, ngày 11 và ngày 29 của tháng thiếu, và
ngày Chư Tăng làm lễ hòa hợp như ngày lễ hôm nay thuộc
ngày Rằm.
VẤN: Yâvatikà
ca bhikkhù kammappattà?
Vậy chớ có mấy vị
Tỳ Khưu mới nên làm lễ Phát Lộ?
ÐÁP: Yattakà
bhikkhù tassa uposatha kammassa pattàuttà anurùpà, sabbantimena
paricchedena cattàro bhikkhù pakatattà sanghena anukkhittà te ca
kho
hatthapàsam avijjàbitvà ekasìmàyam thità.
Tất cả các vị Tỳ
Khưu bao nhiêu cũng có thể làm, lễ Phát Lộ được, nhưng
ít nhất là 4 vị trong sạch, không bị Chư Tăng phạt
(ngưng chức) đều ngồi gần sát nhau trong một sìmà.
VẤN: Sabbàg'àpattiyo
ca na vijjanti?
Còn về sự phạm đồng
một tội thế nào?
ÐÁP: Vikàlabhojan'
àdivatthu sabhàg' àpattiyo ca na vijjanti.
Sự phạm đồng một
tội
do một việc làm, nhất là ăn sái giờ, không có.
VẤN: Vajjanìyâ
ca puggalà tasmimna honti.
Người mà phải tránh
xa trong khi làm lễ Phát Lộ là thế nào?
ÐÁP: Gahatthapandak'
àdayo ekavìsati vajjanìyapuggalà, hatthapàsàto bahikarana vasena
vajjetabbà, tasmimna honti.
Người phải tránh xa
có 21 hạng, nhất là người thế và người lại cái, không
có ngồi gần sát với Chư Tăng trong khi làm lễ Phát Lộ đâu.
VẤN: Pattakallanti
vuccati?
Thế nào gọi là lúc
nên làm lễ Phát Lộ?
ÐÁP: Sanghassa
uposathakammam imehi catùhi lakkhanchi sangahitam, pattakallanti
vuccati, pattakàlavantanti akkhàtam.
Sự nhất định trong 4
điều này gọi là lúc nên làm lễ Phát Lộ của Chư Tăng vậy,
như thế là thì giờ nên làm.
* * *
Hỏi xong vị Tỳ Khưu
vấn luật ấy nên đọc thỉnh như vầy:
Pubbakarana
pabbakiccàni
samàpetvà, desitàpattikassa samaggassa bhikkhusanghassa
anumatiyâ,
pàtimokkham uddisitum àràdhanam karomi.
Theo sự bằng lòng
của
Chư Tăng, vì đã làm các việc và phận sự trước khi làm
lễ, đã sám hối tội lỗi rồi, và đều bằng lòng ưng
thuận với nhau, vậy tôi xin thỉnh Ngài đọc giới bổn.
-ooOoo-
BHIKKHUPPÀTIMOKKHA
Namo tassa
Bhagavato
Arahato Sammà Sambhuddhassa.
Sunàtu me
bhante sangho,
ajj'uposatho (pannaraso) yadi sanghassa pattakallam, sangho
uposatham
kareyya pàtimokkham uddìseyya.
Kim
sanghassa pubbakiccam?
pàrisuddhim àyasmanto àrocetha, pàtimokkham uddisissàmi, tam
sabbeva santà sàdhukam sunoma manasikaroma, yassa siyâ àpatti,
so
àvikareyya asantiyâ àpattiyâ tunhì bhavitabbam, tunhìbhàvena,
khopan àyasmante parisuddhàti vedissàmi; yathà khopana pacceka
putthassa veyyàkaranam hoti.
Evameram
evarùpàya
parisàya yâvatatiyam anussàvitam hoti, yo pana bhikkhu
yâvatatiyam
anussàviyamàne saramàno santim àpattim nàvikareyya
sampajànamusàvàdassa hoti, sampajàna musàvàdo kho pan' àyasmanto
antorayiko dhammo vutto bhagavatà, tasmà saramànena bhikkhunà
àpannena visuddha pekkhena santì àpatti avitabbà, àvikatà hissa
phàsu honti.
Uddittham
kho àyasmonto
nidànam.
Tatth'
àyasmante pucchà,
kaccittha parisuddhà?
Dutiyampi
pucchàmi
kaccittha parisuddhà?
Tatiyampi
pucchàmi
kaccittha parisuddhà?
Parisuddhetth'
àyasmanto,
tasmà tunhi, evametam dhàrayâmi.
Nidanuddeso
nitthito.
GIỚI
BỔN BA ÐỀ MỘC XOA CỦA TỲ KHƯU
Tôi xin đem hết
lòng
thành kính làm lễ đến đức Bhagavà Ngài là bậc Araham cao
thượng, được đắc quả Chánh Biến Tri (Tam diệu tam bồ
đề).
