Chương 2
THIỀN ĐỊNH LÀ GÌ ?
Hỡi những ai mong muốn bảo vệ tâm thức mình!Với đôi bàn tay chắp lại,tôi xin được khuyên họ một lời này:Hãy cố gắng,giữ cho sự chú tâm và cảnh giác luôn thật mạnh,bằng tất cả nghị lực của chính mình. Tịch
Thiên (Shantideva)
Đức PhậtCampuchea (Angkor
Thom, cuối thế kỷ XIISa thạch, bảo tàng
viện Guimet, Paris
Luyện tập thiền
định là gì ?
Lợi ích mang lại từ sự chú tâm là một
trong những khám phá kỳ diệu nhất của Đức Phật. Sự chú tâm là một phương thuốc nhằm
điều trị mọi thứ bệnh tật của chúng ta. Đấy là chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa của
Giác Ngộ.
Thiền trong Phật Giáo không có nghĩa
là suy tư về một thứ gì hay mổ xẻ một chủ đề nào cả, mà đúng hơn là cách giúp chúng
ta quán thấy ý nghĩa của thực tại trong sự toàn vẹn của nó. Lời khuyên sau đây
thật hết sức giản dị : "Hãy sử dụng tâm thức mình để quan sát tâm
thức của chính mình". Đấy cũng chính là sức mạnh mầu nhiệm nhất của
sự chú tâm. Nếu giữ được sự cảnh giác trước các biến cố xảy ra thì chúng ta cũng
sẽ vượt thoát khỏi sự chi phối của chúng dễ dàng hơn. Mỗi khi cảm thấy bực dọc thì
không nên tìm cách để lẫn tránh nó, cũng không nuôi dưỡng nó hay ra sức để mà tìm
hiểu nó. Tốt hơn là chỉ nên chú tâm theo dõi xem nó xuất hiện, tồn tại và biến
mất như thế nào. Đấy là cách giúp chúng ta thâm nhập vào bản chất sâu kín nhất của
nó để biến cải nó.
Quả thật không mấy khi khái niệm về
sự chú tâm được nêu lên trong thế giới Tây Phương, ngoại trừ bởi vài học giả thật
hiếm hoi chẳng hạn như nữ triết gia Simone Weil. Theo bà thì chúng ta không hề nhìn
thấy vai trò đích thật của ý chí trong sự hiện hữu của chính mình, mà chỉ xem đấy
như là một thứ nỗ lực, một sự cố gắng gần như là máy móc để chủ động hiện thực:
"Nếu chỉ biết gồng mình, cắn răng lại cho thật chặt để thực thi đạo đức, để
làm thơ hay là để tìm kiếm một giải pháp nhằm gỡ rối cho một vấn đề nào đó, thì
quả thật chẳng có gì lại có thể ngu ngốc hơn thế được? Sự chú tâm nào có dính dáng
gì đến các thứ ấy".
Tại nơi thâm sâu nhất của sự chú tâm
đã có tiềm ẩn sẵn một sự chấp nhận nào đó mang tính cách mặc nhiên giúp chúng
ta tiếp cận trực tiếp với những gì hiển hiện ra và không thắc mắc gì cả (sự chú tâm giúp
chúng ta chấp nhận hiện thực hiển hiện ra như thế một cách thật "tự nhiên"
và "hợp lý").
Tìm cách để hiểu biết thì cũng chẳng
khác gì là một sự tránh né (tìm hiểu tức có nghĩa là phân tích một thứ gì thuộc bên ngoài
chúng ta và khác với chúng ta). Một hình thức tự tránh ra xa. Con đường
thì trái lại là một phương tiện giúp chúng ta đạt được một sự tiếp cận nào đó. Trở
thành người Phật Giáo là một chuyện thật hết sức đơn giản: chỉ cần biết tiếp cận
với những gì hiển hiện ra như thế, không tìm cách loại bỏ chúng và cũng không cố
gắng nắm bắt lấy chúng (trở về với chính mình và hòa nhập với hiện thực là cách
giúp mình trở thành một người Phật Giáo).
Tại sao lại luyện
tập thiền định, nó mang lại cho ta những lợi ích gì ?
Thiền định mang lại sự an lạc, chữa lành các
bệnh tật của tâm thức và điều dưỡng cho thân xác.
Thiền định đưa chúng ta trở về với
thực tại, giúp chúng ta hòa nhập trong từng giây phút một với các kinh nghiệm cảm
nhận của chính mình trong cuộc sống. Đấy cũng là cách giúp chúng ta thoát ra khỏi
sự kiềm tỏa của các phản ứng tự động và máy móc của tư duy, luôn liên kết với
nhau để trói buộc chúng ta. Sự sống của chúng ta thật ra chỉ là một sự sinh tồn
máy móc, điều khiển bởi các phản ứng tự động (sự sống ấy thật ra chỉ là một chuỗi dài các
phản ứng tự động, chi phối bởi bản năng và các xu hướng sẵn có - tức là nghiệp
- khiến cho chúng ta không còn kịp suy
nghĩ hay xét đoán gì nữa cả mà chỉ biết giao phó cho các phản ứng quy ước và hời
hợt của tư duy điều khiển mình một cách máy móc); thiền định trái lại
tập cho chúng ta biết trở về với thực tại và những gì mà chúng ta cảm nhận được.
Sự trở về với chính mình sẽ mang lại cho ta một niềm an lạc vô biên. Chúng ta sẽ
khám phá ra được một thể dạng thật đơn sơ, một thể dạng tự nhiên là như thế, nó
không cần phải dựa vào bất cứ gì để mà hình thành (nào có gì lại có thể hiển hiện ra một cách giản
dị và đơn sơ hơn hiện thực được: nó chỉ là như thế!).
Rất nhiều y sĩ và khoa học gia đã chứng
minh cho thấy là thiền định có khả năng làm nhẹ bớt đi các chứng căng thẳng thần
kinh và lo âu quá đáng và chữa lành được nhiều thứ bệnh phát sinh từ tình trạng
trầm cảm.
Thiền định giúp mình tự biến cải một cách
tích cực, nhìn thấy được nỗi khổ đau riêng tư và vượt lên trên những nhầm lẫn của
chính mình.
Thiền định là cách giúp chúng ta trực
tiếp quan sát các kinh nghiệm cảm nhận của chính mình. Nhờ đó chúng ta sẽ khám
phá ra là các kinh nghiệm cảm nhận ấy luôn biến động, khi thì rất mù mờ, thế
nhưng cũng có lúc thì khá minh bạch. Thật thế, khi thì chúng ta nổi nóng, khi lại
ganh tị, lại cũng có lúc chúng ta tập trung được sự chú tâm. Tuy nhiên thông thường
thì chúng ta nào có để ý làm gì đến các thứ mà chúng ta đang cảm nhận được hay đang
suy nghĩ đâu. Tư duy và các kinh nghiệm cảm nhận cứ thế mà sinh ra, tồn tại
được một lúc rồi biến mất.
Theo quan điểm của Phật giáo thì tư
duy được hình thành một cách rất công thức dựa vào các ngôn từ hiển hiện ra
trong đầu mình, để mà buộc chặt mình với chúng (tư duy được công thức hóa xuyên qua các ngôn
từ quy ước, chúng điều khiển các hành động của chúng ta một cách máy móc);
chúng liên tục hiển hiện và che khuất tâm thức của chúng ta khiến chúng ta không
còn nhìn thấy thế giới một cách minh bạch được nữa (nhìn thế giới xuyên qua các tư duy đã được
công thức hóa). Đấy chỉ là các thứ tư duy không được đúng thật bởi vì
tư duy đúng thật luôn mang tính cách trực tiếp và tự phát (có nghĩa là không bị, hoặc trước khi bị công
thức hóa), biểu lộ qua một cử chỉ, một ngôn từ nào đó. Nói cách khác
thì Phật Giáo xem tư duy đúng thật chính là thực tại, tư duy ấy khác hẳn với các
tư duy khác (luôn
bị chi phối bởi quy ước và điều khiển bởi bản năng) chỉ nhằm tách rời
chúng ta ra khỏi hiện thực.
