ANIYAT
' UDDESO
Ime kho pan '
àyasmanto
dve aniyatà dhammà uddesam àgacchanti.
1. Yo pana bhikkhu
màtugàmena saddhim eko ekàya raho paticchanne àsane almkammaniye
nissajjam kappeyya, tamenam saddheyyavacasà upasikà disvà tinnam
dhammànam annatarena vadeyya pàràjikena và sanghàdisesena và
pàcittiyena và, nisajjam bhikkhu patijànamàno tinnam dhammànam
annatarena kàretabbo pàràjikena và sanghàdisesena và pàcitteyena
và; yena và sà saddheyyavacasà upàsikà vadeyya, tena so bhikkhu
kàretabbo.
Ayam dhammo
aniyato.
2. Na heva kho pana
paticchannam àsanam hoti nàlamkammaniyam, alanca kho hoti
màtugàmam
dutthullàhi vàcàhi obhàsitum.
Yo pana bhikkhu
tathàrùpe
àsane màtugàmena saddhim eko ekàya raho nisajjam kappeyya,
tamenam
saddheyya vacasà upàsikà disvà dvinnam dhammànam annatarena
vadeyya
sanghàdisesena và pacittiyena và, nisajjam bhikkhu pìtijànamàno
dvinnam dhammànam annatarena kàretabbo sanghàdisesena và
pàcittiyena và, yena và sà saddheyya vacasà upàsikà vadeyya,
tena
so bhikkhu kàretabbo.
Ayampi dhammo
aniyato.
Udditthà kho
àyasmanto
dve aniyatà dhammà.
Tatth' àyasmante
pucchàmi
kacittha parisuddhà?
Dutiyampi pucchàmi
kacittha parisuddhà?
Tatiyampi pucchàmi
kacittha parisuddhà?
Parisuddhetth'
àyasmanto
tasmà tunhì
Evametam dhàrayâmi.
Aniyat' uddeso
nitthito.
PHẦN
KỂ RA VỀ BẤT ÐỊNH
Bạch các Ngài, hai
pháp Bất Ðịnh này tôi xin kể ra là:
1. Thầy Tỳ Khưu
nào,
một mình ngồi nơi thanh vắng kín đáo với một người phụ
nữ, có thể hành dâm được. Có người tín nữ đáng tin
(1) thấy và đem đi tố cáo một trong ba tội, là tội Bất
Cộng Trụ, tội Tăng Tàng, tội Ưng Ðối Trị. Nếu vị Tỳ
Khưu ấy thú nhận có ngồi thiệt, thì luật sư phải xử một
tội trong ba tội là: Bất Cộng Trụ, Tăng Tàng, Ưng Ðối
Trị. hon nữa, nếu người tín nữ ấy tố cáo quả quyết
tội nào thì luật sư phải xử tội ấy.
Pháp này gọi là bất
định (vì không thể nhất định trước là tội nào trong
ba tội).
2. Nếu thiệt chỗ
trống
trãi, là chỗ không có che dừng, không thể hành dâm được;
nhưng mà chỗ ấy có thể nói những lời tục tiểu để trêu
ghẹo phụ nữ được.
Thầy Tỳ Khưu nào,
một
mình ngồi nơi chỗ như thế ấy với một người phụ nữ,
có người tín nữ đáng tin, thấy và đem đi tố cáo một
trong hai tội là Tăng Tàng, Ưng Ðối Trị. Nếu vị Tỳ Khưu
ấy thú nhận có ngồi thiệt, thì luật sư phải xử một tội
nào trong hai tội là Tăng Tàng và Ưng Ðối Trị.
Nhưng mà nếu người
tín
nữ ấy tố cáo tội nào thì luật sư phải xử ngay tội
ấy.
Pháp này cũng gọi
là
Bất Ðịnh vậy.
Bạch các Ngài, hai
pháp Bất Ðịnh tôi đã kể ra rồi.
Tôi xin hỏi các
Ngài,
hai pháp Bất Ðịnh này các Ngài có được trong sạch không?
Tôi xin hỏi lần thứ nhì, các Ngài có được trong sạch không?
Tôi xin hỏi lần thứ ba, các Ngài có được trong sạch không?
Các Ngài trong sạch
nên mới làm thinh.
Tôi xin chứng nhận
các Ngài, do sự nơi làm thinh ấy.
