Đức Phật và giáo pháp của Ngài
04/07/2553 01:32 (GMT+7) Kích cỡ chữ:
-
Lesson
9
The
Great Enlightenment
Now we see that the
prince
had looked in many places to find the truth, but so far had not
succeeded. He had read the Holy Books of the Brahmins and tried
to find
it there, but had not been successful. He had examined into the
services
and sacrifices of the Hindu temples, but had been disgusted and
saddened
by the terrible cruelties he had seen there. Then he had joined
the five
priests and followed their example in torturing his body, but
all to no
purpose; the truth seemed to be as far away as ever. There
remained only
one thing for him to do, and that was to look within his own
mind and
see if he could not find it by deep meditation (thinking deeply
and
correctly on a thing.).
So he came to a
great tree
and sat under its shade on the ground resolving not to get up
until he
had found what he was looking for.
Meditation was very
hard
for him at first, for all sorts of wandering thoughts seem to
come into
his mind instead. Pictures of the joys of his father's palace,
the faces
of his wife and baby son, the desire for pleasures and power,
all these
seemed to crowd his mind and banish away any serious thoughts he
had.
However, he persevered and at last was able to drive these
temptations
away.
Then gradually the
answer
to all that he was seeking shone clearly in his mind, ignorance
was
destroyed forever and he saw the truth of the existence of
suffering,
that ignorance was its cause, and that this ignorance might be
destroyed
by walking the Noble Eightfold Path which leads to peace and
true
happiness.
So did the Prince
Siddhartha, beneath the Sacred Bodhi tree, become the Supreme
Buddha,
teacher of all living beings. He has fought the hard, long
battle with
ignorance and selfishness, and had won the fight. Before him he
saw the
truth he had sought for so long, and he entered into the state
of peace
and happiness called by Buddhists "Nirvana". His great
RENUNCIATION had not been in vain, for he brought the glad
message of
hope to all mankind, a message that will never die because it is
the
Truth, and Truth is ETERNAL.
The Four Noble
Truths and
the Eighfold Path are what the Buddha found, and all who would
win the
same peace and happiness must learn about these truths and walk
in the
Path he gave. As I told you before, all he did can be done by
each one
of us; we can find Nirvana and enter its happiness any time we
give up
the false self and destroy the ignorance which is in our minds.
This
ignorance causes us to make many mistakes, which of course bring
us
suffering.
QUESTIONS
(3)
1. What
was the name of the
city to which the Prince came at sunrise?
2. Whom did he meet?
3. What did the King offer him?
4. What answer did the Prince make to the King?
5. Where did Siddhartha go next?
6. Why did he leave the Brahmins?
7. What did he see in the Temple?
8. Why did the priests of the Hindus scarifice animals?
9. Why did Siddhartha leave the temple?
10. Tell the story of his life among the five priests.
11. Tell the story of his meditation.
12. What did he find beneath the Bodhi tree?
13. Where did the Prince look for the Truth in the end?
14. Can we also find the Truth?
15. What must we do to find it?
-ooOoo- |
Bài
9
SỰ
GIÁC NGỘ VĨ ÐẠI
Chúng ta thấy hoàng
tử
đã tham kiến nhiều nơi để tìm ra Sự Thật nhưng đến
nay vẫn chưa thành công. Chàng đã đọc tụng Thánh Ðiển của
Bà-la-môn giáo, cố gắng tìm ra chân lý ở đó nhưng vẫn
không thành. Chàng đã quan sát các lễ nghi dâng hiến trong
các đền thờ Ấn giáo nhưng chỉ chứng kiến cảnh tàn ác
dã man đến đau buồn ghê tởm. Sau đó chàng liên kết với
năm đạo sĩ, theo gương họ hành hạ xác thân, nhưng cũng
không đạt được mục đích; sự thật hình như vẫn còn
xa vời vòi vọi. Chỉ còn một điều mà chàng phải làm là
nhìn vào nội tâm của chính mình để xem rằng mình có thể
tìm ra sự thật bằng con đường thiền quán hay không. (tức
là suy nghĩ sâu sắc và đúng đắn về một vấn đề).
Chàng đi đến một
cây
đại thọ, ngồi trên đất dưới bóng cây, kiên quyết
không đứng dậy cho đến khi tìm ra Sự Thật.
Lúc đầu tu tập
thiền
định rất khó đối với chàng, vì bao nhiêu ý nghĩ tạp loạn
cứ xen lẫn vào tâm trí chàng. Những hình ảnh tươi vui của
cung điện phụ hoàng, những khuôn mặt yêu thương của con
thơ vợ đẹp, lòng khát khao lạc thú và quyền lực, tất cả
dường như xâm chiếm tâm tư chàng, xua đuổi bao ý nghĩ
nghiêm mật của chàng. Tuy nhiên chàng vẫn kiên trì và cuối
cùng đã loại được những cám dỗ đó đi.
Sau đó, lời giải
đáp
cho tất cả những gì chàng tìm kiếm dần dần bừng sáng
trong tâm trí chàng, vô minh đã bị đoạn diệt, chàng thấy
rõ sự thật hiện hữu của đau khổ, thấy rõ vô minh là
nguyên nhân của khổ đau, và vô minh có thể bị tiêu trừ
bằng cách đi theo con Ðường Tám Bước Cao Quí, con đường
dẫn đến an vui và hạnh phúc thực sự.
Như vậy, dưới cây
Bồ
Ðề, thái tử Tất-đạt-đa đã thành Phật tối thượng, Bậc
Ðạo Sư của tất cả chúng sanh. Ngài đã chiến đấu lâu
dài gian khổ với vô minh, vị kỷ, và cuối cùng Ngài đã
thắng. Ngài đã thấy được sự thật mà Ngài đã bao năm
tìm kiếm. Ngài đã vào trạng thái an vui hạnh phúc mà Phật
tử gọi là Niết Bàn (Nirvana). Cuộc GIÃ TỪ vĩ đại của
Ngài đã không hoài công vô ích, vì Ngài đã mang thông điệp
hy vọng đến cho nhân loại, một thông điệp sẽ không bao
giờ bị tiêu vong, vì đó là Sự Thật, và Sự Thật thì VĨNH
CỬU.
Tứ Diệu Ðế và Bát
Chánh Ðạo là những điều mà Ðức Phật đã tìm thấy. Những
ai muốn đạt đến cảnh an vui hạnh phúc như thế đều phải
học hiểu các sự thật này và phải đi trên con đường mà
Ngài đã vạch. Như tôi đã nói với các bạn trước đây,
tất cả những gì Ngài đã làm, mỗi người chúng ta đều
có thể làm; chúng ta có thể chứng đạt Niết Bàn, vào cảnh
an vui hạnh phúc bất cứ lúc nào ta từ bỏ được cái ta
sai lầm và diệt hết vô minh trong tâm trí mình. Vô minh làm
cho ta phạm nhiều lỗi lầm, và lỗi lầm dĩ nhiên là đem
đến đau khổ.
CÂU HỎI (3)
1. Tên
thành phố mà
hoàng tử đến lúc tảng sáng là gì?