Đôi khi chúng ta cũng mang trong trí những
thứ tư duy thật dai dẳng tương tự như một sự ám ảnh, thí dụ: "Chẳng ai hiểu
tôi cả"; "Tất cả mọi sự cứ theo nhau mà xảy đến với tôi thật tệ hại";
"Tôi chỉ là một tên vô dụng"; "Tôi chán ghét tôi vô cùng";
"Tôi chỉ là một đứa vô tích sự"; "Hắn là một tên quá hung ác và
tôi thì chỉ muốn tìm cách làm thế nào để trả thù"... Thiền định chính là cách
tập cho chúng ta biết quay trở về với thể dạng tâm thức không tự nhận diện mình
qua các thứ tư duy đại loại như trên đây. Chẳng hạn như thay vì cho là mình đang
bị sự giận dữ đày đọa khiến cho mình trở nên hung dữ thì chỉ nên đơn giản (đứng ra xa để mà) quan
sát nó thế thôi (tức
theo dõi và quan sát sự giận dữ và không hề xem sự giận dữ là của mình hay là
chính mình).
Thiền định giúp chúng ta mở rộng lòng mình để
đón nhận một thể dạng tâm linh đích thật và để tận hưởng các kinh nghiệm cảm
nhận về thực tại cũng như một tình thương yêu vô điều kiện.
Thiền định cũng là một con đường tu
tập tâm linh. Mục đích của nó là giúp chúng ta buông bỏ tham vọng muốn chủ động
được mọi thứ, hầu giúp chúng ta biết mở rộng lòng mình để đón nhận một thực tại
to rộng hơn so với cái tôi nhỏ bé và đầy lo âu của chính mình. Đấy cũng chính là
cách giúp chúng ta buông bỏ quyết tâm chỉ biết nghiền ngẫm về các tham vọng riêng
tư của mình, hầu giúp mình có thể tìm thấy được sự thanh thản trong một không
gian rộng mở đầy sinh khí và nhiệt tình.
Tất cả các vị thánh nhân và các nhân
vật thần bí dù thuộc vào bất cứ một dân tộc nào, nếu muốn nâng cao giá trị của
mình lên thì cũng đều phải dựa vào một sự hậu thuẫn liên quan đến thiền định. Sự
hậu thuẫn ấy không nhất thiết chỉ thuộc vào bối cảnh cá biệt của Phật Giáo. Nó cũng
đã được học phái Sufi (soufisme / sufism hay Ahl al-soufa) của Hồi Giáo
và một số học phái Ki-tô Giáo cũng như một số bộ tộc thổ dân của lục địa Mỹ Châu
thực hành. Căn bản thiền định ấy chỉ đơn giản là như thế. Thế nhưng thật ra đấy
lại là một cách khám phá ra không gian rộng mở của tình thương yêu, giúp chúng
ta vượt lên trên mọi sự trói buộc.
Nếu nhìn từ khía cạnh đó và một khi thiền
định được giảng dạy thật đầy đủ và đúng đắn thì đấy sẽ là một phương tiện giúp trực
tiếp mang lại cho chúng ta một cuộc sống tâm linh đúng nghĩa của nó. Con đường ấy
đòi hỏi chúng ta phải có một sự quyết tâm nào đó nhằm tháo gỡ cái mặt nạ của chính
mình và loại bỏ mọi thứ ảo giác, hầu giúp chúng ta đối đầu với mọi chướng ngại có
thể cản trở sự mở rộng của tâm hồn mình.
Vậy sự chú tâm là
gì?
Sự chú tâm là một luồng ánh sáng soi
rõ những gì mà nó rọi vào. Khi chúng ta chú tâm vào hơi thở thì tình trạng xao
lãng thường chi phối chúng ta cũng sẽ tan biến hết, hơi thở theo đó cũng trở
nên êm dịu khiến chúng ta cảm thấy thanh thản hơn.
Mục đích của thiền định là nhằm phát
huy sự chú tâm và giữ cho sự chú tâm đó không rời khỏi đối tượng được quan sát.
Thí dụ tôi không nhìn vào hơi thở của tôi mà tôi trở thành hơi thở của chính
tôi.
Thiền định không phải là một sức
mạnh cá biệt của tâm thức mà đúng hơn là bản chất của chính tâm thức. Tâm thức
là một khả năng giúp chúng ta hợp nhất với những gì mà chúng ta quán xét. Tôi cắn
một miếng táo. Sự chú tâm của tôi hòa nhập tôi với hương vị của miếng táo.
Tính cách nhị nguyên mà chúng ta thường
tạo dựng ra như là một thứ ranh giới nhằm phân cách người quan sát và vật thể
được quan sát - tức giữa chủ thể và đối tượng, hay là giữa ta và người khác -
sẽ biến mất khi chúng ta phát động được sự chú tâm.
Muốn thiền định
thì phải làm thế nào?
Thiền định là cách giữ thân xác, hơi
thở và tâm thức của mình luôn an trú trong hiện tại.
Nói một cách tổng quát thì chúng ta có
thể tự xem mình là nơi hội ngộ giữa thân xác và tâm thức của chính mình. Tuy
nhiên cũng nên lưu ý là hình ảnh tạm mượn trên đây không phải là một khái niệm của
Phật Giáo (vì Phật
giáo không xem tâm thức là một thực thể khác với thân xác), do đó một
người Phật Giáo không được xem thân xác độc lập với tâm thức mà chỉ nên xem hơi
thở đảm nhiệm một vai trò trọng yếu hơn trong việc chuyển tải sự sống và giúp cho
chúng ta trở nên sinh động.
Phải chọn một tư thế ngồi thật đúng
Ngồi không phải chỉ có nghĩa là một
động tác riêng rẻ của thân xác mà liên quan đến toàn diện con người của mình.
Trước hết bạn hãy ngồi xuống. Sau đó
thì hình dung ra hình ảnh của chính mình đang ngồi thật vững vàng trên mặt đất
của địa cầu này.
Thân xác bạn biểu trưng cho một sự kết
hợp giữa địa cầu và bầu trời cao, và con tim của bạn là chiếc vương miện của một
vị đế vương. Hãy đặt chiếc vương miện của con tim bạn trở về đúng chỗ của nó (trên đầu mình).
Sau đó thì hãy hình dung chiếc vương miện nằm uy nghi tại vị trí thật hoàn hảo ấy
và đón chào nó. Đấy là cách tự đặt mình vào một tư thế sẵn sàng để đón nhận bầu
không gian của thực tại. Hãy cố gắng hòa nhập vào cái thể dạng hiện hữu đang phát
động một cách tự nhiên ấy (không cần kêu gọi đến một sức mạnh thiêng liêng nào cả).
Nhìn theo khía cạnh đó thì chỉ riêng tư thế ngồi cũng đủ để biểu trưng trọn vẹn
cho toàn thể giáo huấn (tư thế ngồi không những chỉ liên hệ với thân xác mà còn phản
ảnh thể dạng tâm thần của mình nữa, sự liên kết đó giữa thân xác và tâm thức
qua thế ngồi sẽ giúp buộc chặt sự hiện hữu của mình vào thực tại - tức đang
ngồi thật vững chắc trên mặt đất này - và đấy cũng chính là nền móng căn bản
nhất của giáo huấn nhà Phật).
Tùy theo học phái mà các lời hướng dẫn
về phương pháp thiền định cũng có đôi chút khác biệt, tuy nhiên tất cả đều xem trọng
việc chuẩn bị cách ngồi như thế nào để có thể giúp người hành thiền hòa nhập vào
thân xác của mình và giữ cho thân xác đó luôn thẳng đứng và trang nghiêm (tư thế ngồi rất
quan trọng vì nó sẽ phản ảnh thể dạng tâm thức của người hành thiền. Khi nhìn
vào một người lão luyện đang ngồi hành thiền thì cũng có thể hình dung ra thể
dạng tâm thần hay mức độ "nhập định" của người ấy. Tư thế ngồi của họ
vững vàng như một trái núi, toàn thân tỏa ra một sự thanh thản, tĩnh lặng và
trang nghiêm có thể khiến cho chúng ta phải bàng hoàng và kính phục).
