INDRIYA
SAMVARASÌLA
GIỚI THU THÚC LỤC CĂN
(THANH TỊNH)
1. Cakkh'indriya
samvara:
Thu thúc nhãn căn.
2. Sot'indriya
samvara:
Thu thúc nhĩ căn.
3. Ghàn'indriya
samvara:
Thu thúc tỷ căn.
4. Jivih'indriya
samvara:
Thu thúc thiệt căn.
5. Kày'indriya
samvara:
Thu thúc thân căn.
6. Man'indriya
samvara:
Thu thúc ý căn.
Thầy Tỳ Khưu trong
Phật
pháp, khi thấy rõ tội lỗi của sự không thu thúc và quả
báo của sự thu thúc, thì mỗi khi mắt tiếp xúc với sắc
trần, tai tiếp xúc với thinh trần, mũi tiếp xúc với các
mùi, lưỡi tiếp xúc với các vị, thân tiếp xúc với các
sự đụng chạm, tâm tiếp xúc với các pháp (1), dầu tốt,
dầu xấu, thì rán thu thúc không nên lưu luyến đến các cơ
thể và hình ảnh hoặc chi tiết và toàn thể của các trần
ấy và hai pháp là vui thích theo trần ấy hoặc bất bình,
buồn bực trong trần nào mà mình không ưu thích.
Ðức Phật có giải
trong Pathama sangeyya sutta rằng: "Nếu thầy Tỳ Khưu
không thu thúc, gìn giữ lục căn thì thường phải chịu những
điều khổ não vô lượng, nhất là sự khổ trong các cảnh
địa ngục. Còn Tỳ Khưu nào huấn luyện, dạy dỗ, gìn giữ
lục căn cho thanh tịnh thì thường hưởng được sự an vui
vô lượng không lẫn lộn với phiền não, nhất là sự an
vui trong thiền định và quả báo Niết Bàn". Hơn nữa,
trong Aditta pariyâya sutta (kinh giải về lửa) Ðức Phật
có dạy rằng: "Nếu thầy Tỳ Khưu lấy dao thật bén đã
đốt đỏ, khoét con mắt, ngoáy lỗ tai, cắt mũi, cắt lưỡi,
lóc thịt còn tốt hơn là khi tiếp xúc với sắc, thinh, hương,
vị, xúc mà vui thích, lưu luyến, bám víu theo chi tiết của
các cơ thể hoặc hình ảnh toàn thể của trần ấy. Tại
sao vậy? Vì nếu trong khi tâm đang quyến luyến theo các trần
ấy mà mạng chung thì thế nào cũng phải sa đọa vào hai
đường dữ là súc sanh và địa ngục không sai. Một lẻ nữa,
sự ngủ quên cón quí hơn, vì sự ngủ quên chỉ làm cho mất
lợi ích trong sự sanh sống hoặc sự hành đạo vậy thôi,
chớ tư tưởng sái quấy, xấu xa, mà thầy Tỳ Khưu nuôi nấng
trong tâm có thể hướng dẫn vị ấy làm điều tội lỗi lần
lần cho đến tội chia rẽ Tăng chúng và nhiều khi cũng bị
hư hỏng, tai hại trong kiếp hiện tại.
"Bởi vậy cho nên,
thầy Tỳ Khưu khi tiếp xúc với lục trần phải rán thu
thúc lục căn cho thanh tịnh đừng cho hai pháp là vui thích
hoặc bất bình phát sanh lên trong tâm. Chỉ biết rằng:
"Các trần này chỉ để tiếp xúc vậy thôi".
Sự thu thúc lục căn
được tròn đủ nhờ có sự "ghi nhớ – sati".
"Dứt giới thu thúc lục căn".
-ooOoo-
ÀJÌVA
PÀRISUDDHISÌLA
GIỚI
NUÔI MẠNG CHÂN CHÁNH (THANH TỊNH)
Thầy Tỳ Khưu thực
hành
theo giới nuôi mạng chân chánh phải rán tinh tấn dứt bỏ
cách nuôi mạng tà vạy và tinh tấn trong sự nuôi mạng
chân chánh.
Sự tinh tấn dứt bỏ
cách tà mạng do nơi thân và khẩu là phải xa tránh năm pháp
ác pàpadhamma và 21 pháp tà vạy anesana.
Pàpadhamma
- Năm
pháp ác:
Kuhanà:
giả dối (làm bộ cao thượng).
Lapanà: nói bợ đở.
Nemittikatà: giả dạng (do thân và khẩu).
Nippesikalà: nói hâm dọa.
Làbhena làbham nijjigimsanata: lấy lợi câu lợi.
Chú giải:
1. Kuhanà:
giả dối
có ba cách:
a) Paccayappatisevana:
giả dối trong cách thọ tứ vật dụng.
