Đức Phật và giáo pháp của Ngài
04/07/2553 01:32 (GMT+7) Kích cỡ chữ:
-ooOoo-
I-
THE BUDDHA
-ooOoo-
Lesson
1
Need
of Religion
A bird, if it is to
fly,
needs two wings. If it possesses but one wing it must remain on
the
ground and can never experience the joy and happiness of soaring
high
among the clouds. We also need two wings if we would rise above
the
ordinary everyday things of life and become great and noble men
and
women.
The two wings we
need may
be called the wings of education. One wing being secular
education, that
is the education which we receive in the public and high school,
college
and university; the second, religious education, given generally
by
means of Sunday schools. Without these two wings we can not hope
to soar
high into the realms of knowledge, but must instead remain like
the bird
on the ground of life, having little or no spiritual training.
Religious education
is just
as necessary for us as learning to read and write. It teaches us
how to
think and act in order to be good and happy men and women. It
helps us
to understand the meaning of life and to adjust ourselves to its
laws.
Religion does not
consist,
as so many young people seem to think, in church attendance
alone; a
person need not pull a long face in order to be religious. True
religion
means living the very best and highest lives, getting the most
out of
life, which makes a person lighthearted and joyous all the time.
This is
the sort of religion which the Buddha taught. It is true that we
must
attend classes for a short time each week in order to study its
teachings, but the principal thing is to live them in our daily
lives.
Buddha teaches all
his
followers to make the best use of life, and gives us the promise
that
his pathway leads to true happiness in this world and hereafter.
-ooOoo- |
I-
ÐỨC PHẬT
-ooOoo-
Bài
1:
NHU
CẦU TÔN GIÁO
Một con chim, nếu
nó
bay được, cần có hai cánh. Nếu chỉ có một cánh thì nó
phải ở trên mặt đất và không bao giờ có thể hưởng
được nguồn an vui hạnh phúc bay liệng giữa các từng mây.
Chúng ta cũng cần có hai cánh nếu chúng ta muốn vượt lên
trên những thứ tầm thường hằng ngày của cuộc đời và
trở thành những con người cao quí, vĩ đại.
Hai cánh chúng ta
cần có
thể gọi là hai cánh giáo dục. Cánh thứ nhứt là nền giáo
dục thế tục, tức là nền giáo dục chúng ta tiếp thu ở
công chúng, ở trung học, cao đẳng và đại học; cánh thứ
hai là nền giáo dục tôn giáo, thường được trao truyền
qua các lớp học ngày chủ nhật. Không có hai cánh này chúng
ta không thể hy vọng vươn cao lên các lãnh vực tri kiến mà
phải ì ạch như con chim trên mãnh đất trần thế, được
rèn luyện chút ít hay không được gì cả về phương diện
tinh thần.
Giáo dục tôn giáo
cũng
cần thiết cho chúng ta như học đọc và học viết. Nó
dạy chúng ta cách suy nghĩ và hành động để trở thành
những con người lương thiện và hạnh phúc. Nó giúp chúng
ta hiểu rõ ý nghĩa cuộc đời và tự điều chỉnh cho phù
hợp với qui luật của nó.
Tôn giáo không chỉ
hạn chế trong việc dự lễ nhà thờ như đa số thanh niên
lầm tưởng; không cần phải có bộ mặt nghiêm nghị mới
là người có đạo. Tôn giáo chân chính là nếp sống tốt
đẹp và cao thượng nhất, đạt được cái thâm diệu
nhất từ cuộc đời, làm cho tâm hồn người ta lúc nào cũng
tươi vui, thanh thản. Ðó là loại tôn giáo mà Ðức Phật
đã thuyết giảng. Thực sự thì chúng ta phải tham dự các
lớp học ngắn hạn mỗi tuần để nghiên cứu giáo pháp,
nhưng điều chính yếu là phải áp dụng giáo pháp đó vào
cuộc sống hằng ngày của mình.
Ðức Phật giáo dục
tất cả môn đệ của Ngài biết cách sử dụng cuộc đời
tốt đẹp nhất, và hứa với chúng ta rằng con đường Ngài
đi sẽ dẫn đến hạnh phúc thật sự ở đời này và đời
sau.
-ooOoo- |
Lesson 1:
attend (v) :
tham dự
attendance (n) : sự tham dự
by means of : nhờ sự trợ giúp
consist (v) : gồm có
education (n) : sự giáo dục
follower (n) : đồ chúng, môn đệ
ground (n) : mặt đất
hereafter (n) : kiếp sau
in order to : để
knowledge (n) : kiến thức, tri kiến
lead (v) : dẫn đến
lighthearted (a) : thanh thản, thư thái
make the best use of : tận dụng |
possess (v) :
có
principal (a) : chính, chủ yếu
promise (n, v) : sự hứa hẹn, hứa hẹn
to pull (a) long face : làm ra vẻ nghiêm nghị, thảm thiết
realm (n) : lãnh vực, địa hạt
religion (n) : tôn giáo
religious (a) : về tôn giáo
secular (a) : thế tục
soar (v) : bay vút lên cao
sort (n) : loại
spiritual (a) : thuộc tinh thần
wing (n) : cánh (chim) |
Lesson
2
Who
was the Buddha.
Who was the Buddha?
By
first hearing a little about his life we shall get to know him
better,
then we shall enjoy listening to what he has to tell us.
There are many
legends told
about the Buddha's birth, but I feel sure that you would rather
hear the
truth, for you are really too old to be very interested in fairy
tales.
Legends have always been made up about great people in history,
and
although many of these legends are very beautiful, I think, in a
way
they are dangerous, for often ignorant people forget that they
are
nothing but fairy tales and begin to teach as the truth.
The Buddha was so
great
that he has no need of legends to make him appear greater; he
was the
wisest teacher the world has ever seen, and his teachings given
to men
about 2,500 years ago are still helpful for us today. He did not
claim
to be a God, nor was he any divine messenger, he clearly tells
us that
what he did we can do also if we will listen carefully to his
teaching
and walk in the pathway he found for us.
His message is for
every
race of people, and many westerners have found, at his feet,
peace and
happiness. Many of our brothers and sisters in Europe and
America are
taking their refuge in the great Teacher who has guided the East
for so
many centuries.
-ooOoo- |
Bài
2:
ÐỨC
PHẬT LÀ AI
Ðức Phật là ai? Nếu
trước tiên biết được đôi chút về cuộc đời của Ngài,
chúng ta sẽ hiểu Ngài rõ hơn, và rồi sẽ thích nghe những
điều Ngài thuyết giảng.
Có nhiều truyền
thuyết về việc đản sanh của Ðức Phật, nhưng tôi tin
chắc rằng các bạn thích nghe sự thật hơn, vì rằng các
bạn thật sự đã trưởng thành, không mấy quan tâm đến
những chuyện thần tiên nữa. Truyền thuyết lúc nào cũng
được tô điểm cho những con người lịch sử vĩ đại, và
mặc dù có nhiều truyền thuyết rất đẹp nhưng tôi nghĩ,
ở một khía cạnh nào đó, chúng nguy hiểm, bởi vì hạng
người kém cõi thường quên rằng truyền thuyết chỉ là
chuyện thần tiên và họ lại giảng dạy chúng như có
thật.