Nếu bạn muốn ngồi đúng theo tư thế
trên đây thì phải giữ lưng cho thật thẳng đồng thời vẫn giữ được sự thoải mái. Cách
ngồi đó sẽ giúp bạn cảm thấy được sự "vững chắc" và "thẳng đứng"
của lưng liên hệ mật thiết với sự "mềm mại" và "mở rộng"
của lồng ngực - đấy là một cách biểu trưng cho sự kết hợp giữa nghị lực giúp
mình nhìn thẳng vào những gì là như thế và sự mong manh (của nhịp thở nơi lồng ngực) giúp
mình trở nên mềm mại hơn.
Điều quan trọng là bạn phải giữ cho
thân xác luôn thư giãn. Tùy theo học phái, hai chân có thể tréo vào nhau theo
tư thế hoa sen hay bán già, hoặc chỉ cần ngồi với hai chân gập lại cũng đủ. Tuy
nhiên cũng có thể ngồi trên ghế - cách ngồi này cũng tốt thế nhưng phải giữ
lưng thật thẳng và không được tựa vào lưng ghế (muốn cho thế ngồi được thoái mái và vững chắc
thì cần phải có một "tọa cụ", tức là một cái gối hình tròn, vuông hay
bán nguyệt, nhồi bông, bề dầy có thể gia giảm tùy theo từng người, đôi khi phải
mất rất nhiều thời gian để điều chỉnh bề dầy của tọa cụ sao cho thật thích hợp
với mình. Cũng xin mạn phép nêu lên một chi tiết nhỏ khác là các người hành
thiền trong các học phái Zen đều có những chiếc tọa cụ may đúng theo quy tắc,
vải bằng chỉ sợi thiên nhiên, nhuộm bằng màu lấy từ vỏ cây, tọa cụ độn bằng các
vật liệu thiên nhiên như bông gòn, rơm, hoặc các loại hạt phơi khô... Tuy nhiên
người mới tập có thể dùng bất cứ gì để ngồi, chẳng hạn như gối nằm hay một vật
gì khác, mục đích là mông và hai đầu gối tạo ra ba điểm tựa giữ cho thế ngồi
được vững chắc).
Dù sao thì bạn cũng không nên quá quan
tâm hay lo lắng. Tư thế ngồi chưa phải là toàn bộ kỹ thuật tập luyện, đấy chỉ là
một cách "loan báo" trước thế thôi. Ngồi thật đúng cách cũng là để biểu
lộ quyết tâm của mình nhằm giữ cho thân người luôn được thẳng, linh hoạt và
không ngủ gục. Chọn cho mình cách ngồi như thế cũng có nghĩa là bắt chước theo
hình ảnh nhập định của Đức Phật. Một cách để trở thành Phật. Dù sao thì đấy cũng
không phải là một phương tiện nhằm mong cầu đạt được một thứ gì cả. Tư thế ngồi
thiền tự nó chỉ có nghĩa là sự tu tập. Có thể ví tư thế ngồi là một quả núi mà người
hành thiền có thể tìm thấy nơi đó một chỗ ẩn cư thuận lợi, dù là họ đang phải sống
trong bất cứ một bối cảnh nào.
Sau
khi ngồi xong thì tập thở!
Sau khi chuẩn bị xong cho tư thế ngồi
thì bạn hãy bắt đầu chú tâm vào hơi thở và sự chú tâm phải thật vững vàng, dù
sao thì đấy cũng không có nghĩa là phải gồng mình lên mới theo dõi được hơi thở.
Có thể ví sự chú tâm như một chiếc neo giúp cho mình khỏi bị trôi dạt đi nơi
khác. Cứ để cho không khí thâm nhập vào cơ thể mình, khiến cho bụng căng phồng
và làm nở rộng lồng ngực, và sau đó thì cứ để cho không khí tự nhiên trở ra và tan
biến vào không gian. Không khí thâm nhập vào bạn và buộc chặt bạn vào mặt đất
này, nó lưu chuyển xuyên qua thân xác bạn và sau đó thì ra đi. Bạn không nên
tìm cách giữ lại một thứ gì cả. Không đặt ra thêm một thứ gì cả. Chỉ cần xem đấy
là như thế.
Sau hết thì phải giải quyết thế nào với các
ý nghĩ của mình?
Tất nhiên là không thể nào tránh
khỏi các thứ ý nghĩ và xúc cảm đến viếng thăm bạn, kể cả trường hợp chúng có
thể tràn ngập tâm thức bạn. Thế nhưng chủ đích của phép thiền định là không nhằm
vào việc xô đuổi chúng mà đúng hơn là chỉ tìm cách để quan sát quá trình xuất hiện
và biến mất của chúng. Thật hết sức quan trọng phải ghi nhớ điều này.
Không có gì sai lầm hơn khi cho rằng
luyện tập thiền định là cách giúp tạo ra cho mình một thể dạng không còn ý nghĩ
gì trong tâm trí mình nữa. Thật thế, thiền định không phải là một phương tiện
giúp mình đạt được một thành tích nào cả!
Tất nhiên là đôi khi chúng ta cũng
có thể cảm thấy không được vừa ý lắm với các kết quả mang lại hoặc cũng có thể
là hoàn toàn thất vọng sau khi nhận ra trong suốt buổi hành thiền mình chỉ thấy
hiện ra toàn là những thứ chuyện tào lao vô tích sự, chúng liên tiếp thay nhau diễn
ra trong tâm thức mình. Chủ đích của việc luyện tập là giúp thiết lập một mối tương
quan đúng thật giữa chính mình và thực tại, thế nhưng trên thực tế thì mình lại
vướng vào một cuộc phiêu lưu bất tận! Tuy nhiên cũng nên hiểu rằng luyện tập
thiền định chính là cách giúp mình tiếp cận với thực trạng trên đây mà không bình
luận gì cả (theo
dõi sự vận hành của tư duy nhưng "dửng dưng" không diễn đạt
hay phát lộ một
xúc cảm nào dù đấy là vui hay buồn, chỉ quan sát các tư duy hiện ra và biến mất
đi, chúng không phải là mình, cũng không phải là của mình).
Phép luyện tập ấy thật đơn giản và
dễ thực hiện. Ngoài sự chú tâm ra thì không có một mục đích nào khác hơn cần
phải đạt được. Nhất thiết chỉ cần mở rộng lòng mình để tiếp đón bầu không gian
biểu trưng cho sự hiện diện của mình và của thế giới mỗi khi chúng hiện ra thế
thôi.
Thế nhưng tại sao phép
luyện tập ấy lại khó thực hiện đến thế?
Nguyên tắc luyện tập thiền định tuy có
vẻ đơn giản thế nhưng cũng khá khó. Thật thế, thiền định không giống như tập
thể dục mà thật ra là một phương pháp toàn vẹn giúp cải biến tất cả những gì có
thể làm phương hại đến bầu không gian sâu rộng của sự sống.
Đôi khi chúng ta cũng muốn đem ra thực
hành những gì đã học được trong sách vở, thế nhưng khi bắt tay vào thì lại dễ
thối chí.
Chúng ta chỉ muốn có kết quả ngay tức
khắc. Sự kiện này cũng dễ hiểu thôi, bởi vì chúng ta đều là nạn nhân của cuộc
chạy đua nhắm vào hiệu quả và xu hướng hưởng thụ tối đa, cũng như của tình trạng
thiếu kiên nhẫn đang lan tràn khắp nơi ngày nay. Thiền định trước hết là một
nghệ thuật sống, thế nhưng ngày nay thì cái nghệ thuật ấy đã biến mất trong thế
giới Tây Phương (thật
ra thì nó cũng đã biến mất trong thế giới Đông Phương khi cái thế giới này chỉ
biết nhìn vào lý tưởng và các giá trị vật chất của các xã hội Tây Phương).
Thiền định luôn đòi hỏi phải kiên nhẫn và quyết tâm.