2. Chàng đã gặp ai?
3. Quốc vương hứa tặng chàng những gì?
4. Hoàng tử trả lời với quốc vương như thế nào?
5. Tất-đạt-đa sau đó đi đâu?
6. Tại sao chàng từ bỏ các đạo sĩ Bà-la-môn?
7. Chàng thấy gì trong đền?
8. Tại sao các đạo sĩ Ấn giáo cúng tế súc vật?
9. Tại sao Tất-đạt-đa giã từ ngôi đền đó?
10. Hãy kể chuyện sinh sống của chàng với năm đạo
sĩ.
11. Hãy kể chuyện thiền định của chàng.
12. Chàng đã thấy được những gì dưới cây Bồ Ðề?
13. Cuối cùng Hoàng tử tìm kiếm Sự Thật ở đâu?
14. Chúng ta cũng có thể tìm ra Sự Thật chứ?
15. Chúng ta phải làm gì
để
thấy sự thật đó?
-ooOoo- |
Lesson
9:
banish (v) : trục xuất, xua đuổi
battle (n) : trận đánh
destroy (v) : hủy diệt, tiêu diệt
disgusted (a) : gớm ghiếc
enlightenment (n) : sự giác ngộ
eternal (a) : vĩnh viễn
examine (v) : xem xét
existence (n) : sự tồn tại, sự hiện hữu
false (a) : giả dối
fight (v) : chiến đấu
forever (adv) : vĩnh viễn
Four Noble Truths : Tứ diệu đế
give up : từ bỏ, đầu hàng
gradually (adv) : dần dần, từ từ
ignorance (adv) : sự ngu dốt, vô minh
in vain : vô ích |
meditation (n) : thiền định
Nirvana (n) : Niết bàn
Noble Eightfold Path : Bát chánh đạo
persevere (v) : kiên trì
purpose (n) : mục đích
remain (v) : còn lại
resolve (v) : quyết tâm
sadden (v) : làm buồn phiền
selfitshness (n) : tính ích kỷ
service (n) : khóa lễ
shade (n) : bóng cây
succeed (v) : thành công
successful (a) : thành công
supreme (a) : tối cao, tối thượng
temptation (n) : sự quyến rũ
thought (n) : tư tưởng, ý nghĩ |
Lesson
10
The
Wheel of the Law - I
We saw in the last
lesson
that Siddhartha Gotama, son of King Suddhodana, became the
Supreme
Buddha, teacher of all living beings. So the words of the wise
man,
Asita, came true, for you remember that he said the baby would
leave his
home and become a world teacher.
I wonder whether
you know
the meaning of the word "Buddha"? Many western people, with
whom I have spoken about Buddhism, told me that they thought it
meant a
god of some kind. The word "Buddha" does not mean a god; it
has a much higher meaning than that. It means "one who has found
the truth" or "the Enlightened One". A person who has
become a Buddha, knowing all the truth, has a mind full of
light. Do not
forget what the word "Buddha" means, then if anyone asks you
about it, you will be able to answer.
When the Buddha
became
enlightened, he saw four great truths. These are always spoken
of as the
"Four Noble Truths". The First Noble Truth is that "life
is full of suffering". This does not mean that there is no joy
or
pleasure in life, far from it. But it means that life as a whole
is
subject to suffering, because nothing lasts, because death comes
to all
life and causes parting and tears. Suffering comes because we
try to
hold on to things instead of learning to let them go willingly.
Some people think,
when
they read this first Noble Truth, that Buddha's religion is a
sad and
gloomy one; this is because they do not understand what this
first fruth
means. In all countries where Biddhism is the chief religion the
people
are always bright and happy. They know that Buddha teaches them
to enjoy
the pleasures of life as they come, but advises them not to try
and hold
on to these things when it is time for them to pass away.
We pick a lovely
rose, we
enjoy its beauty and perfume while it lives, but how foolish we
would be
to pin it upon our dress after it is dead and withered. It is
the same
with the things of earth; - joys, pleasures, money, power, etc.
All
these are for us to use as long as we need them, as long as they
are
uesful to us, but we must let them go with a smile when it is
their turn
to pass away from us.
The second Noble
Truth is
"the cause of suffering".
Suffering comes, in
the
first place, from ignorance, for a wise man would not try to
hold on to
things which he knows must pass away, anymore than a wise girl
would
hold on to the dead rose and pin it in her hair or on her dress.
This is
ignorance, that from this ignorance, springs all the misery and
pain in
life.
-ooOoo- |
BÀI
10
BÁNH
XE CHÁNH PHÁP - I
Trong bài trước,
chúng
ta thấy Tất-đạt-đa Gô-ta-ma, con trai của quốc vương Tịnh
Phạn, đã thành Phật tối thượng, Ðấng Ðạo Sư của tất
cả chúng sanh. Như vậy là những lời tiên tri của hiền sĩ
A-tư-đà đã thành sự thật. Ngài nói, các bạn còn nhớ, cậu
bé sẽ xuất gia và thành Bậc Ðạo Sư của nhân thế.
Tôi tự hỏi không
biết
các bạn có hiểu được ý nghĩa của từ "Phật"
không? Nhiều người phương Tây, những vị mà tôi từng
thuyết giảng Ðạo Phật cho họ, cho rằng Phật là một thứ
thần linh nào đó. "Phật" không có nghĩa là một vị
thần linh. "Phật" có ý nghĩa cao cả hơn thế nhiều.
"Phật" là "Người đã tìm ra sự thật" hay
"Ðấng Giác Ngộ". Người nào thành Phật, thấu rõ
sự thật, người ấy có đầu óc tràn đầy trí tuệ sáng
suốt. Ðừng quên ý nghĩa của từ "Phật" để nếu
có ai hỏi, bạn cũng sẽ có thể trả lời được.
Khi Ðức Phật giác
ngộ,
Ngài thấy rõ bốn Sự Thật vĩ đại được gọi là "Tứ
Diệu Ðế". Sự Thật Cao Quý Thứ Nhất: "Ðời là
dẫy đầy đau khổ". Ðiều này không có nghĩa là không
có hân hoan, lạc thú trong đời, trái lại là khác. Nhưng có
nghĩa cuộc đời nói chung là bị đau khổ, vì không có gì
tồn tại mãi, vì cái chết sẽ đến với tất cả cuộc đời
và gây ra cảnh chia ly tang tóc. Ðau khổ xảy đến là vì
chúng ta cố bám chặt vào mọi thứ, thay vì để chúng tha hồ
ra đi.
Một số người, khi
đọc
Sự Thật Cao Quí Thứ Nhất này, cho rằng Ðạo Phật là một
tôn giáo buồn bã u sầu; như vậy là họ không hiểu ý nghĩa
của Sự Thật Thứ Nhứt. Ở những nước mà Phật Giáo là
tôn giáo chính thì dân chúng luôn luôn tươi sáng và hạnh
phúc. Họ ý thức rằng Ðức Phật dạy họ thụ hưởng những
lạc thú ở đời khi chúng đến, nhưng khuyên họ đừng bám
chặt lấy chúng khi tới lúc chúng phải chia ly.