Ðức Phật vĩ đại đến
nỗi không cần phải có truyền thuyết để tô điểm cho Ngài
ra vẻ vĩ đại hơn. Ngài là đấng Ðạo Sư thông thái
nhất mà thế giới đã từng thấy, giáo pháp của Ngài đã
được truyền bá cho nhân loại cách đây khoảng 2.500 năm
nhưng ngày nay vẫn còn hữu ích cho chúng ta. Ngài không tự
cho mình là Thượng Ðế, Ngài cũng không phải là một sứ
giả siêu phàm, Ngài xác minh với chúng ta rằng những gì Ngài
làm, chúng ta cũng có thể làm nếu chúng ta cẩn thận lắng
nghe giáo pháp của Ngài và đi theo con đường mà Ngài đã
khai mở cho chúng ta.
Bức thông điệp của
Ngài dành cho mọi chủng tộc, và nhiều người tây phương
đã tìm được nguồn an vui hạnh phúc dưới chân Ngài.
Nhiều anh chị em chúng ta ở Châu AÂu, Châu Mỹ cũng đang nương
tựa bậc Ðại Sư, Người đã hướng dẫn Ðông Phương qua
bao thế kỷ.
-ooOoo- |
Lesson 2 :
appear (v) :
xuất hiện, có vẻ
be interested in : quan tâm đến
century (n) : thế kỷ
claim (v) : cho là, xác nhận
dangerous (a) : nguy hiểm
divine (a) : thần thánh, thiêng liêng
fairy (a) : về thần tiên
guide (v) : hướng dẫn
ignorant (a) : ngu dốt, vô minh
legend (n) : truyền thuyết |
message (n) :
thông điệp
messenger (n) : sứ giả
pathway (n) : đường mòn
race (n) : chủng tộc, cuộc đua
refuge (n) : nơi nương tựa
take refuge in : nương tựa vào
tale (n) : truyện
too... to : quá... không thể
westerner (n) : người tây phương
wise (a) : khôn ngoan, thông thái |
Lesson
3
The
Birth of the Buddha.
About 2,500 years
ago, in
the city of Kapilavatthu, in India, lived a wise and powerful
king
called Suddhodana. He was much loved and respected by his people
because
of his kindness and justice. His wife, Queen Maya, was a very
beautiful
woman, and what was better still, was good and pure.
So far these good
people
were childless and they only needed a son to complete their
perfect
happiness.
One day the Queen
realized
that this greatest wish of theirs would be fulfilled and that in
a short
time she would become a mother. She told the king the glad
tidings and
asked to be allowed to return to her parent's home that the
child might
be born there. Gladly the king granted her request and ordered a
number
of workmen to prepare the roads, making them smooth and even so
that the
queen might travel with as little fatigue as possible.
The day arrived
when the
queen set out for her parents' home, the way lay through a
wonderful
garden called Lumbini, and it was springtime, the flowers and
bushes
were a mass of lovely blossoms, while birds of every color
flitted in
and out of the trees and sang in the branches.
Queen Maya, being
tired,
desired to rest awhile in Lumbini, and there it was that the
pains of
childbirth came upon her and her little son was born, who
afterwards
became the Buddha. What better spot could have been chosen for
the birth
of that great teacher, who so loved all living things? There
amid the
fragrant blossoms, the gay, happy birds, seemed to sing songs of
welcome, the baby prince opened his beautiful eyes. When the
servants
learned that the child was a boy they hastened back to the
palace to
carry the welcome news to the king.
QUESTIONS (1)
1- What does a bird
need in
order to fly?
2- What are the two wings which we need called?
3- What does religious education help us to do?
4- Is it wrong to be happy?
5- What does true religion mean?
6- Has Buddha anything to teach the boys and girls
living in America today?
7- Why are legends dangerous in religious teaching?
8- Was the Buddha a god?
9- Is his teaching for Eastern people alone?
10- Where was he born?
11- What was his father's name?
12- His mother's name?
13- Tell the story of his birth.
-ooOoo- |
Bài
3:
ÐỨC
PHẬT RA ÐỜI
Cách đây khoảng
2.500
năm, tại thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu) ở Ấn Ðộ, có
một quốc vương sáng suốt, uy dũng gọi là Tịnh-Phạn
(Suddhodana). Ngài được nhân dân rất mực yêu quí, kính
trọng vì tính nhân ái, công bình của ngài. Vợ ngài, hoàng
hậu Ma-da (Maya) là một phụ nữ rất đẹp, và đẹp hơn
nữa là tính tình hiền hậu, trong sạch của bà.
Hai vị nhân đức này
đến giờ vẫn chưa có con, và họ chỉ cần một đứa con
trai để hoàn thiện niềm hạnh phúc tuyệt vời của họ.
Một hôm, hoàng hậu
thấy ước nguyện cao quí nhất của họ sắp được thành
tựu, và chỉ trong một thời gian ngắn nữa thôi, bà sẽ
trở thành một người mẹ. Bà cho quốc vương biết tin
mừng và xin được phép về nhà cha mẹ để sinh nở. Quốc
vương hoan hỷ chấp thuận lời yêu cầu của bà. Ngài
lệnh cho một số công nhân sửa sang đường sá, làm chúng
bằng phẳng để hoàng hậu có thể thoải mái đi qua.
Ngày về nhà cha mẹ
đã
đến, hoàng hậu lên đường qua một khu vườn tuyệt vời
gọi là Lâm-tỳ-ni (Lumbini). Nhằm mùa xuân sang, hoa lá cây
kiểng bừng rộ sắc hương, chim chóc đủ màu bay liệng trên
cành, hót ca ríu rít.
Cảm thấy hơi mệt,
hoàng
hậu Ma-da muốn dừng nghỉ chốc lát trong vườn Lâm-tỳ-ni,
rồi bà chuyển dạ và hạ sanh được một hài nhi, người
mà sau này thành Phật. Còn nơi nào đẹp hơn cho bậc đại
sư yêu thương tất cả chúng sanh ra đời? Giữa cảnh hương
hoa ngào ngạt, chim chóc nhởn nhơ, hót ca vang vọng những khúc
nhạc đón mừng thì hoàng tử tí hon mở to đôi mắt tuyệt
vời. Ðược biết hài nhi là một hoàng nam, các thị nữ
hối hả trở về hoàng cung, mang tin mừng cho quốc vương
Tịnh-Phạn.
CÂU HỎI
(I)
1. Con
chim cần gì để
bay?
2. Hai cánh mà chúng ta cần được gọi là gì?
3. Giáo dục tôn giáo giúp ta làm gì?
4. Có phải được hạnh phúc là sai lầm không?
5. Thế nào là tôn giáo chân chính?
6. Ðức Phật có gì để dạy cho các em nam nữ sống ở
Mỹ ngày nay không?
7. Tại sao truyền thuyết thì nguy hiểm trong giáo pháp?
8. Ðức Phật có phải là một thần linh không?