Bạch đại đức Tăng,
xin Chư Tăng nghe tôi, ngày hôm nay là ngày lễ Phát Lộ của
ngày Rằm, nếu hợp thời nên làm, thì Chư Tăng làm lễ
Phát Lộ là phải đọc giới bổn, Ba đề mộc xoa.
Phận sự phải làm
trước,
các Ngài đã làm chưa ? Thưa các vị, xin các vị phải sám
hối cho trong sạch rồi tôi mới đọc giới bổn. Chúng ta
ở đây hết thảy phải thành tâm để nghe đọc giới bổn
cho được sự lợi ích. Như vị nào có phạm tội xin vị
ấy sám hối đi, còn vị nào trong sạch thì làm thinh. Tôi sẽ
biết rằng vị ấy được trong sạch do cử chỉ làm thinh
ấy, cũng như người mà bị người ta cật hỏi phải trả
lời như thế nào, thì khi lời tôi tuyên bố hỏi Chư Tăng
đủ 3 lần cũng như thế ấy. Nếu khi tôi đã hỏi đủ 3 lần
rồi mà vị nào nhớ được sự phạm tội của mình, nhưng
vẫn không chịu sám hối, thì vị ấy sẽ phạm thêm một
hành ác về nói láo, vì biết mình mà không chịu khai ra.
b?ch các Ngài, tội
này
Ðức Thế Tôn có nói cũng là một pháp tai hại, bởi vậy
cho nên, vị nào đã phạm rồi mà nhớ lại được và muốn
cho mình được trong sạch thì nên sám hối tội ấy ra. do
nhờ sự sám hối ấy mà tâm thầy Tỳ Khưu ấy được sự
vui vẻ.
Bạch các Ngài,
nguyên
nhân tôi đã kể ra rồi.
Tôi xin hỏi các
Ngài
trong nguyên nhân này các Ngài đã được trong sạch chưa? Tôi
xin hỏi lần thứ nhì, các Ngài đã được trong sạch chưa?
Tôi xin hỏi lần thứ ba, các Ngài đã được trong sạch
chưa? Tất cả các Ngài đã được trong sạch, trong nguyên
nhân này, nên các Ngài mới làm thinh. Tôi xin chứng nhận do
nơi sự làm thinh ấy.
Dứt phần kể các
nguyên nhân.
-ooOoo-
PÀRÀJIKUDDESO
Tatrime
cattàro
pàràjikà dhammà uddesam àgacchanti.
1. Yo
pana bhikkhu
bhikkhùnam sikkhàsàjìvasamàpanno, sikkham appaccakkhàya,
dubbalyam
anàvikatvà, methunam dhammam patisebeyyan tamaso tiracchàna
gatàyapi, pàràjiko hoti asamvaso.
2. Yo
pana bhikkhu gàmà
và arannà và adinnam theyyasan khàtam àdiyeyya yathàrùpe
adinnàdàne ràjàno coram gahetvà haneyyum và bandheyyum và
pabbàjeyyum và corosi bàlosi mùlhosi thenosìti tathàrùpam
bhikkhu
adinnam àdiyamàno, ayampi pàràjiko hoti asamvàso.
3. Yo
pana bhikkhu sancicca
manussaviggaham jìvità voropeyya, satthahàrakam vàssa
pariyeseyya,
maranavannam và samvanneyya, maranàya và samadapeyya, ambho
purisa
kim tuyhiminà pàpakena dujjìvitena? matante jìvità seyyoti; iti
cittamano cittasankappo, anekapariyâyena maranavannam và
samvanneyya,
maranàya và samàdapeyya, ayampi pàràjiko hoti asamvàso.
4. Yo
pana bhikkhu
anabhijànam uttarimanussadhammam attùpanàyikam
alamariyannànadassanam samudàcareyya: iti jànàmi, iti passàmìti,
tato aparena samayena samanuggàhiyamàno và asamanuggàhiyamàno và
àpanno, visuddhàpekkho evam vadeyya: ajànamevam àvuso avacam
jànàmi apassam passàmi, tuccham musà vilapinti, annatra
adhimànà,
ayampi pàràjiko hoti asamvàso.
Uddhitthà
kho àyasmanto
cattàro pàràjikà dhammà, yesam bhikkhu annataram: và annataram
và
àpajjitvà, ra labbati bhikkùhi saddhim sàvamvàsam, yathà pure
tathà pacchà, pàràjiko hoti asamvàso.
Tatth'
àyasmante
pucchàmi, kaccittha parisuddhà?
Dutiyampi
pucchàmi,
kaccittha parisuddhà?