"Dứt phần kể ra
về Bất Ðịnh".
-ooOoo-
Ime kho pan '
àysamanto
timsa nissaggiyâ pàcittiyâ dhammà uddesam àggacchanti.
1.
Nitthitacìvarasmim
bhikkhumà ubbhatasmim kathine, dasàhaparamam atirekacìvaram
dhàratabbam tam atikkàmayato, nissaggiyam pàcittiyam.
2.
Nitthitacìvarasmim
bhikkhunà ubbhatasmim kathine, ekarattampi ce bhikkhu ticìvarena
vippavaseyya, annatra bhikkhusammatiyâ nissaggiyam pàcittiyam.
3.
Nitthitacìvarasmim
bhikkhunà ubbhatasmim kathine, bhikkhuno pan ' eva akàlacìvaram
uppajjeyya, àkankhamànena bhikkhunà patiggahetabbam,
pitiggahetvà
khipp'eva kàretabbam, no cassa pàripùri, màsaparamantenà
bhikkhunà
tam cìvaram nikkhipitabbam. Unassa pàripùriyâ satiyâ paccàsayâ,
tato ce uttarim nikkhipeyya, sàtiyâpi paccàsàya, nissaggiyam
pàcittiyam.
4. Yo
pana bhikkhu
annatikàya bhikkhuniyâ puràna cìvaram dhovàpeyya và rajàpeyya và
àkotàpeyya và, nissaggiyam pàcittiyam.
5. Yo
pana bhikkhu
annatikàya bhikkhuniyâ hatthato cìvaram patigganheyya, annatra
pàrivattakà, nissaggiyam pàcittiyam.
6. Yo
pana bhikkhu
annatakam gahapatim và gahapatanim và cìvaram vinnàpeyya,
annatra
samayâ, nissaggiyam pàcittiyam, tatth' ayam samayo?
Acchinnacìvaro
và hoti bhikkhu nattha cìvaro và. Ayam attha samayo.
7. Tance
annàtako gahapati
và gahàtànì và bahùhi cìvarehi abhihatthum pavàreyya santar '
uttara paramantena bhikkhunà tato cìvaram sàditabbam, tato ce
uttarim
sadiyeyya, nissaggiyam pàcittiyam.
8.
Bhikkhum pan'eva uddissa
annàtakassa gahapatissa và gahapatàniyâ và cìvaracetàpanam
upakkatam hoti: Iminà cìvaracetàpanena cìvaram cetàpetvà
itthannàmam bhikkhum cìvarena acchàdessamìti.
Tatra ce
so bhikkhu pubbe
àppavàrito upasankamitvà cìvare vikappam àpajjeyya: Sàdhu vata
mam
àyasmà iminà cìvaracetàpanena evarùpam và evarùpam và cìvaram
cetàpetvà acchàdehìti, kalyânà kamyatam upàdàya, nissaggiyam
pàcittiyam.
9.
Bhikkhum pan' eva
uddissa ubhinnam annàtakànam gahapatìnam và gahapatànìnam và
paccekacìvara, cetàpanà upakkhatà honti:
Imehi
mayam pacceka
cìvaracetàpanehi paccekacìvaràni cetàpetvàitthannàmam bhikkhum
civarehi acchàdessàmàti.
Tatra ce
so bhikkhu pubbe
appavàrito upasankamitvà cìvare vikappam àpajjeyya: Sàdhu vata
mam
ayasmanto imehi paccekacìvarecetàpanehi evarupam và evarupam và
cìvaram cetàpetvà acchàdetha ubho va santà ekenàti,
kalyânakamyatam upàdàya, nissaggiyam pàcittiyam.
10.
Bhikkhum pan' eva
uddissa ràjà và rajabhoggo và bràhmano và gahapatiko và dùtena
cìvara cetàpanampahineyya. Iminà cìvaracetàpanena cìvaram
cetàpetvà itthannàmam bhikkhum civarena acchàdehìti. So ce duto
tam
bhikkhum upasankamitvà evam vadeyya: Idam kho bhante àyasmantam
uddissa cìvaracetàpanam àbhàtam, patigganhàtu àyasmà
cìvaracetàpananti.