Chúng ta hái một
đóa
hoa hồng tươi đẹp, chúng ta thưởng thức vẻ đẹp và hương
thơm của nó khi nó còn tươi, nhưng sẽ ngốc nghếch biết
bao nếu ta cài nó lên chiếc áo của ta sau khi nó đã úa
tàn. Mọi thứ trên trái đất này cũng thế: hân hoan, lạc
thú, tiền tài, quyền lực v.v... tất cả là để chúng ta sử
dụng khi nào cần, khi chúng còn hữu ích, nhưng ta phải để
chúng ra đi với một nụ cười thoải mái khi đến lượt
chúng phải giã từ.
Sự Thật Cao Quí Thứ
Hai là: "Nguyên Nhân Của Khổ".
Khổ, vị trí thứ
nhứt,
bắt nguồn từ vô minh. Người trí không cố bám chặt những
thứ mà họ biết là phải chia ly. Cũng thế, một cô gái
khôn ngoan không khư khư giữ lấy một đóa hồng tàn úa để
rồi cài nó lên tóc hay lên áo của mình. Ðó là hành động
ngu muội, và ngu muội thì sinh ra biết bao đau khổ trong đời.
-ooOoo- |
Lesson
10:
as (a) whole : nói chung
as long as : bao lâu mà, miễn là
be subject to :
phải chịu, lệ thuộc vào
Buddhism (n) : đạo Phật
cause (v, (n) : gây
ra, nguyên nhân
far from it : trái lại là khác
gloomy (a) : u sầu, ảm đạm |
hold
on to (v) : nắm chặt, bám chặt
pass away (v) : qua đời, qua đi
perfume (n) : nước hoa, hương thơm
pin (v) : ghim, kẹp, cài
spring (v) : nảy sanh, phát sanh
the Enlightened One : Ðấng Giác Ngộ
wheel of the Law : bánh xe Chánh pháp
withered (a) : úa tàn |
Lesson
11
The
Wheel of the Law - II
The third Noble
Truth is
that there is "a way to destroy suffering". If you have a bad
headache you do not go to the doctor and ask him to cut off your
head,
you ask instead that he find out for you the cause of your
headache. He
will examine your eyes, your stomach and other parts of your
body in
order to see which one of them is producing the pain in your
head.
Having found the cause he will try to cure it.
If we wish the
suffering of
life to cease we must do like the wise doctor and cure its
cause. We
learn from Buddha that the cause is ignorance, so we must
destroy
ignorance if we would have suffering cease.
The last Noble
Truth is the
way by which suffering ceases. It is the Noble Eightfold Path he
found
for us to follow. How easy to say we must destroy ignorance, but
how can
we do it? By walking in the Path the Buddha found for us. Each
step on
this Path will help us to destroy a little of the ignorance
until, when
we have reached the end of the path, we will become like our
Master, the
Buddha, fully enlightened. All ignorance will have been driven
out of
our minds. In the place of ignorance the bright light of
Knowledge will
shine.
These Four Noble
Truths are
not really very hard to understand.
First Noble Truth -
All
life is full of suffering.
Because we try to
hold on
to things which must pass away.
Second Noble Truth -
The
cause of suffering. Ignorance is the first cause of suffering.
Third Noble Truth -
The
ceasing of suffering. In order to make suffering cease we must
destroy
its cause which is ignorance.
Fourth Noble Truth
-The
path which leads to the end of suffering.
The Noble Eightfold
Path
has eight steps or divisions,
1. Right
Undertanding
2. Right Purpose
3. Right Speech
4. Right Conduct
5. Right Livelihood
6. Right Endeavor
7. Right Thought
8. Right Meditation
These are all going
to be
explained to you in a later lesson, most of them you can easily
understand, but some may seem a bit difficult until you are
older.
When you go on a
trip in an
automobile you will notice that many signs are posted along the
roads in
order to help you to avoid accidents. All dangerous curves are
marked
with warnings, and the guide lines to make us keep to the right
we find
around most of the corners. Whenever we come to a school or a
small town
we are told to "go slowly", and at dangerous railway crossings
we must "stop, look, and listen".
Buddha has done the
same
for us upon the great Roadway of life. He has placed signs all
along the
way in order to help us to avoid the dangerous mistakes which
lead to
suffering and sorrow. How grateful we should be to our dear
Master for
finding the Truth and working so hard to teach it to us. The
best way to
show our love for him is to walk in the path he found and to
read
carefully and follow all the signposts he has put upon the way.
QUESTIONS
(4)
1. What
does the word
Buddha mean?
2. Was the Buddha a god?
3. What did the wise man Asita foretell about the Buddha when
he was
a baby?
4. Did his words come true?
5. What are the Four Noble Truths?
6. What is the meaning of the first? The second? The third?
The
fourth?
7. See how many of the steps in the Noble Eightfold path you
can
remember.
8. What must the motorist watch for as he goes on a trip?
9. What must the Buddhist watch for on the Road of Life?
10. How can we show our love and gratitude to the Buddha?
-ooOoo- |
Bài
11:
BÁNH
XE CHÁNH PHÁP - II
Sự Thật Cao Quí Thứ
Ba là "Con Ðường Diệt Khổ". Nếu bạn bị đau đầu
dữ dội, bạn không đi nhờ bác sĩ cắt đầu bạn, mà phải
nhờ ông ta tìm ra nguyên nhân đau đầu của bạn. Ông ta sẽ
khám mắt, khám dạ dày, và các bộ phận khác của cơ thể
bạn để xem bộ phận nào làm bạn đau đầu. Tìm ra nguyên
nhân, ông ta sẽ chữa trị cho bạn.
Nếu muốn nỗi khổ
đau của cuộc đời được diệt trừ, chúng ta phải chữa
trị nguyên nhân của nó như vị bác sĩ sáng suốt kia. Phật
dạy nguyên nhân là vô minh, vậy phải diệt trừ vô minh nếu
chúng ta muốn khổ đau chấm dứt.
Sự Thật Cao Quí
Cuối
Cùng là con đường dẫn đến diệt khổ. Ðó là Con Ðường
Tám Bước Cao Quí mà Ngài đã khai mở cho chúng ta. Thật là
dễ dàng để nói chúng ta phải diệt trừ vô minh, nhưng phải
làm thế nào đây? Chỉ bằng cách đi trên con Ðường mà Ðức
Phật đã khai thị cho chúng ta. Mỗi bước đi trên con Ðường
này sẽ giúp ta diệt trừ một chút vô minh cho đến khi đi
hết đoạn đường là ta thành Phật, Bậc Giác Ngộ Hoàn
Toàn, như Ðức Bổn Sư vậy. Tất cả vô minh sẽ bị loại
khỏi tâm trí ta và, thay vào đó, ánh sáng trí tuệ sẽ bừng
sáng rực rỡ.
Bốn Sự Thật Cao Quí
này không hẳn là rất khó hiểu.
Sự Thật Cao Quí Thứ
Nhứt - Ðời là dẫy đầy đau khổ. Bởi vì chúng ta cố
bám víu những thứ phải suy vong.
Sự Thật Cao Quí Thứ
Hai - Nguyên nhân của khổ. Vô minh là nguyên nhân đầu tiên
của khổ.
Sự Thật Cao Quí Thứ
Ba - Sự diệt khổ. Ðể khổ diệt, chúng ta phải diệt trừ
nguyên nhân, đó là vô minh.