Tatiyampi
pucchàmi,
kaccittha parisuddhà?
Parisuddhetth'àyasmnto,
tasmà tunhì evametam (dhàrayâmi)
Pàràjik'uddeso
nitthito.
BẤT
CỘNG TRỤ
Bốn pháp Bất Cộng
Trụ
của giới bổn, phải kể ra là:
1. Thầy Tỳ Khưu
nào,
đã có học hỏi và thọ trì các điều học của Tỳ Khưu
rồi, chưa hoàn tục hoặc chưa tỏ ra mình là người yếu hèn
(không thể hành đạo cao thượng được) mà hành dâm, dầu
cho với loài thú cái, cũng hạm tội Bất Cộng Trụ, không
được phép ở chung với các Tỳ Khưu khác.
2. thầy Tỳ Khưu
nào,
đã có tâm trộm cắp lấy của người, ở trong xóm hoặc
ở trong rừng; các nhà vua bắt được đạo tặc, hoặc giết
hại, hoặc giam cầm, hoặc lưu đầy xứ và cho rằng
"người là kẻ đạo tặc, là người hung ác, là người
ăn cắp"như thế nào, thì thầy Tỳ Khưu lấy của mà
người ta không dâng cho cũng như thế ấy, thầy Tỳ Khưu
ấy đã phạm Bất Cộng Trụ, không được phép ở chung với
các Tỳ Khưu khác.
3. Thầy Tỳ Khưu
nào,
cố ý giết hại mạng sống con người hoặc kiếm khí giới
biểu cho kẻ khác giết hại, hoặc khen sự nên chết hoặc
nói dắc dẫn cho người nên chết cho rồi như vầy: "Này
người ơi ! Mạng sống của người rất xấu xa có lợi
ích chi đâu, vậy người nên chết đi còn tốt hơn là sống".
Thầy Tỳ Khưu suy
nghĩ
tính toán trong tâm như thế ấy, rồi nói khen ngợi dắc dẫn
chỉ bảo người sự chết đủ cách, thầy Tỳ Khưu ấy đã
phạm Bất Cộng Trụ không được phép ở chung với các vị
Tỳ Khưu khác.
4. Thầy Tỳ Khưu nào
biết rõ, nhưng nói khoe khoan rằng: Mình đã đắc được pháp
của bậc cao nhơn là pháp phải thấy rõ bằng trí tuệ cao
thượng, như vầy: "Tôi biết như thế này, tôi thấy như
thế này". Sau khi ấy, dầu có ai hỏi lại hoặc không
có ai hỏi lại chẳng hạn cũng phạm tội Bất Cộng Trụ.
Mặc dầu sau lại muốn được trong sạch là khỏi tội bèn
nói sửa trở lại như vầy: "Nầy người, tôi không biết
như thế này, tôi không thấy như thế này, nhưng tôi nói biết
và thấy, nói như vậy là tôi nói láo. Thầy Tỳ Khưu ấy
đã phạm tội Bất Cộng Trụ, không được phép ở chung với
các vị Tỳ Khưu khác. trừ ra tưởng rằng mình đã đắc
đạo của bậc cao nhơn.
Bạch các Ngài, 4
pháp
Bất Cộng Trụ tôi đã kể ra rồi, thầy Tỳ Khưu nào đã
phạm tội một trong bốn pháp này, thì không còn được phép
ở chung với các vị Tỳ Khưu khác, trước kia người ấy
thế nào thì sau này phạm tội Bất Cộng Trụ rồi cũng không
được ở chung với các vị Tỳ Khưu như thế ấy.
Tôi xin hỏi các
Ngài,
trong bốn pháp Bất Cộng Trụ này, các Ngài có trong sạch
không? Tôi xin hỏi lần thứ nhì, các Ngài có được trong sạch
không? Tôi xin hỏi lần thứ ba, các Ngài có được trong sạch
không? Các Ngài đã trong sạch nên mới làm thinh, tôi xin chứng
nhận sự trong sạch các Ngài, do nơi sự làm thinh ấy.
Dứt phần kể các
pháp Bất Cộng Trụ.
-ooOoo-
SANGHADISES'UDDESO
Ime kho
pan'àyasmanto
terasa sanghàdisesà dhammà uddesani àgacchanti.
1.
Sancetanikà
sukkavisatthi, annatra supinantà, sanghàdiseso.
2. Yo
pana bhikkhu otinno
viparinatena cittena, màtugàmena saddhim kàyasamsaggam
samàpajjeyya,
hatthaggàham và veniggàham và annata và annatarassa và angassa
parà masanam, sanghàdiseso.