Tena
bhikkhunà so dùro
evamassa vacanìyo: Na kho mayam àvuso cìvaracetàpanam
patigganhama,
cìvaranca kho mayam patigganhàma kàlena klappiyanti.
So ce
dùto tam bhikkhum
evam vadeyya: Natthi pan ' àyâsmanto koci veyyâvaccakaroti.
Cìvar'atthiena
bhikkhave
bhikkhunà veyyâvaccakaro niddisitabho àràmiko và upàsako và: Eso
kho àvuso bhikkhùnam veyyàvaccakaroti.
So ce
dùto tam
veyyàvaccakaram sannàpetvà, tam bhikkhum upasankamitvà, evam
vadeyya: Yam kho bhante àyasmà veyyàvaccakaram niddisi sannatto
so
màyâ, upasankamatu àyasmà, kàlena cìvarena tam acchàdessamìti.
Cìvar'atthikena
bhikkave
bhikkunà veyyàvaccakaro upasankamitvà dvittikkattum codetabbo
sàretabbo attho me àvuso cìvarenàti.
Dvittikkhattum
codayamàno
sàrayamàno tam cìvaram abhinipphàdeyya, iccetam kusalam; no ce
abhinipphàdeyya, catukkhattum pancakkhattum chakkhatt' uparamam
tunhìbhùtena uddissa thàtabbam, catukkhattum pancakkhattum
chakkhatt'uparamam tunhìbhùto uddissa titthamàno tam cìvaram
abhinipphàdeyya, iccetam kusalam; no ce abhinipphàdeyya, iccetam
kudalam; no ce abhinipphàdeyya, tato ce uttarim vàyamamàno tam
cìvaram abhinipphàdeyya, nissaggiyam pàcittiyam, no ce
abhinipphàdeyya, yatssa cìvaracetàpanam àbhtam, tatthasànam và
gantabbam duto và pàhetabbo yam kho tumhe àyasmanto bhikkhum
uddissa
cìvaracetàpanam pahinittha, na tam tassa bhikkhuno kinci attham
anubhoti, yunjan'àyasmanto sakam, mà vo sakam vinassàti. Ayam
tattha
sàmìci.
"Cìvaravaggo
pathamo"
* * *
11. Yo
pana bhikkhu
kosiyamissakam santhatam kàràpeyya, nissaggiyam pàcittiyam.
12. Yo
pana bhikkhu suddha
kàlakànam elakalomànam santhatam kàràpeyya, nissaggiyam
pàcittiyam.
13. Navam
pana bhikkhunà
santhatam kàrayamànena dve bhàgà suddhakàlakànam elakalomànam
àdàtabbà tatiyam odàtànam, catuttham gocariyânam.
Aønàdà ce
bhikkhu dve
bhàge suddhakàlakànam elakalomànam tatiyam odàtànam catuttham
gocariyânam navam santhàtam kàràpeyya, nissaggiyam pàcittiyam.
14. Navam
pana bhikkhunà
santhatam kàràpetvà chabbassàni dhàretabbam. Orena ce channam
vassànam tam santhantam vissajjetvà và avissajjetvà và annam
navam
santhatam kàràpeyya, anntra bhikkhu sammatiyâ, nissaggiyam
pàcittiyam.
15.
Nisìdanasanthatam pana
bhikkhunà kàrayamànena puràna santhatassa samantà sugatavidatthi
àdàtabbà dubbannakaranàya. Aønàdà ce bhikkhu puràna santhatassa
santhatam kàràpeyya, nissaggiyam pàcittiyam.
16.
Bhikkhuno pan'eva
addhàna maggappatipannassa elakalomàni uppajjeyyum,
akankhamànena
bhikkhunà patiggahetabbàni patiggahetvà tiyojanaparamam sahatthà
hàratabbani asante hàrake, tato ce uttarim hareyya asantepi
hàrake,
nissaggiyam pàcittiyam.
17. Yo
pàna bhikkhu
annatikàya bhikkhuniyâ elakalomàni dhovàpeyya và rajjàpeyya và
vijjtàpeyya và nissaggi yam pàcittiyam.
18. Yo
pana bhikkhu
jàtarùpa rajatam uggan heyya và ugganhàpeyya và upanikkhittam và
sàdiyeyya, nissaggiyam pàcittiyam.
19. Yo
pana bhikkhu
nànappakàràkam rùpiya samvohàram samapajjeyya, nissaggiyam
pàcittiyam.