Giải rằng: Có
thầy
Tỳ Khưu khi thí chủ thỉnh mời thọ lãnh tứ vật dụng,
dầu cho mình muốn cần dùng các vật ấy lắm nhưng cũng
giả bộ như mình là bậc tri túc cao thượng không muốn cần
dùng đến vật quí báu ấy, chỉ cần dùng vật thấp hèn
xấu xa cũng được. Khi biết được thì chủ họ càng
trong sạch với mình, sau lại họ chở vật dụng đến cả
xe mới thọ lãnh và nói rằng: Tôi không mấy gì cần
dùng các món vật dụng này đâu, nhưng nếu tôi không thọ
lãnh thì bà con không được phước, vì vậy mà tôi mới
lãnh để tế độ bà con vậy thôi. Không phải chỉ giả
bộ lời nói mà thôi, có khi làm bộ như người thu thúc,
nghiêm trang im lặng như người có pháp bậc cao nhơn trong
mình đặng cho người phát đức tin trong sạch mà lễ bái
cúng dường đến mình.
b) Sàmantajappana:
Thầy Tỳ Khưu vì muốn người cung kính, khen ngợi, lễ
bái cúng dường mới làm bộ nói cách dịu ngọt xa gần
muốn ám chỉ mình như vầy: "Bà con coi vị nào mặc y
dùng bát như thế này, thầy tế độ như vầy, ở nơi chùa
kiểu này, vị ấy là một bậc đại sa môn, có chức phận
lớn, có pháp của bậc cao nhơn như vầy, như vầy".
Hoặc nói bậy nói bạ khoe khoan hình như mình đã đắc thánh
pháp, hoặc tự khoe rằng: "Bà con coi, tôi đây người
ta khen ngợi nhiều lắm". Nói như thế là nói dối bằng
cách xảo ngôn.
c. Iriyâpatha
sannissita: Giả dối bằng cách dùng oai nghi.
Thầy Tỳ Khưu vì
muốn
được danh lợi, làm bộ tề chỉnh, thu thúc trong bốn oai
nghi đi, đứng, nằm, ngồi hình như có đầy đủ sự ghi
nhớ và biết mình như các bậc cao nhơn, có khi làm như mình
nhập định trong giữa đám đông, hoặc làm như người gớm
ghiết chán nản pháp thế gian.
2. Sapana:
nói bợ
dở.
Thầy Tỳ Khưu vì
muốn
được danh lợi, khi thấy thí chủ đến chùa làm bộ vui vẻ
kêu hỏi trước, nếu họ nói: "Ðến thỉnh Chư
Tăng". Thì tự mình bước ra nói để đi thỉnh thế
cho, hoặc nói khoe khoan rằng: "Tôi đây vua chúa quan quyền
nhỏ lớn ở đó đó đều trong sạch với tôi hết thảy",
hoặc nói nịnh bợ, nói xa gần, nói bắt buộc, nói diễu cợt,
nói sắp nói giữa v.v.. đặng người cúng dường vật dụng.
3. Nemittikatà:
Giả
dạng do thân hoặc khẩu. Cũng như thầy Tỳ Khưu vì muốn
được lợi danh khi thấy thí chủ đem cầm vật thực mặn
ngọt, dầu cho mình biết rõ vật ấy lắm, nhưng giả bộ hỏi
cầm cái chi đặng cho họ biết mình muốn vậy ấy, hoặc
nói than van ngay vật ấy với thiện tín, hoặc nói mánh lới
xa gần cho người biết mình cần dùng vật ấy, hoặc nói bắt
buộc cho người không thể dám tránh khỏi được, hoặc giả
cách như người có thần thông.
4. Nippesikatà:
nói dọa dẫm.
Thầy Tỳ Khưu vì
muốn
được danh lợi mới dùng lời hâm dọa, đè nén, mắng nhiết
thí chủ, hoặc bắt lỗi phải, biếm nhẻ cho rằng họ
không có đức tin, hoặc nói nịnh hót, diễu cợt, hoặc
đem chuyện xấu nhà này nói với nhà kia để bươi móc lợi
lộc.
5. Làbhena
làbham
nijjigim sanàtà: Dùng lợi câu lợi.
Thầy Tỳ Khưu vì
muốn
được danh lợi mới đem vật dụng được ở nhà này đem
đi cho nhà kia, được nhà kia đem cho nhà nọ, lấy lợi nhỏ
ấy đặng câu lợi to cho càng nhiều thêm.
Thầy Tỳ Khưu nào
được
lợi lộc như cách kể trên thì gọi là sự nuôi mạng theo
năm pháp ác không trong sạch.
ASESANA
- Hai mươi mốt pháp tà mạng.
Thầy Tỳ Khưu nào
sanh
sống bằng xách suy tính thế nọ thế kia hoặc cho vật chi
đến kẻ thế mà không nên cho, cố ý đổi lấy vật dụng
khác để nuôi mạng mình, tất cả các vật phát sanh lên bằng
cách ấy đều gọi là tà mạng cả.
Có 21 pháp tà mạng
là:
1. Veludànam:
cho
tre (của chùa hoặc của Tăng đến ngườii thế tục mà
không nên cho). Nếu tre sau khi làm công việc xong còn dư cho
người làm ấy không sao.
