QUYỂN 4
TỨ DIỆU ĐẾ
CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT VỀ TỨ DIỆU ĐẾ
CHƯƠNG 2: KHỔ ĐẾ
I. Định nghĩa về chữ khổ đế
II. Luận về khổ đế của thế gian
III.Đức Phật nêu rõ những nỗi khổ ấy để làm gì
IV.Biết khổ phải tìm nguyên nhân sanh ra khổ để diệt trừ
CHƯƠNG 3:TẬP ĐẾ
I. Định nghĩa
II.Nguyên nhân của đau khổ là những gì
III.Tánh chất của mười món căn bản phiền não
IV.Tóm tắt ý nghĩa về kiến hoặc và tư hoặc
CHƯƠNG 4: DIỆT ĐẾ
I.Định nghĩa
II.Thứ lớp đoạn hoặc
III.Các bậc tu chứng
IV.Giá trị diệu dụng của bốn cõi thánh
V.Diệt đế tức niết bàn
VI.Niết bàn của Đại thừa giáo
VII.Biện minh về niết bàn
VIII.Một mẩu chuyện về niết bàn
CHƯƠNG 5:ĐẠO ĐẾ
A.Tứ niệm xứ
B.Tứ chánh cần
C.Tứ như ý túc
D.Ngũ căn, ngũ lực
E.Thất bồ đề phần
G.Bát chánh đạo
LỜI GIỚI THIỆU
Giáo lý đạo Phật thì quá sâu rộng, mà người hiểu đạo Phật một cách
tường tận, chính xác lại quá ít ỏi. Do đó, sinh ra cái tình trạng đáng
buồn là phần lớn những người công kích cũng như những người bênh vực đạo
Phật, đều không dựa trên một căn bản vững chắc nào cả. Họ thảo luận, họ
bàn cãi về đạo Phật một cách sai lạc, không đâu vào đâu, như hai người
lãng tai nói chuyện với nhau rồi.
Người công kích đạo Phật thì bảo đạo Phật là yếm thế, tiêu cực. Phương
pháp tu hành của đạo Phật là mơ hồ, vô hịeu quả; Niết bàn là hư vô,
không tưởng.
Người bênh vực đạo Phật thì bảo đạo Phật rất tích cực, phương pháp tu
hành của đạo Phật rất có hiệu quả và Niết bàn không phải là hư vô, không
tưởng.
Nhưng cả hai bênh, công kích cũng như bênh vực, đều không tìm đủ luận cứ xác đáng để bào chữa cho lập trường của mình.
Muốn hiểu rõ những vấn đề quan trọng trên: đạo Phật yếm thế hay không?
Cuộc đờ vuii hay khổ? Cái khổ hay vui ấy do đâu mà ra? Phương pháp tu
hành của đạo Phật có hay không có hiệu quả? Niết bàn có phải là hư vô
tịch diệt không? v.v... Muốn hiểunhững vấnđề ấy một cách đúng đắn, rõ
ràng, cần phải đọc ít nhất là Tứ Diệu Đế, một trong giáo lý căn bản của
Tiểu thừa nói riêng và của đạo Phật nói chung.
Phật tử mà chưa hiểu một cách rõ ràng, chính xác Tứ Diệu Đế thì chưa
xứng danh là Phật tử. Người tu hành mà chưa nghiên cứu một cách đầy đủ,
sâu xa Tứ Diệu Đế thì khó đi sâu vào đường đạo. Người công kích đạo Phật
mà chưa hiểu gì về Tứ Diệu Đế thì khoan công kích đã.
CHƯƠNG I
KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT
VỀ TỨ DIỆU ĐẾ
(Ariya Saccani)
I.- NGUYÊN NHÂN VÀ HOÀN CẢNH ĐỨC PHẬT THÍCH CA GIẢNG VỀ PHÁP TỨ DIỆU ĐẾ LẦN ĐẦU TIÊN
Ðức Phật Thích Ca, sau khi thành đạo dưới cội cây bồ đề, liền nghĩ
đến việc đem giáo lý của ngài vừa chứng được, ra truyền bá cho chúng
sanh. Nhưng giáo lý của ngài là giáo lý cao siêu, thâm diệu, còn chúng
sanh phần đông căn cơ còn thấp kém, khó có thể giác ngộ nhanh chóng như
ngài được. Nhưng không lẽ vì giáo pháp của Ngài thậm thâm vi diệu mà
không giáo hóa chúng sanh? Ðể làm tròn nhiệm vụ hóa độ của ngài, Phật
phương tiện nói pháp Tứ Diệu Ðế là Tiệm giáo để cho chúng sanh dễ bề tu
hành.
Quan sát căn cơ năm người bạn đồng tu với ngài trước kia là nhóm ông
Kiều Trần Như, có thể khai ngộ được với pháp Tứ Diệu Ðế, đức Phật đi đến
Lộc Uyển là nơi họ đang tu hành để nói pháp Tứ Diệu Ðế.
Sau khi nghe Phật thuyết pháp Tứ Diệu Ðế, thành kiến mê lầm tan vỡ,
trí huệ siêu thoát xuất hiện, năm vị này được ngộ đạo, chứng nhập
quả vị A La Hán. Ðó là năm vị đệ tử đầu tiên của đức Phật Thích Ca.
Từ đây về sau, Tứ Diệu Ðế là giáo lý căn bản về Tiệm giáo (phương pháp
tu chứng từtừ) và đã giác phộ cho không biết bao nhiêu đẹ tử của Phật.
Ngày nay, chúng tôi đem giáo pháp Tứ Diệu Ðế ra trình bày với quí vị độc giải trong tập sách này, cũng không ngoài mục đích ấy.
II.- ĐỊNH NGHĨA VỀ TỨ DIỆU ĐẾ
Tứ là bốn; Diệu là hay đẹp, quý báu, hoàn toàn; Ðế là sự chắc chắn, rõ ràng đúng đắn nhất. Chữ Phạn là Ariya Saccani.
Tứ diệu đế là bốn sự thật chắc chắn, quí báu, hoàn toàn nhất, không có
một giáo lý ngoại đạo nào có thể sánh kịp. Với bốn sự thật mà Ðức Phật
đã phát huy đây, người tu hành có thể từ địa vị tối tăm, mê mờ, đi dần
đến quả vị giác ngộ một cách chắc thật, không sai chạy, như một ngọn
đuốc thiêng có thể soi đưởng cho người bộ hành đi trong đêm tối đến
đích. Vì cái công dụng quí báu, mầu nhiệm, vô cùng lợi ích như thế nên
mới gọi là Diệu.
Chữ Ðế còn có nghĩa là một sự thật lớn nhất, cao nhất, bao trùm tất cả
các sự thật khác, và muôn đời bất di bất dịch, chứ không phải là sự thật
hạn cuộc trong không gian và thời gian. Trong giáo lý Tiểu thừa thì Tứ
diệu đé là giáo lý căn bản.
III.- TỨ DIỆU ĐẾ GỒM NHỮNG GÌ?
Tứ diệu đế, là: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Ðạo đế.
1.- Khổ đế (Dukkha)
Khổ đế là chân lý chắc thật, trình bày rõ ràng cho chúng ta thấy tất cả
những nỗi đau trên thế gian này mà mỗi chúng sinh đều phải chịu, như
sống là khổ, đau là khổ, già là khổ, chết là khổ v.v... những nỗi khổ
dẫy đầy trên thế gian, bao vây chúng ta, chìm đắm chúng ta như nước
biển. Do đó, đức Phật thường ví cõi đời là một bể khổ mênh mông.
2.- Tập đế (Sameda Dukkha)
Tập đế là chân lý chắc thật, trình bày nuyên nhân của bể khổ trần gian,
lý do vì đâu có những nỗi khổi ấy? Khổ đế như là bản kê hiện trạng của
chứng bệnh; còn Tập đế như là bản nói rõ nguyên nhân của chứng bệnh, lý
do vì sao có bệnh.
3.- Diệt đế (Nirodha Dukkha)
Diệt đế là chân lý chắc thật, trình bày rõ ràng hoàn cảnh quả vị an
lành, tốt đẹp mà chúng sanh sẽ đạt đến khi đã diệt trừ được những nỗi
khổ và những nguyên nhân của đau khổ. Diệt đế như là một bản cam đoan
của lương y nói rõ sau khi người bệnh lành thì sẽ ăn ngon, ngủ yên như
thế nào, thân thể sẽ tráng kiện, tâm hồn khoan khoái như thế nào.
4.- Ðạo đế (Nirodha Gamadukkha)
Ðạo đế là những phương pháp đúng đắn, chắc thật để diệt trừ đau khổ. Ðó
là chân lý chỉ rõ con đường quyết định đi đến cảnh giới Niết Bàn. Nói
một cách giản dị, đó là những phương pháp tu hành để diệt khổ và được
vui.
Ðạo đế cũng như cái toa thuốc mà vị lương y đã kê ra để người bịnh mua
vf\àd những lời chỉ dẫn mà bịnh nhân cần phải y theo để lành bệnh.
IV.- BỐ CỤC KỲ DIỆU CỦA TỨ DIỆU ĐẾ
Tứ Diệu Đế đã được đức Phật sắp đặt theo một thứ tự rất khôn khéo,
hợp lý, hợp tình. Ngày nay các nhà nghiên cứu Phật học Âu Tây, mỗi khi
nói đến Tứ Diệu Ðế, ngoài cái nghĩa lý sâu xa, nhận xét xác đáng, còn
tóm tắt tán thán cái kiến trúc, cái bố cục, cái thứ lớp của toàn bộ pháp
môn ấy.
Trước tiên, đức Phật chỉ cho chúng sanh thấy cái thảm cảnh hiện tại của
cõi đời. Cái thảm cảnh bi đát nầy có nằm ngay trước mắt ta, bên tai ta,
ngay trong chính mỗi chúng ta; những sự thật có thể thấy, nghe, ngửi,
nếm, rờ được, chứ không phải những sự thật xa lạ ở đâu đâu. Ðã là một
chúng sanh, ai không có sanh, ai không đau ốm, ai không già, ai không
chết v.v... Và những trạng thái ấy đều mang theo tánh chất khổ cả. Ðã có
thân, tất phải khổ. Ðó là một chân lý rõ ràng, giản dị, không ai là
không nhận thấy, nếu có một chút ít nhận xét.
Khi chỉ cho mọi người thấy cái khổ ở trước mắt, ở chung quanh và chính
trong mỗi chúng ta rồi, đức Phật mới đi qua giai đoạn thứ hai, là chỉ
cho chúng sanh thấy nguồn gốc, lý do của những nỗi khổ ấy. Ngài đã từ
hiện tại đi dần về quá khứ, đã từ bề mặt đi dần xuống bề sâu, đã từ cái
dễ thấy đến cái khó thấy. Như thế là lý luận của Ngài đã đặt căn bản lên
thực tại, lên những điều có thể chứng nghiệm được, chứ không phải xa
lạ, viễn vong, mơ hồ.