9. Có phải giáo pháp của Ngài chỉ dành cho người Phương
Ðông không?
10. Ngài được hạ sanh ở đâu?
11. Tên của phụ thân ngài là gì?
12. Tên của mẫu thân ngài là gì?
13. Hãy kể chuyện đản
sanh của ngài?
-ooOoo- |
Lesson 3 :
allow (v) :
cho phép
amid (prep) : ở giữa
be (a) mass of : có nhiều
blossom (n) : hoa
bush (n) : bụi cây
childless (a) : không có con
complete (v) : hoàn tất
desire (v) : muốn
even (a) : bằng phẳng
fatigue (n) : sự mệt mỏi
flit (v) : bay vụt qua
fragrant (a) : thơm ngát
fulfil (v) : thực hiện, hoàn thành
glad (a) : vui mừng
grant (v) : chấp nhận
hasten (v) : vội vã
justice (n) : sự công bằng
kapilavatthu : Ca-tỳ-la-vệ
kindness (n) : sự tử tế, sự từ ái |
Lumbini :
Lâm-tỳ-ni
order (v) : ra lệnh
pains of childbirth:
palace (n) : cung điện
powerful (a) : uy quyền, hùng mạnh
prince : hoàng tử
pure (a) : trong trắng, tinh khiết
realize (v) : nhận thức
request (n) : lời thỉnh cầu
respect (n, v) : sự tôn kính, tôn kính
servant (n) : thị nữ
set out (v) : khởi sự, bắt đầu
smooth (a) : nhẵn, trơn
so far : cho đến bây giờ
springtime (n) : mùa xuân
Suddhodana : Tịnh phạn
tidings (n) : tin tức
wish (n) : ước nguyện |
Lesson
4
Asita's
Prophecy
The Prince was
taken to the
palace where King Suddhodana prepared to celebrate the feast of
naming
the child. In those days learned men studied a good deal about
the
stars, for it was believed that these stars had a great
influence on
men's lives. Whenever a child was born a wise man was called in
to
foretell the child's future by the position of the stars at the
time of
his birth.
King Suddhodana,
according
to this custom, sent for the wisest man in India at that time, a
hermit
named Asita, who dwelt among the mountains. Asita, when he saw
the
child, knew that he was destined to become very great, and told
the king
that two pathways opened before the feet of the prince, he would
either
become a mighty king, and rule alone and wisely, or else he
would leave
his palace and become the Supreme Buddha, teacher of men. The
wise man
chose for the child the name of Siddhartha.
The king was much
worried
over Asita's prophecy, for he greatly desired that his son
should reign
over the kingdom after he was gone and become a mighty monarch,
but did
not like the thought that he might choose instead the other
pathway and
become the great world teacher. So, in order that his son should
not
think too much or become serious minded, he surrounded him with
every
pleasure and amusement, choosing for him only young and happy
playmates
and keeping carefully away from him all knowledge of sadness and
death.
The prince grew up
to be a
very lovely character in spite of the fact that he was always
given his
own way about things; it seemed as if it was impossible to spoil
him. He
was kind, truthful, gentle and pure, and yet at the same time he
took a
keen interest in all kinds of sports and races, and was very
skillful at
all of them. He was in every way a normal, healthy boy.
-ooOoo- |
Bài
4
LỜI
TIÊN TRI CỦA A-TƯ-ÐÀ
Hoàng tử được đưa
đến hoàng cung, nơi quốc vương Tịnh-Phạn chuẩn bị làm
lễ đặt tên cho cậu. Vào những ngày đó, các nhà thông thái
nghiên cứu nhiều về các vì sao, vì người ta tin rằng các
vì sao đó có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của
nhân loại. Khi một em bé ra đời thì một hiền sĩ được
mời đến để tiên đoán tương lai của em bé qua vị trí
của những vì sao ngay lúc em mới sinh ra.
Quốc vương
Tịnh-Phạn, theo tập tục, cũng cho mời vị thông thái
nhất ở Ấn Ðộ lúc bấy giờ, một ẩn sĩ tên là A-tư-đà
(Asita), người đã an trú giữa núi rừng. Khi thấy hài nhi,
A-tư-đà biết ngay cậu ấy nhứt định sẽ trở nên rất vĩ
đại. Ông nói với quốc vương rằng hai con đường sẽ
mở ra trước đôi chân của hoàng tử: hoặc là cậu sẽ
trở thành một quốc vương uy dũng, sáng suốt và đơn phương
trị vì thiên hạ, hoặc là cậu sẽ từ giã hoàng cung, thành
Phật tối thượng, bậc đạo sư của nhân thế. Nhà hiền
sĩ chọn cho cậu cái tên là Tất-đạt-đa (Siddhartha).
Quốc vương rất lo
lắng về lời tiên tri của A-tư-đà, vì ngài rất muốn con
trai của ngài phải ngự trị vương quốc sau khi ngài qua đời
và trở thành một vì vua uy dũng, chứ không thích cái ý nghĩ
rằng hoàng tử có thể chọn con đường khác và trở thành
bậc đạo sư vĩ đại trên đời. Vì vậy, để con mình
khỏi phải trầm tư suy nghĩ, thao thức đủ điều, ngài bao
vây cậu bằng mọi thú vui, giải trí, chọn cho cậu toàn
những bạn bè vui vẻ, trẻ trung và cẩn thận giữ cậu xa
lánh các ý niệm đau buồn, chết chóc.
Hoàng tử lớn lên
với tính nết rất dễ thương mặc dù cậu luôn luôn được
cung phụng đủ thứ theo sở thích, và điều đó hình như cũng
không thể làm cậu hư hỏng. Cậu từ ái, chân thật, hiền
hòa và trong sạch. Cậu cũng rất quan tâm đến các môn
thể thao, đua sức, và môn nào cậu cũng điêu luyện. Cậu
là cậu bé rất bình thường và khỏe mạnh về mọi phương
diện.
-ooOoo- |
Lesson 4:
a good deal :
nhiều
according to : theo
amusement (n) : sự vui chơi, trò giải trí
Asita : A-tư-đà
celebrate (v) : làm lễ kỷ niệm
character (n) : nhân vật, tính nết
custom (n) : phong tục
destine (v) : dự định
dwell (v) : cư ngụ
either... or : hoặc là... hoặc là
fact (n) : sự kiện
feast (n) : yến tiệc
foretell (v) : tiên đoán
gentle (a) : hiền hòa
grow up (v) : lớn lên
healthy (a) : khỏe mạnh
hermit (n) : ẩn sĩ
in order that : để cho
in spite of : mặc dù
influence (n) : ảnh hưởng
keen (a) : sắc sảo |
keep away from
:
tránh xa
kind (a) : tử tế, từ ái
Kingdom (n) : vương quốc
learned (a) : thông thái, uyên bác
mighty (a) : dũng mãnh
minded (a) : trầm tư
monarch (n) : vua, quốc vương
normal (a) : bình thường
playmate (n) : bạn chơi đồng trang lứa
pleasure (n) : lạc thú
prophecy (n) : lời tiên tri
reign (v) : ngự trị, thống trị
rule (v) : cai trị
send for someone : cho mời ai đến
serious (a) : nghiêm trọng
Siddhartha : Tất-đạt-đa
skillful (a) : khéo léo
spoil (v) : làm hỏng
supreme (a) : tối thượng
surround (v) : bao quanh
truthful (a) : chân thật |
Lesson
5
The
Prince and a Swan.