2. Pattadànam:
cho
lá cây (như lá chuối v.v.)
3. Pupphadànam:
cho
bông hoa, tự mình cho hoặc sai vị khác cho đến gia quyến
không nên cho đều phạm tội tác ác. Nếu cho cha mẹ, hoặc
cho để đem đi cúng Tam Bảo một nơi nào đều vô tội.
4. Phaladànam:
cho
trái cây (như cách cho bông hoa ).
5. Dantakatthadànam;
cho cây đánh răng (1).
6. Mukh'odakadànam:
cho nước rữa mặt v.v..
7. Sinànadànam:
cho vật để tắm gội
8. Cunnadànam:
cho
vật thoa mình (như phấn sáp v.v.)
9. Mattikadànam:
cho đất sét (để thoa mình khi vào nhàkhói để hơ) hoặc
để trét vách.
10. càtukamyatà:
giả bộ hạ mình kiêng nể người. Như thế có thí chủ đến
chùa hoặc mình đến nhà người làm tuồng như kiêng nể sợ
sệt hỏi han người hết sức ngọt dịu cung kính hạ mình
như tôi tớ kính chủ đặng người trong sạch.
11. Muggsàpatà:
nói khi thiệt khi giả (như đậu nữa chín nữa sống).
12. Pàribhatyatà:
giúp đở người (là ẩm bồng con, cháu người làm như cha
mẹ của đứa trẻ ấy).
13. Janghapesanikam:
tiếp làm công việc cho người đủ thứ, công việc chi của
người thế cũng lãnh làm hết thảy, hoặc đem tin tức thơ
từ cho người.
14. Vejjakammam:
làm
thầy thuốc chửa bịnh cho người, không phải hạng người
Ðức Phật cho phép, như bậc xuất gia hoặc thân quyến của
mình.
15. Dùtakammam:
đem tin cho người, như đem tin từ nhà này đến nhà kia, trừ
ra đem tin cho năm hạng đồng đạo và cha mẹ, giới tử sắp
vào tu và người giúp phụ sự cho mình.
16. Pahinagamanam:
lãnh làm tay sai cho người (ngoài sự đem tin tức ) như người
thế họ sai đem vật này đến chỗ kia hoặc đem vật ở chỗ
kia đem về chỗ này.
17. Pindappatipindikam:
đem vật thực đi bát cho người thế ăn trước, rồi đi bát
sau mới ăn. Trừ ra những hạng Phật cho phép như cha mẹ,
vua chúa, tướng cướp, người hầu, Chư Tăng, người sắp
tu.
18. Dàn'ùpadànam:
cho
qua cho lại. như thí chủ họ dâng cúng cho mình món chi,
mình cho lại một món bằng hay hơn giá món ấy để mua lòng
họ sẽ cúng dường mình lâu dài.
19. Vatthuvijjà:
làm thầy coi địa lý. Như thầy Tỳ Khưu biết coi địa lý
nòi hcỗ này nên cất nhà, chỗ này không nên, thứ cây này
dùng cất nhà có lợi, thứ cây này có hại v.v...
20. nakkhatta
vijjà:
làm thầy xem thiên văn như coi ngày tháng, sao hạng, tốt hay
xấu, có lợi hoặc có hại, bàn nguyện thực, nhựt thực
21. Anga vijjà:
coi
tướng, coi tay, như coi tướng nam, nữ có nhiều của cải
hoặc phước đức v.v.. hoặc xem tướng ngọc ngà, voi ngựa,
gươm giáo, vải hàng v.v..
Thầy Tỳ Khưu nào vì
muốn được danh lợi hoặc sự cung kính làm theo 21 pháp tà
mạng đã kể, những vật dụng mà phát sanh lên do cách tà
mạng ấy đem nuôi mạng sống đều không trong sạch. Còn như
vật riêng của mình hoặc những vật sau khi làm công việc
còn dư, hoặc cho với sự không cố ý muốn được tư lợi,
vì sự buộc lòng, hoặc người đi lỡ đường đến chùa,
hoặc các vị vua chúa cần dùng đến mình cho đều vô tội.
Các vị Tỳ Khưu đều phải xa lánh 21 pháp tà mạng này và
phải tinh tấn di khất thực xin ăn, hoặc nguyện các pháp
đầu đà, hoặc vật thực phát sanh lên do đức hạnh thanh
cao của mình, hoặc do Chư Tăng thì đều gọi là vật dụng
trong sạch cả.
Giới nuôi mạng được
thanh tịnh do nhờ sự tinh tấn "viriya".
Dứt phần nuôi mạng
chân chánh.
-ooOoo-
PACCAYASANNISSITA
SÌLA
GIỚI
QUÁN TƯỞNG (THANH TỊNH)
Giới quán tưởng mà
được thanh tịnh do nhờ sự suy xét cho phát sanh trí tuệ
chớ không phải do nơi vật dụng (paccaya). Tiếng nói
vật dụng ấy có bốn là:
Cìvara
paccaya:
y phục là ám chỉ tam y.