Sự Thật Cao Quí Thứ
Tư - Con đường dẫn đến diệt khổ. Bát Chánh Ðạo, con
đường cao quí có tám bước hay tám đoạn:
1. Chánh kiến.
2. Chánh tư duy.
3. Chánh ngữ.
4. Chánh nghiệp.
5. Chánh mạng.
6. Chánh tinh tấn.
7. Chánh niệm.
8. Chánh định.
Tám bước này sẽ
được
giải thích ở một bài sau, các bạn có thể hiểu hầu hết
chúng một cách dễ dàng, nhưng có một số dường như hơi
khó đối với các bạn trẻ.
Khi du lịch bằng xe
hơi,
các bạn sẽ thấy nhiều bảng hiệu gắn ở dọc đường
để giúp các bạn tránh tai nạn. Tất cả những khúc đường
quanh co nguy hiểm đều có dấu báo hiệu, và những vạch hướng
dẫn chúng ta lái xe sát vào bên phải được thấy ở hầu
hết các góc đường. Khi đến một ngôi trường hay một thị
trấn nhỏ, chúng ta đều được thông báo "chạy chậm
lại", và tại những chỗ ngang qua đường sắt nguy hiểm,
chúng ta phải "dừng lại, quan sát và lắng nghe".
Ðức Phật đã hướng
dẫn chúng ta như thế trên đoạn Ðường Ðời quan trọng.
Ngài đã đặt các bảng hiệu khắp dọc đường để giúp
ta tránh những lỗi lầm nguy hiểm có thể dẫn đến khổ
đau. Chúng ta phải cảm ơn biết bao Ðức Bổn Sư tôn kính,
Người đã tìm ra Sự Thật và dày công vất vả giáo hóa
chúng ta. Cách thể hiện tốt nhất lòng tôn kính của mình
đối với Ngài là đi trên con đường mà Ngài đã tìm thấy,
cẩn thận đọc kỹ và nương theo những cột chỉ dẫn mà
Ngài đã đặt trên đường.
CÂU HỎI (4)
1. Từ
Phật có nghĩa là
gì?
2. Phật có phải là một vị thần linh không?
3. Hiền sĩ A-tư-đà đã tiên đoán gì về Phật khi Ngài
mới là một em bé?
4. Những lời tiên đoán của ngài có thành sự thật
không?
5. Bốn Sự Thật Cao Quí là gì?
6. Ý nghĩa của Sự Thật Cao Quí Thứ Nhất là gì? Sự Thật
Cao Quí Thứ Hai? Sự Thật Cao Quí Thứ Ba? Sự Thật Cao Quí
Thứ Tư?
7. Các bạn hãy nhớ xem có bao nhiêu bước trên con Ðường
Tám Ðoạn Cao Quí.
8. Tài xế ô tô phải để ý những gì khi đi du lịch?
9. Phật tử phải lưu ý những gì trên đoạn Ðường Ðời?
10. Chúng ta có thể bày
tỏ
lòng tôn kính và biết ơn của chúng ta đối với Ðức Phật
như thế nào?
-ooOoo- |
Lesson
11:
automobile (n) : xe ô
tô
avoid (v) : tránh
cure (v) : chữa trị, điều trị
curve (n) : đường cong
division (n) : phần, đoạn
explain (v) : giảng giải
go on (a) trip : đi du lịch
grateful (a) : biết ơn
guide (n) : sự hướng dẫn
headache (n) : đau đầu
in order to : để
mark (v) : đánh dấu
mistake (n) : lỗi lầm
notice (v) : nhận thấy, chú ý
our dear Master : đức Bổn Sư của chúng ta |
post (v) : dán
right conduct (action) : chánh nghiệp
right endeavour (effort) : chánh tinh tấn
right livelihood : chánh mạng
right meditation (concentration) : chánh định
right mindfulness : chánh niệm
right purpose (thought) : chánh tư duy
right speech : chánh ngữ
right understanding : chánh kiến
shine (v) : chiếu sáng, tỏa sáng
sign (n) : dấu hiệu, bảng hiệu
signpost (n) : biển chỉ đường
stomach (n) : dạ dày, bao tử
warning (n) : lời báo trước, lời khuyến cáo |
Lesson
12
The
First Sermon
You remember how
angry the
five priests were when the Buddha left them. They thought that
he was
too lazy to continue the goof work and believed that he had
returned to
the pleasures of his palace. As we know, this was no so, for he
had
merely given up silly torture which did no good to him, and had
to look
elsewhere for the truth.
As soon as he
became
enlightened he thought with love and pity of those five poor
men,
torturing themselves all to no purpose, and he resolved to go to
them
immediately and tell them of his discovery. On his way he met
two
merchants, who, when they saw the Buddha's shining face, knew
that he
was a great Teacher and bowed before him, offering food. These
became
his first followers.
Then he came to the
place
where he had left the five priests, which was called the Deer
Park. The
priests saw him coming but they said to each other, "Here comes
Gotama, the monk, who was weak and left the good path; we will
not speak
or take any notice of him".
But when the Buddha
approached they looked with wonder upon the brightness of his
face, and
in spite of what they had said they bowed low before him. He sat
with
them for many days and showed them the Noble Eightfold Path
which he had
discovered, and the five priests were filled with joy to hear
such good
tidings and gladly became his followers.
Then the Buddha
formed what
is called the "Sangha", which really means
"Brotherhood", and he told these first followers of his to
spread the truth he had taught them in all the quarters of the
earth,
that all living beings might hear the glad news and be happy.
When a
person becomes a Buddhist he takes his refuge in the Buddha, the
Law and
the Brotherhood (Buddha, Dharma, Sangha as it is called in the
language
of India.).
-ooOoo- |
Bài
12
BÀI
THUYẾT PHÁP ÐẦU TIÊN
Các bạn còn nhớ năm
đạo sĩ bực tức như thế nào khi Ðức Phật từ biệt họ.
Họ nghĩ là Ngài quá lười biếng không thể tiếp tục sự
nghiệp thánh thiện và tin rằng ngài đã quay về với lạc
thú ở hoàng cung. Như chúng ta biết, điều này không phải
vậy. Ngài chỉ từ bỏ lối ép xác ngu xuẩn, không mang lại
lợi ích gì cho ngài, và phải tìm sự thật ở một nơi khác.
Ngay sau khi giác
ngộ, với
lòng xót thương lân mẫn, Ngài liền nghĩ đến năm huynh đệ
tội nghiệp kia, tự hành hạ mình một cách vô lối. Ngài
quyết tâm đến gặp họ ngay và nói cho họ biết về sự
khám phá của mình. Trên đường, Ngài gặp hai thương gia, và
khi nhìn thấy khuôn mặt sáng ngời của Phật, họ biết
Ngài là một Ðạo sư vĩ đại. Họ quì gối đảnh lễ và
dâng thức ăn cho Ngài. Hai người này trở thành môn đồ đầu
tiên của Ngài.
Sau đó Ngài đến
vườn
Lộc-uyển, nơi mà Ngài đã từ biệt năm đạo sĩ khổ hạnh.
Thấy Phật đi tới, các đạo sĩ nói với nhau:
"Gô-ta-ma, vị sa môn đến kìa! người đã nhu nhược từ
bỏ con đường thánh thiện; chúng ta đừng thèm nói chuyện
hay để ý đến ông ta".