One day when
Siddhartha was
playing in the garden with his cousin, Devadatta, a lovely white
swan
flew over the tree-tops. Devadatta,who was a good deal older
than the
prince and not so kind-hearted, drew his bow and arrow and shot
the
beautiful creature in the wing, and it fell to the ground.
Siddhartha rushed
forward
and picked up the poor frightened creature and gently withdrew
the arrow
from its bleeding wing. Books tell us that this was the first
time that
the Prince had come face to face with pain and suffering.
Devadatta
angrily demanded that Siddhartha give up the bird, claiming
ownership
becauce he had shot it. But the Prince refused, saying that it
belonged
to the person who saved its life. And he gently stroked the bird
and
then let it fly away.
This little tale of
the
boyhood of the Buddha gives us all a good lesson in kindness to
our
weaker brothers and sisters, the birds and animals around. One
so often
sees boys and girls tormenting some poor dumb creature, thinking
nothing
of its terror and pain. All of us who are followers of the
gentle Buddha
should set an example in love and kindness to animals and poor
helpless
creatures who look to us for care and sympathy.
-ooOoo- |
Bài
5
HOÀNG
TỬ VÀ CON THIÊN NGA
Một hôm Tất-đạt-đa
đang chơi trong vườn với người em họ là Ðề-bà-đạt-đa
(Devadatta) thì có một con thiên nga dễ thương màu trắng bay
ngang qua các ngọn cây. Ðề-bà-đạt-đa, người lớn tuổi
hơn hoàng tử nhiều và không mấy từ ái, giương cung tên
bắn trúng cánh con vật xinh đẹp đó và nó rơi xuống đất.
Tất-đạt-đa vội
chạy đến bế con vật sợ hãi đáng thương lên và nhẹ nhàng
rút mũi tên ra khỏi cánh đẫm máu của nó. Sách vở cho chúng
ta thấy đây là lần đầu tiên hoàng tử giáp mặt với
khổ đau. Ðề-bà-đạt-đa tức giận, bắt Tất-đạt-đa
trả lại con chim, đòi quyền sở hữu vì chàng đã bắn trúng
nó. Hoàng tử từ chối, nói rằng nó thuộc quyền người nào
cứu mạng nó. Chàng âu yếm vuốt ve con chim rồi thả nó
bay đi.
Câu chuyện nhỏ về
thời thơ ấu của Ðức Phật này đã cho chúng ta một bài
học lý thú về lòng nhân từ đối với anh chị em yếu kém
hơn chúng ta, những chim muông và thú vật chung quanh ta. Ai
từng thấy trẻ em hành hạ một số sinh vật câm điếc
khốn nạn mà không nghĩ đến cảnh khiếp sợ, đau khổ
của chúng. Tất cả chúng ta, môn đồ của Ðức Phật
hiền từ, phải nêu gương yêu thương nhân ái với những súc
vật và sinh vật bơ vơ khốn khổ đang trông chờ sự chăm
sóc, thương cảm của chúng ta.
-ooOoo- |
Lesson 5:
arrow (n) :
mũi tên
belong to (v) : thuộc về
bleed (v) : chảy máu
bow (n) : cái cung
boyhood (n) : thời niên thiếu
care (n) : sự chăm sóc
claim (v) : đòi, yêu sách
creature (n) : sinh vật
demand (v) : yêu cầu, đòi hỏi
Devadatta : Ðề-bà-đạt-đa
draw (v) : kéo, vẽ
dumb (n) : điếc, ngớ ngẩn
face to face : mặt đối mặt
frightened (a) : hoảng sợ
give up (v) : từ bỏ, đầu hàng |
helpless (a) :
bơ vơ
kind-hearted (a) : hảo tâm
look to someone : trông cậy vào ai
ownership (n) : quyền sở hữu
pain (n) : sự đau đớn
pick up (v) : nhặt lên
refuse (v) : từ chối
set an example : nêu gương
shoot (v) : bắn
stroke (v) : vuốt ve
suffering (n) : sự đau khổ
swan (n) : con thiên nga
sympathy (n) : sự thông cảm
terror (n) : sự kinh hãi
torment (v) : giày vò, hành hạ
withdraw (v) : rút ra |
Lesson
6
The
Prince Saw the Facts.
When the Prince
reached
manhood the King decided that it was time he married, for he
thought
that if the prince had home ties, such as a wife and children,
he would
not want to leave and become the Buddha, but would instead
become the
great king.
In the East, in
those days,
a prince who desired to marry must first prove his bravery and
strength.
The king accordingly, invited the princes and warriors from many
parts
of the country to meet the prince in wrestling, shooting
matches, in
swimming contests and many other manly sports, and in all of
them the
Prince came out victorious.
When the games were
over
the princesses who were present walked before the prince, that
he might
choose from among them a wife suited to his position. The young
maidens
walked with downcast faces. They were shy and nervous, and the
prince
could scarcely get to see whether they were beautiful or not. At
the end
of the procession walked a lovely young girl, and as she passed
the
prince she gave him such a roguish smile that at once he fell in
love
with her and chose her for his bride. Her name was Yoshodhara,
daughter
of King Koli. Their wedding was celebrated for one whole week,
with much
rejoicing.
After the prince
had been
married about one year he asked the king to give him permission
to go
into the city and see how the people lived beyond the palace
gates. The
king was worried and he feared that the prince would see things
which
would make him sad, for many people were poor and sickly and he
had
tried to keep such things away from his son's eyes. However, he
could
not refuse and gave orders that the streets should be decorated
and that
the people should keep a holiday on that day, wearing their
brightest
and best clothes, so that the prince should only see joy and
happiness
all around.
Early one morning,
three
days later the prince set forth to see the city of Kapilavatthu.
Flags
were flying from all the houses and the streets were decorated
with
garlands of flowers. Everyone seemed bright and happy, and the
people
thronged the streets to watch the Prince ride by. They were all
dressed
in their best clothes and shouted loving greetings to him from
every
side.
"What a beautiful
place this earth is," exclaimed the Prince, "everybody is so
happy!"
Just as he said
this his
glance fell upon an aged man standing at the side of the road.
The old
man's eyes were sunken and watery, his limbs were shaking and he
could
scarcely stand.
"Why is he shaking
like that, what makes him look so strange?" asked Siddhartha.
"That is an old
man," answered the attendant. " All who live long enough
become like that." The Prince said nothing, but his face grew
sad
and wistful.
They rode on for
some time
in silence when suddenly a young man by the side of the road
threw up
his hand with a loud cry and fell upon his face on the ground.
The
people around rushed to his aid and helped to raise him up.