Pindapàta paccaya: vật thực mặn ngọt.
Senàsana paccaya: chỗ trú ngụ, liêu cốc, giường ghế
v.v.
Gilàna bhesajja paccaya: thuốc chữa bịnh.
Cách quán tưởng
chia
ra làm ba thời kỳ:
Thời kỳ đang thọ
lãnh.
Thời kỳ đang dùng (ăn).
Thời kỳ đã thọ dụng xong.
* Thời kỳ đang thọ
lãnh
nên quán tưởng về nguyên chất (dhàtupaccavekkhna)
Quán tưởng về y
phục
như vầy:
Yathà paccayam
pavattamànam dhàtu mattamevetam yadidam cìvaram tadupabhunjako
ca
puggalo dhàtumattako nissatto nijjìvo sunna.
Y phục này thật là
một
nguyên chất, tạo thành ra tùy theo món vật dụng, dầu cho
ta là người dùng nó, nó cũng chỉ là một nguyên chất,
không có sanh mạng, không phải là chúng sanh, có trạng thái
không không.
Quán tưởng về vật
thực:
Yathà paccayam
pavattamànam dhàtu mattamevetam yadidam pindapato tadupabhunjako
ca
puggalo dhàtumattako nissatto nijjìvo sunno.
Vật thực này thật
là một nguyên chất, tạo thành ra tùy theo món vật dụng, dầu
cho ta là người dùng nó, nó cũng chỉ là một nguyên chất,
không có sanh mạng, không phải là chúng sanh, có trạng thái
không không.
Quán tưởng chỗ trú
ngụ:
Yathà paccayam
pavattamànam dhàtu mattamevetam yadidam senasànam tadupabhunjako
ca
puggalo dhàtumattako nissatto nijjìvo sunno.
Chỗ cư ngụ này thật
là một nguyên chất, tạo thành ra tùy theo món vật dụng, dầu
cho ta là người dùng nó, nó cũng chỉ là một nguyên chất,
không có sanh mạng, không phải là chúng sanh, có trạng thái
không không.
Quán tưởng thuốc
chữa
bịnh:
Yathà paccayam
pavattamànam dhàtu mattamevetam yadidam gilànappaccaya bhesajja
parikkhàro tadupabhunjako ca puggalo dhàtumattako nissatto
nijjìvo
sunno.
Vật phụ thuộc để
bảo
tồn sanh mạng là thuốc chữa bịnh này thật là một
nguyên chất, tạo thành ra tùy theo món vật dụng, dầu cho
ta là người dùng nó, nó cũng chỉ là một nguyên chất,
không có sanh mạng, không phải là chúng sanh, có trạng thái
không không
* Patikùlappaccavekkhana:
Quán tưởng về uế trược.
Trong tứ vật dụng
khi
sắp dùng xài (ăn, mặc) thì nên quán tưởng cho thấy vật
dụng dầu sạch sẽ tinh khiết thế nào mà khi thọ dụng
vào thân ta rồi cũng trở nên vật đáng ghê gớm lắm, để
dứt bỏ tư tưởng lầm cho là vật sạch sẽ.
Quán tưởng về y
phục:
Sabbàni panimàni
cìvaràni ajigucchanìyani imam pùtikàyam patvà ativiya
jigucchanìyâni jàyanti.
Các y phục này, nó
chẳng
phải là vật uế trược đâu, nhưng đến khi nó đụng vào
thân thể hôi thúi này lúc nào thì nó trở nên vật đáng
ghê gớm lắm.
Quán tưởng về vật
thực:
Sabbo panàyam
pindapàto
ajigucchanìyani imam pùtikàyam patvà ativiya jigucchanìyâni
jàyanti.
Vật thực này, nó
chẳng
phải là vật uế trược đâu, nhưng đến khi nó đụng vào
thân thể hôi thuối này lúc nào thì nó trở nên vật đáng
ghê gớm lắm.
Quán tưởng về chỗ
trú ngụ:
Sabbàni panimàni
senàsanàni ajigucchanìyani imam pùtikàyam patvà ativiya
jigucchanìyâni jàyanti.
Những chỗ ở này, nó
chẳng phải là vật uế trược đâu, nhưng đến khi nó đụng
vào thân thể hôi thuối này lúc nào thì nó trở nên vật
đáng ghê gớm lắm.
Quán tưởng về thuốc
chữa bịnh:
Sabbo panàyam
gilànappaccaya bhesajja parikkhàro ajigucchanìyani imam
pùtikàyam
katvà ativiya jigucchanìyâni jàyanti.
Vật phụ thuộc để
bảo
tồn sanh mạng là thuốc chữa bịnh này, nó chẳng phải là
vật uế trược đâu, nhưng đến khi nó đụng vào thân thể
hôi thuối này lúc nào thì nó trở nên vật đáng ghê gớm
lắm.
* Tamkhannikappaccavekkhana:
Quán tưởng lúc đang thọ dụng.