Nhưng khi Ðức Phật
đến
gần, họ rất đỗi ngạc nhiên với ánh hào quang rực sáng
trên khuôn mặt Ngài. Họ tự động quì gối đảnh lễ Ngài.
Ngài ở lại với họ nhiều ngày, trình bày cho họ thấy
con Ðường Tám Bước Cao Quí mà Ngài đã khám phá, và năm
đạo sĩ, với cõi lòng lâng lâng sung sướng, lắng nghe thiện
pháp và hân hoan được làm môn đệ của Ngài.
Sau đó Ðức Phật
thành lập cái gọi là "Tăng Già" (Sangha), thật nghĩa
là "Giáo Hội", và phái năm đệ tử đầu tiên của
mình truyền bá Sự Thật mà Ngài đã thuyết giảng cho họ
ra bốn phương trời, ngõ hầu tất cả chúng sanh có thể
nghe theo thiện pháp và được hạnh phúc. Khi người nào muốn
trở thành Phật tử, người ấy phải qui y Phật, qui y Pháp,
qui y Tăng (ngôn ngữ Ấn Ðộ gọi là Buddha, Dharma, Sangha.).
-ooOoo- |
Lesson
12:
approach (v) : đến
gần
bow (v) : cúi đầu
brotherhood (n) : tình huynh đệ, giáo hội
deer park : vườn nai, lộc uyển
discover (v) : khám phá
discovery (n) : sự khám phá
form (v) : thành lập |
merchant
(n) : thương gia
pity (n) : lòng xót thương
refuge (n) : sự nương tựa
sangha (n) : tăng già
sermon (n) : bài thuyết pháp
spread (v) : truyền bá, trải rộng
take refuge in : nương tựa vào, qui y |
Lesson
13
Returning
to Kapilavatthu
During the time that
the
Buddha stayed in the Deer Park his followers grew to be about
sixty in
number, and these he sent out among the people in different parts
of the
country to teach and give the glad news that he had found the cure
of
suffering. These followers of the Buddha were called Bhikshus,
meaning
monks or teachers, they wore yellow robes and carried begging
bowls in
their hands.
The Buddha did not
forget his
promise to King Bimbisara, so he went to Rajagriha and spent a
long time
with him. Bimbisara gave his beautiful garden to Buddha so that
the
Enlightened one and his followers might sometimes live there and
teach the
people.
Now in India at that
time
there were no trains, automobiles or airplanes, but nevertheless
news
travelled very fast. It was not long before King Suddhodana, the
Buddha's
father, heard news of his son, how he had become a great teacher
and was
going around the country winning new followers every day.
One would have
thought that
his father would have felt proud of him, but this was not the
case. In
India, in those days, kings, were very proud of their royal blood,
and he
thought it a dreadful thing for a prince to go around barefooted
begging
his way.
Suddhodana sent for
his son,
and the Buddha went at once to Kapilavatthu to his father. At
first the
king began to speak angrily to the Buddha, but when the Buddha
told him
the glad news, which had won the hearts of so many, the king was
ashamed
and begged to be allowed to become his follower as well. So the
Lord
Buddha had the happiness of receiving his aged father into the
Sangha.
The king told the
Buddha how
his poor wife, Yoshodhara, had grieved for him, how she had cut
off her
beautiful hair and worn dark and ugly garments in mourning for
him. The
Buddha was greatly touched and went to her apartments to see her,
and when
she caught sight of her husband she fell weeping at his feet.
Buddha
picked her gently up, and wiped away her tears, then told her of
his hard
search and of the truth he had at last found. Yoshodhara also
became a
follower and did much to lead many women into the Sangha.
You remember that a
baby boy
was born to the Prince before he left the palace. The baby was now
a boy
of seven, and had never seen his father. Yoshodhara took the
little boy,
whose name was Rahula, to one of the palace windows over-looking
the
gardens, and pointed out his father to the boy. Then she bade him
run down
to him and ask him for his inheritance.
Rahula did as his
mother told
him, and went to the Buddha, who was teaching in the garden, and
said to
him "Father, give me, I pray thee, my inheritance!"
The Buddha put his
arms
around his little son and said to him : "Silver and gold have I
none, but the gift of truth I will give to thee". And he taught
the
message of the Law to Rahula and Rahula also became one of his
followers.
This story shows us
that we
need not wait until we are men and women to become followers of
the
Buddha, but that each of us, no matter what our age may be, can
learn the
teaching and walk in the Noble Eightfold Path. Far better than
gold or
jewels was the treasure which the Buddha gave to his little son
Rahula,
and this is also our inheritance, the treasure which has been
handed down
from the past. No money can buy it, and we should guard it with
the
greatest pride and refuse to let anyone take it from us.
It is the teaching of
Buddha
which has made the East great, and this same teaching will make
the West
great also. It will cure people of their selfishness and greed for
money;
it will teach them brotherhood and love for one another; it will
teach
kindness towards weaker living things and it will build up a new
civilization which will not value a man for what he has, for his
money and
position, but for his goodness and character.
QUESTIONS (5)
1. What did
the five priests
think when Gotama left them?
2. Were they right?
3. What made the Buddha return to Deer Park?
4. What did the five priests say when they saw him coming?
5. What did they do?
6. What is the Brotherhood sometimes called?
7. How many became followers of the Buddha at Deer Park?
8. Why did Buddha go to Rajagriha?
9. What did the king give to the Buddha?
10. When the Buddha taught his father, what happened?
11. Tell the story of Rahula.
12. What is our inheritance?
13. What will Buddha's
teaching do
for the West?
-ooOoo- |
Bài
13
VỀ
THÀNH CA-TỲ-LA-VỆ
Suốt thời gian Phật
trú tại vườn Lộc-uyển, đồ chúng của Ngài phát triển gần
đến con số sáu mươi. Ngài phái họ đi đến nhiều nơi khác
nhau trong nước để thuyết giảng và trao truyền thiện pháp
mà Ngài đã khai phá để chữa trị đau khổ. Các môn đệ này
được gọi là Tỳ kheo nghĩa là sư sãi hay đạo sư, họ quấn
y vàng và ôm bình bát khất thực trong tay.
Không quên lời hứa
với
vua Tần-bà-sa-la, Ðức Phật đến thành Vương xá và ở lại
với quốc vương được một thời gian dài. Tần-bà-sa-la
dâng hiến khu vườn rất đẹp của mình cho Phật để Ðấng
Ðại Giác và môn đệ của Ngài có thể thỉnh thoảng an trú
và giáo hóa dân chúng.
Ấn Ðộ bấy giờ không
có xe lửa, xe hơi hay máy bay; tuy nhiên, tin tức được truyền
đi rất nhanh. Chẳng mấy chốc quốc vương Tịnh Phạn, phụ
hoàng của Phật, được tin con mình nay đã thành Bậc Ðại Sư,
hiện đang vân du trong nước và thu nhận nhiều môn đệ mới
hằng ngày.
Người ta có thể nghĩ
rằng
phụ hoàng của Ngài rất có thể đã hãnh diện về Ngài, nhưng
không phải như thế. Ở Ấn Ðộ, vào thời đó, các vì vua
chúa rất hãnh diện về huyết thống hoàng tộc của mình,
và nhà vua rất lấy làm khủng khiếp khi nghe hoàng tử đầu
trần chân đất, đó đây khất thực dọc đường.
