Vấn Ðề Khổ Vui Trong Ðạo Phật
Trong bài
thuyết pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển, đức Phật Thích Ca giảng giải giáo lý Tứ
Ðế và có đề cập đến vấn đề khổ cùng phương pháp diệt khổ.
Danh từ ”Dukkham ariyasacca” thường
được các nhà học giả dịch là ”Khổ Ðế", là”Chân lý về sự khổ”thành thử mọi
người cứ an trí rằng đạo Phật chủ trương cuộc đời chỉ toàn là khổ đau.
Lối phiên dịch ấy không được
chính xác lắm và đã làm cho nhiều người hiểu lầm. Bởi vì chỉ nhận chữ ”dukkha”
với cái nghĩa hẹp của nó như thế, nên lắm kẻ cho đạo Phật là bi quan yếm thế.
Thực ra, đạo Phật không phải bi
quan, cũng như không phải lạc quan. Ðạo Phật nhìn cuộc đời một cách khách quan,
thực tại. Ðạo Phật không ru người trong giấc mơ thiên đường.
Ðạo Phật không phủ nhận những
cái vui (lạc thọ) của cuộc đời, và trái lại, còn công nhận nhiều hình
thức của cái vui vật chất hay tinh thần, quy định cho giới tại gia và
cho cả giới xuất gia nữa. Nhưng những cái vui ấy, cũng như những cái khổ
(khổ thọ) đều nằm gọn trong dukkha cả. Dù cho con người có thể đạt đến
những trạng thái thiền định cao siêu khoái lạc ở tận”Không vô biên xứ thiên”hay”Thức
vô biên xứ thiên”đi nữa, thì những cái lạc thọ siêu thoát ấy cũng vẫn còn nằm ở
trong dukkha như thường, bởi vì con người chưa thoát được tam giới vô thường và
hư giả.
Vậy bản ý của đức Phật khi dạy
giáo lý Tứ Diệu Ðế không phải là mong cho con người trốn tránh khổ thọ để đi
tìm lạc thọ. Khổ thọ và lạc thọ đều nằm trong dukkha. Giải thoát là giải
thoát khỏi cái dukkha ấy, chứ không phải trốn khổ tìm vui một cách quá
tầm thường.
Dukkha cũng có thể gọi là khổ,
nếu ta hiểu chữ”khổ”không phải là khổ thọ. Và giải thoát cũng có thể được là vui
nếu nếu ta hiểu chữ vui không phải là lạc thọ.
Ta lấy một câu chuyện là thí dụ
cho dễ hiểu: Hai con gà đang cãi nhau về vui và khổ ở trong lòng.
Chúng đàm luận về cái ngon, dỡ của những lúa ngô mà người ta đem tới cho chúng
ăn, và cho rằng ăn ngô là vui, ăn thóc là khổ v.v... nhưng chúng không biết
rằng một lát nữa chúng sẽ bị đem đi làm thịt.
Cái vui và cái khổ mà chúng ta
đang bàn ấy chỉ là thứ”vui khổ trong lòng", một thứ vui khổ giả ảo,
không đáng gọi là vui khổ. Vì sao? Chúng nó sắp bị ăn thịt; gọi là”vui, khổ”những
cái mỏng manh chốc lát ở trong lòng thì có nghĩa lý gì? Vậy cái khổ mà chúng
phải tránh, không thể chỉ là cái khổ nhỏ nhặt kia, mà là một cái khổ to lớn:
cái khổ bị nhốt trong lồng và sắp bị đem làm thịt. Cái khổ này cũng như dukkha
vậy, nghĩa là bao gồm những khổ thọ và lạc thọ giả ảo, nhất thời, xây dựng trên
vô thường, vô ngã. Cái vui chân thật của hai con gà phải tìm đến, không thể chỉ
là cái vui nhỏ nhặt trong lồng, mà là một cái vui to lớn: cái vui được sổ lồng
và khỏi bị đem làm thịt. Cái vui này cũng như cái vui giải thoát vậy.