20. Yo
pana bhikkhu
nànappakàràkam vikkayam samàpajjeyya, nissaggiyam pàcittiyam.
"Kosiyavaggo
dutiyo"
* * *
21.
Dasàhaparamam
atirekapatto dhàretabbo, tam atikkàmayato, nissaggiyam
pàcittiyam.
22. Yo
pana bhikkhu
ùnapanca bandhanena oattena annam navam pattam cetàpeyya,
nissaggiyam
pàcittiyam. Tena bhikkhunà so patto bhikkhuparisàya
nissajjitabbo. So
ca tassà bhikkhu parisàya pattapariyanto, so ca tassa bhikkhuno
padàtabbo: ayante bhikkhu patto yâva bhedanàya dhàretabboti.
Ayam
tattha sàmicì.
23. Yâni
kho pana tàni
gilànànam bhikkhunam patisàyanìyâni bhesajjàni, seyyathìdam:
sappi navanìtam telam madhu phànitam, tànipatiggahetvà sattàha
paramam sannidhi kàrakam paribhunjitabhàni, tam atikkàmayato,
nissaggiyam pàcittiyam.
24. Màso
seso gimhànanti
bhikkhunà vassika sàtikacìvaram pariyesitabbam.
Addhamàso
sesogimhànanti
katvà nivàsetabbam. Oârena ce màso seso gimhànanti
vassikasàtikacìvaram pariyeseyya orenaddhamàso seso gimhànanti
katvà nivàseyya, nissaggiyam pàcittiyam.
25. Yo
pana bhikkhu
bhikkhussa sàmam cìvaram datvà kupito anattamani acchindeyya và
acchindàpeyya và, nissaggiyam pàcittiyam.
26. Yo
pana bhikkhu
bhikkhussa sàmam suttam vinnapetvà tantavàyehi civaram
vàyâpeyya,
nissaggiyam pàcittiyam.
27.
Bhikkhum pan' eva
uddissa annàtako gahapati và gahapatànì và tantavàyehi cìvaram
vàràpeyya. Tatra ceso bhikkhu pubbe appavàrito tantavàye
upasankamitvà cìvare vikappam àpajjeyya: idam kho àvuso cìvaram
mam
uddissa vìyati àyatanca karotha, vitthatanca, appitanca,
suvìtanca,
suppavàyitanca, suvilekhitanca, suvitacchitanca karotha; appeva
nàma
mayampi àyasmantànam kinci mattam anuppadajjeyyâmàti.
Evanca so
bhikkhu vatvà
kinci mattam anuppadajjeyyà antamaso pindapàtamattampi,
nissaggiyam
pàcittiyam.
28.
Das'àhànàgatam
kattika temàsipunnamam, bhikkhuno pan'eva accekacìvaram
uppajjeyya,
accekam mannàmànena bhikkhunà patiggahetabbam patiggahetvà
yâcàcìvàra kàlasamayam nikkhipitabbam, tato ce uttarim
nikkhipeyya,
nissaggiyam pàcittiyam.
29.
Upavassam kho pana
kattikapunnamam. Yâni kho pana tàni àrannàkàni senàsanàni
sàsankasammatàni sappatibhayani, tathàrùpesu bhikkhu senàsanesu
viharanto, àkankhamàno tinnam cìvarànam anntaram cìvaram
antaraghare nikkhipeyya. Siyâ ca tassa bhikkhuno kocideva
paccayo tena
cìvarena vippavàsàya ch'àrattaparamantena bhikkhunà tena
cìvarena
vippavasitabbam. Tato ce uttarim vippavaseyya, ananatra bhikkhu
sammatiyâ, nissaggiyam pàcittiyam.
30. Yo
pana bhikkhu jànam
sanghikam làbham parinatam attano parinàmeyya, nissaggiyam
pàcittiyam.
Udditthà
kho àyasmanto
timsa nissaggiyâ pàcittiyâ dhammà.
Tattha'àyasmante
pucchàmi, kaccittha parisuddhà?
Dutiyampi
pucchàmi,
kaccittha parisuddhà?
Tatiyampi
pucchàmi,
kaccittha parisuddhà?
Parisuddheth'àyasmanto,
tasmà tunhì.
Evametam
dhàrayâmi.