"Oh! " exclaimed
the prince, " what is the matter with him? "
"He has been taken
ill," the people answered.
On they rode again,
returning to the palace by a new way. Down a sidestreet, came a
strange
procession men bearing a stretcher and women walking behind and
wailing.
" Whatever are they doing? "asked the prince.
"It is a
funeral," answered Channa, the attendant; "the young man upon
the stretcher is dead and they are taking his body to be
burned."
The Prince could
bear no
more and rode swiftly to the palace. But coming to the gates he
stopped,
for there by the roadside sat a monk, barefooted, dressed in a
long
robe, a begging bowl in his hand.
"Why do you beg for
by
the roadside?" asked the prince, " and why do you dress in
such a fashion? "
"I have renounced
the
joys of earth," answered the monk, " I am seeking for a way of
salvation, a way of escape from the sufferings of life, for
peace can
only be found by giving up the world."
When the Prince
heard the
words of the monk, he knew in his heart that he too must wander
homeless
and lonely, until he found the answer to all pain and sorrow;
until he
found a way by which these sufferings should cease for all time.
As he entered the
gates of
the palace a servant met him with the glad news that a son had
been born
to him. This, however, only made the Prince more unhappy, for he
knew
that it would be much harder now to leave his home and loved
ones.
-ooOoo- |
Bài
6:
HOÀNG
TỬ CHỨNG KIẾN CÁC SỰ KIỆN
Khi hoàng tử đến
tuổi trưởng thành, quốc vương quyết định lập gia đình
cho chàng vì ngài nghĩ rằng nếu hoàng tử có những mối ràng
buộc gia đình như vợ con thì chàng sẽ không muốn xuất
gia thành Phật mà sẽ trở thành đại vương.
Ở Ðông Phương, vào
những ngày đó, một hoàng tử muốn lấy vợ, trước hết
phải chứng tỏ tính can trường dũng mãnh của mình. Do đó,
quốc vương mời tất cả thái tử, võ tướng từ khắp nơi
trong nước đến gặp hoàng tử trong các cuộc đô vật,
bắn cung, bơi lội và các môn thể thao mạnh bạo khác, môn
nào hoàng tử cũng thắng cả.
Khi cuộc so tài kết
thúc,
các công chúa hiện diện bước ra trước mặt hoàng tử để
chàng chọn người làm vợ, phù hợp với vị thế của chàng.
Các thiếu nữ đều cúi mặt bước ra. Họ e thẹn và xúc
động. Hoàng tử khó có thể xác định vẻ đẹp của họ.
Cuối cuộc trình diễn, một thiếu nữ xinh xắn đi qua trước
mặt hoàng tử và tặng chàng một nụ cười kín đáo đến
độ chàng yêu nàng và chọn nàng làm vợ ngay. Tên nàng là
Da-du-đà-la (Yoshodhara), ái nữ của vua Thiện-giác (Koli). Hôn
lễ của họ được tổ chức cả tuần với biết bao hân
hoan vui thú.
Sau khi hoàng tử
kết hôn
khoảng được một năm, chàng xin phép quốc vương ra phố
xem cảnh sinh hoạt của dân chúng bên kia cổng tường hoàng
cung. Quốc vương lo sợ hoàng tử chứng kiến bao cảnh
thảm sầu, Ngài đã cố gắng che dấu, không để những người
nghèo khổ tật bịnh vất vưởng trước mặt con mình. Tuy
nhiên, ngài không thể từ chối. Ngài ra lệnh đường sá
phải được trang hoàng lộng lẫy, dân chúng phải nghỉ
việc và ăn mặc y phục sang trọng rực rỡ nhứt ngày hôm
đó để hoàng tử đâu đâu cũng chỉ thấy cảnh hân hoan,
hạnh phúc.
Ba hôm sau, vào một
buổi sớm mai, hoàng tử lên đường xem thành Ca-tỳ-la-vệ.
Cờ phướn tung bay mọi nhà, đường phố giăng đầy hoa lá,
người nào cũng lộ vẻ tươi vui, hạnh phúc, dân chúng tụ
tập trên các phố phường để xem hoàng tử cỡi ngựa đi
qua. Họ mặc quần áo xinh đẹp nhất và cất lời thân thương
chào chàng từ khắp mọi phía.
"Trái đất này là
nơi đẹp đẽ biết bao!" Hoàng tử tán thán: "Ai ai
cũng vui vẻ hạnh phúc".
Vừa nói xong là
chàng
thấy ngay một cụ già đang đứng bên lề đường. Hai mắt
sâu hoắm, chèm nhèm, tay chân run rẩy, lão khó mà đứng
vững được.
"Tại sao người
ấy run thế? Sao trông kỳ cục thế?" Tất-đạt-đa
hỏi.
"Ðó là một người
già" thị vệ đáp "Ai sống lâu rồi cũng như thế
cả". Hoàng tử không nói gì nhưng khuôn mặt hiện lên
nét đăm chiêu, buồn chán.
Họ tiếp tục im lặng
lên ngựa được một lúc thì bỗng dưng có một thanh niên
bên lề đường đành chịu úp mặt xuống đất khóc than thê
thảm. Những người chung quanh vội đến đỡ hắn đứng lên.
"Ồ", hoàng
tử cất tiếng hỏi "Cậu ấy làm sao thế?"
"Cậu ấy bị
bịnh" dân chúng đáp.
Họ lại tiếp tục lên
ngựa trở về hoàng cung bằng một lộ trình mới. Nhưng bên
kia đường lại hiện ra đám rước kỳ lạ, các ông khiêng
một cái cáng, các bà theo sau than khóc. "Họ đang làm gì
thế?" hoàng tử hỏi.
"Ðó là một đám
ma" Xa-nặc (Channa), người thị vệ đáp. "Cậu thanh
niên trên chiếc cáng kia chết rồi, họ đang đem thi thể
của hắn đi thiêu đó".
Không chịu được
nữa, hoàng tử hối hả lên ngựa quay về hoàng cung. Nhưng
đến cổng thành chàng dừng lại, chàng bắt gặp một tu sĩ
đi chân đất, vận y vàng, tay bê bình bát, ngồi bên vệ
đường.
"Tại sao anh xin ăn
bên vệ đường?" Hoàng tử hỏi "Và tại sao anh
mặc đồ như thế?"
"Tôi đã từ bỏ
lạc thú trần gian" vị tu sĩ đáp. "Tôi đang tìm
đường giải thoát, con đường thoát khỏi mọi khổ đau
của cuộc đời, bởi vì an lạc chỉ có thể tìm thấy được
bằng cách từ bỏ thế gian".
Khi hoàng tử nghe
qua
những lời của vị tăng sĩ, chàng thấy từ thâm tâm rằng
mình cũng phải cô thân chích bóng, không cửa không nhà, nay
đây mai đó cho đến khi tìm được lời giải đáp cho mọi
khổ đau, cho đến lúc tìm ra được con đường dứt trừ
đau khổ.