Thiền định cắt đứt cội rễ của lòng
tham chỉ mong sao cho mọi sự xảy ra thật dễ dàng, thí dụ như khi bật đèn thì ánh
sáng phải tỏa ra ngay tức khắc. Nếu chỉ biết nhìn mọi sự theo cách đó thì bạn sẽ
chẳng bao giờ có thể trở thành một người hành thiền thành thạo được và cũng sẽ
chẳng chủ động được một thứ gì cả. Có phải mỗi ngày khi dọn cơm thì chúng ta lại
phải bày biện bát đĩa hay không? Có phải mỗi ngày chúng ta lại phải đối đầu với
đủ mọi thứ xao lãng và các lầm lỗi của mình hay chăng? Chúng ta chỉ có thể thăng
tiến trên con đường thiền định khi nào đủ sức tự biến cải mình nhanh hơn ảnh hưởng
chi phối bởi mọi thứ hoang mang. Thật hết sức quan trọng không được xem các thứ
hoang mang ấy như là các trở ngại cần phải loại bỏ mà nên xem chúng là những cơ
hội nhằm giúp mình gia tăng gấp đôi sức mạnh của sự chú tâm trong cuộc sống.
Thật lạ là giai đoạn đầu bao giờ cũng
dễ. Khi mới khởi sự luyện tập thì tình trạng tâm thần của mình thường chưa đủ sáng
suốt, và cũng chính vì thế nên chúng ta nhận thấy dễ dàng hơn các hiệu quả mang
lại, kể cả một sự tỉnh táo nào đó. Thế nhưng càng luyện tập thì chúng ta lại càng
thấy hiện ra các khó khăn tinh tế hơn, do đó chúng ta cũng sẽ phải khéo léo hơn
để có thể loại bỏ được chúng. Nhờ thế chúng ta cũng sẽ biết sử dụng việc luyện
tập thành thạo hơn để bảo vệ mình trước những thứ gai góc của thực tại. Nếu nhìn
theo góc cạnh đó thì chúng ta cũng sẽ hiểu được dễ dàng tại sao thiền học Zen lại
khuyên người hành thiền phải luôn giữ "tinh thần của một người mới tu tập".
Riêng tôi thì tôi rất thích câu chuyện
sau đây của thiền sư Shunryu Suzuki, một trong số các vị thầy lớn nhất của thế
kỷ XX (xin chú ý
Shunryu Suzuki, 1904-1971, không phải là
Daisetz Teitaro Suzuki, 1870-1966, thế nhưng người ta lại thường hay nhầm
lẫn giữa hai vị này, khiến đôi khi Shunryu Suzuki phải thốt lên: "Tôi nào
có phải là vị Suzuki vĩ đại đâu, tôi chỉ là một tên bé tí"). Câu
chuyện như sau, có bốn con ngựa khác nhau, một con thật xuất sắc, một con khá tốt,
một con trung bình và một con thật tệ. Con ngựa giỏi nhất thì phóng nước đại một
cách dễ dàng. Nó đoán trước được ý nghĩ của người kỵ mã trước khi nhìn thấy bóng
của chiếc roi ngựa đưa lên. Con thứ hai thì cũng phóng nhanh như con trước và
phản ứng trước khi chiếc roi chạm vào người nó. Con thứ ba thì chỉ phóng khi nào
ngọn roi quất vào da thịt nó và làm cho nó đau điếng. Con thứ tư thì chỉ phóng
khi nào sự đau đớn bắt đầu ăn sâu vào xương tủy của nó.
Khi nghe câu chuyện trên đây thì có
lẽ tất cả chúng ta đều mong được như con ngựa thứ nhất, hay ít ra thì cũng phải
được như con thứ hai. Thế nhưng nếu mong muốn được như thế trong khi luyện tập
thì quả chúng ta không phải là người khôn ngoan.
Đối với việc luyện tập thì con ngựa
tệ nhất lại là con ngựa xuất sắc nhất. Chính sự khiếm khuyết của bạn mới đúng là
những gì sẽ giúp bạn bước vào con đường một cách vững chắc nhất. Thói thường
những người gặp nhiều khó khăn khi luyện tập lại chính là những người sẽ tìm
thấy ý nghĩa sâu xa nhất trong việc tu tập của mình (tác giả muốn trấn an và khuyến khích chúng ta
đấy).
Dù có gặp khó khăn khi luyện tập hay
trong những lúc tìm cách để quay về với thực tại, thì cũng không nên xem đấy là
các dấu hiệu bất lợi. Quyết tâm đơn giản được ngồi xuống mặt đất này và giữ lưng
cho thật thẳng để hòa nhập với thực tại đang hiển hiện ra mới là điều quan
trọng hơn cả.
Có phải mục đích luyện
tập thiền định là làm cho chúng ta lắng dịu xuống hay không?
Tại Tây Phương thiền định thường
được xem là một phép luyện tập giúp mang lại sự thư giãn, hơn nữa nhiều người
còn xem đấy là một phương pháp trị liệu nữa. Thật thế, thiền định hàm chứa
nhiều phẩm tính trị liệu thật đáng kể. Thế nhưng không phải vì thế mà có thể bảo
rằng sự thoải mái là mục đích của thiền định, mặc dù trên thực tế thì các hiệu
quả lợi ích ấy cũng có thể xảy ra. Chủ đích của thiền định thật ra khác hơn thế
rất nhiều.
Mục đích của thiền định là nhằm biến
cải toàn bộ mối tương giao giữa chúng ta và tất cả những gì mà chúng ta nhận biết
được, cảm nhận được hay suy nghĩ được (tức là cách giúp chúng ta nắm bắt và cảm nhận được hiện
thực đúng như thế, không để cho các xung năng và tác ý trong tâm thức làm cho
nó bị méo mó và biến nó thành ảo giác).
Hành thiền không phải là cách tìm
kiếm một thể dạng cá biệt nào cả vì như thế chỉ là cách nhằm thu hẹp tác động
của nó mà thôi. Đấy là một cách tạo thêm các điều kiện để trói buộc nó, và đấy cũng
là một trong những trở ngại hàng đầu trong việc luyện tập.
Thiền định không phải là một phương tiện
giúp mình tìm thấy sự bình lặng, cũng không phải là một bát thuốc sắc để mà uống
khi gặp phải khó khăn. Mục đích của thiền định là giúp chúng ta phát huy sự chú
tâm hướng vào tất cả những gì hiển hiện ra hầu giúp chúng ta thoát khỏi mối
ràng buộc giữa chúng ta và các thứ ấy.
Việc luyện tập thiền định không nhằm
vào chủ đích làm cho tâm thức lắng xuống hoặc trở nên vô cảm trước những trắc
trở trong cuộc sống. Dù sao đi nữa thì thiền định cũng không hề là một phương cách
nhằm cắt rời chúng ta với thực tại.
Vị tổ thứ sáu của Phật Giáo Trung Quốc
(ngài Huệ Năng)
sau khi nghe một vị thiền sư giảng cho đám đệ tử của mình như sau: "Phải
giữ tâm thức tĩnh lặng hầu giúp mình suy tư về sự Tịch Tĩnh và Vắng Lặng, và nhất
thiết phải luôn luôn giữ tư thế ngồi và không được ngưng nghỉ", thì ông đã
phản ứng lại như sau: "giữ tâm thức tĩnh lặng" là một hình thức bệnh hoạn
và nhất định đấy không phải là con đường của Đức Phật.
Sau đó thì ông đã trước tác một bài
thơ như sau:
"Trong khi sống, nếu chỉ biết
ngồi không ngưng nghỉ, Thì đến khi chết người ta sẽ được
nghỉ, thế nhưng lại không được ngồi. Trong cả hai trường hợp thì đấy cũng
chỉ là một đống xương hôi thối! Nào có liên quan gì đến bài học thật
thiết yếu về sự hiện hữu này đâu".
Bài thơ trên đây chẳng phải là tuyệt
vời hay sao! Cốt tủy của Đạo Pháp chính là đấy. Thiền định giúp chúng ta phát
huy sự hiểu biết sâu kín nhất về bản chất của hiện thực và của chính mình. Đức
Phật tự đặt mình vào tâm điểm của thực tại hầu quán thấy thế giới một cách minh
bạch hơn.
Mặc dù thiền định là một sự dừng lại
nhằm giúp mình nhận thấy minh bạch hơn những gì là như thế, tuy nhiên các kinh
nghiệm ấy tự nó không hề là một chủ đích.