"nissaggiyâ
pàcittiyâ nitthità"
PHẦN
KỂ RA VỀ ƯNG XÃ ÐỐI TRỊ
Bạch các Ngài, 30
pháp
Ưng Xã Ðối Trị tôi xin kể ra như là:
1. Khi y đã làm
xong, hiệu
lực của lễ dâng y đã hết hạn. Thầy Tỳ Khưu nếu có
giữ y mới, được giữ lâu lắm là 10 ngày, nếu cất giữ
quá hạn kỳ, thì y ấy phải xả bỏ đi, thấy Tỳ Khưu ấy
phạm tội Ưng Ðối Trị.
2. Khi đã làm y
xong, hiệu
lực của lễ dâng y đã hết hạn nếu thầy Tỳ Khưu còn
xa lìa tam y, dầu trong một đêm, y ấy phải xả bỏ, thầy
Tỳ Khưu ấy phạm tội Ưng Ðối Trị, trừ ra thầy Tỳ Khưu
nào được lịnh Chư Tăng cho phép.
3. Khi đã làm y
xong, hiệu
lực của lễ dâng y đã hết hạn nếu có người dâng y
ngoài hạn kỳ đến thầy Tỳ Khưu, nếu thầy Tỳ Khưu cần
dùng thì lãnh, khi lãnh xong phải đo cắt cho lẹ, nếu y ấy
còn thiếu may không đủ, thầy Tỳ Khưu ấy được phép cất
giữ lâu lắm là một tháng. Nếu ý muốn kiến vải dầu
cho có ý muốn thêm nữa, y ấy cũng phải xả bỏ, thầy Tỳ
Khưu ấy phạm Ưng Ðối Trị.
4. Thầy Tỳ Khưu nào
sai Tỳ Khưu ni không phải là bà con, giặt, nhuộm, xả y cũ
ấy phải xả bỏ, thầy Tỳ Khưu ấy phạm Ưng Ðối Trị.
5. Thầy Tỳ Khưu
nào,
thọ lãnh y của Tỳ Khưu ni không phải là thân quyến, y ấy
phải xả bỏ, thầy Tỳ Khưu ấy phạm tội Ưng Ðối Trị,
trừ ra đổi y cho nhau.
6. Thầy Tỳ Khưu
nào,
xin y của nam gia chủ hoặc hoặc nữ gia chủ không phải là
thân quyến thì phạm Ưng Ðối Trị, y ấy phải xả bỏ, trừ
ra có trường hợp trong điều học này là: thầy Tỳ Khưu bị
ăn cướp đoạt y, hoặc y bị hư hại, đây là trường hợp
trong điều học này.
7. Có nam gia chủ,
nữ
gia chủ, không phải là thân quyến, đem y đến thật nhiều,
yêu cầu thầy Tỳ Khưu lãnh, nếu thầy Tỳ Khưu ấy có vui
thích thì chỉ lãnh nhiều lắm là 2 lá y: là y nội và y vai
trái trong số y của người đem đến đó. Nếu vui thích
lãnh nhiều hơn số ấy thì phạm tội Ưng Ðối Trị, y dư
ấy phải xả bỏ.
8. Nếu có nam gia
chủ
hoặc nữ gia chủ, không phải là thân quyến, họ để riêng
một số tiền để mua y dâng cho thầy Tỳ Khưu và nói rằng:
"Với số tiền này tôi sẽ mua y dâng cho vị Tỳ Khưu tên
đó mặc". Nếu vị Tỳ Khưu ấy không phải là người
mà họ đã "yêu cầu trước"đến nơi gia chủ ấy
nói nhất định như thế này: "Tốt thay, các người nên
mua y thứ này, thứ này với số tiền ấy, đặng cho tôi mặc"vì
muốn được y tốt theo ý mình, thì phạm tội Ưng Ðối Trị,
y ấy phải xả bỏ.