3. Yo
pana bhikkhu otinno
viparinatena cittena màtugàmam dutthullàhi vàcàhi obhàseyya
yathàtam yuvà yuvatim methùnupasanhitàhi, sanghàdiseso.
4. Yo
pana bhikkhu otinno
viparinatena cittena, màtugamassa santike attakàma pàricariyâya,
vannam bhàseyya: Etadaggam bhagini pàricariyânam, yâ madisam
sìlavantam kalyanadhammam brahmacàrim etana dhammena,
paricareyyàti
methunupasanhitena, sanghàdiseso.
5. Yo
pana bhikkhu
sancarittam samàpajjeyya, itthiyâ và purisamatim, purisassa và
itthìmatim, jàyattane và jàrattane và, antamaso tamkhanikàyapi,
sanghàdiseso.
6.
Sannàcikàya pana
bhikkhunà kutim kàrayamànena assàmikam att'uddesam, pamànikà
kàretabbà, tatridam pamànam dìghaso dvàdasavidatthiyo.
Sugatavidatthiyâ, tiriyam sattantà: bhikkhù abhinetabbà,
vatthudesanàva: Tehi bhikkhùhi vatthum desetabbam anàrambham
saparikkamanam sàrambhe ce bhikkhu vatthusmim aparikkamane
sannàcikàya kutim kàreyya, bhikkhù và anabhineyya
vatthudesanàya,
pamànam và atikkàmeyya, sanghàdiseso.
7.
Mahallakam panà
bhikkhunà vihàram kàrayamànena sassàmikàm att'uddesam, bhikkhù
abhinetabbà vatthu desanàya, tehi bhikkhùhi vatthum desetabbam
anàrambham saparikkamanam; sarambhe ce bhikkhu vatthusmim
aparikkamane
mahallakam vihàram kàreyya, bhikkhù và anabbineyya
vatthudesanàya,
sanghàdiseso.
8. Yo
pana bhikkhum duttho
doso appatìto, amùlakena pàràjikena dhammena anuddhamseyya:
appeva
nàma nam imamhà brahmacariyâ càveyyanti tato aparana samayana
samanuggàhiyamano và asamanuggàhiyamàno và, amùlakanceva tam.
Adhikaranam
hoti, bhikkhu
ca dosam patitthàti, sanghàdiseso.
9. Yo
pana bhikkhu bhikkhum
duttho doso appatìto, annabhàgiyassa adhikaranassa kinci desam
lesamattam upàdàya, pàràjikena dhammena anuddhamseyya: appeva
nàma
nam imamhà brahmacariyâ càveyyanti, tato aparena samayena
samanuggàhiyamano và asamanuggàhiyamàno và, annabhàgiyanceva tam
adhikaranam hoti koci desolesamatto upàdinno, bhikkhu ca dosam
patitthàti sanghàdiseso.
10. Yo
pana bhikkhu
samaggassa sanghassa bhesàya parakkameyya, bhedanasamvattanikam
và
adhikaranam samàdàya paggayha tittheyya; so bhikkhu bhikkhùhi
evamassa vacanìyo mà àyasmà samaggassa sanghassa bhedàya
parakkami,
bhedanasamvattanikam và adhikaranam samàdàya paggayha atthàsi;
samet'àyasmà sanghena samaggohi sangho sammodamàno avivadamàno
ek'uddeso phàsu viharatìti, evanca so bhikkhu bhikkhùhi
vuccamàno
tatheva pagganheyya; so bhikkhu bhikkhùhi yâvatatiyam
samanubhàsitabbo tassa patinissaggàya.
Yøavatatiyance
samanubhàsiyamànà tam patinissajjeyya, iccetam kusalam; no ce
patinissajjeyya, sanghàdiseso.
11.
Tass'eva kho pana
bhikkhussa bhikkhù honti anuvattakà vaggavàdakà eko và dve và
tayo
va, te evam vadeyyum; maa2yasmanto etam bhikkhum, kinci
avacuttha
dhammavàdì ceso bhikkhu, vinayavàdì ceso bhikku, ambàkanceso
bhikku
chandanca rucinca àdàya voharati, jànàti no bhàsati,
amhàkampetam
khamatìti; Te bhikkù bhikkhùhi evamassu vacanùyâ; mà àyasmanto
evam avacuttha na ceso bhikkhu dhammavàdì, na ceso bhikkhu
vinayavàdi
mà àyasmantànampi sanghabhedo rucitthà samet'àyasmantànam
sanghena, samaggo hi sangho sammodamàno avivadamàno ek'uddeso
phàsu
viharatìti; evanca te bhikkhù bhikkhùhi vuccamànà, that'eva
pagganheyyum te bhikkhù bhikkhùhi yâvatatiyam samanubhàsitabbà
tassa patinissaggàya.