Ðến giai đoạn thứ ba, đức Phật nêu lên trình bày cho chúng ta thấy cái
vui thú của sự hết khổ. Giai đoạn nầy tương phản với giai đoạn thứ nhứt:
giai đoạn trên khổ sở như thế nào, thì giai đoạn nầy lại vui thú như
thế ấy. Cảnh giới vui thú mà ngài trình bày cho chúng ta thấy ở đây,
cũng không có gì là mơ hồ, viễn vong, vì nếu đã có cái khổ là cái vui.
Và khi đã thấy rõ được cái khổ như thế nào, thì mới hăng hái tìm cách
thoát khổ và khao khát hướng đến cái vui mà đức Phật đã giới thiệu.
Ðến giai đoạn thứ tư là giai đoạn Phật dạy những phương pháp để thực
hiện cái vui ấy. Ở đây chúng ta nên chú ý là đức Phật trình bày cảnh
giới giải thoát trước, rồi mới chỉ bày phương pháp tu hành sau. Ðó là
một lối trình bày rất khôn khéo, đúng tâm lý: trước khi bảo người ta đi,
thì phải nêu mục đích sẽ đến như thế nào, rồi để người ta suy xét, lựa
chọn có nên đi hay không. nếu người ta nhận thấy mục đích ấy cao quý,
đẹp đẽ, khi ấy người ta mới hăng hái, nỗ lực không quản khó nhọc, để
thực hiện cho được mục đích ấy.
Như thế, chúng ta có thể phác họa lại cái bố cục của bức họa Tứ Diệu Ðế như sau:
Chúng ta đang đứng trước một bức họa vĩ đại gồm có hai phần chính: Phần
dưới là một bể thẳm mênh mông, sóng gió tơi bời, trong ấy thuyền bè đang
bị đắm chìm, với vô số nạn nhân đang lặn hụp, kêu la, khóc lóc, chới
với...(Khổ đế).
Trong cái phần nầy của bức tranh, ta cũng thấy được những nguyên nhân
gây ra những thảm họa ấy: đó là những luồng gió dục vọng, tham, sân,
si.. những đám mây vô minh đen nghịt, che khuất cả mặt trời (Tập đế).
Nhìn đến phần trên của bức họa, ta thấy quang cảnh dần dần sáng sủa, yên
tĩnh; ở đây, giông tố không đến được, không có những vực sâu, hố hiểm,
không có những nạn nhân đang rên siết, khóc than... Đây là một miền cao
nguyên, càng lên cao, cảnh trí càng đẹp đẽ, yên vui. Người ở đây trông
có vẻ bình tĩnh, thảnh thơi, vui vẻ lắm; và cũng như cảnh trí, những
người càng ở tầng bậc cao thì lại càng có dung mạo đẹp đẽ, cốt cách
phương phi, giải thoát...(Diệt đế).
Trong phần nầy, nếu chúng ta chú ý nhìn rõ, thì thấy từ một cảnh ở dưới
lên một cảnh trên, có những con đường đi với những cái bản đề tên đường
đi, rất hay như: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Bát chánh đạo
v.v... Trên những con đường ấy, có rất nhiều người đang đi lên, và rất
ít người đi xuống. Và càng lên cao thì con đường lại càng rộng rãi mát
mẻ, tốt đẹp và những khách bộ hành lại càng mang rất ít hành lý...(Ðạo
đế).
Bức họa ấy có ghi mấy chữ ở phần dưới là: "Thế gian" và phần trên là "Xuất thế gian".
Ðây, bức họa Tứ Diệu Ðế rõ ràng trình bày ra trước mắt chúng ta hai cảnh
giới: Thế gian và Xuất thế gian, tương phản như thế đó. Những ai đã
nhìn được bức họa ấy, tất đều có một thái độ là muốn xa lành cảnh ở phần
dưới và mong ước được sống trong cảnh giới trình bày ở phần trên bức
họa.
V.- ĐỊA VỊ QUAN TRỌNG CỦA TỨ DIỆU ĐẾ TRONG TOÀN BỘ GIÁO LÝ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA
Tứ Diệu Ðế là giáo lý căn bản của đạo Phật, không phải riêng đối với
Tiểu Thừa mà chung cho cả Ðại Thừa nữa. Người tu hành muốn có một kết
quả chắc chắn, không thể bỏ qua Tứ Diệu Ðế được. Pháp môn nầy, tuy tiến
chậm, nhưng khi tiến được bước nào là chắc bước nấy. Pháp môn nầy tuy
không đưa thẳng người tu hành đến quả vị Phật, nhưng với một sự tinh tấn
và quyết tâm nó có thể dễ dàng đưa người tu hành đến quả vị A La Hán.
Rồi từ quả vị A La Hán, hành giả sẽ tu thêm một pháp môn khác của Ðại
Thừa, để tiến đến quả vị Phật. Căn cơ nào, trình độ nào cũng có thể tu
theo pháp môn nầy được, chứ không phải như một số pháp môn khác, phải
cần có một trình độ học thức cao và một trí tuệ trên mức trung bình mới
có thể theo được. Vì thế, nó là một pháp môn phổ thông cho cả hai phái
Tiểu Thừa lẫn Ðại Thừa, Nam tông và Bắc tông. Ngày nay pháp môn này là
pháp môn được phổ biến nhất trên thế giới. Các Phật tử Âu Mỹ hầu hết đều
tu theo pháp môn nầy và những tập sách nghiên cứu về đạo Phật, của
những nhà Phật học tây phương đều nói nhiều nhất về Tứ Diệu Ðế.
VI.- PHẬT TỬ PHẢI HỌC VÀ THỰC HÀNH PHÁP TỨ DIỆU ĐẾ
Một giáo lý căn bản, quan trọng như Tứ Diệu Ðế, người Phật tử không
thể không hiểu được. Không hiểu biết về Tứ Diệu Ðế là không hiểu biết gì
về giáo lý đạo Phật cả. Người Phật tử, hơn ai cả, phải thấu triệt cõi
đời là khổ. Muốn thế, không gì hơn là hãy lắng nghe đức Phật dạy về Khổ
đế, vì chỉ có Khổ đế mới nói lên một cách tường tận đầy đủ, chính xác về
mọi nỗi khổ đau của cõi đời.
Thấy rõ được mọi nỗi khổ đau rồi, ta cần tìm hiểu vì đâu có khổ, nguyên
nhân của khổ là đâu. Vì chỉ khi nhận thấy được nguồn gốc của nó, mới có
thể diệt trừ tận gốc nó được. Ðiều này, cũng không chỗ nào nói rõ ràng,
phân tích ràng mạch bằng Tập đế. Nhưng thấy được mọi nỗi đau khổ của cõi
đời và nguồn gốc của nó, không phải để mà chán ngán, khóc lóc, rên
siết. Nếu thế thì không có gì tiêu cực bi quan bằng. Một số dư luận
tưởng lầm đạo Phật là yểm thế bi quan là vì họ đã dừng lại ở hai phần
đầu của Tứ Diệu Ðế.
Nhưng người Phật tử không dừng lại đó. Ðã thấy đau khổ làm cho cuộc đời
xấu xa, đen tối, khổ đau, thì phải diệt trừ đau khổ. Hạnh phúc không đâu
xa, hạnh phúc hiện ra sau khi đã diệt trừ được đau khổ. Ðau khổ lùi
chừng nào thì hạnh phúc đến chứng ấy, như bóng tối tan đi đến đâu thì
ánh sáng thay vào đến đó. Muốn thấy ánh sáng của Niết Bàn thì phải thực
hiện những lời dạy của Phật trong Diệt đế.
Muốn thực hiện Niết Bàn thì phải có đủ phương tiện. Những phương tiện
nầy, đức Phật đã cung cấp một cách đầy đủ trong trong Ðạo đế.
Như thế, đức Phật Thích Ca đã làm đầy đủ nhiệm vụ của kẻ dẫn đường cho
chúng ta đi từ cõi đời đen tối đến quả vị A La Hán. Ngài đã đặt vào tay
chúng ta một bản đồ chỉ dẫn rõ ràng về cuộc hành trình và ban cho chúng
ta đầy đủ phương tiện cần thiết trong chuyến đi vĩ đại ấy.
Chúng ta chỉ còn lên đường và bước đi.
CHƯƠNG HAI
KHỔ ĐẾ
(Dukkha)
ĐỜI LÀ MỘT BIỂN KHỔ ĐẦY MỒ HÔI VÀ NƯỚC MẮT
Có một số người cho rằng đời là một bữa tiệc dài, không hưởng thụ cũng
uổng. Do đó, họ không để lỡ một dịp nào có thể đem lại cho họ những
khoái lạc vật chất.
Nhưng họ không ngờ rằng những khoái lạc ấy điều là giả dối, lừa phỉnh,
chẳng khác gì cái khoái lạc mong manh của người khát mà uống nước mặn,
càng uống lại càng khát; và cổ họng, sau cái phút uống vào, lại thêm
đắng chát.
Khế kinh có câu: "Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển". Thật thế!
Cõi đời không vui, cõi đời toàn là khổ. Những nỗi vui, nếu có, cũng chỉ
là tạm bợ, hào nhoáng như một lớp son bên ngoài mà thôi; chứ bản chất
của cõi đời là đau khổ. Cõi đời là một biển đầy mồ hôi và nước mắt,
trong ấy chúng sinh đang bơi lội, hụt lặn, chìm nổi, trôi lăn. Ðó là sự
thật. Nhưng sự thật ấy, không ai nhìn thấy một cách tường tận và nói lên
một cách rõ ràng như đức Phật đã nói trong khổ đế, phần thứ nhứt của Tứ
Diệu Ðế.
I.- ĐỊNH NGHĨA CHỮ KHỔ ĐẾ (DUKKHA)
Khổ đế, do chữ Dukkha mà ra. "Du", nghĩa là khó; "kkha" là chịu đựng,
khó kham nhẫn. Dukkha nghĩa là đắng; nghĩa rộng là những cái gì làm cho
mình khó chịu, mình đau đớn như: ốm đau, đói khát, buồn rầu, sợ hãi
v.v..
"Ðế" là một sự thật vững chắc, đúng đắn, hoàn toàn, cao hơn cả.
Khổ đế, là sự thật đúng đắn vững chắc cao hơn cả về sự khổ ở thế gian.
Sự thật nầy nó rõ ràng, minh bạch không ai có thể chối cãi được.
Dưới đây, chúng ta hãy nghe đức Phật giải bày một cách tường tận, sâu sắc, tỉ mỉ về sự khổ của thế gian.
II.- LUẬN VỀ KHỔ ĐẾ CỦA THẾ GIAN
Kể cho hết cả sự khổ ở thế gian, thì không bao giờ cùng. Song căn cứ
theo kinh Phật, có thể phân loại ra làm ba thứ khổ (tam khổ) hay tám thứ
khổ (bát khổ).
1.- Ba khổ: Ba thứ khổ là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
a.- Khổ khổ:
Cái khổ chồng chất lên cái khổ, bản thân đã là khổ, mà hoàn cảnh chung quanh lại đè lên bao cái khổ khác: đó là "Khổ khổ".