9. Nếu có nam gia
chủ
hoặc nữ gia chủ hai người, không phải là thân quyến của
vị Tỳ Khưu, họ hùn lại một số tiền để mua y dâng cho
một vị Tỳ Khưu và nói rằng: "Chúng ta sẽ mua y riêng
ra với số tiền hùn riêng của mỗi người, rồi đem dâng
cho vị Tỳ Khưu tên này vận và mặc". Nếu vị Tỳ Khưu
ấy không phải là người mà họ "đã yêu cầu trước"đến
nhà họ rồi nhất định y nói như thế này: "Tốt thay,
các ngươi nên hùn lại, rồi mua y như thế này, thế này với
số tiền đó đặng dâng cho tội mặc và vận". Vì muốn
được y tốt theo như ý mình, thì phạm tội Ưng Ðối Trị,
y ấy phải xả bỏ.
10. Ðức vua, Quan
lại,
Bà la môn, hoặc gia chủ sai người phụ sự cho mình, đem một
số tiền để mua y dâng đến một vị Tỳ Khưu và nói rằng:
"Người đem số tiền này đi mua y rồi dâng cho vị Tỳ
Khưu tên này, vận và mặc".
Nếu người phụ sự
ấy đến kiếm vị Tỳ Khưu ấy và nói rằng: "Bạch
Ngài, số tiền mua y này tôi đem đến xin dâng cho Ngài, xin
Ngài thọ lãnh. Thầy Tỳ Khưu ấy nên nói với người ấy
rằng: "Này người ơi! Tôi không thể lãnh số tiền mua
y này được, tôi chỉ có lãnh y được trong khi cần dùng
thôi". Người phụ sự hỏi vị Tỳ Khưu như vầy:
"Ngài có người nào hầu hạ không?"
Này các thầy Tỳ
Khưu,
thầy Tỳ Khưu cần dùng y thì nên chỉ người giúp việc
trong chùa hoặc thiện tín và nói rằng: "Này người, đây
là người phụng sự cho tất cả Chư Tăng".
Người tay sai ấy
bèn
nói chỉ cách cho người phụng sự ấy hiểu biết công việc
rồi, đến bạch với vị Tỳ Khưu ấy rằng: "Bạch Ngài,
Ngài chỉ người phụng sự nào, tôi đã cắt nghĩa cho người
ấy hiểu biết rồi, lúc nào Ngài cần dùng y, xin Ngài đến
kiếm họ thì họ sẽ dâng y cho Ngài mặc"
Này các thầy Tỳ
Khưu,
khi thầy Tỳ Khưu cần dùng y nên nhắc nhở người phụng sự
ấy hai hoặc ba lần và nói rằng: "Này người, tôi muốn
cần dùng y". khi thầy Tỳ Khưu ấy nhắc nhở đôi ba lần
mà được lãnh y thì sự được ấy rất hợp pháp vậy, nếu
không được y, thì nên đến trước mặt người ấy đứng
làm thinh, bốn lần, năm lần hoặc sáu lần là nhiều; khi
đứng làm thinh trước mặt người ấy, bốn lần, năm lần
hoặc sáu lần mà lãnh được y ấy thì sự được y ấy rất
tốt vậy; Nếu không lãnh y được, mà thầy Tỳ Khưu ấy
cũng cứ cố gắng đòi hơn cách đã nhất định ấy cho đến
khi được y, thì Tỳ Khưu ấy phạm Ưng Ðối Trị, y được
ấy phải xả bỏ.
Nếu như đòi (đúng
luật
định) mà không được.
Giá tiền ấy sấm y
cho vị Tỳ Khưu ấy, từ người nào sai đem tới, thầy Tỳ
Khưu ấy tự mình đi hoặc sai người nào đi đến chỗ người
chủ ấy mà nói rằng: "Này quí ông, các ông cho đem số
tiền để mua y dâng cho vị nào, số tiền ấy không có được
lợi ích chút đỉnh chi đến vị Tỳ Khưu ấy. Vậy các
ông nên đòi lấy của ấy lại, đừng để của ấy mất
đi vô ích".
Ðây là cách nên
thực
hành trong điều học này.
"Dứt phần thứ nhất
về loại y"
* * *
11. Thầy Tỳ Khưu
nào
làm ngọa cụ có trộn tơ tầm thì phạm tội Ưng Ðối Trị,
ngọa cụ ấy phải xả bỏ.
12. Thầy Tỳ Khưu
nào,
cho người làm ngọa cụ toàn bằng lông cừu đen, thì phạm
tội Ưng Ðối Trị, ngọa cụ ấy phải xả bỏ.