Thầy Tỳ Khưu trong
khi
đang thọ dụng nên quán tưởng một lần, hai, ba lần cũng
được, cho thấy rõ giới hạn và sự lợi ích của món vật
dụng ấy là thế nào, để ngăn ngừa phiền não không cho tư
tưởng ác vượt qua hạn định ấy.
Quán tưởng về y
phục.
Patisankhà yoniso
cìvaram
patisevàmi yâvadeva sìtassa patighàtàya unhassa patighàtàya
damsa
makasa vàtàtapa sirimsapa samphassànam patighàtàya yâvadeva
hiriko
pinappaticchàdanattham.
Người xuất gia nên
quán tưởng rằng: "Ta mặc y phục đây để ngừa sự lạnh,
sự nóng, muỗi, mòng, gió, nắng, rắn rít và cho đặng che
thân thể tránh điều hổ thẹn.
Quán tưởng về vật
thực.
Patisankhà yoniso
pindapàtam patisevàmi neva davàya na mandanàya na vibbhùsanàya
yâvadeva imassa kàyassa yâpanàya vihimsuparatiyâ brahmacariyâ
nuggahàya iti purànanca vedanam patihankhàmi navanca vedanam na
uppàdessàmi yâtrà ca me bhavissati anavajjatà ca phàsuvihàro
càti.
Người xuất gia nên
quán tưởng rằng: "Ta thọ thực đây, chẳng phải để
chơi như trẻ con ở xóm, hoặc say mê sức lực như kẻ võ
sĩ, hoặc để điểm trang thân thể như hàng phụ nữ trong
đô thị, hoặc cho có nhan sắc như người hát xướng. Ta thọ
thự đây để suy trì sắc thân cho được tồn tại và bảo
tốn sanh mạng, cho được tránh sự khó chịu, cho đặng giúp
đở đến sự tu hành theo phạm hạnh, cho ta tránh khỏi cái
khổ đã qua là sự đói khát, và ngăn ngừa cái khổ đã
phát sanh lên vì sự ăn quá độ. Còn sự hành vi trong tứ
oai nghi, đi, đứng, nằm, ngồi, thân tâm không biếng nhát
và được sự an vui cũng do nhờ nơi sự thọ thực này".
Quán tưởng về chỗ
trú ngụ.
Patisankhà yoniso
pindapàtam patisevàmi yâvadeva sìtassa patighàtàya unhassa
patighàtàya damsa makasa vàtàtapasirimsapa samphassànam
patighàtàya yâvadeva utuparissaya – vinodanam
patisallànàràmattham.
Người xuất gia nên
quán tưởng rằng: "Ta dùng xài chỗ trú ngụ đây để
ngừa sự lạnh, sự nóng, muỗi, mòng, gió, nắng, rắn rít
cho đặng tránh sự khó chịu của thời tiết và được
nơi thanh vắng để cho ta thực hành thiền định".
Quán tưởng về thuốc
chữa bịnh.
Patisankhà yoniso
gilànappaccaya bhesajja parikkhàram patisevàmi yâvadeva
uppannànam
veyyâbàdhikànam vedanànam patighàtàya abyâpajjhaparamatàyâti.
Người xuất gia nên
quán tưởng rằng: "Ta dùng thuốc chữa bịnh đây để
ngăn ngừa những sự đau khổ đã phát sanh và cho được dứt
khỏi sự đau đớn ấy".
* Atìtappaccavekkhana:
Quán tưởng thời kỳ đã dùng xong.
Y phục
Ajjamayâ
apaccavekkhitvà
yam cìvaram paribhunttam yâvadeva sìtassa patighàtàya unhassa
patighàtàya damsa makasa vàtàtapa sirimsapa samphassànam
patighàtàya yâvadeya hiriko pinappaticchàda nattham.
Y phục nào ta chưa
quán
tưởng mà ta đã dùng trong ngày nay rồi, y phục mà ta đã mặc
ấy để ngừa sự lạnh, sự nóng, muỗi, mòng, gió, nắng,
rắt rít và cho đặng che thân thể tránh đều hổ thẹn.
Vật thực.
Ajjamayâ
apaccavekkhitvà
yo pindapàto paribhutto so neva davàya na madàya na mandanàya na
vibhùsanàya yâvedeva imassa kàyassa thitiyâ yâpanàya
vihimsuparatiyâ brahmacariyâ nuggahàya iti purànanca vedanam
patihankhàmi navanca vedanam na uppàdessàmi yâtrà ca me
bhavissati
anavajjatà ca phàsu vihàro càti.
Vật thực nào ta
chưa
quán tưởng mà ta đã dùng trong ngày nay rồi, vật thực mà
ta đã ăn ấy chẳng phải để chơi như trẻ con ở xóm, hoặc
say mê sức lực như kẻ võ sĩ, hoặc để điểm trang thân
thể như hàng phụ nữ trong đô thị, hoặc có nhan sắc như
người hát xướng. Ta thọ thực ấy để suy trì xác thân
cho được tồn tại và bảo tồn sanh mạng, cho được tránh
sự khó chịu cho đặng giúp đở đến sự tu hành theo phạm
hạnh, cho ta tránh khỏi cái khổ đã qua là sự đói khát
và ngăn ngừa cái khổ sẽ phát sanh lên vì sự ăn quá độ.