Thật thế, mỗi một chúng sanh, tự mình đã là nạn nhân của bao nhiêu cái
khổ, cái xấu xa; thân thể là một bầu thịt xương dơ bẩn, nếu một vài
ngày, không săn sóc, rửa ráy, thì thối tha không thể chịu đựng được. Hơn
nữa, cái thân ấy cũng không bền chắn, mà trái lại rất mong manh: khát
nước độ ba ngày, ngạt thở độ năm phút, đứt một mạch máu, bị nhiễm một số
vi trùng độc...thế là mạng vong.
lại trên cái khổ sống chết bất ngờ mà con người không làm chủ được, còn
nhiều cái khổ khác nữa chất chồng, không sao tránh khỏi được như: bệnh
tật, đói khát, bão lụt, hỏa hoạn, chiến tranh, áp bức, sưu cao thuế nặng
v.v... Vì thế nên gọi là "khổ khổ".
b.- Hoại khổ:
Trong Khế kinh chép: "Phàm vật có hình tướng đều phải bị hoại diệt".
Thực thế, vạn vật trong vũ trụ đều bị luật vô thường chi phối, không tồn
tại mãi được. Cứng rắn như sắt đá, lâu năm cũng mục nát; to lớn như
trái đất, mặt trăng, mặt trời lâu ngày cũng tan rã. Yếu ớt, nhỏ nhen như
thân người, thì mạng sống lại càng ngắn ngủi, phù du! Cái búa tàn ác
của thời gian đập phá tất cả; mỗi phút mỗi giây ta sống, cũng là mỗi
phút mỗi giây ta đang bị hủy hoại. Và dù ta có sức mạnh bao nhiêu, quyền
thế bao nhiêu, giàu có bao nhiêu cũng không thể cản ngăn, chống đỡ
không cho thời gian hủy diệt đời ta. Ta hoàn toàn bất lực trước thời
gian. Thật là khổ sở, tủi nhục, đớn đau!
c.- Hành khổ:
Về phương diện vật chất, ta bị ngoại cảnh, thời gian chi phối, phá
hoại; còn về phương diện tinh thần, ta cũng không hề tự chủ, yên ổn, tự
do được. Tâm hồn ta thường bị dục vọng dằn vặt, lôi kéo, thúc đẩy từng
phút từng giây. Tư tưởng ta cũng luôn luôn biến chuyển nhảy vọt lăng
xăng từ chuyện này sang chuyện khác, như con ngựa không cương, như con
vượn chuyền cây, không bao giờ dừng nghỉ. Thật là đúng như lời Phật dạy:
"tâm viên, ý mã".
Nếu xét sâu xa hơn nữa, ta sẽ thấy tâm hồn ta còn bị cái phần bên trong
kín sâu, nằm dưới ý thức, là phần tiềm thức chi phối, sai sử một cách vô
cùng mãnh liệt trong mỗi ý nghĩ, cử chỉ hành động của chúng ta. Ta
giận, ta thương, ta ghét, ta muốn thứ này, ta thích thứ kia, phần nhiều
là do tiềm thức ta sai sử, ra mệnh lệnh.
Nói tóm lại, ta không được tự do, ta bị chi phối bởi những ý tưởng, dục
vọng, tiềm thức, và luôn luôn chịu mệnh lệnh của chúng. Ðó là "Hành
khổ".
2.- Tám khổ: nếu chúng ta phân tích tỉ mỉ hơn, thì cái khổ của thế gian
có thể chia ra làm tám loại. Tám loại này tựu trung cũng ngoài ba khổ
kia.
Tám loại khổ: sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu
bất đắc khổ, oán tắng hội khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Dưới đây chúng ta
hãy nói rõ về tám nỗi khổ ấy.
a.- Sanh khổ:
Sự sanh sống của con người có hai phần khổ: Khổ trong lúc sanh, khổ trong đời sống.
- Khổ trong lúc sanh. Người sanh và kẻ bị sanh đều khổ cả. Khi người mẹ
mới có thai là đã bắt đầu biếng ăn, mất ngủ, nôn ọe, dã dượi, bất
thần... Thai mỗi ngày mỗi lớn, thì người mẹ mỗi ngày mỗi mệt mỏi, nặng
nề, đi đứng khó khăn, làm lụng chậm chạp. Ðến khi gần sanh, sự đau đớn
của người mẹ không sao nói xiết. Dầu được thuận thai đi nữa, mẹ cũng
phải chịu dơ uế nhiều ngày, yếu đuối nhiều tháng, vì tinh huyết hao mòn,
ngũ tạng suy kém. Còn rủi bị nghịch thai, thì mẹ phải bị mổ xẻ, đau đớn
nhiều nữa. Có khi sau một lần sinh bị giải phẩu, mẹ phải chịu tật suốt
đời.
Còn con, từ khi mới đầu thai cho đến lúc chào đời, cũng phải chịu nhiều
điều khổ sở. Trải qua chín tháng mười ngày, con bị giam hãm trong khoảng
tối tăm, chật hẹp, còn hơn cả lao tù! Mẹ đói cơm, khát nước, thì con ở
trong thai bào lỏng bỏng như bong bóng phập phều. Mẹ ăn no thì con bị ép
như bồng bột bị đè dưới thớt cối, khó bề cựa quậy. Ðến kỳ sanh sản,
thân con phải chen qua chỗ chật hẹp như bị đá ép bốn bể, nên khi vừa
thoát ra ngoài, liền cất tiếng khóc vang: "khổ a! Khổ a!". Thật đúng như
hai câu thơ của Ôn Như Hầu:
Thảo nào lúc mới chôn nhau,
Ðã mang tiếng khóc ban đầu mà ra!
- Khổ trong đời sống. Về phương diện vật chất, hay tinh thần, đời sống đều có nhiều điều khổ sở.
Về vật chất, con người đòi hỏi những nhu cầu thiết yếu như món ăn, thức
uống, đồ mặc, nhà ở, thuốc men. Muốn có những nhu cầu ấy, con người phải
cần lao kham khổ, đổ mồi hôi, sôi nước mắt, mới mua được chén gạo, bát
cơm, manh quần, tấm áo. Về nhà ở, thì có khi suốt đời vất vả làm lụng,
vẫn không đủ sức tạo được một ngôi nhà nho nhỏ.
Nhưng chẳng phải đợi đến cảnh đói khát mới gọi khổ; ăn uống thất thường,
thiếu thốn cũng đã là khổ rồi. Chẳng đợi phải lâm vào cảnh màn trời
chiếu đất, hay ăn lông ở lỗ mới gọi là khổ; áo quần không đủ ấm, nhà cửa
không che được nắng mưa, cũng đã là khổ rồi. Nhưng nào phải chỉ có
những người nghèo hèn mới khổ đâu? Người giàu có cũng cứ khổ như thường:
muốn có tiền, tất phải thức khuya dậy sớm, buôn tảo bán tần, đầu tắt
mặt tối trong công việc, đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có được, chứ đâu
phải tiền bạc ở trên hư không rơi xuống cho đâu! Ðó là còn chưa nói dến
những nỗi khổ vật chất bất thường khác nữa mà không ai có thể tránh khỏi
được.
Về phương diện tinh thần, đời người cũng có nhiều điều khổ nhục, có
nhiều khi còn đau khổ hơn cả những thiếu thốn vật chất. Không nói gì
nhiều, chỉ xin đơn cử ở đây một thí dụ về nỗi khổ trong sự học hỏi.
Muốn tìm lẽ phải, chơn lý, đạo đức, tất phải gia công học hỏi nhiều năm
cả về phương diện lý thuyết lẫn thực nghiệm. Về lý thuyết ta học trong
sách vở với thầy với bạn hay tự học. Về thực nghiệm, ta học giữa đời
trong lúc tiếp xúc với mọi người. Nhưng dù lý thuyết hay thực nghiệm ta
cũng gặp lắm điều khổ sở, khó khăn. Như học lý thuyết với thầy ở trường,
lắm khi gặp bài khó, lại thêm thầy giảng dạy quá cao, học trò không thu
nhận được gì hết, thế là người giận kẻ buồn, khổ tâm quá ! Còn tự học ở
nhà với quyển sách trơn, có lúc gặp đoạn văn mắc mỏ, lại không đủ tài
liệu tra cứu thêm, bị bít lối ra, rồi khởi tâm tức giận buồn phiền, cũng
là khổ. Về sự học thực nghiệm ở đời, lắm khi cũng phải trả một giá rất
đắc. Ta sẽ bị người này phỉnh gạt, người kia áp bức, kẻ nọ oán thù, kẻ
kia khinh bỉ... bao nhiêu hạng người là bấy nhiêu tâm tánh. Và hiểu đời
được một phần nào là ta đã phải chịu đựng biết bao nhục nhã, khổ đau.
Tóm lại, về vật chất hay tinh thầnh, sự sống mang theo nhiều cái khổ. Sanh khổ là thế.
b.- Lão khổ:
Ca dao có câu:
Già nua là cảnh cảnh điêu tàn,
Cây già cây cỗi, người già người si.
Con người đến lúc già, thân thể hao mòn, tinh thần suy kém, nên khổ thể xác lẫn tinh thần.
- Khổ thể xác: Càng già, khí huyết càng hao mòn. Bên trong, ngũ tạng,
lục phủ càng ngày càng mỏi mệt, hoạt động một cách yếu ớt; bên ngoài các
giác quan dần dần hư hoại, như mắt mờ, tai điếc, mũi nghẹt, lưỡi đớ,
tay chân run rẩy, đi đứng khó khăn, việc gì cũng nhờ vả kẻ khác.
Ðã vậy, mỗi khi thời tiết xoay trở thì cảm nhiễm theo khí hậu mà đau,
như trời mới nắng thì đã sốt, trời mới mưa thì đã rét v.v.. không chút
gì gọi là vui thú cả!
- Khổ tinh thần: Người xưa có nói: "Ða thọ, đa nhục". Thật thế, tuổi
nhiều, nhục lắm! Càng già thân thể càng suy kém thì trí tuệ cũng càng lu
mờ. Do đó, sanh ra lẫn lộn, quên trước, mất sau, hành động như kẻ ngây
dại: ăn dơ, uống bẩn; nói năng giống người mất trí; ăn rồi bảo chưa ăn,
chưa ăn bảo ăn rồi; có khi lại còn chửi bới, nói nhảm nhí làm trò cười
cho lũ trẻ. Thật đúng là "Lão khổ".
c.- Bệnh khổ:
Hành hạ xác thân con người, làm cho nó kht sở không gì hơn là cái
đau! Ðã đau, bất luận là đau gì, từ cái đau lặt vặt như đau răng, nhức
đầu, đến cái đau trầm trọng như phung, lao v.v... đều làm cho con người
phải rên xiết, khổ sở, khó chịu. Nhất là những bệnh trầm kha (lâu ngày
khó chữa), thì lại càng hành hạ xác thân, đắng cơm, nghẹn nước, cầu sống
không được, cầu chết cũng không, oan oan, ương ương, thật là khổ não.