13. Khi thầy Tỳ
Khưu
cho người làm ngọa cụ mới, phải lấy lông cừu đen hai
phần, lông cừu trắng một phần thứ ba, và lông cừu đỏ
một phần thư` tư, nếu thầy Tỳ Khưu không lấy lông đen
hai phần, trắng một phần, đỏ một phần mà cho người làm
ngọa cụ mới thì phạm Ưng Ðối Trị, ngọa cụ ấy phải
xả bỏ.
14. Khi thầy Tỳ
Khưu
cho người làm ngọa cụ mới, nên dùng xài đến 6 năm. Nếu
chưa đúng 6 năm mà thầy Tỳ Khưu ấy bỏ đi, hoặc không bỏ
chẳng hạn mà cho người làm ngọa cụ mới khác nữa thì
phạm Ưng Ðối Trị, ngọa cụ ấy phải xả bỏ. Trừ ra thầy
Tỳ Khưu nào được lịnh Chư Tăng cho phép.
15. Khi thầy Tỳ
Khưu
cho người làm ngọa cụ để trải ngồi, phải lấy ngọa cụ
cũ, một gan vuông vức của Ðức Phật, đặng trộn chung lại
làm cho ngọa cụ mới ấy xẩm màu bớt đi. Nếu cho làm ngọa
cụ mới mà không lấy tọa cụ cũ cắt lấy một gan vuông
vức của Ðức Phật, để trộn lộn với tọa cụ mới, thì
hạm Ưng Ðối Trị, tọa cụ ấy phải xả bỏ.
16. Nếu thầy Tỳ
Khưu
đi đường xa mà có người dâng lông cừu, nếu cần dùng
thì được phép lãnh, khi lãnh rồi nếu không có ai mang hộ
cho, thì chỉ được phép tự mình mang theo xa lắm là ba do
tuần, mà không có người mang thế cho thì phạm Ưng Ðối
Trị, lông cừu ấy phải xả bỏ.
17. Thầy Tỳ Khưu
nào,
sai Tỳ Khưu ni không phải là thân quyến rửa, nhuộm, chải
lông cừu, thì phạm Ưng Ðối Trị, lông cừu ấy phải xả
bỏ.
18. Thầy Tỳ Khưu
nào
tự mình thọ lãnh hoặc biểu người khác thọ lãnh, hoặc
vui thích vàng bạc của người dâng cho, phạm Ưng Ðối Trị,
vàng bạc ấy phải xả bỏ.
19. Thầy Tỳ Khưu
nào,
mau bán vật này vật kia với tiền bạc thì phạm Ưng Ðối
Trị, vật mua bán ấy phải xả bỏ.
(Trừ ra có một người thế đứng trung gian
mua bán cho )
20. Thầy Tỳ Khưu
nào,
mua bán đồ vật với đồ vật, thứ này thứ kia, phạm tội
Ưng Ðối Trị, vật mua bán ấy phải xả bỏ.
"Dứt phần thứ
nhì về loại tơ tầm"
* * *
21. Thầy Tỳ Khưu có
cất
giữ bình bát mới được, lâu lắm là 10 ngày, nếu cất giữ
quá luật định thì phạm Ưng Ðối Trị. Bình bát ấy phải
xả bỏ.
22. Thầy Tỳ Khưu
nào
bình bát nứt bể chưa đủ năm chỗ, mà cho người đi kiếm
bát mới khác phạm Ưng Ðối Trị, bát ấy phải xả bỏ,
theo thứ tự của tăng chúng, bình bát nào cuối cùng của vị
Tăng, thì thầy Tỳ Khưu mà Tăng đã sai phải đưa bình bát
ấy, đưa cho vị Tỳ Khưu ấy và nói rằng: "Ðây là
bình bát của đạo hữu, đạo hữu phải dùng xài cho đến
khi bể. Ðó là cách thực hành tốt đẹp trong cách xả bỏ
bát vậy.
23. Thuốc chữa bịnh
nào, mà thầy Tỳ Khưu có bịnh phải cần dùng như là: bơ
đặt, bơ tươi, dầu, mật ong, đường. Thầy Tỳ Khưu thọ
lãnh các vật để chửa bình này, để thọ dụng (uống) có
lâu lắm là trong 7 ngày.
Nếu để quá bảy
ngày thì phạm tội Ưng Ðối Trị, các vật chửa bịnh ấy
phải xả bỏ.
