THIÊN
VIII
Người
như thế nào cũng do nghiệp
NGƯỜI NHƯ THẾ NÀO CŨNG DO NGHIỆP
Có
tích ghi chép trong Kinh Vaasetthasuutra Majjhima- niikayaa
Majjhima-pa~nnaasaka rằng:
Có hai thanh niên Vaasetthamaanaba
và Bhaaradvaajamaanaba trò chuyện và phản đối nhau như vầy: Vaasetthamaanaba
cho rằng: người có giới đức và đầy đủ hạnh kiểm gọi là Bà-la-môn.
Bhaaradvaajamaanaba thấy rằng: người quý tộc cả hai bên (cha
và mẹ) trong sạch đến bảy đời, không có ai phản đối, khiển trách được về
dòng dõi, người ấy mới gọi là Bà-la-môn.
Nhưng cả hai không thể đồng ý thừa nhận về vấn đề ấy, bèn dẫn nhau
vào hầu Phật nơi một cụm rừng, gần xóm Juhaanamgaha, rồiø Vaasetthamaanaba
bạch hỏi Ðức Thế Tôn rằng:
- Bạch Phật, hai chúng tôi đây là người được giáo sư xác nhận là hạng
học thức và tự mình cũng xét nhận là có học thức. Bạch Phật tôi là đệ
tử của Pokakharasaati
Bà-la-môn, thanh niên này ( Bhaaradvaajamaanaba) là môn đồ
của Tarukakha Bà-la-môn, chúng tôi đã học đủ Tam Phệ Đà (Trayabheda)
[
1 ] và thấu triệt đạo lý Bà-la-môn. Nhưng hai chúng tôi không
đồng ý thừa nhận nhau về vấn đề như sau:
- Bạch Ngài, Bhaaradvaajamaanabanói rằng người được gọi là
Bà-la-môn do dòng dõi, còn tôi, bạch Ngài, cho rằng được bằng nghiệp.
Bạch Ngài, chúng tôi chưa tìm được người giải nghi, nên chi, chúng tôi
đến hầu Ngài để cầu hỏi Ðức Thế Tôn, là đấng Chánh biến tri rõ rệt,
những kẻ được lễ bái Đức g otama, hằng sáng tỏ như vầng trăng trong đêm
rằm .
Hai chúng tôi cầu hỏi Đức g otama là bậc có tuệ nhãn đã giáng thế
chân chính trong đời. Bạch Đức g otama người được gọi là Bà-la-môn ấy,
được bằng dòng dõi hay bằng nghiệp, xin Ngài giải cho hai chúng tôi là
hạng chưa thông hiểu, cho chúng tôi quán triệt theo lẽ phải. Ðức Thế Tôn
đáp:
- Này Vaasettha, Như Lai dự đoán những điều ấy, chia chủng tộc
chúng sanh theo thứ tự cho thấy rõ rằng dòng giống có tình trạng khác
nhau. Các người nên hiểu tất cả chủng loại [2]
nảy nở đều dính với đất, dù có lỏi bên ngoài, da bên trong là
loại cỏ (Tinajaati) hoặc cây có lỏi bên trong da bên ngoài gọi là
(Rukkhajaati). Các loại ấy dù không có phận sự hiểu biết trả
lời, thệ nguyện rằng chúng ta là loại cỏ, "chúng ta là loại cây" được.
"Song tính" [3
] của loại cỏ và loại cây cũng kết quả theo giống là nhân cho
biết rằng các loại có tình trạng khác nhau. Các ngươi hãy hiểu rằng loại
không dính đất, vượt khỏi đất được, đấy là những loại có thức tính, có
sinh mệnh, có hình thể vi tế như ong, muỗi, kiến đen, kiến vàng, tính
của chúng cũng thành tựu theo loại, là nguyên nhân cho biết rằng tất cả
các loại đều có trạng thái khác nhau.
Lại các ngươi nên hiểu những thú bốn chân nhỏ lẫn lớn, tính của chúng
cũng thành tựu theo loại.
Có loại bò, trườn v.v. tính của loại ấy cũng thành tựu theo loại.
Các ngươi nên hiểu rằng thủy tộc là loại ở trong nước, tính của chúng
cũng thành tựu theo loại.
Tính của các chủng loại ấy thành tựu theo loại, có rất nhiều như thế.
Tính trong loại người thành tựu theo loại, như thế, không có, là:
không quan hệ đến như tóc không quan hệ đến đầu, không quan hệ đến cả
hai tai, không quan hệ đến hai mắt, không quan hệ đến mặt, không quan hệ
đến mũi, không quan hệ đến hai môi, không quan hệ đến hai lông mày,
không quan hệ đến cổ, không quan hệ đến hai vai, không quan hệ đến bụng,
không quan hệ đến xương sống, không quan hệ đến xương hông, không quan
hệ đến ngực, không quan hệ đến chỗ hẹp, không quan hệ đến hai tay, không
quan hệ đến hai chân, không quan hệ đến mười ngón, không quan hệ đến
mười móng, không quan hệ đến hai phần trước của ống quyển, không quan hệ
đến màu da, không quan hệ đến tiếng, là thành tựu theo dòng dõi, trong
các kiếp nữa thế nào, phần trong thân thể của người như thế không
được. Vì trong loại người họ gọi tư thể [4]
theo tên.