Thân đã đau, mà tiền lại hết. Có nhiều người sau một trận đau, chỉ còn
hai bàn tay trắng! Cho nên ngạn ngữ có câu: "Không đau làm giàu biết
mấy". Ngoài ra, bệnh tật lại còn làm cho lục thân quyến thuộc buồn rầu,
lo sợ. Mỗi lần trong nhà có người đau, thì cả gia quyến đều rộn rịp, băn
khoăn ngồi đứng không yên, quên ăn quên ngủ, biếng nói, biếng cười, bỏ
công ăn việc làm. thật đúng là "Bệnh khổ".
d.- Tử khổ:
Trong bốn hiện tượng của vô thường; sanh, già, bệnh, chết thì "chết"
là cái làm cho chúng sanh kinh hãi nhất. Con người sợ chết đến đổi ở
trong hoàn cảnh sống thừa, đáng lẽ không nên sống làm gì nữa, thế mà
nghe nói đến cái chết, cũng sợ không dám nghĩ đến. Những người xấu số bị
bịnh nan y như ung thư, bịnh hủi, sống thêm một ngày là khổ thêm một
ngày, thế mà những người bạc phước ấy cũng vẫn muốn sống mà thôi.
Cái chết làm khổ con người như thế nào mà ai cũng sợ hãi thế?
- Về thân xác: Có mục kích một người bệnh khi hấp hối bị hành xác rồi
mới biết cái chết là đáng sợ. Người sắp chết, mệt ngột không ngằn, trợ
mắt, méo miệng, giựt gân chuyển cốt, uốn mình, giăng tay, bẻ chân...
Trong lúc ấy tai hết nghe, mắt hết thấy, mũi hết thở, miệng hết nói. Rờ
thử vào người chết, thì thấy lạnh ngắt như đồng, thân cứng đơ như gỗ.
Xác chết dần dần sình lên, trong rất ghê tởm; nếu để lâu ngày lại nứt
ra, chảy nước tanh hôi khó chịu vô cùng.
- Về tinh thần: Khi sắp chết, tâm thần rối loạn, sợ hãi vô cùng: phần
xót thương cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái từ đây đoạn tuyệt, phần lo
mình một thân cô quạnh, bước sang thế giới mịt mù xa lạ. Thật không còn
gì đau khổ bằng phút chia ly vĩnh viễn này!
Tóm lại, cái chết làm cho thân thể tan rã, thần thức theo nghiệp dẫn đi thọ sanh ở một cõi nào chưa rõ. Thật là "Tử khổ".
e.- Ái biệt ly khổ:
Trong cái tình yêu thương giữa vợ chồng, con cái, anh em đang mặn
nồng, thắm thiết mà bị chia ly, thì thật không có gì đau đớn hơn. Sự
chia ly có hai loại: sanh ly và tử biệt.
- Sanh ly khổ: Một gia đình đang sống trong cảnh đàm ấm vui vầy, bỗng bì
hoàn cảnh bắt buộc, hay vì một tai họa thình lình xảy đến, như giặc
giã, bão lụt... làm cho mỗi người bơ vơ thất lạc mỗi nơi: kẻ đầu này
trông đợi, người góc kia nhớ chờ. Thật đau lòng xót dạ! Người đời thường
nói: "Thà lìa tử, chứ ai nỡ lìa sanh!". Ðó là cái khổ của "Sanh ly".
- Tử biệt khổ: Nhưng mặc dù xa cách nhau người sống còn có ngày gặp gỡ;
chứ chết rồi bao thuở được vum vầy! Vì vậy, đứng trước cảnh chết, là một
sự biệt ly vĩnh viễn, con người không ai là chẳng khổ đau. Do đó, lâm
phải cảnh tử biệt này, có người đã xót thương rầu rĩ đến quên ăn, bỏ
ngủ, có người đau đớn, tuyệt vọng đến nỗi toan chết theo người quá cố.
Ðó là cái khổ của "Tử biệt".
f.- Cầu bất đắc khổ (thất vọng):
Người ta ở đời, hễ hy vọng càng nhiều thì thất vọng càng lắm. Bất
luận trong một vấn đề gì, số người được toại nguyện thì quá hiếm hoi, mà
kẻ thất bại bất như ý, thì không sao kể xiết. Muốn được kết quả tốt
đẹp, người ta phải vận dụng không biết bao nhiêu năng lực, lao tâm, tổn
trí, mất ăn, bỏ ngủ, chỉ mong sao cho chóng đến ngày thành công. Thế
rồi, chẳng may những điều thành công. Thế rồi, chẳng may những điều mong
ước ấy không thành, sự đau khổ không biết đâu là bờ bến. Dưới đây, xin
nêu lên vài thí dụ về những thất vọng mà người đời thường gặp nhiều
nhất.
- Thất vọng vì công danh: Trong đời, danh vọng thường là một miếng mồi
ngon mà phần đông người đời ưa thích. Nhưng miếng mồi ấy, phải đâu dễ
giành giật được? Không nói gì đến những kẻ nhảy dù, muốn làm quan tắt,
nên phần nhiều hay thất bại, chỉ nói đến trường hợp những kẻ mong cầu
danh vọng một cách chánh đáng, bằng nănglực, tài trí, học hỏi của mình.
Ðối với những hạnh người này, cũng phải nếm bao mùi thất bại, cuối cùng
may ra mới được thành công. Thật đúng như lời Ôn Như Hầu Nguyễn gia
Thiều đã nói:
Gót danh lợi, bùn pha sắc xám,
Mặt phong trầng nắng nám mùi dâu!
- Thất vọng vì phú quý: Số người thất vọng vì công danh đã nhiều.
Nhưng số người thất vọng vì phú quý cũng không phải ít. Muốn cho mau
giàu, nhiều người tìm mưu này chước nọ để lừa phỉnh người ta; nhưng rồi
mưu gian chước lận đỗ bể ra, tài sản bị tịch thu, bản thân bị tù tội,
gia quyến bị nhục nhã theo, thực là khổ!
- Thất vọng vì tình duyên: Tình duyên cũng là một điều làm cho bao người
phải điêu đứng, khổ sở. Trong trường tình ái, thử hỏi đã mấy ai được
toại nguyện? Nhan nhãn trên báo chí hằng ngày, những câu chuyện tình
duyên trắc trở đưa đến sự quyên sinh, thật không sao kể xiết. Ðấy là
"Cầu bất đắc khổ".
g.- Oán tắng hội khổ:
Con người ở trong cảnh thương yêu, chẳng ai muốn chia ly; cũng như ở
trong cảnh hờn ghét, chẳng ai mong gặp gỡ. Nhưng oái oăm thay! Ở đời khi
mong muốn được hội ngộ, lại phải chia ly; cũng như khi mong ước được xa
lìa, lại phải sống chung đụng nhau hằng ngày! Cái khổ phải biệt ly đối
với hai người thương yêu nhau như thế nào, thì cái khổi phải hội ngộ đối
với hai người ghét nhau cũng như thế ấy.
Người ta thường nói: "Thấy mặt kẻ thù, như kim đâm vào mắt; ở chung với người nghịch, như nếm mật, nằm gai".
Chưa nói đến trường hợp những người xa lạ, ngay trong gia đình bà con
quyến thuộc, giữa vợ chồng, anh em, khi vì một lý do gì đó, sanh ra bất
hòa với nhau, cũng đủ khó chịu rồi. Muốn lánh mặt nhau, mà mỗi khi đi ra
đi vào lại phải gặp nhau mãi! Quyết không nói chuyện với nhau, mà nhiều
khi bắt buộc nín không được, phải nói ra với sự ngượng ngùng. Ðịnh
tuyệt giao hẳn, ngặt vì còn phải ăn chung ở lộn một nhà, dầu cố sức trốn
tránh, song lắm lúc cũng phải giao thiệp lấy lệ. Thật là khổ. Ðấy là bà
con cật ruột, có tình cốt nhục, có nghĩa đồng bào, mà sự hờn ghét còn
thúc đẩy con người hết muốn thân mến, không mong gặp gỡ nhau thay! Huống
chi đối với người dưng, nước lã, khác giống, khác nòi, một khi đã thù
ghét nhau rồi mà phải sống bên cạnh nhau thì thế nào cũng có một ngày
xảy ra đại họa. Ðó là ý nghĩa của "Oán tắng hội khổ".
h.- Ngũ ấm xí thạnh khổ:
Cái thân tứ đại của con người cũng gọi là thân ngũ ấm (năm món che
đậy): sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Với cái thân ngũ ấm
ấy, con người phải chịu không biết bao nhiêu là điều khổ. Giữa ngũ ấm ấy
luôn luôn có sự xung đột, mâu thuẫn, chi phối lẫn nhau. Vì sự xung đột,
mâu thuẫn ấy, nên cái thân con người mới chịu những cái khổi sau đây:
- Bị luật vô thường chi phối không ngừng, từ trẻ đến già, từ mạnh đến
ốm, từ đau đến chết, luôn luôn làm cho con người phải lo sợ, buồn
phiền.
- Bị thất tình, lục dục lôi cuốn, làm cho con người phải đắm nhiểm sáu trần, phải khổ lụy thân tâm.
- Bị vọng thức điên đảo chấp trước, nên con người nhận thấy một cách sai
lầm: có ta, có người, còn mất, khôn dại, có không, và sanh ra rầu lo,
khổ não. Ấy là "Ngũ ấm xí thạnh khổ."
III.- ĐỨC PHẬT NÊU RÕ NHỮNG NỖI KHỔ ẤY ĐỂ LÀM GÌ?
Có người sẽ băn khoăn, thắc mắc tự hỏi: Ðức Phật nêu lên một cách rốt
ráo những nỗi khổ của thế gian để làm gì? Cuộc đời đã đau khổ như thế,
thì nên che dấu bớt đi chừng nào hay chừng ấy, chứ sao lại lột trần nó
ra làm gì cho người ta càng thêm đau khổ? Ta cố gắng tạo nên một ảo
tưởng tốt đẹp về cuộc đời để sống an ổn trong ấy, có hơn không? Ðứa trẻ
nít sống một cách hồn nhiên, yên ổn trong hạnh phúc, vì nó không biết
đến những nỗi đau khổ, xấu xa của cuộc đời. Tại sao ta lại không cố bắt
chước như chúng, đừng tìm biết gì cả về những sự xấu xa, khổ sở của cõi
đời, để sống một cuộc sống có hạnh phúc hơn? Ðức Phật là một đấng thường
được gọi là đấng từ bi, sao lại làm một việc nhẫn tâm như thế?