Sự đình chỉ giúp mang lại một thể dạng
thư giãn. Dừng lại đấy. Một sự yên lặng tỏa rộng. Đấy là một quá trình thật cần
thiết giúp cho sự chú tâm trở nên sắc bén hơn. Thế nhưng nếu dừng lại đấy thì
quả thật đấy không phải là con đường.
Điều quan trọng hơn cả chính là sự cảnh
giác.
Chú tâm và sự cảnh
giác sâu xa
Kiến thức Phật Giáo (trí tuệ)
không dựa vào các giáo điều bất di dịch như các tôn giáo khác, cũng không phải
là kết quả do sự phân tích khoa học mang lại như thường thấy trong thế giới
ngày nay. Nó cũng chẳng phải là kết quả mang lại bằng cách tổng kết các quan
điểm khác nhau. Kiến thức Phật Giáo được hình thành nhờ vào kinh nghiệm cảm
nhận của chính chúng ta bằng cách dựa vào sự chú tâm và cảnh giác sâu xa (tác giả không dùng
chữ "trí tuệ" thế nhưng đã nêu lên ý nghĩa của thuật ngữ này thật
khéo léo và đồng thời cũng không sử dụng chữ "giác ngộ" thế nhưng
cũng gián tiếp giải thích được sự giác ngộ là gì bằng cách chỉ nêu lên thật
ngắn gọn là "kiến thức Phật Giáo" được hình thành từ kinh nghiệm cảm
nhận của chính chúng ta dựa vào sự chú tâm và cảnh giác - tức có nghĩa là nhờ
vào thiền định).
Sự chú tâm là một cách hiển lộ tự nhiên
là như thế khi nó tiếp cận với một vật thể nào đó và không hề phát lộ một sự
bám víu nào. Thí dụ như tôi chú tâm vào làn gió đang luồn vào tóc tôi và trong
trí thì không nghĩ đến bất cứ thứ gì cả (tác giả là một nhà sư đầu nhẵn thín, thí dụ này được đưa ra
có lẽ là để dành riêng cho chúng ta đấy! Nếu đầu ta nhẵn thín thế nhưng trong tâm
trí thì ta lại cứ cảm thấy gió đang luồn vào mái tóc bồng bềnh của mình thì đấy
chứng tỏ là mình đã rơi ra ngoài sự chú tâm và đang phiêu lưu ở một nơi nào khác
bên ngoài hiện thực và bên ngoài chính mình). Tôi đặt tâm thức tôi
trong một thể dạng tiếp nhận thế thôi. Cái tâm thức ấy đang tập trung và hòa nhập
vào một thể dạng thật thăng bằng của sự thanh thản. Nó không còn bị trói buộc
trong các điều kiện chi phối nó nữa. Cái tâm thức ấy của tôi không hề tìm cách nói
lên là nó thích cái này hay không thích cái kia.
Cảnh giác sâu xa là một sự hiểu biết
trực tiếp, nó không cần đến bất cứ một hình thức trung gian mang tính cách khái
niệm hay ngôn từ nào cả (khái niệm hay ngôn từ đều mang tính cách quy ước, cảnh giác
sâu xa là một sự hiểu biết trực giác vượt lên trên mọi hình thức lý luận dựa
vào khái niệm và quy ước). Nó giải thoát cho sự quán thấy nằm bên
trong thị giác, nó giải thoát cho âm thanh nằm bên trong thính giác, nó giải
thoát cho sự cảm nhận va chạm nằm bên trong xúc giác, nó giải thoát cho sự hiểu
biết nằm bên trong tri thức. Đấy cũng là cách mà cây cổ thụ biểu trưng cho sự lầm
lẫn bị đào lên tận gốc rễ (nhìn thấy nhưng không diễn đạt, nghe thấy nhưng không diễn
đạt, va chạm vào da thịt nhưng không diễn đạt, hiểu biết nhưng không diễn đạt:
đấy là cách nhổ bỏ tận gốc rễ mọi ảo giác của hiện thực).
Theo như các bài kinh nguyên thủy cũng
như những trước tác của các vị đại sư thì trước hết ta phải phát động sự chú tâm
và từ sự chú tâm ấy sẽ phát sinh ra sự quán thấy sâu xa mang tính cách cởi mở và
sâu rộng hơn, giúp người hành thiền quán thấy một cách thật sắc bén các kinh
nghiệm cảm nhận của mình về hiện thực, và từ đó sẽ dần dần hiểu được cái cấu trúc
trọn vẹn của các kinh nghiệm ấy mà trước đây thì thông thường người ấy không hề
nhận thức được. Chú tâm giúp mang lại sự an bình, bởi vì nó giải thoát cho tâm
thức khỏi mọi thứ dao động thường tình khiến cho nó luôn bị rơi vào tình trạng bất
định hướng.
Sự cảnh giác sâu xa phát hiện dưới hình
thức của trí thông minh và của khả năng trực giác (prajna hay bát nhã) - đấy là một hình
thức hiểu biết không phát sinh bằng cách kiến tạo mà thoát ra từ một bầu không
gian mở rộng và quen thuộc (sự cảnh giác sâu xa không hình thành nhờ vào lý luận mà
phát sinh từ sự cảm nhận của trực giác khi tiếp xúc với bầu không gian quen
thuộc của thực tại, tức có nghĩa là nhìn vào thực tại và quán nhận được thực tại
là như thế, cái thực tại ấy thật hết sức quen thuộc với mình và không cho thấy một
mảy may nào xa lạ).
Tuy nhiên tôi lại thường nhận thấy đối
với nhiều người sự diễn tiến trên đây không xảy ra đúng theo thứ tự. Sự cảnh giác
sâu xa và sự chú tâm có thể cùng xảy đến một lúc, hoặc đôi khi cũng xảy ra trường
hợp một trong hai thể dạng giữ một vị thế lấn át hơn.
Thiền định có phải
là cách tạo ra một thể dạng trống không hay chăng ?
Nhờ vào sự tập luyện thì nhất định cũng
có có thể tạo ra một thể dạng trống không trong tâm thức được. Thế nhưng đạt
được như thế để mà làm gì?
Đức Phật không khám phá ra sự trống
không, mà thật ra là cả một trí thông minh trực giác (trí tuệ) giúp mở ra cho chúng ta
một bầu không gian rộng lớn của hiện thực. Thiền định là cách tập cho chúng ta
khám phá ra thật minh bạch cái trò vận hành của sự lầm lẫn, hầu giúp chúng ta nhận
thấy là chúng ta đang tự trói buộc mình (vào ảo giác) như thế nào và cái không gian của
sự giải thoát thì lại rạng rỡ biết bao.
Luyện tập thiền định không phải là
cách trút bỏ tất cả những gì trong đầu mình mà đúng hơn là để giúp mình đối đầu
với thực trạng của mình trong hiện tại (tức là tình trạng nô lệ bởi ảo giác). Thói
thường chúng ta chỉ là những người dưng hoàn toàn xa lạ đối với chính mình. Chẳng
những các cảm tính và phản ứng của chúng ta đôi khi có thể khiến cho chính chúng
ta phải ngạc nhiên (không ngờ mình lại có thể suy nghĩ hay hành động như thế được)
mà còn có thể làm cho chúng ta phải khiếp sợ nữa. Ta sống thế nhưng hình như là
sự sống ấy đang được điều khiển bởi một con quái vật ẩn náu bên trong chúng ta.
Đối với Phật Giáo thì thật ra chẳng
có con quái vật nào cả. Nói một cách chính xác hơn thì đấy cũng chẳng khác gì như
một đứa bé khiếp sợ một con ngáo ộp thế thôi. Cứ bật đèn lên thì sẽ thấy ngay là
chẳng có con thú hay người nào ẩn nấp dưới gầm giường cả. Sự chú tâm chính là cái
ánh sáng giúp cho chúng ta hết sợ.