Vấn đề khổ vui của con người
cũng thế. Những khổ thọ và lạc thọ đều xây dựng trên sự vật vô thường vô ngã,
cho nên đều gọi là dukkha. Ðạo Phật chủ trương phải giải thoát dukkha.
Giải thoát dukkha tức là tìm đến cái vui hoàn toàn, cái vui không
bao giờ sợ tan biến vì vô thường, cái vui khác hẳn những lạc thọ mong
manh.
Ðã có một quan niệm như thế về dukkha,
bây giờ ta mới tạm dùng chữ khổ để thay cho chữ dukkha, và xét về
chữ khổ, chữ khổ gồm có những nghĩa vô thường vô ngã, hư ngụy và
hổ tương đối kháng, chữ khổ bao gồm cả khổ thọ và lạc thọ.
Khổ
(Dukkha) có ba hình trạng sau đây:
1. Khổ-khổ (dukkha - dukkha)
2. Hoại-khổ (viparinama - dukka) và
3. Hành-khổ (sankhara - dukkha).
Tất cả những khổ thọ của kiếp
sống như sinh, già, bệnh, chết, ghét nhau mà bị gần nhau, yêu nhau mà bị xa
nhau, ưa muốn mà không được toại nguyện...., tóm lại những đau khổ về thể xác
và tâm linh đều được liệt vào loại khổ-khổ (Dukkha = khổ thọ).
Những cảm giác lạc thọ của đời
sống không thể nào còn mãi được, vì thế đều rất vô thường. Trước sau, chúng
cũng tan mất. Khi chúng tan mất thì phát sinh một khổ thọ. Vậy sự chuyển biến
diệt hoại này, nguyên do của khổ-khổ, cũng nằm trong Dukkha và được liệt vào
hạng hoại khổ (Dukkha = biến hoại).
Hình trạng thứ ba là hành khổ,
quan hệ hơn nhiều. Ở đây, chúng ta phải tìm hiểu thế nào là một”chúng
sinh", một”cá nhân", hay một”cái ta". Theo đạo Phật, cái mà con
người gọi là”Cái Ta”(le moi) ấy, vốn là sự tổng hợp của năm uẩn (ngũ
uẩn: les cinq khandhas). Phật dạy:
"Tóm lại, ngũ uẩn là khổ"
(Sankhittena pancupa danakkhandha dukkha).
Cần phải hiểu rằng: Ngũ uẩn
và khổ (Dukkha) không phải là hai việc khác nhau. Chính ngũ uẩn là
dukkha vậy. Uẩn có nghĩa là những yếu tố của sinh tử, ngăn che chân lý.
Uẩn thứ nhất là vật chất, gọi là
sắc uẩn (Rupak - khandha). Trong sắc uẩn, có bốn yếu tố gọi là tứ đại
chủng và những chuyển hóa vật do bốn yếu tố ấy cấu thành. Bốn yếu tố đó là:
- Yếu tố cứng (éléments de solidité)
- Yếu tố lưu động (éléments de fluidité)
- Yếu tố năng lực (énergie) và
- Yếu tố chuyển động (mobilité).
Trong đại tạng Trung Hoa, người
ta thường gọi tạm là địa, thủy, hỏa, phong.
Trong những chuyển hóa vật
(dérivés) của tứ đại chủng, ta thấy có: ngũ căn (năm cảm quan), ngũ trần (đối
tượng của năm cảm quan ấy). Tóm lại, tất cả vật chất đều nằm trong sắc uẩn.
Uẩn thứ hai là cảm giác, gọi là thọ
uẩn (vedanak - khandha). Thọ uẩn gồm những cảm giác vui (khoái lạc), khổ
(đau khổ) và không vui không khổ (xã thọ), phát sinh do sự tiếp xúc giữa cảm
quan và ngoại cảnh.
Uẩn thứ ba là tri giác, gọi là tưởng
uẩn (sannak - khandha). Tưởng uẩn là những tri giác của con người khi giác
quan và ý thức tiếp xúc ngoại cảnh.