Tịnh Phạn cho triệu
con
mình, Ðức Phật liền đến thành Ca-tỳ-la-vệ và diện kiến
phụ hoàng. Lúc đầu quốc vương tỏ vẻ bực tức nói với
Phật, nhưng khi Phật báo tin mừng cho ngài, những thiện pháp
đã thu phục biết bao trái tim của con người, thì quốc vương
lấy làm hổ thẹn và cũng xin được phép làm môn đệ Ngài.
Ðức Phật hoan hỷ nhận phụ hoàng của mình vào đoàn thể
Tăng già.
Quốc vương kể cho
Phật
nghe người vợ đáng thương, Da-du-đà-la (Yoshodhara) của Ngài
đã đau khổ vì Ngài biết bao, bà cũng cắt tiện mái tóc kiều
diễm của mình và mặc đồ đen sậm xấu xí để thương tiếc
Ngài. Vô cùng xúc động, Ðức Phật đi ngay đến khuê phòng
của bà để thăm bà, và khi nhìn thấy mặt chồng, bà liền
gieo mình xuống đất, sụt sùi nức nở dưới chân Ngài. Ðức
Phật nhẹ nhàng đỡ bà đứng lên, lau nước mắt cho bà, rồi
kể lại cuộc tìm kiếm gian nan và Sự Thật mà cuối cùng
Ngài đã tìm thấy. Da-du-đà-la cũng trở thành môn đệ của
Ngài và tích cực hướng dẫn nhiều phụ nữ vào Giáo hội.
Các bạn còn nhớ cậu
hài nhi của hoàng tử ra đời trước khi chàng giã từ hoàng
cung. Cậu bé giờ đây đã được bảy tuổi và chưa bao giờ
nhìn thấy mặt cha. Da-du-đà-la đưa cậu bé mang tên La-hầu-la
(Rahula) đến một cửa sổ hoàng cung nhìn qua vườn ngự uyển
và chỉ cho cậu thấy cha cậu. Sau đó bà bảo cậu chạy xuống
gặp Ngài và xin lại di sản của mình.
Theo lời mẹ,
La-hầu-la
đến gặp Phật, Ngài đang thuyết giảng trong vườn, và nói:
"Thưa cha, xin cha trao lại di sản của con".
Ðức Phật đưa tay ôm
choàng đứa con bé nhỏ của Ngài và nói: "Bạc vàng thì
ta không có, nhưng món quà sự thật thì ta sẽ tặng cho
con". Ngài thuyết pháp cho La-hầu-la, và La-hầu-la cũng trở
thành một trong những môn đệ của Ngài.
Câu chuyện này cho
thấy
chúng ta không cần phải đợi đến khi nào mình là các ông
các bà rồi mới thành đệ tử Phật, mà mỗi người trong chúng
ta, không luận tuổi tác, cũng có thể học tập giáo pháp và
đi theo Con Ðường Tám Bước Cao Quí. Kho tàng mà Phật trao
cho cậu bé La-hầu la còn quí hơn là vàng bạc châu báu, và
đây cũng là di sản của chúng ta, cái kho tàng đã được
trao truyền từ quá khứ. Không tiền bạc nào có thể mua được
nó, chúng ta phải vô cùng hãnh diện bảo vệ nó, không để
cho bất cứ ai cướp đoạt nó.
Chính giáo pháp của
Phật
đã làm cho Ðông Phương vĩ đại, và giáo pháp đó cũng sẽ
làm cho Tây Phương vĩ đại. Nó sẽ chữa trị con người hết
bịnh vị kỷ, tham tiền; nó sẽ giáo dục họ tình huynh đệ
và yêu thương lẫn nhau; nó sẽ giảng dạy lòng nhân ái đối
với chúng sanh yếu kém và nó sẽ xây dựng một nền văn
minh mới, không đánh giá con người bằng tiền bạc, địa vị,
mà bằng lòng nhân hậu, khí phách.
CÂU HỎI (5)
1. Năm đạo
sĩ đã nghĩ
gì khi Gô-ta-ma từ bỏ họ?
2. Họ có đúng không?
3. Ðiều gì khiến Phật trở lại vườn Lộc Uyển?
4. Năm đạo sĩ nói gì khi họ thấy Phật đến?
5. Họ làm gì?
6. Giáo hội đôi khi được gọi là gì?
7. Có bao nhiêu người trở thành môn đệ của Phật tại
vườn Lộc Uyển?
8. Tại sao Phật đến thành Vương xá?
9. Quốc vương hiến gì cho Phật?
10. Khi Phật thuyết giảng cho phụ hoàng điều gì đã xảy
ra?
11. Hãy kể chuyện La-hầu-la.
12. Di sản của chúng ta là gì?
13. Giáo pháp của Phật sẽ
làm gì cho Tây Phương?
-ooOoo- |
Lesson
13:
apartment (n) : căn
hộ
ashamed (a) : xấu hổ, hổ thẹn
at once (adv) : tức khắc
bhikshu (n) : tỳ kheo
bid (v) : bảo, ra lệnh
Buddha (n) : Phật
catch sight of : nhìn thấy
character (n) : cá tính, chí khí
civilization (n) : nền văn minh
dreadful (a) : dễ sợ, kinh khiếp
garment (n) : áo, quần
goodness (n) : lòng nhân hậu
grieve (v) : gây đau lòng
inheritance (n) : di sản
mourn (v) : thương tiếc |
nevertheless (adv) : tuy nhiên
no matter what : dù
thế nào chăng nữa
point (v) : chỉ, trỏ
position (n) : vị trí, địa vị
pray (v) : cầu nguyện
proud (a) : hãnh diện
Rahula : La-hầu-la
refuse (v) : từ chối
send for someone (v) : cho gọi ai đến
touched (a) : xúc động, bối rối
treasure (n) : kho quí
value (v) : đánh giá
weep (v) : khóc
wipe (v) : lau, chùi |
Lesson
14
Rahula
and Devadatta
We read in the last
lesson
how the Buddha received Rahula, his little son, into the
Brotherhood,
and gave him his inheritance of Truth.
Now Rahula was not
always
good; like many children whom I know, he had lots of faults, and
had to
work hard to cure them. One of his greatest faults was
untruthfulness.
He often used to say things which were not true.
This fault of
Rahula's
troubled the Buddha, so one day he took Rahula for a walk and
when they
came to a spring, Buddha gave Rauhula a basin and told him to
fill it
and wash his feet. Rahula was delighted to be allowed to do
something
for his father, for he loved him very much. After he had washed
his
father's feet, the Buddha told him to look at the water and
asked him if
he thought that the water was fit to drink.
"No" answered the
child, "it is dirty".
"People who tell
falsehoods are like that, they make their minds dirty" said the
Buddha.
After Rahula had
thrown
away the water Buddha asked him if the basin was clean.
"The basin is dirty
because it held dirty water", answered Rahula.
"People who tell
falsehoods are like the basin, they are not fit to do noble
actions. A
dirty vessel is not useful for anything, neither are people who
do not
speak truthfully, for they can not lead noble lives", his father
told him.