- Này Vaasettha! Trong loại người, kẻ nào làm việc chăn nuôi
bò để dưỡng sinh, ngươi hãy hiểu rằng kẻ ấy là nông dân, không phải là
Bà-la-môn.
-
Này Vaasettha! Ngưòi nào nuôi mệnh bằng sự làm việc khó nhọc
hầu hạ kẻ khác, ngươi hãy hiểu rằng ấy là người phục dịch, không phải là
Bà-la-môn.
- Này Vaasettha! Kẻ nào trộm cắp của người, ngươi hãy hiểu
rằng: đó là đạo tặc, không phải là Bà-la-môn.
- Này Vaasettha! Ngưòi nào nuôi mệnh bằng võ khí, ngươi hãy
hiểu rằng đó là quân nhân, chiến sĩ, không phải là Bà-la-môn.
- Này Vaasettha! Người nào để hỏi ý kiến hoặc giùm góp ý kiến
giúp cho một kẻ khác, ngươi hãy hiểu rằng, đó là cố vấn, không phải là
Bà-la-môn.
- Này Vaasettha! Người nào thống trị một nước, ngươi hãy hiểu
rằng, đó là Đức vua, không phải là Bà-la-môn.
Như Lai không gọi là Bà-la-môn những người sinh ra từ đâu hoặc từ
người nào, mặc dù người ấy mong tìm sự tấn triển [5
] vì người ấy vẫn còn ô trọc, không tinh khiết là nguyên nhân
khiến người phải lo âu phiền muộn. Như Lai tuyên bố rằng, người không ô
nhiễm [6]
là không có mưu kế lo ngại, không có phiền não là lòng cố chấp,
ấy là Bà-la-môn.
Như Lai phát biểu rằng, người ngay thật, đoạn tuyệt tất cả thúc phược
phiền não [7]
(Samyojana) được rồi không bối rối băn khoăn lo lắng, đã
vượt qua phiền não, đã lìa khỏi võ khí bó buộc rồi là Bà-la-môn.
Như Lai cho biết rằng, người đã cắt đứt ác tâm (Upanaana) cùng
ái dục (Tanhaa) và mối nhân duyên [8]
, được giác ngộ rồi là Bà-la-môn.
Như Lai phát biểu rằng, người không làm thiệt hại, có tâm nhẫn nhục
với lời chửi mắng do sự hành ác của kẻ dữ, rằng là Bà-la-môn.
Như Lai nói người không biết giận có giới trong sạch đã tự hóa rồi,
rằng là Bà-la-môn.
Như Lai gọi người không quyến luyến trong dục cảnh như nước không
đọng trên lá sen rằng là Bà-la-môn.
Như Lai gọi người hiểu pháp, diệt khổ của mình trong kiếp hiện tại,
đã liệng bỏ vật nặng rồi rằng là Bà-la-môn.
Như Lai gọi người có trí tuệ thực hành theo trí nhớ, sáng suốt trong
phương pháp lợi và hại và đã được lợi ích đến mức cùng tột rằng là
Bà-la-môn.
Như Lai gọi người không chung chạ cùng các gia chủ không liệt vào
hạng xuất gia có dính mắc trong ngũ dục có sự ham muốn ít, là Bà-la-môn.
Như Lai gọi người không sát sinh, không xúi kẻ khác sát sinh, không
làm hại chúng sinh, có tâm kiên cố, rằng là Bà-la-môn.
Như Lai gọi người không giận bị kẻ đổ lỗi cho mà nhịn được, khi kẻ
khác cố chấp thế này thế kia, mà chính mình là người không câu nệ rằng
là Bà-la-môn.
Như Lai gọi người đã diệt tham, sân, si được như bụi cát không dính
vào lưỡi gươm rằng là Bà-la-môn.
Như Lai gọi người thốt lời ngay thật và êm dịu cho kẻ khác hiểu lẽ
phải là Bà-la-môn.
Như Lai gọi người không trộm của cải dù dài hay vắn, nhỏ hoặc lớn,
tốt hay xấu rằng là Bà-la-môn.
Như Lai gọi người đã thoát ly sự thèm khát trong đời này và trong cõi
sau rằng là Bà-la-môn.
Như Lai gọi người đã đắc pháp bất diệt theo thứ tự rồi, là người
không thương tiếc vì người đã thấu triệt rồi, rằng là Bà-la-môn.
Như Lai gọi người không còn than van rên siết, dứt hẳn bụi trần rồi,
đã vượt qua hai pháp thúc phọc tức là phước và tội, rằng là Bà-la-môn .
Như Lai gọi người đã dứt hẳn pháp nhơ nhuốc (Maladina) như
vầng trăng ra khỏi đám mây, xán lạn là người trong sáng cao siêu, không
dơ đục, không có sự khoái lạc trong cõi đời nữa, rằng là Bà-la-môn.
