THIÊN
II
Chứng
cớ hiển nhiên của nghiệp
Phật
ngôn về vấn đề nghiệp
CHỨNG CỚ HIỂN NHIÊN CỦA NGHIỆP
1.
Kamma.m satte vibhajati yadida.m
hinappa.nittaaya
Nghiệp hằng phân hạng chúng sinh tức là chia ra nhiều loại thấp hèn
và cao sang (khác nhau).
2. Yaidsa.m vapate
biijam
Tadisa.m labhante phala.m
Kalyaanakaarii kalyaana.m paapakaarii
Ca paapaka.m
Người gieo giống nào, hằng thụ quả ấy, người tạo nghiệp lành được quả
vui, kẻ hành nghiệp dữ hằng chịu quả khổ.
3.
Sace pubbe katahetu
sukhadukkha.m nigacchati
poraanakamkata.m paapa.m
tameso mu~ncate ina.m
Người thụ vui hay khổ, do phúc hoặc tội đã làm từ trước là nhân,
người ấy được gọi là mãn tội cũ như trả nợ vậy.
4. Abhittharehta
kalyaane
paapaa cittam nivaaraye
dandha.m hi karato pu~n~na.m
paapasmin ramati mano
Người phải gấp tận tụy với việc lành, nên phòng ngừa tâm khỏi nghiệp
ác, vì người lâu làm lành, thì tâm sẽ ưa thích trong việc dữ.
5. Paapa~nce puriso
kayiraa
Na ta.m kayiraa punappuna.m
Na ta.mhi chandam kayiratha
Dukkho paapassa uccayo
Nếu người làm tội thì không nên làm nhiều lượt, không nên ưa thích
trong tội ấy, vì sự chứa tội là nhân cho quả khổ.
6. Pu~n~nance puriso
Kayiraa
Kayiraaathenam punappunam
Tamhi chandam kayiratha
sukho Pu~n~nassa uccayo
N ếu người tạo phước thì nên tạo phước ấy thường thường, nên có tâm
ưa thích trong phước ấy, vì sự vui thích phước là nhân cho quả vui.
7. Paapopi Passati
bhadram
Yavaa apa.m na Paccati
Yadaa ca paccati paapa.m atha
(papo) paapaami passati
Người làm quấy thường thấy quấy là phải, cho đến khi cái quấy chưa có
đâm mộng, nhưng khi cái quấy sanh quả thì họ mới thấy quấy là xấu xa.
8. Bhadropi passati
paapam
yaava bhadram na paccati
yadaa ca paccati bhadram atha
(bhadro) bhadraani passati
Người làm lành, hay thấy nghiệp lành là xấu, cho đến khi nghiệp lành
chưa có nảy quả, nhưng tới lúc nghiệp lành cho quả, họ sẽ thấy nghiệp
lành là tốt đẹp.
9. Maavama~n~netha
paapassa
na mattam aaga.missati
udabindunipaatena
udakumbhopi puurati
puurati baalo paapassa
thoka.m thorampi aacina.m
Người không nên khinh suất rằng: tội chút ít sẽ không đến, cái nồi
chứa đầy nước mưa nhỏ xuống từng giọt thế nào, kẻ si mê khi tích tội, dù
từng tí, hằng đầy nước tội được như thế.
10.- Maavama~n~netha pu~n~nassa
na matta.m aagamissati
udabindunipaatena
udakumbhopi pu~n~nassa
thoka.m thokampi aacinam
Người không nên khinh thường rằng: phước chút ít sẽ không đến, cái
nồi trữ đầy nước mưa nhỏ xuống từng giọt thế nào, bậc có trí tuệ chứa
phước mỗi khi một ít, cũng hằng phước được như vậy.
11.- Vaanijova bhayam maggam
appasattho mahaddhano
visam jivitukaamova
paapaami parivajjaye
Người nên tránh khỏi nghiệp ác như thương nhân[ 1
] có nhiều của, nhưng ít đoàn người, lánh đường đáng sợ và như
kẻ mong sống ngừa độc dược vậy.