Devadatta, the
Buddha's
cousin, had a very jealous nature, and hated to see great
teacher so
much loved; so he went around trying to do all in his power to
break up
the noble Brotherhood which Buddha had formed. He even founded
an order
of his own, and paid wicked men to kill the Master. But these
men, when
they saw the Buddha's gentle face and heard his words of love,
were
ashamed of their evil purpose and fell at Buddha's feet asking
his
forgiveness. Devadatta's hate could not harm him, and Buddha
teaches
that hatred is overcome by love.
-ooOoo- |
Bài
14
LA-HẦU-LA
VÀ ÐỀ-BÀ-ÐẠT-ÐA
Trong bài vừa qua,
chúng ta đã thấy Phật tiếp nhận La-hầu-la, đứa con thơ
của Ngài, vào Giáo Hội, và trao cho cậu cái di sản Sự Thật
như thế nào.
La-hầu-la không
phải
lúc nào cũng ngoan ngoãn; như nhiều trẻ em khác, cậu ấy cũng
có nhiều lỗi lầm, và cũng phải ra công ra sức mới chữa
trị được chúng. Một trong những lỗi lầm nghiêm trọng
nhất của cậu là tính không thành thực. Cậu ấy thường
nói những điều không đúng sự thật.
Lỗi lầm này của
La-hầu-la
làm Phật không vui, vì thế, một hôm, Phật dẫn La-hầu-la
đi dạo, khi đi đến một dòng suối, Phật đưa cho La-hầu-la
một cái chậu và bảo cậu múc nước rửa chân cho Ngài.
La-hầu-la vui mừng được phép hầu hạ cha mình, bởi vì cậu
rất thương yêu Ngài. Sau khi rửa chân phụ thân xong, Phật
bảo cậu nhìn chậu nước và hỏi cậu xem nước ấy còn uống
được không.
"Thưa không" cậu
bé đáp, "nước dơ rồi".
"Những ai nói lời
hư vọng cũng thế. Chúng làm cho tâm trí họ dơ bẩn",
Phật nói.
Sau khi La-hầu-la
đem đổ
chậu nước, Phật hỏi cậu xem chậu ấy có sạch không.
"Chậu ấy dơ rồi,
vì nó đã đựng nước bẩn", La-hầu-la đáp.
"Những ai nói lời
hư vọng cũng như cái chậu đó, chúng không phù hợp cho những
hành động cao thượng. Một cái chậu dơ thì không ích lợi
gì, những ai không nói lời chân thật cũng thế, họ không
thể nào có được cuộc sống cao thượng", Phụ thân của
cậu nói với cậu.
Ðề-bà-đạt-đa, người
em con chú của Phật, bản tính rất ganh tị, ghen ghét thấy
Ngài Ðại Sư được nhiều người tôn kính, bèn ngược xuôi
đây đó, ra sức phá vỡ Giáo Hội cao quí mà Phật đã
thành lập. Thầy ấy còn dựng lên một Giáo Ðoàn riêng và
thuê bọn côn đồ giết Phật. Nhưng những người này, khi
nhìn thấy khuôn mặt hiền hòa và nghe âm thanh từ ái của
Ngài, rất lấy làm hổ thẹn về mục đích xấu ác của
mình, họ sụp lạy dưới chân Phật và xin Ngài tha thứ.
Lòng hận thù của Ðề-bà-đạt-đa không thể hãm hại
Ngài, và Phật dạy chỉ có tình thương mới khắc phục
được lòng hận thù.
-ooOoo- |
Lesson
14:
allow (v) : cho
phép
basin (n) : cái chậu
delighted (a) : vui thích
Devadatta : Ðề-bà-đạt-đa
evil (a) : xấu ác, độc địa
falsehood (n) : điều hư hỏng, điều dối trá
fault (n) : lỗi lầm
forgiveness (n) : sự tha thứ, tính khoan dung
harm (v) : gây tai hại |
hate
(n) : lòng căm thù
hatred (n) : lòng hận thù
jealous (a) : ganh tị, ghen ghét
order (n) : giáo hội, đoàn thể
overcome (v) : khắc phục, điều phục
take someone for (a) walk : dẫn ai dạo mát
trouble (v) : gây phiền phức
untruthfulness (n) : tính không thành thực
vessel (n) : bình, chậu, lọ
wicked (a) : ác độc |
Lesson
15
Ambapali
Many rich men became
followers of the Buddha and he taught them how to use their money
and
power for the good of others. He never taught that it is wrong to
have
money or power or position, but he said it is wrong to use these
gifts
selfishly. Money and other things are useful to have, but we must
learn
not to cling to them and must gladly share what we have with our
fellow
beings. We are all brothers, and to be rich does not make a person
greater
than his brother.
In a place called
Vaisalii
lived a rich woman by the name of Ambapali, who led a very evil
life. She
cared nothing for others but spent all her time in pleasure and
feasting.
She heard about the Buddha and was angry to think that so many
were
following him. So she dressed up in her best robes of gold and
silk and
went in a carriage drawn by peacocks to meet the Buddha, in order
to
insult him.
As the Lord was
walking along
the roadside, she drove up to him and stared rudely into his face.
The
Buddha looked at her with a gentle, loving look, and before his
clear eyes
Ambapali's eyes dropped and her face became crimson with shame.
"Daughter, what do
you
desire?" asked the Buddha. Ambapali wept, and for some time could
not
answer. Then speaking softly she said, "Would my Lord deign to eat
at
my house and teach me also the great truth which he has found?"
The Buddha gladly
promised to
come to her home, for none were too evil or too low for him to
help. Many
people said that the Buddha had no business to go to the house of
such a
wicked woman, but he always did what he thought to be right and
paid no
attention to what people thought about him.
He went to eat at
Ambapali's
house and she became his disciple. She gave up her evil life and
walked
with gladness the Noble Eightfold Path.
-ooOoo- |
Bài
15
NÀNG
AM-BA-PA-LI
Nhiều người giàu sang
đã thành môn đệ của Phật, Ngài giáo hóa họ biết cách sử
dụng tiền bạc và quyền hành để mang lại lợi ích cho người
khác. Ngài không bao giờ giảng có tiền bạc, quyền lực và
địa vị là sai lầm, mà Ngài nói sử dụng những tặng phẩm
đó một cách ích kỷ là sai lầm. Tiền bạc và các thứ
khác thì rất hữu dụng, nên có, nhưng chúng ta phải biết
không nên bám víu chúng, mà phải hoan hỷ san sẻ những gì ta
có với mọi người. Tất cả chúng ta đều là huynh đệ, và
sự giàu sang không làm cho con người vĩ đại hơn anh em của
mình.
Tại xứ Tỳ-xá-ly
(Vaisali) có một phụ nữ giàu sang tên là Am-ba-pa-li (Ambapali),
nàng sống một cuộc sống rất xấu ác. Nàng chẳng quan tâm
gì đến người khác, mà chỉ biết dành hết thời giờ vào
các cuộc hoan lạc, tiệc tùng. Nàng nghe nói về Phật và rất
làm tức giận nghĩ rằng có quá nhiều người đang theo Ngài.
Vì thế nàng mặc xiêm y bằng vàng lụa sang trọng nhất, ngồi
xe công kéo, đến gặp Phật để nhục mạ Ngài.