Như Lai gọi người đã vượt qua vô minh như kẻ bị mắc bùn lầy khó triệt
thối [9
] được, là người qua khỏi rồi, đến bờ kia rồi, có sự trầm tư mặc
tưởng, vô ái dục, không còn sự ngờ vực, không câu nệ, con người đã dập
tắt rồi, rằng là Bà-la-môn.
Như Lai gọi người đã được diệt dục là bậc xuất gia, không nhà ở,
không dục vọng và dứt luân hồi rồi, rằng là Bà-la-môn.
Như Lai gọi người đã vượt qua và diệt ái dục dứt sự thèm khát rồi là
bậc xuất gia, không trị gia, không còn dục vọng và hết luân hồi rằng là
Bà-la-môn.
Như Lai gọi người ấy đã bỏ ngũ dục, mối bận bịu của hàng gia chủ đã
thoát ly phiền não rằng là Bà-la-môn.
Như Lai gọi người bỏ sự yêu thích, và sự giao hợp, người vô tư lự
thản nhiên không còn quyến luyến ái mộ cảm tình rằng là Bà-la-môn.
Như Lai gọi người hiểu biết sự sanh tử của chúng sanh hoàn toàn vô
ngại đã đến nơi an lạc rồi, giác ngộ rồi rằng là Bà-la-môn.
Như Lai gọi người mà chư Thiên, Càn Thát Bà và nhân loại không biết
rõ được Gati [10]
. . Người chẳng còn lậu phiền não là bậc A-la-hán, rằng là
Bà-la-môn.
Như Lai gọi người không có phiền não làm bận lòng phía trước, phía
sau và khoảng giữa là người thản nhiên bất câu [11
] rằng là Bà-la-môn.
Như Lai gọi bậc vô song đáng lựa chọn, có tinh tấn, người tầm đạo đức
cao siêu, đã thắng tối thượng rồi, là người bất động, đã tắm rửa sạch
rồi, giác ngộ rồi, rằng là Bà-la-môn.
Danh hiệu thông thường ấy chỉ là lời đàm thoại trong đời mà thôi, do
nhân nào?
Chỉ vì danh và tộc, đầu tiên là biệt hiệu mà thân quyến của người có
tên tuổi, dòng họ đã xác định, lúc người ấy sinh ra, rồi phỏng gọi nhau
truyền khẩu thành ý hiểu độc đoán, không biết mình. Khi đã quên mình thì
đem nhau kêu gọi là Bà-la-môn, là được theo dòng dõi như vậy.
Khi Ðức Thế Tôn thuyết rằng danh và tộc chỉ là phỏng đoán nhau theo
câu chuyện thường, vừa để hiểu nhau trong tạm thời, như thế rồi Ngài
giảng về sức thấy hiệu quả của nghiệp rằng: "ai là thế nào cũng do
nghiệp" như dưới đây:
Người là hạng hèn chẳng phải do huyết thống. Người là Bà-la-môn
chẳng phải do dòng dõi. Người là hạ tiện cũng vì nghiệp, hạng Bà-la-môn
cũng vì nghiệp, nông phu cũng bởi nghiệp. Bậc có giới đức cũng tại
nghiệp, thường nhân cũng do nghiệp, công nhân cũng tại nghiệp; đạo tặc
cũng bởi nghiệp; quân nhân cũng vì nghiệp; cố vấn cũng bởi nghiệp; đế
vương cũng tại nghiệp. Những bậc minh triết về thuyết Thập nhị duyên
khởi, quán triệt trong nghiệp và sự kết quả của nghiệp thấy rõ được
nghiệp ấy theo chân lý rằng: đời hằng thực hành theo nghiệp, chúng sinh
thường thực hành theo nghiệp; chúng sinh bị điều buộc trói ràng rịt cũng
vì nghiệp như cây nêm ngăn chận xe đang chạy. Song được là Bà-la-môn
cũng do nghiệp xuất chúng là:
Tapa: tu hành nghiêm khắc .
Brahmacariya: phạm hạnh .
Sa~n~nama: tự chế tự hóa .
Dama: chinh phục tình dục .
Bốn nghiệp siêu nhân [12
] Này mà người thực hành đầy đủ bằng trí tuệ để đàn áp được
phiền não, hết sinh tử luân hồi. Này Vaasettha! Ngươi hãy hiểu
rằng, người mà được gọi là Bà-la-môn theo các nhà học thức nhận thấy là
được bằng nghiệp như thế.
Chú thích:
- [1] Tam tạng Bà la môn giáo.
[2] Chủng loại: loài giống của sự vật.
[3] Song tính: giống đực, cái.
[4] Tư thể: trạng thái của động tác biểu hiện
ra bề ngoài như đứng ngồi
[5] Tấn triển: tiến tới, mở mang.
[6] Ô nhiễm: dính dơ, bẩn thỉu, cái xấu xa.
[7] Phiền não buộc trói trong nẻo luân hồi.
[8] Nhân duyên: như nhân quả.
[9] Triệt thối: rút lui, rút về.
[10] Gati: nơi mà chúng sinh phải đi lai sinh.
[11] Bất câu: không câu nệ.
[12] Siêu nhân: vượt lên trên cả người thường.