Khi chàng vào cổng
hoàng
cung, một thị nữ đón chàng với tin mừng là công chúa đã
sanh cho chàng một bé trai. Tuy nhiên, việc này chỉ làm cho
hoàng tử buồn hơn, vì chàng thấy bây giờ từ giã gia đình
và những người thân thương sẽ khó khăn hơn nhiều.
-ooOoo- |
Lesson 6:
accordingly
(adv) :
do đó
attendant (n) : thị vệ, thị giả
barefooted (a) : chân không
be dressed in : mặc đồ
be over : kết thúc
bear (v) : khiêng, chịu đựng
beg (v) : ăn xin, khất thực
begging bowl : bình bát
bowl (n) : chén, tô, bát
bravery (n) : tính can đảm
bride (n) : cô dâu
bright (a) : tươi vui
burn (v) : đốt, thiêu
cease (v) : chấm dứt
channa : xa-nặc
come out (v) : thắng lợi
contest (n) : trận đấu, cuộc thi
decorate (v) : trang hoàng
downcast (a) : cúi xuống, nhìn xuống
escape (n,v) : sự trốn thoát, trốn thoát
exclaim (v) : kêu lên, la lên
fall in love with someone : yêu ai
fashion (n) : mốt, thời trang
fear (v) : lo sợ
flag (n) : cờ
funeral (n) : đám tang
garland (n) : vòng hoa
glance (n, v) : cái liếc, liếc nhìn
greeting (n) : lời chào hỏi
homeless (a) : không cửa không nhà
Koli : Thiện-giác
limbs (n) : tứ chi
lonely (a) : cô đơn, cô độc
maiden (n) : thiếu nữ
manhood (n) : tuổi trưởng thành
match (n) : cuộc thi đấu |
monk (n) :
tu sĩ, tăng sĩ
nervous (a) : hồi hộp, xúc động
order (n) : mệnh lệnh
permission (n) : sự cho phép
position (n) : vị trí
princess (n) : công chúa
procession (n) : cuộc diễu hành
prove (v) : chứng tỏ
rejoicing (n) : sự vui mừng
renounce (v) : tìm kiếm
roadside (n) : lề đường
roguish (a) : tinh nghịch
salvation (n) : sự giải thoát
scarcely (adv) : hầu như không
seek for (v) : tìm kiếm
set for (v) : lên đường
shake (v) : lay động
shy (a) : e thẹn
strange (a) : kỳ lạ
stretcher (n) : cái cáng
such that : đến nỗi
suit (v) : thích hợp
sunken (a) : lõm hóp
swiftly (adv) : nhanh chóng
throng (v) : tụ tập
tie (n) : mối ràng buộc
victorious (a) : chiến thắng
wail (v) : than khóc
wander (v) : đi lang thang, vân du
warrior (n) : võ sĩ, võ tướng
watery (a) : đẫm nước, chèm nhèm
wedding (n) : đám cưới
wistful (a) : đăm chiêu
wrestle (v) : đánh vật
Yoshodhara : Da-du-đà-la |
Lesson
7
The
Great Renunciation.
At midnight, while
all in
the palace were sleeping, Siddhartha arose softly so as to
awaken no one
and crept gently to the room where his wife, Yoshodhara, lay
sleeping
with his baby son. Pulling aside the curtains of the bed, he
gazed upon
the faces of those two whom he so loved, then quietly left the
room
without waking them. Tears fell from his eyes for he knew that
many
years must pass before he would see them again.
He passed out of
the palace
into the courtyard, where Channa, his faithful servant, awaited
him with
his horse, Kanthaka, already saddled. Together they rode out
into the
sleeping city and along the road leading towards the forest.
After
several hours riding they reached the river Anoma, where the
Prince
dismounted and cut off his hair with his sword. Then taking off
his
princely robes and jewels he handed them to Channa, telling him
to
return to the palace with his horse and give them to his father,
informing him that his son had made up his mind to seek for the
way of
deliverance. Channa turned back, leading the beautiful horse,
and the
Prince went alone into the dark forest.
QUESTIONS
(2)
1- What
did the ancient
people believe about the stars?
2- Whom did the king send for?
3- What did Asita foretell?
4- Was the Prince a manly boy?
5- Tell the story of the swan.
6- What does this story teach us?
7- When a Prince desired to marry what must he first do?
8- Whom did the prince choose for his wife?
9- What request did the prince one day make of his father?
10- Tell the four things which the Prince saw on his
journey through
the city.
11- What did the Prince
do at
midnight?
-ooOoo-
|
Bài
7
CUỘC
GIÃ TỪ VĨ ÐẠI
Vào lúc nửa đêm,
trong khi mọi người ở hoàng cung đang ngủ, Tất-đạt-đa
nhẹ nhàng trở dậy để khỏi đánh thức một ai, và rón rén
đến phòng vợ mình là Da-du-đà-la đang nằm ngủ với đứa
con trai thơ ấu. Ðưa tay vén tấm màn che giường, chàng chăm
chú nhìn mặt vợ con yêu quí rồi lặng lẽ rời khỏi phòng
không một tiếng động. Mắt chàng rơi lệ, vì biết là
phải qua nhiều năm tháng chàng mới gặp lại họ.
Chàng rời khỏi cung
thất, ra đến sân sau, nơi Xa-nặc, người thị vệ trung thành,
đang đợi chàng với con tuấn mã Kiền-trắc (Kanthaka) đã
thắng sẵn yên cương. Họ cùng nhau lên ngựa ra ngoài kinh
thành đang ngủ và chạy dọc theo một con đường nhỏ dẫn
đến cánh rừng. Sau nhiều giờ lặn lội, họ đã tới dòng
sông A-nô-ma (Anoma). Chàng xuống ngựa, đưa gươm cắt tiện
mái tóc, đoạn cởi áo hoàng tử và các thứ châu báu trao
cho Xa-nặc, bảo hắn đưa ngựa về hoàng cung và trao các
thứ đó lại cho phụ hoàng, báo cho ngài biết rằng hoàng
tử đã quyết định tìm đường giải thoát. Xa-nặc dẫn
con tuấn mã quay về, hoàng tử một mình đi vào rừng sâu.
CÂU HỎI
(2)
1. Người
xưa tin thế
nào về các vì sao?
2. Quốc vương cho mời ai đến?
3. A-tư-đà tiên đoán những gì?
4. Hoàng tử đã thành nhân rồi phải không?
5. Hãy kể chuyện con thiên nga.
6. Chuyện này dạy ta những gì?
7. Khi một Hoàng tử muốn kết hôn, chàng phải làm gì trước
nhất?
8. Hoàng tử đã chọn ai làm vợ?
9. Một hôm Hoàng tử yêu cầu phụ hoàng những gì?
10. Hãy kể bốn sự kiện mà Hoàng tử đã chứng kiến
trong cuộc du ngoạn qua thành phố.
11. Hoàng tử làm gì vào
lúc
nửa đêm?