Khi Ðức Phật đang đi
dọc
theo lề đường, nàng rượt xe lên ngang Phật, rồi trố mắt
xấc xược nhìn vào mặt Ngài. Phật nhìn nàng bằng ánh mắt
dịu hiền, thương mến, và trước ánh mắt trong sáng của
Ngài, đôi mắt của nàng Am-ba-pa-li sụp xuống, mặt nàng xấu
hổ, tím bầm.
"Cô nương, cô muốn
gì?" Phật hỏi. Am-ba-pa-li sụt sùi khóc một hồi không
thể trả lời. Sau đó nàng khẽ nói: "Xin thỉnh Ngài đến
thọ trai tại nhà con và giảng cho con biết Sự Thật cao quí
mà Ngài đã tìm ra".
Phật hoan hỷ hứa đến
nhà nàng, vì không ai độc ác hay thấp hèn đến nỗi Ngài
không giúp được. Nhiều người nói Phật không có việc gì
làm nên mới đến nhà một con mụ ác ôn như thế, nhưng Ngài
luôn luôn làm những gì mà Ngài cho là đúng, và không để ý
đến những gì người ta suy nghĩ về Ngài.
Ngài đến thọ trai tại
nhà Am-ba-pa-li và nàng trở thành đệ tử của Ngài. Nàng dứt
khoát từ bỏ cuộc sống xấu xa và hân hoan đi theo con Ðường
Tám Bước Cao Quí.
-ooOoo- |
Lesson
15:
carriage (n) : xe (ngựa)
deign (v) : chiếu cố, rủ lòng
disciple (n) : đệ tử
feasting (n) : tiệc tùng |
insult
(v) : hạ nhục, lăng nhục
pay attention to :
để ý đến
peacock (n) : con công
stare (v) : nhìn chòng chọc
Vaisalii : Tì-xá-li |
Lesson
16
Pari-Nirvana
After many long
years of
teaching the Buddha grew old and tired and knew that he would
soon pass
away from his followers. Just before his death, he gathered them
together and made them promise to do all they could to spread
the
teaching among all people, and bade them live together in love
without
anger or jealousy.
Ananda was the
follower
whom the Buddha loved best of all. When he saw that Ananda was
weeping
because he could not bear to think of his leaving them, the
Buddha was
very kind and tender and told him that he should not weep, for
all who
live must one day die, and this law can not be changed. Then he
showed
Ananda that death is nothing to be afraid of, as it is only a
change in
which the worn out body is laid aside for a new and better one.
In the arms of
Ananda the
Buddha passed away into the peace of Nirvana, but the teaching
which he
gave remained to help all mankind, in all ages.
It is over 2.500
years
since the Buddha lived in India, but his words are as great
today and as
full of comfort for men as they were then. The people of the
west are
beginning to know and love the Buddha and to walk in the
Eightfold Path
which he gave. Those who have been born Buddhists have a great
responsibility, for they must point the way to their brothers
and
sisters in the west who are looking for the light of truth. They
must be
careful to practise these great teachings in their lives, for
practising
them is the best way to draw people to Buddhism.
We shall in the
next lesson
learn something more about these great truths he taught, for now
that we
know something of the life of the Buddha, we shall be more
interested in
what he has to tell us.
QUESTIONS
(6)
1. What
lesson did the
Buddha teach Rahula?
2. Who was Devadatta?
3. What did he do to the Buddha?
4. How is hatred overcome?
5. Did the Buddha tell the rich people that they must give up
their
riches?
6. What did he tell the rich people to do?
7. Tell the story of Ambapali.
8. Who was Ananda?
9. What did Buddha teach abouth death?
10. Is the religion of the Buddha suitable for today?
11. What should Buddhists
always
try to do?
-ooOoo-
|
Bài
16
CỨU
CÁNH NIẾT BÀN
Sau nhiều năm giáo
hóa, Phật đã già yếu, mệt mỏi, và biết chẳng bao lâu nữa
Ngài sẽ giã biệt đồ chúng của Ngài. Ngay trước khi nhập
diệt, Ngài tập họp tăng đoàn, khuyên họ vận dụng tinh
thần và khả năng để truyền bá chánh pháp giữa nhân loại,
yêu thương chung sống với nhau, tránh xa sân hận và ganh tị.
A-nan (Ananda) là
đệ tử
mà Phật yêu thương nhất. Khi thấy A-nan cầm lòng không đậu
khóc lóc trước cảnh chia ly, Phật từ tốn khuyên thầy đừng
khóc nữa. Phật dạy tất cả những gì có sanh, một ngày
nào đó, ắt phải có tử. Ðịnh luật này không thể thay
đổi được. Sau đó Ngài chỉ cho A-nan thấy chết không có
gì đáng sợ, đó chỉ là sự thay đổi cái hình hài tàn tạ
để được một thân tướng mới mẻ và đẹp đẽ hơn.
Phật đã vào cảnh an
tịnh Niết Bàn trong vòng tay của A-nan, nhưng giáo pháp do
Ngài trao truyền vẫn còn giúp đỡ nhân loại qua mọi thời
đại.
Ðã trên 2.500 năm
kể
từ khi Phật sống ở Ấn Ðộ, nhưng những lời dạy của
Ngài ngày nay vẫn còn vĩ đại và tràn đầy an lạc cho con
người như thời Ngài còn tại thế. Người tây phương
đang bắt đầu biết tôn kính Phật và đi theo con Ðường Tám
Bước Cao Quí mà Ngài đã vạch ra. Những ai vốn là Phật tử
đều có một trách nhiệm lớn, đó là họ phải chỉ đường
cho anh chị em ở phương tây, những người đang tìm ánh
sáng chân lý. Họ phải cẩn thận thực hành những lời dạy
cao quí này trong cuộc sống của họ, vì thực hành chúng
là cách tốt nhất để đưa người đến với Ðạo Phật.
Trong bài sau chúng
ta sẽ
học thêm chút ít về những Sự Thật Cao Quí mà Ngài đã
thuyết giảng. Giờ thì chúng ta đã biết được đôi nét về
cuộc đời của Ðức Phật, chúng ta sẽ thích thú hơn khi học
đến giáo pháp của Ngài.
CÂU HỎI (6)
1. Phật
đã dạy La-hầu-la
bài học gì?
2. Ðề-bà-đạt-đa là ai?
3. Thầy ấy đã làm gì với Phật?
4. Lòng hận thù được khắc phục bằng cách nào?
5. Phật có bảo giới giàu sang phải từ bỏ của cải của
họ không?
6. Ngài bảo giới giàu sang làm gì?
7. Hãy kể chuyện nàng Am-ba-pa-li.
8. A-nan là ai?
9. Phật dạy thế nào về sự chết?
10. Phật giáo có thích hợp cho ngày nay không?
11. Phật tử phải luôn
luôn cố gắng làm gì?
-ooOoo- |
Lesson
16:
afraid (a) :
hoảng sợ, sợ hãi
Ananda : A-nan
comfort (n) : sự an ủi, sự khuyên giải
gather (v) : tập họp
interested (a) : có quan tâm |
lay
aside (v) : để sang một bên
mankind (n) : nhân loại
pass away from : giã biệt, từ giã
responsibility (n) : trách nhiệm
worn-out (a) : rách nát, tàn tạ |
-ooOoo-
|