Uẩn thứ tư là sự suy tư tác động
của tâm lý, gọi là hành uẩn (sankharak - khandha). Ðó là những hoạt động
tâm lý của con người, có thể là thiện, là ác, và có thể tạo nên nghiệp nhân,
nghiệp quả. Ví dụ như sự giận dữ, sự tham muốn, sự kiêu căng, sự tin tưởng, sự
quyết định... Có tất cả 51”Hành”như vậy, mà duy thức học gọi là”Tâm sở”(propriétés
mentales).
Uẩn thứ năm là tác dụng nhận
biết, tri thức, gọi là thức uẩn (vinnanak - khandha). Thức uẩn là tác
dụng phân biệt, hiểu biết, chấp ngã, duy trì ảnh hưởng, kinh nghiệm, và duy trì
sinh mạng.
Giải nghĩa về ngũ uẩn như thế là
giải nghĩa một cách rất sơ lược. Vậy thì cái”Ta”được cấu tạo nên do năm”uẩn”ấy.
Năm uẩn đều vô thường, chuyển biến, sinh diệt biến di trong từng giây phút. Vạn
vật nối tiếp nhau để sinh diệt, không có thực thể (substantiatité). Vậy không
có gì đáng gọi là”Ta”trường tại và bất biến cả.
Ai cũng phải công nhận rằng
trong năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành và thức không có uẩn nào gọi được là”Ta”cả.
Nhưng khi năm uẩn ấy, gồm có hai phần vật chất (sắc pháp) và tinh thần (tâm
pháp) - tương quan, tương duyên, tác động và hòa hợp lẫn nhau thành như một cá
thể sinh lý tâm lý, ta liền có ý tưởng về một cái”TA”trường tồn bất biến ấy
chẳng qua chỉ là một sự mê lầm cố chấp mà Duy thức học gọi là”Ngã si”và”Ngã
kiến".
Năm uẩn kia chính là bản thân
của Dukkha, của khổ, và ở đây, ngũ uẩn được gọi là hành khổ (Dukkha = ngũ uẩn
vô ngã).
Lời giải thích về khổ đế này
chẳng khác gì lối biện giải về giáo lý vô thường vô ngã. Lý vô thường vô ngã là
một lý rất thực, đúng với những xét nghiệm của mọi người. Không phải vì thấy
vạn vật là vô thường vô ngã mà tất cả những người Phật tử đều sinh ra buồn rầu
chán nản. Trái lại. Một Phật tử có được nhận thức và chứng nghiệm được lý vô
thường vô ngã, là một người sung sướng nhất đời. Người ấy sẽ nhìn cuộc đời với
đôi mắt bình tĩnh, an lạc. Sự thành hoại, sinh diệt của vạn vật không lay
chuyển được tâm hồn người, không làm cho người phải đau khổ, lo lắng, bồn chồn,
băn khoăn, thắc mắc. Ðức Phật và các vị đệ tử chứng ngộ thường có một nét mặt
trầm tĩnh, tươi vui, an lạc. Nụ cười bất diệt của các pho tượng ngày xưa đã nói
lên được những cái vui an nhiên giải thoát ấy.
Trên phương diện nhân sinh, đạo
Phật không dạy người chỉ rời bỏ khổ thọ mà đi tìm lạc thọ, nhất là thứ lạc thọ
do dục vọng gây nên. Cũng không phải đạo Phật chủ trương rằng lạc thọ cũng chỉ
là khổ thọ. Ðạo Phật chỉ dạy con người diệt trừ những nguyên nhân gây nên khổ
thọ. Những khoái lạc dục vọng cũng là nguyên nhân gây nên khổ thọ.
Diệt dục vọng, thêm từ bi để làm
vơi bớt đau khổ của kiếp sống. Nhưng mục đích cao cả của đạo Phật phải là được
giải thoát, nghĩa là chứng nghiệm được lý vô thường vô ngã, thoát ra ngoài
những ràng buộc và lung lạc của sự vật đang thành hoại biến dị và nhìn những
thành hoại ấy với một tâm trạng an lạc, hồn nhiên.