Những câu hỏi thắc mắc trên, mới nghe thì hình như có lý, nhưng nếu suy
xét một cách rốt ráo, sẽ thấy chúng là nông cạn. Ðức Phật không nhẫn tâm
khi nêu lên những nỗi khổ căn bản của cõi đời; chính là vì lòng từ bi
mà ngài làm như thế. Ðức Phật muốn cho người đời biết rõ những nỗi khổ
của trần gian, vì những lợi ích lớn sau đây:
1.- Gặp cảnh không khủng khiếp:
Những nỗi khổ mà đức Phật nói ra ở trên là những nổi khổ căn bản, không
ai tránh khỏi được. Ðã sống, tất phải gặp chúng. Có ai không ốm, không
già, không chết? Có ai suốt đời không gặp chia ly với người thân thuộc,
không bị chung sống với những kẻ thù nghịch? Có ai đạt được tất cả những
điều mình mong ước? Cho nên dù có muốn tạo ra một ảo tưởng đẹp đẽ về
cuộc đời để sống cho yên ổn, thì ảo tưởng ấy, sớm hay muộn gì cũng sẽ bị
thực tế phủ phàng xé tan đi mất! Và khi ấy, cuộc thế trần truồng, xấu
xí, ghê tởm sẽ hiện ra một cách vô cùng đột ngột, trước mắt những kẻ
thường quen sống trong ảo tưởng đẹp đẽ. Bấy giờ những kẻ thiếu chuẩn bị
để sống một cuộc sống đau khổ, sẽ hoảng lên, vô cùng tuyệt vọng và có
nhiều khi không đủ can đảm để sống nữa.
Trái lại, khi chúng ta biết rõ cảnh Ta Bà này có nhiều điều khổ, thì gặp
cảnh khổ, chúng ta không đến nỗi khủng khiếp, tán loạn tinh thần, mà
trái lại, chúng ta sẽ điềm tĩnh nhẫn nại để tìm phương giải thoát. Tỷ
như nhà nông, biết bổn phận mình là phải vất vả với nghề cày sâu cuốc
bẫm, tay lấm chân bùn, mới có lúa gạo để sống, nên gặp cảnh mưa tuôn,
nắng táp cũng không nao núng chút nào. Trái lại, một kẻ quyền quí, quen
sống trong nhung lụa, trong cảnh đền đài nguy nga, rủi gặp thời cuộc hổn
loạn, đôi thay bất ngờ, đâm ra kinh hãi và liều mình tự tử.
2.- Không tham cầu nên khỏi bị hoàn cảnh chi phối:
Khi chúng ta rõ biết cuộc đời vui ít buồn nhiều, và hễ càng ham muốn
nhiều thì lại càng đau khổ lắm, khi biết rõ như thế, chúng ta sẽ tiết
chế dục vọng của chúng ta và sẽ "biết đủ". Do đó, chúng ta không bị hoàn
cảnh chi phối, không bị sóng đời lôi kéo, vùi dập chúng ta xuống vực
thẳm mênh mông của cõi Ta Bà đen tối. Tỷ như người trí, rủi bị giam cầm,
biết lo nghĩ phương kế để thoát ly lao ngục, chứ không như kẻ dại,
trong khi ngồi tù, chỉ lo tranh giành những món cơm thừa, canh cặn mà
quên rằng mình sẽ bị đem xử tử, nếu mình không sớm tìm kế thoát thân.
3.- Gắng sức tu hành để thoát khổ:
Khi đã biết thân người nhiều khổ và cảnh Ta Bà ít vui, con người mới
mong ước được thoát ly ra khỏi cảnh giới đen tối của mình và sống ở một
cảnh giới tốt đẹp hơn. Cũng như lũ trẻ đang chơi mê mẩn trong cảnh nhà
đang cháy, may nhờ đấng cha lành báo động, chúng mới biết và gấp rút tìm
đường thoát ra.
IV.- BIẾT KHỔ PHẢI TÌM NGUYÊN NHÂN SANH RA KHỔ ĐỂ DIỆT TRỪ
Chúng ta đã được đức Phật từ bi chỉ rõ cho thấy rằng cõi Ta Bà này,
cũng như tam giới đều là biển khổ. Kinh Pháp Hoa cũng nói: "Ba cõi không
an, ví như nhà lửa". Tiếc vì chúng sinh mê muội, lấy khổ làm vui mà
không tự biết, nên phải bị trầm luân.
Nay chúng ta đã biết rõ mặt thật xấu xí của đời rồi, đã biết nó là một
biển khổ mênh mông luôn luôn dậy sóng, thì ta phải nhàm chán nó, xa lánh
nó. Biết khổ để tìm cách thoát ly, chứ không phải biết khổ để rồi chán
đời, nản chí, buông xuôi tay ngồi khóc than. Nhưng làm thế nào để thoát
ly nó, nếu chúng ta chưa rõ biết ngành ngọn, đường đi nước bước, chưa
biết rõ vì đâu phát sinh đau khổ? Nhà lương y giỏi muốn trừ bênh, phải
tìm căn nguyên của bệnh. Một viên tướng giỏi muôn trừ diệt tận gốc bọn
phiến loạn, phải cho điều tra kỹ lưỡng sào huyệt, tổng hành dinh của
chúng ở đâu, nhiên hậu mới có thể bao vây, đánh bắt chúng nó đầu hàng
một cách dễ dàng. Cũng vậy, biết khổ chưa đủ để diệt khổ. Muốn diệt khổ
tận gốc phải tìm nguyên nhân phát sanh ra khổ.
Nguyên nhân phát sanh ra khổ, đức Phật đã thuyết trong đoạn thứ hai của
Tứ Diệu Đế là Tập đế, mà quý độc giả sẽ đọc trong chương thứ ba của tập
sách này.
CHƯƠNG BA
TẬP ĐẾ
(Sameda Dukkha)
VÌ SAO PHẬT NÓI KHỔ ĐẾ TRƯỚC VÀ TẬP ĐẾ SAU?
Trong Khổ đế, chúng ta đã thấy rõ những nỗi thống khổ của trần gian.
Trước những nỗi khổ ấy, không ai là không nhàm chán, ghê sợ cho cuộc đời
ở cảnh giới Ta Bà nầy, và không ai có thể an tâm, điềm nhiên sống trong
cảnh ấy. Nhiều câu hỏi liền nẩy ra trong đầu óc chúng ta: Vì đâu sanh
ra những nỗi khổ ấy? Ta có thể thoát ra khỏi móng vuốt của chúng để sống
ở một cảnh giới đẹp đẽ hơn chăng? Và thoát ra bằng cách nào?
Ðó là những câu hỏi mà đức Phật sẽ lần lượt giải đáp một cách tường tận ở ba phần: Tập, Diệt và Ðạo đế.
Ngay trong phần Tập đế nầy, đức Phật giải đáp câu hỏi thứ nhứt của chúng ta là nói rõ nguyên nhân của đau khổ.
Ðức Phật rất sành tâm lý của chúng sanh, nên mới nêu lên cái khổ trước
rồi mới nói cái nhân sau. Nếu vào ngay đầu, ngài nói: "Nầy các ngươi!
hãy nghe ta nói rõ những nguyên nhân sanh ra đau khổ đây!" Nếu ngài bảo
như thế, chắc chúng ta sẽ không chú ý nghe cho lắm, vì chúng ta, mặc dù
là sống trong bể khổ, những vì mê mờ, chúng ta có thấy một cách tường
tận và rùng rợn tất cả những nỗi khổ của cảnh Ta Bà đâu? Có nhiều khi
chúng ta còn cho cảnh giới nầy là vui nữa là khác. Do đó, chúng ta không
thiết tha đi tìm nguyên nhân phát sanh đau khổ. Chỉ khi nào chúng ta đã
ý thức một cách sâu sắc những nỗi khổ sở của chúng ta, khi ấy chúng ta
mới thấy sự băn khoăn khẩn cấp đi tìm đường tự giải cứu cho chúng ta. Và
muốn tự giải cứu, tất chúng ta cầm tìm xem vì đâu mà có đâu khổ; như vị
lương y, muốn trị bệnh, trước phải tìm hiểu nguyên nhân sinh bệnh.
Nguyên nhân sinh bệnh khổ đâu của chúng sanh, đức Phật gọi là Tập đế.
I.- ĐỊNH NGHĨA
Tập đế: Tập là chứa nhóm, dồn thêm mỗi ngày mỗi nhiều hơn lên. Ðế là
sự thật vững chắc, đúng đắn hơn cả. Tập đế là sự thật đúng đắn, vững
chắc về nguyên nhân của những nỗi khổ đã chứa nhóm, tích trữ lâu đời,
lâu kiếp trong mỗi chúng sanh. Ðó là sự thật về cội gốc của sanh tử,
luân hồi, của bể khổ trần gian.
II.- NGUYÊN NHÂN CỦA ĐAU KHỔ LÀ NHỮNG GÌ?
Phật dạy: Cội gốc của sanh tử luân hồi do các phiền não mê lầm là
những dục vọng xấu xa, những ý niệm sai quấy, làm não loạn thân tâm
chúng ta.
Phiền não rất nhiều, nói rộng thì đến tám muôn bốn ngàn (84.000), nói
hẹp lại thì có mười phiền não gốc, gọi là căn bản phiền não. Do mười
phiền não gốc nầy mà sanh ra vô số phiền não ngành ngọn (nên xem quyển
Tu Tâm, nói rất rõ). Mười phiền não gốc là:
1.- Tham: nghĩa là tham lam.
Tánh tham có động lực bắt ta phải dòm ngó, theo dõi những cái gì nó ưa
thích, như tiền tài, danh vọng, miếng ăn, chỗ ở v.v... rồi nó xúi ta lập
mưu nầy, chước nọ để tầm kiếm cho được những thứ ấy. Ðiều tai hại nhất
là lòng tham không có đáy, thâu góp bao nhiêu cũng không vừa; được một
muốn có mười, được mười muốn có trăm. Tham cho mình chưa đủ, còn tham
cho bà con quyến thuộc và xứ sở của mình. Cũng vì tham mà cha mẹ vợ con
xung đột; cũng vì tham mà bè bạn chìa lìa; cũng vì tham mà đồng bào trở
lại xung đột, xâu xé nhau; cũng vì tham mà chiến tranh tiếp diễn, giết
hại không biết bao sanh linh. Tóm lại, cũng vì tham mà nhân loại, chúng
sanh chịu không biết bao nhiêu điều thống khổ.
Tham không những hại cho mình và cho người, trong hiện tại mà cả đến tương lai nữa.
2.- Sân: nghĩa là nóng giận.
Khi gặp những cảnh trái ý nghịch lòng, như lòng tham không được toại
nguyện, thì sân nổi lên, như một ngọn lửa dữ đốt cháy lòng ta. Thế là
mặt mày đỏ tía hay tái xanh, bộ dạng thô bỉ, nói năng hung dữ, có khi
dùng đến võ lực hay khí giới để hạ kẻ đã làm trái ý, phật lòng ta. Vì
nóng giận mà cha mẹ, vợ con, anh em xa lìa, bạn bè ly tán; vì nóng giận
mà đồng bào trở nên thù địch, nhân loại đua nhau ra chiến trường; vì
nóng giận mà kẻ bị tàn tật, người vào khám đường, kẻ mất địa vị, người
tan sự nghiệp. Kinh Hoa Nghiêm chép: "Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn
chướng môn khai", nghĩa là một niệm sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa
nghiệp chướng đều mở ra. Sách Phật chép: "Nhất tinh chi hỏa, năng thiêu
vạn khoảnh công đức chi sơn", nghĩa là một đóm lửa giận, có thể đốt hết
muôn mẫu rừng công đức. Thật vậy, lửa sân hận đã bừng cháy lên giữa lòng
nhân loại, và đã đốt thiêu không biết bao nhiêu là công lao, sự nghiệp
mà nhân loại đã tốn bao nhiêu mồ hôi và nước mắt để tạo nên.