12. Paanimhi ce vano
naassa
hareyya paaninaa visa.m
naàbbanam visamanveti
natthi paapa.m akubbato
Nếu bàn tay không có vết thương thì người cầm độc dược bằng tay được,
vì độc dược không thấm vào tay, thế nào tội hằng không có đến người
không làm như vậy.
13. Yo appadutthassa
narassa dussati
suddhassa posassa a.nanganassa
gaameva bala.m pacceti paapa.m
sukhumo rajo pativaatamvakhitto
Kẻ nào hại người không trả nủa[ 2
] là người trong sạch, như
gò đất, thì tội hằng trở hại kẻ ấy, là người si mê, như bụi bặm mà họ
đổ trên gió vậy.
14.- Gabbhameke upapajjanti
niraya.m
paapakammino
sagga.m sugatino yanti
parinibbanti anaasavaa
Có người sinh trong thai bào: kẻ có nghiệp xấu hằng sa địa ngục,
người có nghiệp lành là nhân đến nhàn cảnh, hằng lên cõi trời; bậc vô
lậu phiền não ( [3] ) thường nhập Niết bàn.
15.- Ma antalikkhe na
samuddamajjhe
na pabbataanam vivara.m parissa
na vijjate so jagatippadeso
yatartthito mucceyya paapakammaa
Người tạo nghiệp dữ, trốn trong hư không cũng chẳng khỏi nghiệp dữ,
lánh trong giữa biển cũng chẳng khỏi, ẩn mình trong kẹt núi cũng chẳng
thoát nghiệp ác đâu. Người nương ngụ trên địa cầu không bao giờ thoát ly
được nghiệp dữ.
16.- Ma antalikkhe na
samuddamajjhe
na pabbataanam vivira.m parissa
na vijjate so jagatippadeso
yatra.t.thita.m nappasaheyyamaccu
Người ngồi giữa trời, vào đến giữa bể, ẩn mình trong kẹt núi cũng
chẳng khỏi. Sự chết không đàn áp người trú ngụ trên địa cầu chẳng có đâu
.
17.- Sukhakaamaani bhaataani
yo dandena vihinsati
attaano sukhamesaano
pecca so na labhati sukha.m
Chúng sanh đã sinh ra là những người cầu được vui; kẻ nào mong tìm
hạnh phúc cho mình, nhưng làm hại kẻ khác bằng khúc cây v.v.; kẻ ấy chết
rồi hằng chẳng được vui.
18.- Sukhakaamaani bhuataani
yo dan.dena vihi'nsati attano sukhamesa
pecca so labhate sukha.m
Chúng sanh đã sinh ra là người mong được vui, kẻ nào tìm hạnh phúc
cho mình, không làm hại người bằng khúc cây, kẻ ấy tạ thế rồi thường
được vui.
19.- Atha paapaani kammaani
kara.m baalo na bujjhati
sehi kamehi dummedho
aggi daddhova tappati
Kẻ si mê tạo những nghiệp ác, thường không biết mình, người kém trí
tuệ, hằng nóng nảy như bị lửa thiêu vì nghiệp của chính mình đã làm.
20.- Yo da.ndena adandesu
appadutthesu dussati
dasannama~n~natram thaanam
khippameva nigacchati
vedanam pharusa.m jaanin
sariiassa va bhedanam
garukam vaapi aabaadham
cittakkhepam va paappune
raajato vaa upasaggam
abbhakkhaanam va daaruna.m
parikkhayam va ~naatinam
bhogaanam va pabhangunna.m
atthavaassam agaarani
aggi dahati paavako
kaayassa bhedaa duppa~n~no
nirayam so upapajjati
Kẻ nào làm hại những người không trả nủa bằng thế lực, thì hằng bị
một trong mười biến cố lớn là:
1.- Bị cực kỳ khổ sở,
2.- Hết tiền bạc,
3.- Hư thân,
4.- Bịnh nặng,
5.- Loạn trí,
6.- Bị vua hình phạt,
7.- Bị người sát hại nặng nề,
8.- Chia lìa thân quyến,
9.- Tiêu diệt gia tài,
10.- Cháy nhà.
Người kém trí tuệ sau khi chết hằng sa địa ngục.