-ooOoo- |
Lesson 7:
arise (v) :
trở dậy, nảy sinh
await (v) : chờ đợi
awake (v) : đánh thức
courtyard (n) : sân nhỏ, sân trong
creep (v) : bò, trườn
curtain (n) : màn cửa
deliverence (n) : sự giải thoát
dismount (v) : xuống (ngựa, xe)
faithful (a) : trung thành, chung thủy
foretell (v) : tiên đoán
gaze upon someone (v) : nhìn chăm chăm ai
hand (v) : trao tay
inform (v) : báo tin, cho biết
jewel (v) : ngọc ngà, đồ châu báu |
Kanthaka :
Kiền-trắc
make up one's mind : quyết định
princely (a) : thuộc hoàng tử, sang trọng
renunciation (n) : sự từ bỏ, sự giã từ
robe (n) : áo choàng (chỉ chức vị)
saddle (v) : thắng yên ngựa
servant (n) : người đầy tớ, người giúp việc
so as (to) : để làm việc gì
softly (adv) : nhẹ nhàng
sword (n) : gươm, kiếm
take off (v) : cởi ra
tear (n) : nước mắt
wake (v) : đánh thức, tỉnh dậy |
Lesson
8
The
Wandering Ascetic.
During the long
night the
Prince journeyed on through the lonely forest, and at sunrise he
came to
the city of Rajagriha.
The guards were
opening the
gates and the Prince entered them and walked slowly through the
streets
of the city. The people knew that he was a stranger and they saw
that in
some way or other he was different to most of those who visited
the
city. His noble bearing, his grave, gentle manner and his kind
face
proclaimed him to be a man worthy of trust and respect, a great
sage and
teacher.
Many followed him,
wondering where he was going and some of the servants of the
palace went
to King Bimbisara, the monarch of the Rajagriha, and told him of
the
stranger. He put on his royal robes and went out to meet him.
"O noble
visitor!" said the king, " whence have you come and whither
are you going, for I can easily see that you are of royal blood
and also
a great sage?"
"Sire, I am
Siddhartha, son of King Suddhodana," answered the Prince, "and
I have vowed to wander homeless until I find the way of
deliverance from
sorrow and misery, not for myself alone but for all living
beings".
"Stay instead with
me", begged the king, "for I have no son and desire an heir
with whom to share my kingdom".
"Riches and power I
have renounced", replied the Prince, with a smile; "from the
prison of pleasures I have escaped. Shall the captive bird
return of his
own free will to the cage from which he has escaped?"
"Go forth, my lord,
and I will not tempt you away from your noble task! But when you
have
found the truth, come here once more and teach it to me", said
Bimbisara. The Prince promised and set out once more upon his
journey.
As Siddhartha was
wondering
which of the many paths to take he caught sight of two learned
Brahmins
(Hindu priests) busily reading the sacred scriptures (Holy
Books) and
discussing the meaning of what they read.
"These must be very
wise men", thought the Prince. "I will go and talk to them,
perhaps they can help me in my search for the Truth".
So he went over to
them and
sat for many weeks listening to what they were saying. But he
found that
he was no nearer to the goal he sought, for they spent most of
the time
in long arguments which only led to anger and bad feelings.
Finally he left
them, and
as he was walking down one of the shady paths he came upon a
temple; the
door stood open and Siddhartha entered, hoping that he might
learn the
truth within.
Many priests robed
in long
gowns stood before an alter, on which lay a dying animal, its
eyes
filled with agony. The hands of the priests were covered with
blood and
the floor beneath the altar was stained crimson.
"How can you be so
cruel?" cried the Prince, his tender heart almost broken to see
such suffering.
"We are sacrificing
to
the gods so that they will forgive the sins of the people",
answered the Head Priest, "the gods can only be pleased by the
shedding of blood".
"Gods who are good
would not require the death of innocent animals; I cannot
believe such
wrong teaching", cried the Prince, and went quickly out of that
dreadful place, for he knew that the Truth could never be found
there.
After many weeks of
wandering he came upon five priests, who lead very strict and
holy
lives. These men believed that the Truth could be found by
torturing
their bodies and by starving and cutting themselves with sharp
knives.
Siddhartha joined
them, and
starved and treated his body with such cruelty that he almost
died of
weakness and pain. Although he lived there for six years,
growing every
day weaker, he was no near to the goal he sought, and at length
he
decided to leave those priests and look elewhere.
As he was lying in a
fainting condition by the side of the stream, too weak to even
lean over
and quench his thirst, a young girl appeared and offered him a
drink of
milk, which revived him so that he was able to get up and walk.
He bade
good-bye to the five men, but they were angry because he was
leaving
them and rudely turned their backs. Siddhartha walked sadly
away, for he
was very fond of these poor priests and hated to think of them
wasting
their time in such needless agony.
-ooOoo- |
Bài
8
THẦY
DU SĨ
Hoàng tử đi qua
cánh
rừng hiu quạnh suốt đêm cho đến tảng sáng thì chàng
tới thành phố Vương xá (Rajagriha).
Vệ binh mở cổng,
hoàng
tử bước vào và từ tốn đi qua các đường phố trong thành.
Dân chúng biết chàng là khách lạ. Họ thấy chàng có đôi
nét khác biệt với phần lớn du khách viếng thành trước
kia: phong thái cao sang, tính khí can trường, thái độ hòa nhã
và khuôn mặt hiền từ của chàng đã cho thấy chàng là
một hiền giả cao quí, một đạo sư vĩ đại, đáng được
tin yêu kính trọng.
Nhiều người đi theo
chàng, thắc mắc không biết chàng đi đâu, một số quan
thần của hoàng triều đến gặp vua Tần-bà-sa-la
(Bimbisara), quốc vương của thành Vương xá, báo cho ngài
biết về người lạ mặt. Ngài mặc vương phục và ra gặp
chàng.
"Thưa du khách cao
quí!" quốc vương nói. "Ngài từ đâu tới? Ngài
sẽ đi đâu? Ta có thể dễ dàng thấy rằng ngài thuộc dòng
hoàng tộc, và cũng là một hiền giả vĩ đại".
"Tâu bệ hạ, tôi
là Tất-đạt-đa, con trai của quốc vương Tịnh-Phạn"
Hoàng tử đáp, "tôi đã nguyện ra đi không cửa không
nhà cho đến khi tìm ra con đường giải thoát khổ đau, không
những chỉ cho tôi mà cho tất cả chúng sanh nữa".
"Hãy ở lại đây
với trẫm", quốc vương van xin. "Trẫm không có con
trai, trẫm muốn có người thừa kế để truyền lại vương
quốc này".
"Tôi đã từ bỏ
giàu sang, quyền lực", Hoàng tử tươi cười đáp;
"tôi đã thoát khỏi ngục tù lạc thú. Con chim đã sổ
lồng mà lại tự nguyện trở về lồng nữa sao?".
"Hãy cứ đi, thưa
ngài. Trẫm sẽ không dám quyến rủ ngài từ bỏ nghĩa vụ
cao cả của ngài! Nhưng khi ngài tìm ra sự thật, xin ngài
hoan hỷ trở lại đây truyền dạy cho trẫm", Tần Bà
Sa La nói. Hoàng tử hứa hẹn và tiếp tục lên đường.