Còn sự hành vi trong tứ oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi thân
tâm không biếng nhát và được sự an vui cũng nhờ sự thọ
thực ấy.
Chỗ trú ngụ.
Ajja mayâ
apaccavekkhitvà
yam senàsanam paribhutam tam yâvadeva sìtassa patighàtàya
unhassa
patighàtàya damsa makasa vàtàtapa sirim sapa samphassanam
patighàtàya yâvadeva utuparissaya vinodanam
patisallànàràmattham.
Chỗ trú ngụ nào ta
chưa
quán tưởng mà ta đã ở trong ngày nay rồi, chỗ ở mà ta
đã cư ngụ ấy để ngừa sự lạnh, s? nóng, muỗi, mòng,
gió, nắng rắn rít, cho đặng tránh sự khó chịu của thời
tiết và được nơi thanh tịnh nơi thanh vắng để cho ta thực
hành thiền định.
Thuốc chữa bịnh.
Ajja mayâ
apaccavekkhitvà
yo gilànappaccaya bhesajja parikkhàro paribhutto so yâvadeva
uppannànam veyyâbàdhikànam vedanànam patighàtàya
abyâpajjhaparamatàyâti.
Thuốc chữa bịnh nào
ta chưa quán tưởng mà đã dùng trong ngày nay rồi, thuốc
mà ta đã uống ấy để ngăn ngừa những sự đau khổ đã
phát sanh và cho được thoát khỏi sự đau đớn ấy.
* * *
Giới quán tưởng
thanh
tịnh trong tứ vật dụng được tròn đủ do nhờ trí tuệ panna
thấy rõ tội lỗi của sự không quán xét và ân đức của
sự quán tưởng.
Như trước kia có
nhiều
vị Tỳ Khưu thọ dụng tứ vật dụng mà không chịu quán tưởng,
sau khi chết phải sanh làm súc sanh và địa ngục rất nhiều.
Nhân cớ ấy Ðức Phật mới truyền lịnh cho các bậc xuất
gia phải quán tưởng xong sẽ dùng đến bốn vật dụng, và
Ngài giảng thêm cho biết rằng: "Thọ vật dụng mà
không có quán tưởng cũng như thọ dụng một thứ độc dược
thật mạnh vậy". Hơn nữa, người thọ dụng mà không
quán tưởng gọi là "Thiếu nợ"lẽ thường người
thiếu nợ rồi không thể nào đi đâu được dễ dàng như
thế nào thì người xuất gia thọ dụng mà không quán tưởng
cũng gọi là còn mắc nợ người mà nếu còn thiếu nợ người
thì cũng khó mà giải thoát được.
Thầy Tỳ Khưu khi
thấy
sự lợi ích của pháp quán tưởng như ông sa di Bhàgineyya
đang thọ thực, thầy tế độ ông nhắc nhở ông rằng:
"Ông sa di, ông không nên đốt lưỡi của ông vì sự thọ
thực không quán tưởng". Khi ông sadi nghe thầy nhắc như
thế, phát tâm chán ngán ngồi tại chỗ ấy suy xét quán tưởng
luôn cho đến khi đắc quả A La Hán. Ông bèn phát thinh nói
rằng: "Ta đã giác ngộ tròn đủ như trăng ngày rằm,
các pháp "trầm luân"ta đã diệt hết, kiếp này đây
ta không còn tái sanh lại nữa đâu".
Bởi vậy cho nên,
người
xuất gia khi thấy tội lỗi của sự không quán tưởng và
điều lợi ích của sự quán tưởng, thì luôn luôn phải
quán xét kỷ lưỡng rồi mới thọ dụng. Nếu trong lúc thọ
lãnh hoặc đang thọ dụng mà quên quán tưởng thì còn phép
quán tưởng bổ khuyết sau, nhưng quán tưởng bổ khuyết
ấy có hiệu quả đến trước khi mặt trời mọc, quán tưởng
trong 1, 2, 3 lần cũng được, chỉ trong một ngày, một đêm,
nếu để quên đến khi mặt trời mọc qua ngày khác thì phải
dứt giới quán tưởng thanh tịnh và thọ dụng "Còn thiếu
nợ".
Dứt pháp quán tưởng
thanh tịnh.
Dứt tứ thanh tịnh
giới.
-ooOoo-
PHẬN
SỰ
CỦA BẬC XUẤT GIA (VỀ GIỚI LUẬT)
Ngoài tứ thanh tịnh
giới
ra hàng Tỳ Khưu còn rất nhiều phận sự cần phải biết
mà thực hành, nhưng đây chi tóm giải những điều quan trọng
mà hàng Tỳ Khưu bỏ sót phận sự không thể được.