3.- Si: nghĩa là si mê, mờ ám.
Si như là một tấm màn dày đặc, đen tối trùm lên trí huệ của ta, làm cho
ta không thể nhìn thấy được sự thật, phán đoán được cái hay, cái dỡ, cái
tốt, cái xấu. Do đó, ta gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi, làm hại
mình, hại người mà không hay. Vì si mà lòng tham trở thành không đáy,
bởi vì nếu người sáng suốt thấy cái tai hại của tham, thì người ta đã
kềm hãm được một phần nào tánh tham. Vì si mà lửa sân tự do bùng cháy;
nếu người sáng suốt biết cái tai hại của lửa sân thì không để cho nó
hoành hành như thế. Tổ sư đã dạy: "Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự
giác trì". Nghĩa là không sợ tham và sân nổi lên, mà chỉ sợ mình giác
ngộ chậm. Nói một cách dễ hiểu hơn: Không sợ tham và sân, mà chỉ sợ si
mê. Thật đúng như thế: Nếu tham, sân nổi lên, mà có trí sáng suốt ngăn
chận lại, thì tham, sân không có trí huệ, sáng suốt thì tham, sân không
thể tồn tại được; như khi đã có ánh sáng mặt rời lên, thì bóng tối tất
nhiên phải tự tan biến.
Ba tánh tham, sân, si này, Phật gọi là ba món độc; vì do chúng nó mà
chúng sanh phải chịu nhiều kiếp sanh tử luân hồi, đọa vào địa nghục, ngạ
quỉ và súc sinh.
4.- Mạn: nghĩa là tự nâng cao mình lên và hạ người khác xuống.
Tự thấy mình là quan trọng mà khinh rẻ mọi người; ỷ mình có tiền của,
tài trí hy quyền thế mà dương dương tự đức, mục hạ vô nhân, khinh người
già cả, hỗn láo với người đức hạnh, chà đạp người dưới, lấn lướt người
trên.
Vì lòng ngã mạn cho mình là hơn hết, nên chẳng chịu học hỏi thêm, không
nghe lời nói phải. Do đó, làm nhiều điều lầm lẫn sai quấy, phước lành
tổn giảm, tội lỗi càng tăng, phải chịu sanh tử luân hồi không bao giờ
cùng.
Mạn có bảy thứ:
- Mạn: Hơn người ít, mà nghĩa mình hơn nhiều.
- Ngã mạn: Ỷ mình hay giỏi mà lấn lướt người.
- Quá mạn: Mình bằng người mà cho là hơn người, người hơn mình l\mà cho là bằng.
- Mạn quá mạn: Người hơn mình nhiều mà cho mình hơn người.
- Tăng thượng mạn: Chưa chứng thánh quả mà cho mình đã chứng.
- Ty liệt mạn: Mình thua người nhiều mà nói rằng thua ít.
- Tà mạn: Người tu về tà đạo, được chút ít thần thông, hoặc hiểu biết được đôi chút việc quá khứ, vị lai, rồi khinh lướt người.
5.- Nghi: nghĩa là nghi ngờ, không có lòng tin.
Người nghi ngờ không làm nên được việc gì hết. Ðối với người thân trong
gia đình, họ không tin cậy giao phó công việc; đối với bạn bè, họ nghi
ngờ tất cả mọi thiện chí. Ngay đối với mình, họ cũng không tự tin nữa.
Ðã không tự tin, họ còn gây hoang mang cho người chung quanh, làm cho
người thế gian ngã lòng, thối chí.
Ðối với đạo lý chân chánh, họ cũng không hăng hái tin theo. Những pháp
tu giải thoát và các điều phước thiện, họ do dự không làm.
Nghi có ba phương diện:
- Nghi tự: nghĩa là nghi mình. Chẳng hạn như nghe chư Tăng bảo: "Tu
hành sẽ được giải thoát", nhưng lại tự nghi rằng: "Chẳng biết mình tu có
được không?". Vì lòng do dự ngi ngờ ấy, nên không tu.
- Nghi pháp: nghĩa là nghi phương pháp mình tu. Chẳng hạn như nghe
kinh Di Ðà nói: "Người chí tâm niệm Phật, từ một ngày cho đến bảy ngày,
được nhất tâm bất loạn, đến khi lâm chung sẽ được Phật Di Ðà tiếp dẫn
sanh về nước Cực lạc"; nhưng họ lại nghi ngờ "Phương pháp ấy không biết
có kết quả đúng như vậy không?" Do sự nghi ngờ đó mà không tu.
- Nghi nhơn: nghĩa là nghi người dạy mình. Như có người dạy rằng: "Làm
lành sẽ được phước, làm ác sẽ bị tội"; nhưng lại nghi rằng: "Chẳng biết
người này nói có thật không". Do sự nghi ngờ ấy mà không làm.
Tóm lại, tánh nghi ngờ làm cản trở sự tiến triển của mình, ngăn ngại
mọi công tác hữu ích và làm cho cuộc đời không vượt ra khỏi cảnh tối tăm
khổ sở.
6.- Thân kiến: nghĩa là chấp thân ngũ ấm tứ đại giả hiệp này làm ta.
Vì cái chấp sai lầm ấy, nên thấy có một cái ta riêng biệt, chắc thật
không biến đổi, thấy cái ta ấy là riêng của ta, không dính dấp đến người
khác, và là một thứ rất quý báu. Vì tưởng lầm như thế, nên kiếm món
ngon, vật lạ cho ta ăn, may sắm quần áo tốt đẹp cho ta mặc, lo xây dựng
nhà cao, cửa lớn cho ta ở, thâu góp thật nhiều của cải, đất ruộng để
dành cho ta hãnh diện với mọi người. Do sự quý chuộng phụng sự cho cái
ta ấy, mà tạo ra lắm điều tội lỗi, chà đạp lên bao nhiêu cái ta khác,
làm cho họ đau khổ vì ta. Và thế giới trở thành một bãi chiến trường
thường trực cũng vì thế.
7.- Biên kiến: nghĩa là chấp một bên, nghiêng về một phía, có một thành kiến cực đoan.
Biên kiến có hai lối chấp sai lầm lớn nhất là:
- Thường kiến: Nghĩa là chấp rằng khi chết rồi, cái ta vẫn tồn tại
mãi: người chết sẽ sanh ra người, thú chết sẽ trở lại thú, thánh nhơn
chết trở lại làm thánh nhơn. Do sự chấp ấy, họ cho rằng tu cũng vậy,
không tu cũng vậy, nên không sợ tội ác, không thích làm thiện. Lối chấp
này, đọa Phật gọi là "Thường kiến ngoại đạo".
- Ðoạn kiến: Nghĩa là chấp rằng chết rồi là mất hẳn. Ðối với hạng
người chấp Ðoạn kiến, thì hễ tắt thở là không còn gì tồn tại nữa; tội
cũng không mà phước cũng chẳng còn. Họ không tin nhân quả luân hồi, nên
mặc tình làm các điều tội lỗi. Họ tự bảo: "Tu nhơn tích đức già đời cũng
chết; hung hăng, bạo ngược tắt thở cũng không còn".
Có người đối trước những cảnh buồn lòng, nghịch ý, những chuyện tình
duyên trắc trở, tưởng rằng chết là hết đau khổ, là giải thoát tất cả,
nên họ đã không ngần ngại mượn chén thuốc độc, hay dòng sông sâu để kết
liễu đời mình. Họ đâu có ngờ rằng chết rỗi vẫn chưa hết! Lối chấp này,
kinh Phật gọi là "Ðoạn kiến ngoại đạo".
8-. Kiến thủ: nghĩa là chấp chặt sự hiểu biết sai lầm của mình.
Kiến thủ có hai phương diện:
- Kiến thủ vì không ý thức được sai lầm của mình:
Hành vi của mình sai quấy, ý kiến của mình sai lầm, nhưng vì không đủ
sáng suốt để nhận thấy, nên cứ bảo thủ hành vi, ý kiến của mình, tự cho
là giỏi, ai nói cũng chẳng nghe. - Kiến thủ vì tự ái hay vì cứng đầu:
Biết mình làm như thế là sai, nói như vậy là dở, nhưng vì tự ái, cứ bảo
thủ cái sai cái dở của mình, không chịu thay đổi. Như ông bà trước đã lỡ
theo tà đạo, nay con cháu vẫn biết đó là tà, nhưng cứ theo như thế mãi
không chịu đổi. Họ cứ nói một cách liều lỉnh: "Xưa sao nay vậy", hay
"Xưa bày này làm". Hay như cha mẹ trước đã lỡ làm nghề tội lỗi, đến đời
con cháu, vẫn cứ bảo thủ nghề ấy không chịu thay nghề khác.
Nói rộng ra trong thế giới, có một số đông người, mặc dù thời thế đã
cải đổi, tiến bộ mà họ cứ vẫn giữ lại những lề thói, cổ tục hủ bại mãi.
Chẳng hạn như ở Việt Nam ta, đến bây giờ mà vẫn có những Phật tử, hễ
trong nhà có người chết là giết heo bò để cúng kiến; khi đưa đám tang,
gánh theo những con heo quay to tướng, đi biểu diễn qua các đường phố;
mỗi khi tuần tự hay kỵ giỗ, thì đốt giấy tiền vàng bạc, áo quần kho
phướn, mỗi năm phải hội họp để cúng tế tà thần, ác quỷ v.v... Chấp chặt
những hủ tục như thế, đều thuộc và "Kiến thủ" cả.
9.- Giới cấm thủ: nghĩa là làm theo lời răn cấm của ngoại đạo tà giáo.
Nhưng sự răn cấm nầy nhiều khi thật vô lý, mê muội, dã man, không làm
sao đưa người ta đến sự giải thoát được, thế mà vẫn có nhiều người tin
và làm theo. Chẳng hạn như ở Ấn độ, có phái ngoại đạo lấy đá dằn bụng,
đứng một chân giữa trời nắng, nằm chỗ bẩn thỉu, leo lên cao nhảy xuống,
gieo mình vào lửa, hay nhảy xuống sông trầm mình để được phước. Có đạo,
mỗi năm lại bắt tín đồ giết một người để tế thần, hay như đạo của anh
chàng Vô Não, phải giết một trăm người lấy một trăm ngón tay xâu làm
chuỗi hạt mới đắc đạo. Những thứ cuồng tín như thế, không làm cho cuộc
đời sáng sủa, mà còn làm đen tối, khổ đau thêm.
10.- Tà kiến: nghĩa là chấp theo lối tà, không chơn chánh, trái với sự thật, trái với luật nhân quả.
Nói một cách khác, Tà kiến nghĩa là mê tín dị đoan, như thờ đầu trâu,
đầu cọp, bình vôi, ông táo, xin xâm, bói quẻ, buộc tôm, đeo niệt, coi
sao, cúng hạn v.v... Nói rộng ra, cả bốn món chấp trên, đều thuộc và Tà
kiến cả.