Nơi trọng tâm của con người luôn có
một cái gì đó thật tốt (Phật tính). Chúng ta chỉ cần đón tiếp nó. Sự khám
phá ấy thật kỳ thú. Nếu con người hòa nhập được với nó thì cả đám ma quỷ cũng sẽ
mất hết khả năng gây ra những điều tệ hại. Thật ra thì cái đám ma quỷ ấy cũng chẳng
phải là gì khác hơn là các thứ tư duy trong đầu của chính mình. Thật thế chúng nào
có khác gì những bọt bong bóng đang lơ lửng, rồi đây chúng cũng sẽ phải vỡ tan
để hóa thành một bầu không gian mở rộng. Sự giải thoát cũng chỉ là như thế.
Ngoài thiền định
ra thì còn có phương cách nào khác giúp phát huy được sự chú tâm hay không?
Thiền định là con đường hoàng đạo.
Chẳng những đấy là một phép tu tập vượt xa hơn các phép tu tập khác, mà còn là
nơi hội tụ của mọi hình thức sinh hoạt. Nếu không thiền định thì chúng ta cũng sẽ
chẳng bao giờ có dịp để mà tận hưởng được hương vị của sự chú tâm và của thực tại.
Nếu khám phá ra được nó thì trong từng
khoảnh khắc một chúng ta cũng sẽ khám phá thấy là mình có thể duy trì thật vững
chắc được sự chú tâm đó và nó sẽ giúp cho mình biết sống một cách sâu xa hơn.
Đối với một số học phái, thì nếu muốn
thực hiện được điều ấy thì chỉ cần theo dõi trong đầu mình từng động tác thật nhỏ trên thân
xác, chẳng hạn như duỗi hay co tay, cầm một cây bút chì, khép hay mở một cánh cửa,
nâng một ly nước lên hay là đặt nó xuống. Tuy nhiên cũng còn có nhiều phương pháp
và các phép luyện tập khác có thể giúp chúng ta quay về với thực tại.
Nếu nhất quyết bước
vào con đường thiền định thì cần phải tránh các thứ trở ngại nào có thể xảy ra?
Không nên tìm cách chủ động thân xác mà chỉ
cần hòa nhập với nó
Điều căn bản nhất trong phép thiền định
là phải dựa vào thân xác như một cơ sở hầu giúp mình phát động sự luyện tập. Gồng
mình thật cứng để cố bắt chước theo tư thế của một người hành thiền lão luyện thì
thật là vô tích sự! Hãy chú tâm vào những gì mà bạn đang có - đấy chính là điểm
tựa duy nhất của bạn.
Không nên cố gắng phát động sự chú tâm mà đơn
giản là chỉ cần chú tâm thế thôi
Không
phải là cứ gồng người lên là giải quyết được mọi thứ khó khăn. Chỉ cần hòa nhập
vào chính sự chú tâm. Không nên ước mong thực hiện một thứ gì cả mà chỉ cần
tiếp cận thật gần với những gì đang hiển hiện ra với mình.
Không nên sử dụng thiền định để biến sự cảm
nhận của mình trở thành trống không mà chỉ nên dựa vào thiền định để ý thức được
sự cảm nhận của chính mình
Nhiều người sử dụng thiền định để tìm
cách tạo ra một thể dạng vắng lặng hầu giúp mình tự bảo vệ trước những gì thật
nghiệt ngã phát sinh từ sự cảm nhận của chính mình. Đấy chẳng khác gì là cách
biến việc luyện tập trở thành một công cụ giúp mình trốn chạy, nhằm thoát ra khỏi
thế giới và để loại bỏ các thứ xúc cảm cũng như mọi khó khăn. Thật ra thì đấy chỉ
là một thứ ngục tù kiên cố hay một hình thức tự trấn an nào đó mà thôi và tuyệt
nhiên không phải là một bầu không gian rộng mở giúp mình tự biến cải trước những
gì đang hiện hữu. Quả đúng là việc luyện tập có thể mang lại một sự vững tin nào
đó thế nhưng nếu dựa vào đấy để mà tìm cách biến nó thành một thứ công cụ để tự
phòng vệ trước mọi sự tấn công trong cuộc sống thì quả không đúng với ý nghĩa của
thiền định.
Không nên đặt ra một mục đích để tìm cách
đạt được nó cho bằng được, hoặc là mong cầu một thứ gì đó, đấy chỉ là những thứ
chướng ngại ngăn chận mọi sự tiếp xúc với thực tại
Nếu bạn cố tìm cách đạt được bất cứ
một thứ gì thì tức khắc việc luyện tập của bạn sẽ bị lệch lạc ngay, bởi vì bạn đã
bắt đầu rơi ra bên ngoài cái sự thật trần trụi của những gì là như thế. Chính vì
lý do đó mà con đường thiền định không hề có mục đích gì cả. Khi nào còn hướng
vào một điểm đến và mong đợi sẽ đạt được điểm ấy thì khi đó chúng ta cũng sẽ quên
mất con đường mà mình đang phải đi. Nếu giác ngộ là thực thể của thực tại thì
việc mong cầu thực hiện được sự giác ngộ sẽ là một sự lạc hướng - bởi vì trong
khi tìm kiếm sự giác ngộ thì ta sẽ không còn nghĩ đến những gì đang sẵn có ngay
bên cạnh mình (người
ta thường bảo rằng con đường thiền định thật ngắn, bởi vì chính nó đã là điểm
đến, nếu hành thiền mà lại hướng vào một thứ gì khác bên ngoài cái thể dạng
trần trụi của chính mình và của hiện thực chung quanh mình thì nhất định đấy sẽ
là một sự lạc hướng hay là một cách đánh mất con đường).
Không nên bám víu vào sự thoải mái do việc luyện
tập mang lại
Thay vì phải nhìn vào các biến động trong
tâm thức đúng với cung cách hiển hiện của chúng thì chúng ta lại cứ nhắm vào những
gì sẽ mang lại sự thoải mái cho mình. Nên hiểu rằng chủ đích cao quý nhất của
thiền định là giúp chúng ta loại bỏ được thái độ chỉ biết tìm kiếm lạc thú và
xa lánh khổ đau. Thiền định chính là cách giúp chúng ta khám phá ra cái thực tại
đích thật vượt lên trên mọi sự diễn đạt (dù đấy là thích thú hay đớn đau).
Việc luyện tập
thiền định có mang lại nguy cơ khiến chúng ta tự giam mình vào với chúng ta hay
không?
Thực thi thiền định lắm khi cũng giống
như là một cách tự khép mình và tự tách rời mình với thế giới và mọi người
chung quanh mình. Vậy có phải đấy là cách chỉ biết "nhìn vào cái rốn của mình"
và không cần đếm xỉa gì đến muôn ngàn chuyện khác đang xảy ra trong thế gian này
hay không?
Sự thắc mắc đó cho thấy một sự mù tịt
về ý nghĩa của con đường thiền quán. Sở dĩ sự thắc mắc ấy xảy ra là vì nền triết
học Tây Phương chủ trương một sự đối nghịch giữa hai thể dạng năng động và bất động
- sự năng động luôn được xem trọng và ngược lại thì sự bất động lại bị khinh
thường.
Sự nhận định sai lầm đó sở dĩ xảy ra
là vì cách phân biệt giữa năng động và bất động không được dựa vào các kinh
nghiệm cảm nhận của từng cá thể trong cuộc sống (chỉ tìm cách phân biệt hai thể dạng năng động
và bất động trên mặt lý thuyết và không nghĩ đến là sự "bất động"
cũng biểu trưng cho một nghị lực thật lớn, thí dụ như thái độ "bất bạo
động" đòi hỏi phải có một sức mạnh nội tâm thật lớn vượt lên trên sự thúc
đẩy của các phản ứng "bạo động"). Giữ sự yên lặng thường
cần đến rất nhiều nghị lực, nhiều hơn là cách nói ra bằng lời. Buông thả theo sự
chi phối của các thứ xung năng luôn dễ dàng hơn là phải đương đầu với chúng (nên ghi nhớ là thiền
định không mang tính cách thụ động mà đỏi hỏi một nghị lực rất lớn).
Thiền định giúp chúng ta phát huy thể
dạng sẵn sàng để tiếp nhận. Người hành thiền nào có phải là một nhà tu khổ hạnh
chỉ biết tìm cách rút lui khỏi sự sống. Thiền định mang lại cho chúng ta một sự
cởi mở, và hơn thế nữa còn giúp chúng ta ứng xử một cách thích đáng nhất trước mọi
cảnh huống xảy ra.