Hàng Tỳ Khưu phải
biết:
- Cách làm lễ
"Phát Lộ" uposatha;
- Cách làm lễ Tự tứ pavaranà;
- Cách nguyện hoặc xả Tam y adhitthànà cìvara;
- Cách chỉ định Y Bát vikappa;
- Cách sám hối tội lỗi desanàkathà;
- Cách nhập hạ Vass'ùpanàyika;
- Cách thọ lễ Kathina dâng y;
- Cách phân biệt thời hạn phức tạp của vật dụng kàlika
sansagga,
- Bốn pháp dung hòa mahàpadesa.
Ðây xin lần lượt
giải
tóm tắt ra từ pháp của mỗi phận sự.
Cách
làm lễ phát lộ Uposatha (Bố-tát)
Nơi nào có Simà
(kiết
giới) hợp pháp, từ bốn vị Tỳ Khưu trở lên thì đến
ngày Rằm hoặc 30 (tháng thiếu 29) phải làm lễ Phát Lộ
cách đọc giới bổn như ở phía trước, nếu chỉ có 3 hoặc
2 vị thì cũng làm lễ Phát Lộ bằng cách tỏ sự
"trong sạch lẫn nhau"- parisuddhi; nếu có 3 vị
thì nên đọc tuyên ngôn như vầy:
Sunatu me àyasmantà
ajj'uposatho pannaraso (ngày 29 thì đọc càtuddaso)
yadàyasmantànam pattakallam mayam anna mannam pàrisuddhi
uposatham
kareyyâma.
Xin các Ngài nghe
tôi,
hôm nay là ngày rằm nhằm ngày lễ "Phát Lộ", nếu
sự hành lễ hợp thời đến các Ngài thì chúng ta phải tỏ
sự trong sạch lẫn nhau.
Vị Tỳ Khưu cao hạ
hơn trịch y một bên vai mặt ngồi chồm hổm hai tay chấp lại
nói với mấy vị kia như vầy:
Parisuddho aham
àvuso
"parisuddhoti"mam dhàretha.
Này các bạn, tôi là
người trong sạch, xin các bạn nhớ rằng tôi đây là người
trong sạch (đọc Pali ba lần).
Kế các vị khác theo
thứ tự của hạ đọc ba lần như trên, chỉ đổi chữ àvuso
lại chữ bhante thôi.
Nếu chỗ ở nào chỉ
có hai vị Tỳ Khưu khỏi cần đọc tuyên ngôn chỉ tỏ sự
trong sạch của mình như cách trên, nhưng vị cao hạ hơn phải
đổi dhàretha lại đọc là dhàrehi.
Còn như chỗ nào chỉ
có một mình khi đến ngày lễ Phát Lộ cũng phải quét dọn
trãi chiếu nơi chỗ làm lễ Phát Lộ xong chờ một lúc coi
có vị nào phướng xa tới thì làm lễ chung, như đúng theo
thường lệ mà không có vị nào đến khi mình phải nguyện
như vầy: "Ajja me uposatho – Hôm nay là ngày lễ
"Phát Lộ của tôi"nếu không nguyện hoặc không
làm lễ thì phạm hành ác".
T.B. Năm nào trong
mùa nắng
có tháng nhuần thì đọc: ayam
gimha utu, asmim utumhi pakativasena attha uposathà
adhikamàsavasena
dasa uposathà, imasmim pana utumhi adhikamàso bhavissati, tasmà
imimà pakkhena eko uposatho sampatto...
CÁCH
LÀM LỄ TỰ TỨ – PAVÀRANÀ
Phận sự phải làm
trước
khi làm lễ "Tự Tứ"cũng giống như cách làm lễ
Phát Lộ chỉ khác ít chỡ như vầy: chỗ nào nói uposathassa
đổi lại là paràranàya, chỗ nào nói uposathammassa đổi
lại là pavàranàkammassa, chỗ nói chandappàrisuddhi
àhàrananca đổi lại chandappavàra nàharananca: chỗ
nói uposagge đổi lại là pavàranagge; chỗ nói chandàharanàdìni
đổi lại chandappavàranàdìni; chỗ nói pàtimokkhuddesato
đổi lại nattiyâ thapanato; chỗ nói uposatho đổi
lại pavàranà, chỗ nói uposathadivasesu đổi lại
pavàranàdivasesu, chỗ nói ajjuposatho (pannaraso)
đổi
lại ajja pvàranà pannarasì; chỗ nói càttaro bhikkhù
đổi lại panca..., chỗ nói pàtimokkham uddisitum
đổi lại nattim thapetum.
Trong khi làm lễ
Phát Lộ
phải đọc chỗ kể thời tiết như vầy: ayam vassana utu,
asmim utumhi satta ca uposathà ekà ca pavàranà avasitthà.
Nếu
kỳ lễ sau chót hến đổi chữ avasitthà là paripunnà...
Khi làm lễm Tự Tứ
nếu
mỗi vị đọc ba lần thì đọc tuyên ngôn như vầy:
Sunàtu me bhante
sangho
ajjappavàranà (pannarasì) yadi sanghassa patakallam, sangho
tevàcikam pavàreyya.