III.- TÁNH CHẤT CỦA MƯỜI MÓN CĂN BẢN PHIỀN NÃO
Tánh chất của mười món căn bản phiền não không giống nhau: có thứ nhanh
nhẹn, có thứ chậm chạp; có thứ mãnh liệt, có thứ yếu ớt; có thứ đâm sâu
gốc rễ trong lòng người, có thứ nằm khơi khơi ở trên ý thức; có thứ dễ
dứt trừ, có thứ khó tiêu diệt. Vì tính chất không đồng ấy mà đức Phật
đặt cho chúng những danh từ khác nhau, để dễ phân biệt, như Kiết sử,
Kiến hoặc, Tư hoặc...
1.- Kiết sử:
Mười thứ phiền não gốc: thâm, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến,
kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến cũng gọi là "Thập Kiết sử".
Kiết là trói buộc; Sử là sai khiến. Mười phiền não nầy gọi là Kiết Sử,
vì chúng nó có mãnh lực trói buộc loài hữu tình không cho ra khỏi ba cõi
và sai sử chúng sinh phải quay lộn trong vòng sanh tử luân hồi, từ đời
nầy đến kiếp nọ, và phải chịu không biết bao nhiêu điều khổ não.
Tuy đều có tánh chất sai sử, trói buộc cả, nhưng mười Kiết sử này có thứ
mạnh, thứ yếu, thứ chậm chạp, thứ mau lẹ, nên đức Phật chia chúng ra
làm hai thứ với hai tên gọi khác nhau là: Lợi sử và Ðộn sử.
- Lợi sử: Là những món phiền não rất lanh lẹ, dễ sanh khởi mà cũng dễ
trừ bỏ (lợi là lanh lợi). Lợi sử gồm có năm là: Thân kiến Biên Kiến,
Kiến Thủ, Giới Cấm thủ, Tà Kiến.
- Ðộn sử: Là những món phiền não nặng nề, chậm chạm, sanh khởi một
cách ngấm ngầm, sâu xa, nhưng mãnh liệt, khó dứt trừ (độn là chậm lụt).
Thuộc về Ðộn sử gồm có năm phiền não là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi.
Người học Phật muốn giải thoát, tất nhiên phải chặt đứt mười thứ dây nhợ, xiềng xích nầy mới được.
Trước khi muốn chặt đứt chúng một cách có hiệu quả, phải hiểu rõ tánh
chất mềm hay cứng, bở hay dai của chúng để liệt chúng vào loại dễ chặt
hay khó chặt. Như người bửa củi, chia củi ra làm hai loại: loại dễ bửa
và loại khó bửa; loại dễ bửa thì dùng búa nhỏ, loại khó bửa thì dùng búa
lớn; cũng vậy, hành giả trước khi muốn chặt đứt phiền não, phải liệt
chúng làm hai loại: lợi Kiến hoặc dễ trừ, và loại Tư hoặc khó trừ.
2.- Kiến hoặc:
Chữ Kiến hoặc có hai nghĩa:
- Loại mê lầm nầy mong manh cạn cợt, chỉ tu hành đến địa vị Kiến đạo (thấy chân lý) thì đoạn được.
- Loại mê lầm nầy thuộc về phần vọng kiến (vọng chấp), phân biệt của ý
thức đối với sự vô thường, vô ngã v.v... mà sinh ra; hay do lầm nghe
theo lời khuyên dạy của ta sư ngoại đạo mà sinh ra.
Nói một cách dễ hiểu hơn, Kiến hoặc là cái lầm thuộc về mê lý, do vọng
chấp (chấp sai) phân biệt của ý thức sanh ra. Ðến địa vị Kiến đạo là
đoạn trừ được cái hoặc này. Bởi chúng nó dễ trừ, cũng như cỏ mọc khơi
trên mặt đất, hễ dẫy (phác) thì hết, nên cũng gọi là "Phân biệt hoặc"
(nghĩa là cái lầm về phần phân biệt của ý thức).
Tóm lại, Kiến hoặc hay Phân biệt hoặc là do mê ly mà sanh, và sẽ bị diệt trừ khi ngộ được chân lý.
Mười phiền não nói trên, hay Kiến hoặc, nếu đem phối hợp với bốn Ðế trong ba cõi, thì thành ra tám mươi tám hoặc.
Ðể có một ý niệm rõ ràng hơn, chúng ta hãy phân tách như sau:
Mười món Kiến hoặc là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ và Tà kiến.
Trong ba cõi (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới), mỗi cõi có bốn Ðế (khổ,
tập, diệt, đạo), mỗi đế có các hoặc (mê lầm) chung hiệp lại thành tám
mươi tám Kiến hoặc.
Như Dục giới có bốn Ðế: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Khổ đế có đủ mười hoặc. Tập
đế và Diệt đế chỉ có bảy hoặc (vì trừ Thân kiến, Biên kiến và Giới cấm
thủ). Ðạo đế có tám hoặc (trừ Thân kiến và Biên kiến). Bốn đế cộng thành
ba mươi hai Kiến hoặc.
Cõi Sắc và Vô sắc cũng y như Dục giới, song ở trong đó mỗi Ðế đều trừ ra
một món Sân (vì hai cõi nầy chỉ có vui trong thiền định, nên chẳng có
Sân) nên mỗi cõi chỉ có hai mươi tám hoặc. Hai cõi hiệp lại thành năm
mươi sáu hoặc; cộng với ba mươi hai hoặc ở cõi Dục nữa, tổng cộng thành
ra tám mươi tám món Kiến hoặc.
BẢN PHÂN TÁCH TÁM MƯƠI TÁM MÓN KIẾN HOẶC:
I.- DỤC GIỚI: Có 32.
- Khổ đế có 10:
a.- Tham.
b.- Sân.
c.- Si.
d.- Mạn.
e.- Nghi.
f.- Thân kiến.
g.- Biên kiến.
h.- Kiến thủ.
i.- Giới cấm thủ.
j.- Tà kiến.
- Tập đế có 7:
Như Khổ đế, trừ Thân kiến, Biên kiến và Giới cấm thủ.
Diệt đế có 7:
Như Tập đế.
Đạo đế có 8:
Như Khổ đế trừ Thân kiến và Biên Kiến.
II.- SẮC GIỚI: Có 28.
- Khổ đế có 9:
Như Khổ đế ở Dục giới, trừ Sân.
Tập đế có 6:
Như Tập đế ở Dục giới, trừ Sân.
Diệt đế có 6:
Như Diệt đế ở Dục giới, trừ Sân.
Đạo đế có 7:
Như Đạo đế ở Dục giới, trừ Sân.
III.- VÔ SẮC GIỚI: Có 28.
Như Khổ, Tập, Diệt, Đạo ở Sắc giới.
Sắc giới và Vô sắc giới đều trừ Sân, là vì hai cõi nầy ở trong thiền định, có hỷ có lạc, nên Sân không sanh khởi.
Khổ đế đủ mười hoặc là vì thuộc về Quả. Tập đế ít hơn (có 7) là vì thuộc
về Nhân. Diệt đế là quả xuất thế nên chỉ có 7. Đạo đế về phần tu hành
nên chỉ có 8.
3.- Tư hoặc:
Trong số mười phiền não căn bản nói trên, có bốn thứ ăn sâu gốc rễ từ vô
thỉ rất khó diệt trừ là Tham, Sân, Si, mạn (bốn độn sử) thì gọi là Tư
hoặc. Theo tân dịch thì Tư hoặc có hai nghĩa:
- Nó ngấm ngầm khởi lên, do mê muội về sự vật mà sanh; như đối với sự
vật ăn, mặt, ở ( sắc, thanh, hương, vị, xúc) sanh tham gia trước.
- Sự mê lầm này phải đến địa vị Tu đạo mới trừ dứt được.
Chúng nó có từ vô thỉ đến giờ, hễ có ta là có nó, nó với ta đồng sanh
một lượt, nên cũng gọi là "câu sanh hoặc". Chúng nó có tiềm tàng sâu
kín, và chi phối sai tử chúng ta một cách mãnh liệt, nên hành giả phải
hết sức tu trì, mới có thể lần trừ hồi được. Cũng như cỏ cú, phải ra
công moi đào nhiều lần, mới nhổ sạch tận gốc.
Tóm lại Tư hoặc cũng có tên Câu sanh hoặc, do sự mê là sanh, và chỉ khi đến địa vị Tu đạo mới đoán ra được.
Mười món này phối hợp với bốn đế ở ba cõi, sẽ thành tám mươi mốt món như sau:
MƯỜI MÓN TƯ HOẶC:
- Dục giới, có bốn: Tham, San, Si, Mạn.
- Sắc giới có ba: Tham, Si, Mạn.
- Vô sắc giới có ba: Tham, Si, Mạn.
(Hai cõi sau chỉ có trong cảnh thiền định, nên không có sân).
Bốn thứ tư hoặc này lại chia ra làm ba hạng: hạng nhất là bậc thượng;
hạng vừa là hạng bậc trung; hạng kém hơn là hạng bậc hạ. Mỗi hạng như
thế lại chia ra làm ba bậc hay ba phẩm nữa (thượn, trung, hạ), cộng tất
cả thành chín phẩm.
BẢN PHÂN TÍCH MƯỜI MÓN TƯ HOẶC CHIA LÀM CHÍN PHẨM:
I.- THƯỢNG:
- Thượng thượng.
- Thượng trung.
- Thượng hạ.
II.- TRUNG:
- Trung thương.
- Trung trung.
- Trung hạ.
III.- HẠ:
- Hạ thượng.
- Hạ trung.
- Hạ hạ.
Chín phẩm Tư hoặc nhân cho ba cõi (gồm chín địa) thành ra 81 thứ.
BIỂU ĐỒ 81 MÓN TƯ HOẶC
BA CÕI:
I.- Dục giới:
- Ngũ thứ tạp cư địa, có: 9 phẩm Tư hoặc.
II.- Sắc giới:
- Sơ Thiền, ly sanh hỷ lạc địa: 9 phẩm Tư hoặc.
- Nhị thiền định sanh hỷ lạc địa: 9 phẩm Tư hoặc.
- Tam thiền ly hỷ diệu lạc địa: 9 phẩm Tư hoặc.
- Tứ thiền xả niệm thanh tịnh địa: 9 phẩm Tư hoặc.
III.- Vô sắc giới:
- Không vô biên xứ địa: 9 phẩm Tư hoặc.
- Thức vô biên xứ địa: 9 phẩm Tư hoặc.
- Vô sỡ hữu xứ địa: 9 phẩm Tư hoặc.
- Phi phi tưởng xứ địa: 9 phẩm Tư hoặc.
Cộng: 9 địa, Thành 81 phẩm Tư hoặc.