Vậy chúng ta có thể
tự luyện tập thiền định một mình bằng cách học hỏi từ sách vở hay không?
Chúng ta có thể bắt đầu tập luyện ngay
bằng cách dựa vào các lời chỉ dẫn trong một quyển sách đúng đắn, thế nhưng sau một
thời gian thì cũng phải tìm một người khác giúp đỡ thêm cho mình (xin hiểu là tác
giả tu tập theo Phật Giáo Tây Tạng). Sự truyền giới là những gì thật
hết sức đơn giản, cách xa hàng nghìn dặm với những thứ ảo tưởng mang tính cách
thần bí. Thế nhưng nếu không có sự truyền giới thì sẽ khó lòng có thể đáp ứng ước
vọng chân thật của người xin thụ giới. (nhân câu phát biểu này của tác giả cũng xin mạn phép nêu lên
một gợi ý nhỏ là chữ "Mật Tông" - tiếng Hán là "Mi Zong" -
là một "sáng chế" sai lầm trong ngôn ngữ Trung Quốc nhằm chỉ định một
học phái Phật Giáo là Tan-tra Thừa hay Kim Cương Thừa. Học phái này được hình thành
vào khoảng thế kỷ thứ V tại Ấn độ và sau đó thì bành trướng sang hầu hết các quốc
gia khác tại Á Châu, do đó học phái này không nhất thiết chỉ phát triển ở Tây Tạng
để có thể đồng hóa với "Phật Giáo Tây Tạng" hay là để gọi học phái ấy
là "Mật Tông Tây Tạng". Truyền giới là một nghi thức tu tập khá đặc
thù của toàn thể học phái này và không có gì là "bí mật" cả, đấy chỉ
là một cách giúp tăng cường sức mạnh và quyết tâm trong lòng người tu tập. Tóm
lại thiết nghĩ nên gọi học phái trên đây phát sinh từ Ấn Độ là "Tan-tra Thừa"
hay "Kim Cương Thừa" thì có lẽ đúng hơn ).
Tiếc thay thời đại của chúng ta lại
có khuynh hướng khinh thường phần nào tầm quan trọng và các nét tuyệt đẹp của
nghi thức truyền giới, thế nhưng vào một lúc nào đó thì chúng ta cũng sẽ phải
cần đến sự tương kết giữa hai con người (giữa thầy và đệ tử), đấy là cả một nhu cầu (nhằm mang lại tính
cách thiêng liêng trong việc tu tập).
Sự truyền giới đó không phải là một sự
trói buộc nhằm giam mình trong một mối tương giao hạn hẹp với một người khác, mà
đúng hơn là để kết nối giữa người tu tập với một dòng truyền thụ tâm linh.
Những gì được truyền thụ không thuộc của ai cả, cũng không phải là một sự sáng
tạo của một người nào cả (thụ giới không có nghĩa là nô lệ cho một dòng truyền thừa,
một nghi thức hay một con người nào cả).
Nhiều người đã sáng chế ra nhiều thứ
kỹ thuật tập luyện thật hiệu quả giúp vào việc cải biến mang tính cách cá nhân.
Thế nhưng phải hiểu rằng thiền định không mang một mục đích như thế. Thiền định
là cách giúp chúng ta đến gần với Đức Phật, với cội nguồn giáo lý của Ngài.
Hơn nữa và cũng là một điều thật hệ
trọng là dù cho sự luyện tập có vô cùng đơn giản đi nữa thì cũng thật hết sức
cần thiết phải bàn luận với một người đã đạt được nhiều kinh nghiệm đích thật. Chúng
ta cần phải được hướng dẫn trên con đường nhằm giúp mình có thể khám phá ra tất
cả sự phong phú của nó (tức là thừa hưởng được kinh nghiệm của một người lão luyện,
tiếc thay tìm được một vị thầy chân chính và đầy đủ khả năng để huớng dẫn mình
thì quả thật là khó trong hoàn cảnh hiện nay. Do đó nếu không tìm được một vị
thầy như mong muốn thì tốt hơn tự mình phải cố gắng thật nhiều, và thật nhiều
trước đã).
Tại sao thiền định
lại cần thiết cho sự sống đến thế ?
Thật sự ra trên một khía cạnh nào đó
thì chẳng có gì có thể gọi là tuyệt đối cần thiết cả và mỗi người đều có thể chọn
cho mình một cuộc sống riêng tư. Thế nhưng cũng có nhiều người, trong số này có
thể kể ra trường hợp của nhà điêu khắc Brancusi (một điêu khắc gia người Pháp gốc Ru-ma-ni, 1876-1957,
là một trong những nhà điêu khắc lừng danh nhất trong thế kỷ XX), các
người này nhất quyết xem Phật Giáo là lẽ sống của đời họ, dù rằng họ không hề
tự nhận mình là một Phật Tử trung kiên.
Dù sao thì đối với phần đông chúng
ta (tức là những
người Phật Giáo) nếu những ai không hề biết đến việc luyện tập thiền
định là gì thì quả thật hết sức khó cho họ để có thể tìm thấy được hương vị
trong những lời giáo huấn của Đức Phật (dù có hiểu được bằng lý thuyết thật đúng đắn giáo lý Phật
Giáo đi nữa thì cũng ví như chỉ nhìn thấy một đĩa thức ăn "thơm ngon"
bằng tranh vẽ hay bằng hình chụp thế thôi. Chỉ khi nào biết tréo chân ngồi
xuống để mở rộng sự cảm nhận của mình hầu giúp mình hòa nhập với hiện thực thì khi
đó cái hương vị ngọt ngào và các ý nghĩa sâu sắc thoát ra từ những lời chỉ dạy
của Đức Phật mới có thể tỏa rộng trong tâm hồn mình được). Thật thế,
mỗi người trong chúng ta đều có những lúc có thể phát lộ được một sự chú tâm
cao độ giúp mình chợt thấy một vài kinh nghiệm cảm nhận nào đó. Các kinh nghiệm
ấy hiển hiện ra với mình và mang lại cho mình một chút thư giãn. Thí dụ như khi
ta tắm với một vòi nước hoa sen chẳng hạn, ta chú tâm vào các tia nước đổ xuống
và chảy dài trên thân thể mình. Thay vì nghĩ đến những gì sẽ phải làm trong ngày
hôm ấy thì ta cứ để cho các tia nước mang lại sự thoải mái cho mình. Phép luyện
tập thiền định thật ra thì cũng chỉ là một phương tiện giúp chúng ta làm hiển
hiện ra cái thể dạng là như thế, một thể dạng giúp chúng ta hoàn toàn hòa nhập vào
những gì mà chúng ta đang làm với một tâm thức thanh thản và một con tim mở rộng.
Sự luyện tập ấy chẳng mang tặng cho chúng ta một thứ gì đặc biệt cả. Nó cũng chẳng
gợi lên cho chúng ta một thể dạng kỳ thú nào cả.
Thế nhưng nếu không có nó thì quả là
hết sức khó cho chúng ta bước đi một cách vững chắc trên con đường hướng về giác
ngộ. Chúng ta sẽ cứ mãi bị chi phối bởi các cảnh huống đang xảy ra. Thiền định giúp
chúng ta tiếp nhận trực tiếp được tất cả sự trong sáng hiển hiện ra một cách đột
khởi từ sự chú tâm, nhằm giúp chúng ta biết tự trau dồi lấy mình và biến cải thể
dạng mà chúng ta đang hiện có, cũng như giúp chúng ta đối đầu với bất cứ một cảnh
huống nào có thể xảy ra với mình.
Đấy là các lý do giải thích tại sao
thiền định lại cần thiết đến thế. Nó giúp chúng ta hiểu được con đường của sự
chú tâm là gì và cách biến sự chú tâm ấy thành một con đường.
Nên luyện tập
thiền định một mình hay chung với một nhóm đông?