Bạch đại đức Tăng,
xin Chư Tăng nghe tôi, hôm nạy là ngày rằm, nếu hành lễ Tự
Tứ hợp thời thì xin Chư Tăng mỗi vị đọc lời "yêu
cầu"ba lần.
Trước hết, vị cao hạ hơn hết mặc y để
trống vai mặt ngồi chồm hổm day về Chư Tăng rồi đọc
ba lần.
Raha sangham
àvuso
navàremi ditthena và sutena và parisankàya và vadantu mam
àvasmanto anukampam upàdàya, passanto patikarissàmi,
Dutiyampi
àvuso sangham
pavàremi...
Tatiyampi
àvuso sangham
pavàremi...
Này các bạn, tôi
xin
yêu cầu đến Chư Tăng do sự thấy, sự nghe hoặc sự nghi
ngờ nào, xin Chư Tăng vì lòng tế độ chỉ cho tôi biết,
khi tôi thấy rõ điều sái quấy ấy rồi tôi sẽ làm cho
trong sạch.
Lần thứ nhì....
Lần thứ ba....
Kế tiếp Chư Tăng
tùy
theo thứ tự của hạ mà đọc lời "yêu cầu"in như
trên, chỉ đổi chữ Avuso lại chữ Bhante.
Khi có sự kinh sợ
xảy
ra hoặc có điều tai hại như đã giải ở lễ Phát Lộ hoặc
Chư Tăng đang lúc dò xét kinh luật hoặc Chư Tăng cu hội đông
quá không thể đọc lời "yêu cầu"ba lần thì được
thì đọc hai lần, một lần, hoặc đồng nhau đọc chung
cũng được nhưng thầy Tỳ Khưu thông hiểu nhau đọc tuyên
ngôn như vầy:
Sunàtu me bhante
sangho
manussehi dànam dentehi yebhuyyena ratti khepità; sace sangho
tevàcikam pavàressati appavàrito va sangho bhavissati, athàyam
ratti
vibhàyissati. Yadi sanghassa pattakallam, sangho dvevàcikam
pavàreyya.
Nếu đọc yêu cầu một
lần thì đổi câu chót như vầy: sangho
ekavàcikam pavàreyya.
Nếu đồng hạ nhau
đọc
chung, đổi câu chót như vầy: sangho samànavassakam
pavàreyya.
Cách tuyên ngôn
trên đây
là do có nhiều người đến chùa làm phước lâu và đông
đảo lắm.
Nghĩa bài trên:
Bạch
đại đức Tăng, xin Chư Tăng nghe tôi, bởi vì có nhiều người
đến làm phước sáng đêm, nếu Chư Tăng đọc "yêu cầu"
ba lần thì không biết chừng nào xong, như thế sẽ đến sáng
không sai. Nếu hành sự yêu cầu mà hợp thời, thì xin Chư
Tăng đọc "yêu cầu" hai lần; một lần hoặc đồng
hạ đọc chung nhau.
Còn nếu có sự trở
ngại khác, như có tai hại đến phạm hạnh thì: Sunàtu
me bhante sangho, ayam bramacariyantaràyo; sace sangho...
Nếu có sự tai hại
nào cứ đổi pàli từ chữ Ayam... tùy theo sự tai hại
ấy.
Cách yêu cầu trong
bốn
vị khác hơn (vì một vị đọc "yêu cầu" thì chỉ
còn ba vị nghe thôi nên không thể gọi là: Sangha
pavàranà được) nên phải đọc tuyên ngôn như vầy:
Sunantu me
àyasmanto,
ajjappavàranà (pannarasì). Yad'àyasmantànam pattakallam, mayam
anna
mannam tevàcikam pavàreyyàma.
Xin chư đại đức
nghe
tôi, hôm nay là lễ "yêu cầu" ngày rằm, nếu lễ
"yêu cầu" hợp thời đến chư đại đức, thì
chúng ta phải đọc lời yêu cầu lẫn nhau mỗi vị ba lần.
Vị cao hạ đọc như vầy:
Aham àvuso
àyasmante
pavàremi...
Kế mấy vị khác theo
thứ tự của hạ đọc.
Aham bhante
àyasmante
pavàremi....
Nếu chỗ ở nào có ba
vị thì đọc tuyên ngôn như vầy:
Sunantu me
àyasmantà...
Cách đọc "yêu
cầu"như
trên (mỗi vị đọc ba lần).
* Nếu chỗ ở nào có
hai vị thì khỏi cần đọc tuyên ngôn, chỉ đọc lời
"yêu cầu", với nhau như vầy:
Aham àvuso
àyasmantam
pavàremi...
Ông nhỏ hạ hơn thì
đổi àvuso ra bhante....
* Nếu chỗ ở nào chỉ
có một mình thì cũng sửa soạn như cách làm lễ Phát Lộ,
xong chờ nếu không có vị nào đến thì phải làm lễ nguyện
như vầy "Ajja me pavàranà: Hôm nay ngày lễ
Pavàrana của tôi. Nếu không nguyện phạm hành ác.
-ooOoo-