Yâvatatiyance
samanubhàsiyamànà tam patinissajjeyyum, iccetam kusalam no ce
patinissajjeyum, sanghàdiseso.
12.
Bhikkhu pan'eva
dubbacajàtiko hoti, uddesa pariyâpannesa sikkhàpadesu bhikkhùhi,
sahadhammikam vuccamàno, attanam avacanìyam karoti: mà mam
àyasmanto
kinci avacuttha kalyânam và pàpakam và ahamp' àyasmante na kinci
vakkhàmi kalyânam và pàpakam và viramath' àyasmanto mama
vacanàyâti.
So
bhikkhu bhikkhùhi
evamassa vacanìyo, mà àyasmà attànam avacanìyam akàsi,
vacanìyam' eva àyasmà attànam karotu, ayasmàpi bhikkhù vadetu
sahadhammena, bhikkhùpi àyasmantam vakkhanti sahadhammena; evam
samvaddhàhi tassa bhagavàto parisà, yadidam annamannavacanena
annamanna vutthàpanenàti.
Evanca so
bhikkhu
bhikkhùhi vuccamàno that' evapagganheyya, so bhikkhu bhikkhùhi
yâvatatiyam samanubhàsitabbo tassa patinissaggàya.
Yâvatatiyance
samanubhàsiyamàno tam patinissajjeyya iccetam kusalam no ce
patinissajjeyya, sanghàdiseso.
13.
Bhikkhu pan'eva
annataram gàmam và nigamam và upanissàya viharati kuladùsako
pàpasamàcàro, tassa kho pàpakà samàcàrà dissanti e' eva suyyanti
ca, kulàni ca tena dutthàni dissanti e' eva suyyanti ca.
So
bhikkhu bhikkhùhi
evamassa vacanìyo: àyasmà kho kuladùsako pàpasamàcàro, àyasmato
kho pàpakà samàcàrà dissanti e' eva suyyanti ca kulàni e '
àyasmatà dutthàni dissanti e' eva suyyanti ca, kulàni e'
àyasmatà
dutthàni dissanti e' eva suyyanti ca, pakkamat ' àyasmà imamhà
àvàsà alante idha vàsenàti.
Evancà so
bhikkhu
bhikkhùhi vuccamàno, te bhikkhù evam vadeyya: chandagàmino ca
bhikkhù, dosagàmino ca bhikkhù, mohagàmino ca bhikkhù,
bhayagàmino
ca bhikkhù, tàtisikàya apattiyâ ekaccam pabhàjenti ekaccam na
pabhàjentìti.
So
bhikkhu bhikkhùhi
evamassa vacanìyo: mà àyasmà evam avaca, na ca bhikkhù
chandagàmino na ca bhikkhù dosagàmino, na ca bhikkhù mohagàmino,
na
ca bhikkhu bhayagàmino àyasmà kho kuladùsako pàpasamàcàro.
Aøyasmato kho pàpakà sàmacàrà dissanti e'eva suyyanti e' eva
auyyanti ca; pakkamat'àyasmà imamhà àvàsà alante idha vàsenàti.
Evanca so bhikkhu bhikkhùhi vuccamàno that ' eva pagganheyya, so
bhikkhu bhikkhùhi yâvatatiyam samanubhàsitabho tassa
patinissaggàya.
Yâvatatiyance samanubhàsiyamàno tam patinìssajjeyya, iccetam
kusalam, no ce patinissajjeyya sanghàdiseso. Udditthà kho
àyasmanto
terasa sanghàdisesà dhammà, nava patham àpattikà, cattàro
yâvatatiyakà; yesam bhikkhu annataram và anntaram và àpajjittvà
yâvatiram và annataram và àpajjittvà yâvatiham jànam
paticchàteti, tàvatiham tena bhikkhunà akàmà parivatthabbam
parivutthaparivàsena bhikkhunà uttarim ehàrattam
bhikkhumànattàya
patipajjitabbam. Cinnamànatto bhikkhu, yattha siyâ vìsatigano
bhikkhu
sangho, tattha so bhikkhu abbhetabbo.
Ekenapi
ce ùno vìsatigano
bhikkhusangho tam bhikkhum abbheyya, so ca bhikkhu anbbhito, te
ca
bhikkhù gàrayhà. Ayam tattha sàmìci.
Tatth '
àyasmante
pucchàmi, kaccittha parisudhà?
Dutiyampi
pucchàmi,
kaccittha parisudhà?
Tutiyampi
pucchàmi,
kaccittha parisudhà?
Parisudhetth'
àyasmanto,
tasmà tunhì.
Evametam
dhàrayâmi.
Sanghàdises
' uddeso
nitthito.