24. Còn một tháng
cuối
cùng của mùa nắng. thầy Tỳ Khưu nên kiếm y để tắm
mưa, khi còn nửa tháng nữa phải làm cho xong và được phép
dùng xài; nếu chưa đến một tháng cuối mùa nắng mà thấy
Tỳ Khưu đi kiếm y để tắm mưa và chưa đến nửa tháng
cuối mùa nắng mà đã làm xong và dùng xài thì phạm Ưng Ðối
Trị, y ấy phải xả bỏ.
25. Thầy Tỳ Khưu
nào
đã cho y đến vị Tỳ Khưu khác rồi, khi sân hận, bất
bình, đòi giựt lại, hoặc biểu người khác đòi giựt lại,
thì phạm tội Ưng Ðối Trị, y lấy lại ấy phải xả bỏ.
26. Thầy Tỳ Khưu
nào,
tự mình xin chỉ vải đem cho thợ dệt, dệt y cho mình phạm
Ưng Ðối Trị, y ấy phải xả bỏ.
27. Có nam gia chủ
hoặc
nữ gia chủ,không phải là thân quyến của thầy Tỳ Khưu,
cho bọn thợ dệt, dệt y để dâng đến một vị Tỳ Khưu.
Thầy Tỳ Khưu ấy thí chủ cũng không có yêu cầu trước,
tự nhiên đến kiếm bọ thợ dệt mà bảo rằng: "Này
các người y này họ cho dệt để dâng cho tôi, vậy các ngươi
nên dệt cho dày, cho rộng, cho khít, cho đều, cho dè dặt,
cho thẳng, cho láng, rồi tôi sẽ thưởng thêm chút ít cho
các ngươi:. Khi thầy Tỳ Khưu ấy nói như thế rồi thưở
thêm cho họ chút ít chi, dầu cho chỉ thưởng thêm bằng vật
thực đi bát được cũng phạm tội Ưng Ðối Trị, y ấy phải
xả bỏ.
28. Còn 10 ngày nữa
sẽ
đến ngày Rằm tháng Kattikà (1) (tháng 9 âm lịch) là tháng
thứ ba của mùa mưa, nếu có y "đặc biệt"phát
sanh lên đến các thầy Tỳ Khưu, thầy Tỳ Khưu cho rằng đây
là "Y đặc biệt"thì nên lãnh lấy. Khi lãnh rồi
nên cất giữ cho đến hạn kỳ (2). Nếu cất giữ quá hạn
kỳ thì hạm Ưng Ðối Trị, y ấy phải xả bỏ.
29. Khi thầy Tỳ
Khưu
đã nhập hạ xong, đúng ngày Rằm tháng Kattikà (tháng 9) ra
hạ. Các tịnh thất nơi rừng mà người ta cho rằng đáng
nghi ngờ hoặc có sự đáng kinh sợ. Nếu thầy Tỳ Khưu ở
nơi chỗ bất lợi như thế ấy, nếu muốn gởi y vào xóm,
một nơi trong ba cái nào cũng được. Nếu có chuyện cần
chi muốn đi khỏi nơi ấy thì chỉ được phép đi xa y ấy
trong sáu đêm là lâu lắm. Nếu đi quá sự nhất định ấy
thì phạm tội Ưng Ðối Trị, y ấy phải xả bỏ.
30. Thầy Tỳ Khưu
nào,
khi biết rõ vật cúng dường mà người nhất định để dâng
đến Chư Tăng, nhưng nói (đoạt) để cho người dâng cho
mình thì phạm Ưng Ðối Trị, vật được ấy phải xả bỏ.
Dứt phần thứ ba về
loại bình bát.
Bạch các Ngài, 30
pháp
Ưng Ðối Trị tôi đã kể ra rồi.
Tôi xin hỏi các
Ngài,
trong 30 pháp ấy các Ngài có được trong sạch không?
Tôi xin hỏi lần thứ
nhì, các Ngài có được trong sạch không?
Tôi xin hỏi lần thứ
ba, các Ngài có được trong sạch không?
Các Ngài được trong
sạch
nên mới làm thinh.
Tôi xin chứng nhận
các Ngài đã được trong sạch, do sự làm thinh ấy.
"Dứt phần kể ra
về Ưng xả Ðối Trị".
-ooOoo-