Việc luyện tập thiền định liên quan
đến các cảm nhận mang tính cách cá nhân. Trên một khía cạnh nào đó thì đấy là
những gì thật hết sức đơn giản, cũng chẳng khác gì tắm rửa vào buổi sáng khi thức
dậy.
Đấy chẳng qua cũng tương tự như cất
lời chào nhau vào buổi sáng và sẵn sàng đón chào sự sống trước mặt. Sự hòa nhập
ấy thật đơn giản. Sau khi tắm mát xong thì cứ tréo chân lại và ngồi lên tọa cụ (cách luyện tập một
mình). Cứ để cho sự tinh khiết chuyển động một cách tự nhiên chung
quanh ta.
Dù sao thì cách luyện tập chung với một
nhóm nhiều người vẫn có thể giúp mình đi xa hơn (nhờ vào sự trợ lực). Luyện tập
chung thường giúp mình thiền định được lâu hơn so với những lúc luyện tập một mình.
Thí dụ như trong trường hợp đang luyện tập chung với nhiều người khác và mình cảm
thấy không thể tiếp tục lâu hơn được nữa và cứ muốn đứng lên, thế nhưng nếu trông
thấy các người khác vẫn còn ngồi im thì mình cũng sẽ phải cố gắng ngồi lại. Đấy
cũng là một cách nỗ lực tập thể nhằm giúp tất cả mọi người vượt xa hơn các giới
hạn đã được định trước, tức có nghĩa là mọi người đều có thể ngồi được lâu hơn thời
gian quy định mà mình không hề hay biết.
Thật thế luyện tập thiền định không phải
là chỉ luyện tập cho riêng mình và vì mình. Chúng ta hiến dâng sự luyện tập của
mình cho người khác và đấy cũng là cách biến nó trở thành một viên bảo châu (không nên giữ
những gì mà mình thực hiện được mà nên hồi hướng cho người khác).
Nên kéo dài một
buổi luyện tập trong bao lâu?
Còn
tùy vào hoàn cảnh của từng người - rảnh rỗi nhiều hay ít hoặc có những lúc quá
bận rộn vì nhiều việc xảy đến. Có lúc tôi luyện tập thật chuyên cần và đều đặn mỗi
ngày, thế nhưng cũng có khi thì kém hơn.
Nếu thực lòng muốn luyện tập thì cũng
nên thiền định ít nhất là hai mươi phút mỗi ngày. Tôi vẫn thường khuyên các
người tu học với tôi nên luyện tập độ bốn mươi lăm phút mỗi lần. Giữ được như
thế sẽ giúp cho thân xác, hơi thở và tâm thức của mình có đủ thời giờ để trở
nên vững vàng hơn. Trong ngày hôm đó mọi sự xảy đến với mình sẽ diễn tiến khác
hẳn đi (ta sẽ có
nhiều khả năng hơn để chủ động các biến cố xảy ra và biến cải chúng trở thành
tốt đẹp hơn, hay ít ra cũng không để cho chúng chỉ huy mình qua các phản ứng tự
động và máy móc của mình). Nếu chúng ta luyện tập sự chú tâm thật
đều đặn thì sự chú tâm cũng sẽ trung thành với mình và thường xuyên nhắc nhở mình.
Trước khi khởi sự một buổi ngồi thiền
thì cũng nên định trước là mình sẽ ngồi trong bao lâu. Sau đó thì phải cố gắng
giữ đúng như thế, điều này thật quan trọng.
Tốt nhất là nên ngồi thiền vào buổi
sáng khi vừa thức dậy, tức là trước khi bắt tay vào công việc thường nhật, đấy
là lúc thuận lợi nhất. Nên tìm một chỗ yên tịnh không bị ai quấy rầy.
Tuy nhiên nếu muốn tiến bộ nhanh hơn
thì ngoài những buổi ngồi thiền hằng ngày ra thỉnh thoảng cũng nên tham dự các
dịp ẩn cư kéo dài nhiều ngày và đặc biệt chỉ dành riêng cho việc tập luyện thiền
định. Trong các dịp như thế chúng ta sẽ có cơ hội tìm trở lại dễ dàng hơn tâm
trạng của một người hành thiền khi mới tập tành, tương tự như được uống một ngụm
nước tuôn ra từ cội nguồn của một con suối mát.
Sau khi hành thiền
xong thì phải hành xử như thế nào trong cuộc sống hằng ngày?
Hành thiền trong tư thế ngồi yên chỉ
có thể hàm chứa một ý nghĩa đích thật khi nào nó có thể mang lại cho chúng ta
một sự cảnh giác cao độ giúp chúng ta biến cải được những gì xảy ra trong cuộc
sống hằng ngày. Nói cách khác, thiền định bằng cách ngồi yên phải đi đôi với
thiền định bằng hành động. Đấy chính là cách làm phát sinh ra "đạo đức"
Phật Giáo (chuyển
các kết quả thiền định mà mình gặt hái được thành những hành động mang lại sự
thân thiện, lợi ích và an vui cho những người chung quanh).
Hành thiền bằng cách ngồi yên sẽ
giúp cho sự chú tâm trở nên linh hoạt hơn và vững vàng hơn. Nhờ đó chúng ta sẽ
ý thức được một cách minh bạch hơn từng hành động của chính mình.
Chúng ta cũng sẽ khám phá ra phẩm tính
cao độ của sự yên lặng giúp chúng ta tìm thấy sự hăng say và mối tương giao thật
sinh động giữa chúng ta và bầu không gian mở rộng. Triết gia Soren Kierkegaard (1813-1855, là nhà
thần học và triết gia người Đan Mạch, chủ trương thuyết hiện sinh -
existentialism) cho rằng: "Sự sống và cả thế giới theo cách nhìn
của chúng ta đều lâm vào một cơn bệnh thật ngặt nghèo. Nếu như tôi là một vị bác
sĩ và nếu có ai hỏi tôi nghĩ gì về con người thì tôi sẽ bảo với người ấy rằng:
"Hãy câm ngay đi! Để tôi kê cho một toa thuốc về sự yên lặng".
Thiền định là một ngành y học thần kỳ.
Nó mang lại cho chúng ta sự yên lặng ấy, một sự yên lặng thật cần thiết cho mỗi
con người trong chúng ta.
Nhiều vị thầy khuyên chúng ta cứ mỗi
giờ thì nên dành ra một phút yên lặng. Cứ đúng mỗi giờ thì ta dừng lại và giữ nguyên
tư thế của mình vào lúc ấy, dù là đang ngồi, đang đứng hay đang nằm. Ta cứ thản
nhiên làm những gì mà mình cần phải làm trong suốt năm mươi chín phút trước đó,
thế nhưng đến cái phút sau cùng của mỗi giờ thì nên dừng lại để thiền định. Chúng
ta có thể vặn chiếc đồng đồ để báo cho chúng ta cái phút ấy.
Khi nghe tiếng reo của chiếc đồng hồ
thì hãy nên hướng tâm thức vào hơi thở của mình. Chú tâm theo dõi hơi thở vào và
hơi thở ra.
Nào có nghĩa lý gì một phút trôi
qua, thế nhưng cũng chỉ cần một phút thôi cũng đủ để giúp chúng ta tận hưởng những
gì mang lại từ tâm thức và con tim của mình khi chúng kết hợp với nhau để cùng hướng
vào không gian đang mở rộng. (Trong trường hợp không thể thiền định đều đặn một phút
trong mỗi giờ thì cũng nên tự nhắc nhở mình cái phút yên lặng thật cần thiết ấy
khi nào cảm thấy tâm thức mình bị dao động, bồn chồn, lo âu, tức giận, sợ hãi,
hay chợt nhận thấy là mình đang cười nói huyên thiên mà không chủ động được.
Những lúc ấy hãy nên cố gắng quay nhìn vào hơi thở của mình, theo dõi từng hơi
thở vào và từng hơi thở ra..., sau một phút thì tự nhiên các xúc cảm bấn loạn
trên đây cũng sẽ lắng bớt xuống ngay. Dù đấy không phải là một hình thức thiền định
đúng nghĩa của nó, thế nhưng cũng là một liều thuốc chữa chạy tạm thời giúp cho
"cơn đau" đang hành hạ mình nhẹ bớt đi).