PHẦN
KỂ RA TĂNG TÀNG
(1)
1. Thầy Tỳ Khưu nào
cố
ý làm cho tinh khí xuất ra thì phạm tội tăng tàng, trừ phi
nằm chiêm bao.
2. Thầy Tỳ Khưu nào
tâm thay đổi, bị tình dục đè nén, rờ rẩm vào mình phụ
nữ, hoặc nắm tay, hoặc rờ đầu tóc, hoặc rờ trong mình
bất luận chỗ nào, thì phạm tội tăng tàng.
3. Thầy Tỳ Khưu nào
tâm thay đổi, bị tình dục đè nén, nói trêu ghẹo phụ nữ
bằng lời tục tĩu cũng như người trai tơ nói trêu ghẹo
cô gái bằng lời nói có tánh cách dâm dục thì phạm tội
tăng tàng.
4. Thầy Tỳ Khưu nào
tâm thay đổi, bị tình dục đè nén, nói lời có tánh cách
dâm dục là khen ngợi ân đức của sự cho mình hành dâm với
phụ nữ rằng: "Này cô, người phụ nữ nào hầu hạ
là cho sự hành dâm đến người tu hành cao thượng có giới
hạnh, có nhiều đức tánh như tôi đây, sự hầu hạ ấy
là cao thượng hơn tất cả các sự hộ độ khác", thì
phạm tội tăng tàng.
5. Thầy Tỳ Khưu nào
làm mai mối là đem ý muốn của người nam nói với phụ nữ,
của phụ nữ nói với người nam, làm cho hai bên thành vợ
chồng hoặc kết tình với nhau, dầu nói một lúc cho mấy
cô gái giang hồ, cũng phạm tội tăng tàng.
6. Thầy Tỳ Khưu khi
làm
tịnh thất riêng cho mình, mà không có thí chủ đứng cất
cho, tự mình đi xin vật liệu để cất thì phải cất cho
đúng luật là: bề dài 12 gan, bề ngang 7 gan của Ðức Phật
(1) do từ phía trong vách và phải dẫn Chư Tăng đến để
chỉ chỗ cho. Chỗ ấy không có sự hoài nghi (là nhầm ổ mối,
kiến v.v..) và có chỗ trống chung quanh (cho xe bò đi được).
Nếu thầy Tỳ Khưu làm cốc liêu, đi xin vật liệu của
người. Cất trong chỗ có sự hoài nghi và trống chung quanh,
không dẫn Chư Tăng đến chỉ chỗ hoặc cất quá luật định
thì phạm tội tăng tàng.
7. Khi nào thầy Tỳ
Khưu
làm chỗ ở lớn cho mình, do có thí chủ đứng cất cho, thì
phải dẫn Chư Tăng chỉ chỗ cho, chỗ ấy không có sự
hoài nghi và chung quanh có chỗ trống. n?u thầy Tỳ Khưu cho
làm chỗ lớn ở riêng cho mình nơi chỗ có sự hoài nghi,
không có khoảng trống chung quanh hoặc không dẫn Chư Tăng
đến chỉ chỗ cho thì phạm tội tăng tàng.
8. Thầy Tỳ Khưu
nào,
sân hận, hung dữ, phiền phức, cáo gian thầy Tỳ Khưu khác
phạm tội Bất Cộng Trụ mà không có nguyên nhân chi, với
sự cố ý rằng: "Ta làm thế nào ! cho vị Tỳ Khưu đó
phải xa lìa sự đạo hạnh cao thượng"(là phải hoàn tục)
sau khi ấy, dầu có ai hỏi lại hoặc không ai hạch hỏi lại,
nếu sự tố cáo rõ ràng là không có nguyên nhân chi, dầu
cho thầy Tỳ Khưu tiên cáo ấy có nhìn nhận tội của mình
cũng phạm tội tăng tàng.
9. Thầy Tỳ Khưu
nào,
sân hận, hung dữ, phiền phức, nhân một nguyên nhân nhỏ mọn
nào khác để làm bằng cớ, rồi tố cáo vị Tỳ Khưu khác
phạm tội Bất Cộng Trụ với sự cố ý rằng: "Ta làm
thế nào, cho vị Tỳ Khưu đó phải xa lìa sự hành đạo
cao thượng". Sau khi ấy dầu có ai hỏi lại hoặc không
ai hỏi lại, nếu sự tố cáo ấy là một việc khác, mà thầy
Tỳ Khưu ấy dựa vào một nguyên nhân nhỏ mọn để làm bằng
cớ, dầu thầy Tỳ Khưu ấy có thú nhận tội lỗi của
mình, cũng phạm tội tăng tàng.