Tất-đạt-đa đang
thắc mắc không biết phải đi theo lộ trình nào mới gặp
được hai nhà bác học Bà-la-môn (hai đạo sĩ Ấn giáo) đang
miệt mài đọc tụng thánh điển (Thánh Thư) và thảo luận
ý nghĩa của chúng.
"Họ phải là
những người rất mực thông thái", Hoàng tử suy nghĩ.
"Ta sẽ đi hầu chuyện với họ, may ra họ có thể giúp
ta tìm ra sự thật".
Chàng đến gặp họ và
ngồi nghe họ thuyết giảng trong nhiều tuần, nhưng chàng
thấy chẳng tiến gần chút nào đến mục tiêu mà chàng tìm
kiếm. Họ chỉ phí phạm thời giờ trong các cuộc tranh cãi
dai dẳng với nội dung dẫn đến sân hận và ác tâm.
Cuối cùng chàng từ
bỏ họ. Chàng men xuống một con đường râm mát rồi bước
lên một ngôi đền, cửa đền để mở, Tất-đạt-đa bước
vào với hy vọng có thể thấy được sự thật trong đó.
Nhiều giáo sĩ mặc
áo
chùng đứng trước bàn hương án, trên đó có một con vật
đang hấp hối với đôi mắt quằn quại đau thương. Giáo sĩ
nào tay cũng dính đầy máu, và, trên sàn nhà, phía dưới bàn
hương án, đọng lại một vũng máu tím bầm.
"Sao các ông tàn
nhẫn thế?" Hoàng tử thét lên, con tim nhạy cảm của
chàng dường như bị vỡ tung khi thấy cảnh đau đớn như
thế.
"Chúng tôi đang
tế thần để các ngài ấy sẽ xả tội cho nhân dân".
Vị Giáo trưởng đáp. "Thần linh chỉ có thể hài lòng
bằng hình thức đổ máu".
"Thần linh hiền
thiện sẽ không cần đến cái chết của những súc vật vô
tội, ta không thể tin được những lời phi lý như
vậy". Hoàng tử lớn tiếng nói và nhanh chóng ra khỏi nơi
khủng khiếp ấy. Chàng biết sự thật không bao giờ có
thể tìm thấy được ở đó.
Sau nhiều tuần lang
thang tìm kiếm, chàng gặp được năm đạo sĩ có nếp
sống khổ hạnh và thánh thiện. Những người này tin rằng
sự thật có thể tìm thấy bằng lối hành hạ xác thân,
chịu đựng đói khát và dùng dao bén cắt xẻ thân mình.
Tất-đạt-đa gia nhập
theo họ. Chàng cũng nhịn đói nhịn khát, hành hạ thân
thể tàn bạo đến độ suýt chết vì kiệt sức và đau đớn.
Mặc dù sống ở đó đựơc sáu năm, mỗi ngày một yếu
dần, nhưng chàng thấy chả tiến gần tí nào đến mục tiêu
mà chàng tìm kiếm. Cuối cùng chàng quyết định từ giã các
đạo sĩ đó và nhắm đến nơi khác.
Trong khi chàng nằm
ngất xỉu bên một dòng sông, yếu đến nỗi không gượng
dậy nổi để lấy nước uống, thì có một thiếu nữ
xuất hiện, dâng sữa cho chàng. Uống sữa xong chàng tỉnh
lại và có thể đứng lên đi được. Chàng ngõ lời tạm
biệt năm người, nhưng họ lấy làm tức giận vì chàng đang
bỏ họ và họ quay lưng một cách thô bạo. Tất-đạt-đa
buồn bã ra đi, chàng rất mến các đạo sĩ đáng thương
kia, nhưng lại ghét lối lãng phí thời giờ vào cách ép xác
vô ích như vậy.
-ooOoo- |
Lesson
8:
agony (n) : sự
đau đớn,
sự quằn quại
altar : bàn thờ, án thờ
anger (n) : sự sân hận, tức giận
argument (n) : sự tranh luận
be covered with : dính đầy, phủ đầy
be filled with : đầy ắp
be fond of : thích
be of : có
bearing (n) : phong thái
beg (v) : van xin
beneath (prep) : ở dưới
bid goodbye to : chào tạm biệt
Bimbisara : Tần-bà-sa-la
blood (n) : máu
brahmin (n) : đạo sĩ bà-la-môn
cage (n) : cái lồng
captive (a) : bị bắt giam
catch sight : trông thấy
crimson (n) : màu đỏ thẩm
cruel (a) : tàn ác
desire (n) : sự khao khát
die of (v) : chết vì
discuss (v) : thảo luận
dreadful (a) : dễ sợ, khủng khiếp
dying (a) : hấp hối
faint (v) : ngất xỉu
forgive (v) : tha thứ, hỷ xả cho
goal (n) : mục tiêu, mục đích
god (n) : thần linh
gown (n) : áo lễ
grave (a) : nghiêm trang
grow (v) : trở nên, nảy nở
guard (n) : vệ binh
heir (n) : người thừa kế
hindu (a) : thuộc Ấn giáo
holy (a) : thánh thiện
in search for : để tìm kiếm
innocent (a) : ngây thơ, vô tội
instead (adv) : thay vì, đáng lẽ
journey (v,n) : làm cuộc hành trình, cuộc hành trình
lean (v) : dựa, tựa
living beings : chúng sanh
manner (n) : thái độ, cử chỉ
|
misery (n) :
cảnh khốn khổ
noble (n) : quí tộc, quí phái
once more : một lần nữa
power (n) : quyền lực
priest (n) : thầy tu
prison (n) : nhà tù
proclaim (v) : công bố, tuyên bố
quench (v) : dập tắt
Rajagriha : Vương-xá
require (v) : đòi hỏi, yêu cầu
revive (v) : làm sống lại, làm tỉnh lại
riches (n) : của cải
royal (a) : thuộc hoàng triều
rudely (adv) : một cách thô lỗ
sacred (a) : về thánh thần
sacrifice (v) : hy sinh, cúng tế
sage (n) : nhà hiền triết
scripture (n) : kinh điển
set out (v) : lên đường
shady (a) : có bóng mát, râm mát
share (v) : san sẻ, chia sớt
sharp (a) : bén nhọn
shedding (n) : sự đổ máu
sin (n) : tội lỗi
sorrow (n) : sự buồn phiền, sự đau khổ
stain (v) : làm bẩn, làm nhớp
starve (v) : chết đói, bắt nhịn đói
stranger : người lạ mặt
stream (n) : dòng suối
sunrise (n) : bình minh
temple (n) : đền, miếu, chùa
tempt (v) : xúi giục, cám dỗ
thirst (n) : sự khát nước
torture (v) : tra tấn, hành hạ
treat (v) : đối xử
trust (n) : sự tín nhiệm
turn one's back : quay lưng lại
vow (v, (n) : thề, lời thệ nguyện
waste (v, (n) : hoang phí, sự hoang phí
weakness (n) : sự suy nhược
whence (adv) : từ đâu
whither (adv) : tới đâu
wonder v) : tự hỏi
worthy (a) : xứng đáng |
-ooOoo-
|