21.- Manopubba'ngamaa dhammaa
manosetthaa manomayaa
manasaa ce padutthena
bhaasati vaa kaaroti vaa
tato nam dukkhamaanevati
cakkamva vahato pada.m
Các pháp có tâm là hướng đạo; có tâm là chủ, thành tựu do tâm. Nếu
người có tâm ác, dù nói hoặc làm, sự khổ hằng theo họ như bánh xe xoay
tròn theo dấu chân bò mang ách đi vậy.
22.- Manopuba'ngamaa dhammaa
manosetthaa manomayaa
manasaa ce pasannena
bhaasati vaa karoti vaa
tato nam sukhamanevati
chaayaava anupaayinii
Các pháp có tâm là hướng đạo; có tâm là chủ, thành tựu do tâm, nếu
người có tâm trong sáng, dù nói hay làm, sự vui hằng theo họ, như bóng
tùy hình.
23.- Idha socati pecca socati
paapakaarii ubhayattha socati
so socati so viha~n~nati
disvaa kammakilittha mattano
Người hay làm tội hằng đau khổ trong đời này; thác rồi càng đau khổ
trong hai cõi, vì họ thấy nghiệp xấu của chính mình rồi đau khổ rên rỉ .
24.- Idha modati pecca modati
katapu~n~no ubhayattha modati
so modati so pamodati
disvaa kammavisuddhi mattano
Người đã làm phước, hoan hỉ trong cõi này, chết rồi cũng hằng vui
thích, vui thích trong cả hai cõi; vì họ thấy tâm trong sạch của chính
mình, rồi hằøng hân hoan khoái lạc.
25.- Sukaraani asaadhuuni
atta.no ahitaani ca
yam vehita~nca saadhu~nca
ta.m ve paramadukara.m
Nghiệp không tốt và không hữu ích đến mình thì dễ làm được, nghiệp
lành và có lợi ích thì rất khó làm.
26.- Sukaram saadhunaa saadhu
saadhu paapena dukkara.m
paapam papena sukaram
paapamariyehi dukkaram
Nghiệp lành, người lành dễ làm; nghiệp lành kẻ ác khó làm; kẻ dữ dễ
làm nghiệp ác; các bậc thánh nhân chẳng làm nghiệp dữ đâu.
27. Idha tappati pecca tappati
paapakaarii ubhayattha tappati
paam me katanti tappati
bhiyyo tappati duggatin gato
Người hay làm tội, hằng than van trong đời này, thác rồi phải chịu
rên rĩ; họ thường phiền muộn trong cả hai cõi, hằng than van rằng: ta đã
tạo nghiệp ác nên phải đến cảnh khổ, rồi càng ưu phiền than thở.
28.- Idha nandati pecca nandati
katapu~n~noubhayattha nandati
pu~n~nam me katanti nandati
bhiyyo nandati sugatingato
Người được phước hằng vui vẻ trong cõi này, chết rồi cũng thường vui
vẻ. Họ sung sướng trong cả hai cõi, họ hằng sung sướng rằng: ta đã tạo
phước để dành nên đi đến nhàn cảnh, rồi càng thêm thỏa mãn.
29.- Yathaapi puppharaasimhaa
kayiraa maalaagu.ne bahuu
evam jaatena maccena
kattabbam kusalam bahuu
Người thợ làm tràng bông, trang hoàng vòng hoa bằng nhiều thứ hoa,
thế nào người đã sinh ra trong đời nên làm lành cho nhiều như vậy.
30.- Eva~nce sattaa jaaneyyun
dukkhaayam jaatisambhavo
na paano paaninam ha~n~ne
paanaghati hi socati
Chúng sanh phải hiểu rằng: "sự tồn tại" là khổ, như thế họ không nên
sát sinh, vì người sát sinh hằng rên siết.
31.- Caranti baalaadummedhaa
amitteneva attanaa
karontaa paapakam kamman
yam hoti katukapphalam
Những kẻ si mê có trí thức thấp hèn, có ác tâm làm nghiệp dữ, sẽ chịu
quả chua cay.
32.- Na tam kammam katam saadhun
yam katvaa anutappati
yassa assamukho rodam
vipaakam patisevati
Người làm nghiệp nào rồi, sau hằng rên siết là kẻ có mặt ẩm ướt bằng
nước mắt, khóc la, chịu quả của nghiệp nào, nghiệp ấy họ đã tạo rồi là
nghiệp không tốt đâu.