10. Thầy Tỳ Khưu
nào,
Chư Tăng đang hòa thuận nhau mà cố gắng làm cho chia rẽ,
hoặc chấp lấy một sự tranh luận nào mà làm cho Chư Tăng
chia rẽ nhau ở riêng biệt nhau. Thì các vị Tỳ Khưu khác
nên khuyên vị Tỳ Khưu ấy rằng: "Này đạo hữu, không
nên cố gắng làm cho Chư Tăng đang hòa hiệp nhau phải chia
rẽ, và cũng không nên chấp lấy một bằng cớ nào mà làm
cho Chư Tăng chia rẽ ở riêng nhau, xin đạo hữu nên hòa thuận
nhau, vui vẻ nhau, không cải cọ nhau, có sự sum hợp nhau,
thì thường được an vui". Khi các vị Tỳ Khưu nói như
thế ấy, nhưng thầy Tỳ Khưu ấy cũng vẫn chấp như cũ các
vị Tỳ Khưu phải hợp lại "Tụng tuyên ngôn ngăn cản
trong 3 lần"cho vị ấy dứt bỏ sự chia rẽ tăng chúng
ấy đi. Khi các Tỳ Khưu đã "Tụng tuyên ngôn ngăn cản
3 lần rồi"mà thầy Tỳ Khưu ấy chịu dứt bỏ sự làm
cho tăng chúng chia rẽ ấy ra, sự dứt bỏ ấy rất tốt vậy,
nếu không chịu dứt bỏ thì phạm tội tăng tàng.
11. Các thầy Tỳ
Khưu,
hoặc 1 vị, 2 vị, 3 vị, xu hướng theo vị làm cho chia rẽ
tăng chúng và chấp theo phe đảng. các vị Tỳ Khưu khác
nên ngăn cản khi các vị Tỳ Khưu ấy ngăn cản thì các vị
kia nói như vầy: "Xin các đạo hữu đừng nói lời chi
với vị Tỳ Khưu ấy, bởi vì vị ấy nói đúng theo kinh,
nói đúng theo luật, hơn nữa vị ấy chấp lấy việc mà
chúng tôi vừa lòng đẹp ý nên mới nói. Vị ấy biết rõ
sự bằng lòng của chúng tôi nên mới nói". Các vị Tỳ
Khưu khác nên nói lại với các vị kia rằng: "Các đạo
hữu không nên nói như vậy, vì thầy Tỳ Khưu này, không phải
là người nói đúng theo kinh, theo luật đâu, xin các vị đừng
vui thích việc làm chia rẽ tăng chúng và nên hòa hợp với
Chư Tăng đi. "Bởi vì Chư Tăng hòa thuận nhau, vui vẻ với
nhau, không cãi cọ nhau, sum hợp nhau lại làm một thì thường
được sự an vui". Khi các vị Tỳ Khưu ấy nói như thế
mà các vị kia cứ chấp như cũ thì Chư Tăng nên đọc
"Tuyên ngôn để ngăn cản các vị kia trong 3 lần"để
dứt bỏ sự chấp nhứt ấy đi. Khi Chư Tăng đã tụng
""Tuyên ngôn 3 lần để ngăn cản", như các vị
đó dứt bỏ sự chấp ấy đi, sự dứt bỏ ấy là một việc
rất tốt nếu không chịu dứt bỏ, thì phạm tội tăng tàng.
12. Nếu thầy Tỳ
Khưu
có tánh nết khó dạy, khi có các vị Tỳ Khưu khác khuyên
giải đúng theo giáo pháp và theo như các điều học trong giới
bổn, lại tỏ ra mình là người cứng đầu và nói rằng:
"Xin các vị đứng nói lời gì tới tôi hết thảy, mặc
dầu xấu hay tốt gì thây kệ tôi". Còn phần tôi, cũng
vậy, tôi không nói gì dầu tốt dần xấu gì tới các vị
xin các vị đừng có giảng dạy cho tôi nữa".
Các vị kia nên nói
với
vị ấy rằng: "Này đạo hữu, không nên tỏ ra người
khó dạy như thế. Nên làm cho mình là người dễ dạy".
Còn đạo hữu cũng vậy, cứ chỉ dạy chúng tôi đúng theo
giáo pháp và chúng tôi cũng chỉ dạy đạo hữu đúng thoe
kinh luật vậy. Bởi vì đệ tử của Ðức Phật thường
được sự tấn hóa do nhờ sự nhắc nhở nhau những lời
có lợi ích là làm cho nhau thoát khỏi những đều tội lỗi".