33.- Ta~nca kammam kaatam sadhu
yam katvaa naanutappati
yassapatito sumano
vipaakam patisevati
Kẻ đã tạo nghiệp nào mà sau rồi không than van, là người có thiện tâm
hằng thụ quả của nghiệp mà họ đã làm, là nghiệp lành.
34.- Madhuvaa ma~n~ntai baalo
yaavaa paapam na paccati
yadaa ca paccati papam
atha (baalo) dukhamnigacchati
Kẻ si mê thường nhận tội như mật ong cho đến khi tội chưa cho quả,
đến lúc thụ quả kẻ si mê hằng chịu khổ.
35.- Na hi papa'm katam kammam
sajjukhiiramva muccati
duhantam baalaamanveti
bhasmaacchannova paavako
Nghiệp dữ mà người đã làm chưa cho quả, như sữa trong khi đang vắt
chưa biến chất, thế nào, nghiệp ác hằng theo thiêu đốt kẻ si mê như lửa
bị tro che lấp.
36.- Kammunaa vattati loke
kammunaa vattaatiipajaa
kammani bandhavaa sattaa
ratthassaaniva yaayato
tapena brahmacariyena
samyamena damena ca
etena brahmano hoti
etam brahmanamuttamam
Chúng sinh hằng thực tiễn theo nghiệp là huyết thống như trục bánh xe
đang xoay vậy.
Người sẽ là bậc cao quí do bốn nghiệp là:
1.
Tapa: Chuyên cần diệt điều ác.
2. Brahmacariya: Thực hành
phạm hạnh.
3. Sa~n~nama: Chế ngự thân
khẩu ý.
4. Tama: Tự hóa.
Đây là bốn nghiệp lành cao quý của các bậc quý nhân.
37.- Natthi loke rahonaama
paapakammam pakubbato
passanti vanabhuutaani
tam balo ma~n~nate raho
Nơi kín đáo của người làm tội chẳng có trong đời. Những kẻ si mê thấy
nơi có rừng rậm đoán chừng rừng đó là chỗ kín đáo.
PHẬT NGÔN VỀ VẤN ÐỀ NGHIỆP
Natthi vijjaasaamm
mittam
na ca byaadhisamo ripu
na ca attasamam pemam
na ca kammamsamam balam
Chẳng có bạn nào có giá trị bằng sự học thức, chẳng có thù địch nào
bằng thế lực của bịnh hoạn, chẳng thương ai bằng yêu mình, chẳng có sức
mạnh nào bằng nghiệp.
Duggata'm gaccha
helaabha
aapo labbena purati
thale vassatha pajjunna
aapo aapena puurati
natthidam kammapatthaanam
Lợi ơi! Ngươi nên tìm kẻ nghèo, người giàu có tiền bạc chan chứa rồi .
Mưa ơi! Hãy rơi xuống trong nơi khô héo đi, biển cả có đầy nước rồi,
dầu như thế, sự mong mỏi cũng chẳng được như nguyện. Vì thế lực của
nghiệp đàn áp trên tất cả.
Hiinana'm gacchate
vittam
viraanam vasantakattam
vadanti ca hiinaa jana
pubbakammapatthaanaati
Tài sản của kẻ ít bền chí, biến chuyển thành của người có nhiều sự
kiên nhẫn hơn. Kẻ thấp hèn đáp rằng: bất cứ cái chi đều do nhân trước
cả.
Na vadanti cevam
dhiiraa
vaayamiísu sabbakamme
na ce sijjhati tam kammam
aphalam ettha ki~ndoso
Bậc trí tuệ không thốt như (kẻ lười biếng) đâu, họ hằng tinh tấn làm
tất cả công việc. Nếu công việc bất thành thì là thất bại, như thế phàn
nàn cái chi?
Chú thích:
- [1]
Lái buôn.
[2] Trả nủa: làm nhục người ta để trừ lại điều người
làm nhục mình
[3]
Lậu phiền não (aasavakilesa) phiền não lọt, chảy trong nẽo luân
hồi.