Khi các vị Tỳ Khưu
nói
như thế ấy mà vị kia cũng vẫn chấp như cũ thì Chư Tăng
phải tụng "Tuyên ngôn 3 lần để ngăn cản và cho dứt
bỏ sự chấp ấy đi". Khi Chư Tăng đã tụng tuyên ngôn
ngăn cản 3 lần rồi mà vị ấy dứt bỏ được, sự dứt
bỏ ấy rất hợp pháp, nếu không chịu dứt bỏ thì phạm
tội tăng tàng.
13. Thầy Tỳ Khưu
đến
cư ngụ một xứ nào hoặc một nơi nào, là người hành động
xấu xa,làm cho hư hại gia quyến người, sự hành động ấy
có người nghe và thấy rõ ràng; lại nữa các gia quyến ấy
họ cũng nghe và thấy rõ sự hành động xấu xa của vị
ấy.
Các vị Tỳ Khưu khác
nên nói với vị Tỳ Khưu ấy rằng: "Ðạo hữu là người
làm hư hại gia quyến người và hành động xấu xa rõ rệt,
sự hành động xấu xa ấy có người ta nghe và thấy, hơn nữa
các gia quyến mà đạo hữu đã hãm hại ấy, người ta
cũng nghe và thấy rõ ràng. Vậy đạo hữu phải đi khỏi chỗ
này đi, không nên cư ngụ nơi đây nữa".
Khi các vị Tỳ Khưu
nói
như thế ấy, thì vị kia lại trả lời rằng: "Các
Ngài đều là người tây vị, vì thương, tây vị vì ghét,
tây vị vì sự si mê, tây vị vì sợ, bởi vậy các Ngài,
có người cũng đồng phạm một tội với nhau, mà kẻ bị
đuổi còn người lại không".
Các vị Tỳ Khưu khác
nên nói lại với vị ấy rằng: "Ðạo hữu không nên
nói như vậy, vì Chư Tăng không phải là tây vị vì thương,
tây vị vì ghét, tây vị vì sự si mê, tây vị vì sợ đâu.
Ðạo hữu là người hành động xấu xa và hãm hại gia quyến
người, sự hành động xấu xa ấy, có người ta nghe và thấy
rõ ràng; hơn nữa những gia quyến mà đạo hữu làm hư hại,
người ta cũng nghe và thấy rõ ràng. vậy đạo hữu phải
đi khỏi chỗ này đi, không nên ở đây nữa".
Khi các vị Tỳ Khưu
đã
nói như thế mà vị kia cũng cứ chấp như cũ, thì các vị
Tỳ Khưu nên tụng "Tuyên ngôn ngăn cản 3 lần" đặng
cho dứt bỏ sự hành động xấu xa ấy đi. Nếu khi đã tụng
"Tuyên ngôn ngăn cản 3 lần" mà vị ấy chịu sự dứt
bỏ ấy rất hợp pháp vậy, nếu không chịu dứt bỏ thì
phạm tội tăng tàng.
Bạch các Ngài, 13
pháp
tăng tàng, tôi đã kể ra rồi, 9 pháp đầu gọi là "Patham
' àpattikà: Khi hành sái thì phạm tội liền". Còn 4
pháp sau gọi là "Yâvatatiyakà: phạm tội khi nào
Chư Tăng đã đọc tuyên ngôn ngăn cản 3 lần mà không dứt
bỏ".
Tất cả 13 tội này,
nếu
thầy Tỳ Khưu nào phạm một tội nào, mà biết rõ mà dấu
bao nhiêu ngày thì phải phạt tội cấm phòng bấy nhiêu
ngày (là phải ở dưới sự hành phạt nhất định của
Chư Tăng ), khi hành phạt xong còn phải thực hành "Mànatta"
(là hành động cho tốt, đặng Chư Tăng ưa thích) trong 6 đêm
nữa, rồi Chư Tăng từ 20 vị trở lên ở đâu thì thầy Tỳ
Khưu ấy đến xin "Abbhànakamma" là tăng hợp lại
tụng tuyên ngôn cho phéo mình nhập chúng ). Nếu Chư Tăng không
đủ 20 vị, dầu chỉ thiếu một vị mà vẫn tụng tuyên
ngôn cho nhập chúng thì tăng sự ấy cũng không thành tựu
đến vị ấy. Về phần Chư Tăng thì cũng bị Ðức Phật
quở rầy. Làm như thế là việc làm hợp pháp trong tăng sự.
Tôi xin hỏi các
Ngài
trong 13 tội tăng tàng này các Ngài có trong sạch không?
Tôi xin hỏi lần thứ
nhì, các Ngài có được trong sạch không?
Tôi xin hỏi lần thứ
ba, các Ngài có được trong sạch không?
Các Ngài được trong
sạch
nên mới làm thinh, tôi xin chứng nhận sự trong sạch của
các Ngài, do nơi sự làm thinh ấy.
Dứt phần kể về tăng
tàng.
-ooOoo-