VI.- TÓM TẮT Ý NGHĨA VỀ KIẾN HOẶC VÀ TƯ HOẶC
Nói tóm lại, những cái mê lầm thuộc về phần phân biệt (do ý thức phân
biệt mà sanh) đều thuộc về Kiến hoặc. Những cái mê lầm thuộc về phần
câu sanh (ngấm ngầm cùng với ta đồng sanh) thì thuộc về phần Tư hoặc.
Lại một nghĩa nữa, những cái mê lầm thuộc về phần mê lý, đến khi Kiến
đạo là đoạn trừ đuợc, nên gọi là Kiến hoặc. những cái mê lầm thuộc về
phần mê sự, phải tu hành đến địa vị Tu đạo, mới lần đoạn trừ, thì gọi là
tư hoặc. Ðoạn Kiến hoặc chỉ mới là hết cái lầm trên phương diện kiến
thức; đến khi đoạn Tư hoặc thế gian thì cả cái lầm trên phương diện ý
thức, hành vi đều không còn nữa.
Ðoạn tám mươi tám cái lầm về Kiến hoặc và tám mươi mốt cái lầm về Tư
hoặc thì sẽ chứng được bốn quả thánh Thanh văn của Tiểu thừa, trong đó
quả vị cao nhất là quả vị A la hán(Xem phần phụ chú).
Sở dĩ chúng sinh chịu các đều khổ não, nguyên nhân là do phiền não gây
tạo ra nghiệp Tập đế. Tập đế gồm có nhiều thứ phiền não; nhưng có mười
thứ căn bản phiền não là: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiếm, biên
kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến.
Trong mười món này, vì căn cứ theo bản tánh của những cái dễ phát sinh
và dễ trừ là năm món sau, thì gọi là ngũ lợi sử; còn năm món trước tánh
nó ngấm ngầm phát sanh và khó đoạn trừ thì gọi là Ngũ độn sử.
Ðứng về phương diện Tu chứng mà xét, thì hành giả trong khi tu hành,
chia mười món phiền não trên làm hai loại, để đoạn trừ trong thời kỳ sau
đây:
1.- Những cái mê lầm khi thấy đạo (chân lý) mới đoạn được, thì gọi là Kiến hoặc.
2.- Những cái mê lầm khi đến địa vị tu đạo mới đọan được thì gọi là Tư hoặc.
Về Kiến hoặc, ở cõi Dục giới có ba mươi hai món mê lầm, ở cõi sắc giới
có hai mươi tám và Vô sắc giới cũng có hai mươi tám, cộng lại thành tám
mươi tám món mê lầm. Cái lầm ở cõi dục rất thô, đến cõi sắc và Vô sắc
giới thì vi tế hơn. Ðoạn được tám mươi tám thứ Kiến hoẳc trong ba cõi,
thì chứng đặng quả thánh thứ nhất trong bốn quả của Tiểu thừa là Tu đà
hoàn (Tiếng Hán dịch là Dự Lưu). Ðến quả này, tám mươi mốt phẩm tư hoặc
của ba cõi vẫn chưa đoạn trừ.
Về Tư hoặc thì cõi Dục giới có bốn: tham, sân, si man. Cõi sắc giới và
vô sắc, mỗi cõi có ba (vì trừ sân). Cộng chung lại là mười món Tư hoặc.
Vì chúng có thô vi tế không đồng nên phân ra có thượng, trung, hạ phẩm.
Mỗi phẩm lại phân ra ba phẩm nữa là: Thượng, trung, hạ cộng thành chín
phẩm.
Trong ba cõi có chia ra làm chín địa mỗi địa có chín phẩm Tư hoặc từ thô
đến tế, cộng chung chín địa thành ra tám mươi mốt Tư hoặc(1)
Chín phẩm Tư hoặc ở cõi Dục thì rất thô, còn hai cõi trên lần vi tế. Các
thứ phiền não Tư hoặc vi tế dây, chiêu cảm với những khổ quả sanh tử,
luân hồi trong cõi, chứng quả A la Hán.
PHẦN PHỤ CHÚ
Tứ Ðế là thuộc về giáo lý tiểu thừa. Trong khi nghiên cứu và trung
thành với giáo giáo lý này, chung tôi chỉ kể chỉ có hai thứ hoặc và kiến
hoặc và Tư hoặc.
Nhưng theo giáo lý Ðạị thừa thì ngoài hai hoặc trên, có hai thứ hoặc
khác nữa là Trần sa hoặc và Vô minh hoặc. Nếu chứng quả vị Ðại Thừa Bồ
tát hay Phật, thì phải đoạn trừ hai hoặc sau này.
Ðể có một ý niệm tổng quát về các thứ hoặc, chúng tôi xin được phụ chú dưới đây hai loại hoặc ấy:
1.- Trần sa hoặc: Trần sa hoặc là cái mê lầm như cát bụi. Cái mê lầm
không phải của mình, vì khi chứng đươc quả A la Hán thì cái mê lầm về
phần Kiến Hoặc và Tư hoặc nơi cá nhân mình đã hết. Cái chơn trí ở nơi
tâm mình đã sáng suốt rồi. Nhưng so với mình, còn thấy cái mê lầm của
chúng sinh nhiều như cát bụi, nên sanh tâm chán ngán, thối chí độ sanh,
cứ trầm không thu tịch, thủ cảnh thiên không Niết Bàn của Tiểu Thừa,
không chịu ra hóa đạo độ sanh (vì còn pháp chấp, mê lầm thấy thật có
pháp mình tu, Niết Bàn mình chứng).
2.- Vô minh hoặc: Vô minh là mê lầm, không rõ được bản chất chơn tâm.
Thứ mê lầm này là gốc của các thứ mê làm khác, nên gọi là căn bản vô
minh. Nó rất vi tế, phá trừ trần sa hoặc rồi mới phá trừ được Vô minh
hoặc.
Cứ theo lối tu chứng của Ðại Thừa mà luận, thì phải trải qua năm mươi
hai địa vị, mới phá hết dược các vô minh. khi mãn địa vị Thập tín rồi
bắt đầu lên thập trụ (10 vị) phá một phần vô minh thì được một phần đức
pháp tánh (3 đức: Pháp thân, Bát nhã, Giải thoát), chứng lên vị Sơ trụ.
Như thế cứ phá thêm một phần vô minh là chứng lên một địa vị; cho đến
phá được mười phần thì phá được Thập trụ. Bước qua Thập hạnh (10 vị),
Thập hồi hướng (10 vị) và thập địa (10 vị) cũng thế, nghĩa là phá một
phần vô minh thì chứng lên một địa vị. Cho đến địa vị thứ năm mươi mốt;
là Ðẳng giác, dùng trí Kim cương phá sạch hết tướng vô minh rất vi tế
rồi, thì chứng được địa vị thứ năm mươi hai là quả Diệu giác (Phật). Lúc
bấy giờ vô minh diệt hết trí giác thế gian toàn minh, cũng như trăng
rằm Trung thu, bao nhiêu mây mờ vẹt hết, tỏa ánh sáng khắp mười phương.
Chúng ta nên lưu ý: Kiến hoặc, Tư hoặc là chiêu cảm phần đoạn sanh tử
trong ba cõi. Còn Trần sa hoặc và Vô minh hoặc thì chiêu cảm biến dịch
sanh tử ngoài ba cõi. Ðoạn Kiến hoặc, Tư hoặc thì không thọ phần sanh
tử, ra ngoài tam giới, được thiên lý chơn, chúng nhị thừa: Thanh văn,
Duyên giác. Ðoạn Trần sa hoặc chứng quyền thừa Bồ tát. Ðoạn từng phần vô
minh chứng quả Phật vô thuợng. Xét như thế thì từ khi phát tâm tu hành
cho đến thành Phật, phải trải qua một công trình lớn lao và một thời
gian lâu xa mới được.
GHI CHÚ:
(1) Sở dĩ gọi là phẩm mà không gọi là món, loại hay thứ là vì trong mỗi
mê lầm ấy, không khác chất, chỉ khác phẩm lượng mà thôi, nghĩa là nó đậm
hay nhạt, mạnh hay yếu mà thôi.
CHƯƠNG BỐN
DIỆT ĐẾ
(Nirodha Dukkha)
SAU KHI NÓI VỀ PHƯƠNG DIỆN ĐAU KHỔ XONG, ĐỨC PHẬT NÓI VỀ PHƯƠNG DIỆN AN LẠC
Sau khi giải bày đầy đủ hiện tượng nhân quả về phần nhiễm, về phương
diện đau khổ xong, đức Phật liền thuyết minh các hiện tượng nhân quả về
phần tịnh, về phương diện an lạc. Nói một cách khác dau khi dạy xong Khổ
đế và tập đế, đức Phật liền dạy Diệt đế và đạo đế. Có người chỉ thấy
hai phần đầu của Tứ đế là Khổ và Tập, nên đã tưởng Phật là đạo yếm thế,
bi quan. Họ cho rằng Phật giáo gieo vào lòng người sự chán đời và tuyệt
vọng. Họ đã lầm lớn! Kẻ bi quan, chán đời là kẻ thấy cuộc đời xấu xa,
đau khổ, mà không tìm ra phương pháp để giải thoát ra khói cảnh ấy, mà
chỉ buông xuôi tay ngồi nhìn và khóc than, sầu khổ. Ðạo Phật không làm
như thế. Ðạo Phật trình bày cho mọingười nhìn thấy cái hiện tại đen tối
của mình, cái hoàn cảnh xấu xa, có nhiều sự sự khuyết điểm, để cải đổi
nó, kiến tạo lại một cuộc sống đẹp đẽ, an vui hơn. Một giáo lý như thế,
không thể gọi là yếm thế, bi quan được mà chính là yêu đời, lạc quan, vì
còn tin tưởng ở khả năng kiến tạo của mình và chúng sinh. Cảnh giới mà
Ðức Phật trình bày cho chúng ta thấy ở đầy là một cảnh giới hoàn toàn
trái ngược với cảnh giới tối tăm, sầu khổ, đớn đau mà chúng ta đang
sống. Cảnh giới ấy là cảnh giới huy hoàng, an lạc, mà chỉ những người
diệt tục, hết mê mới đạt được.
Cảnh giới ấy, chúng ta sẽ nghe đức Phật trình bày trong phần Diệt đế sau đây:
I.- ĐỊNH NGHĨA
Sao gọi là Diệt đế?
Diệt là tiêu diệt, trừ diệt. Diệt ở đây tức là diệt dục vọng mê mờ,
phiền não Ðế là lý lẽ chất thật, đúng đắn do trí tuệ sáng suốt soi thấu
và thuyết minh. Diệt đế, chữ Pali gọi là "Nirodha Dukkha" tức là sự thật
đúng đắn, mà đức Phật đã thuyết minh về hoàn cảnh tốt đẹp mà mọi người
có thể đạt được khi đã diệt hết mọi phiền não, mê mờ. Phiền não, mê mờ
là nguyên nhân của đau khổ, như chúng ta đã nghe Phật thuyết trong Tập
đế.
Khổ là quả, mà tập là nhân. Diệt khổ mà chỉ diệt cái quả thì không bao
giờ hết khổ được. Muốn diệt khổ tận gốc, thì phải diệt cái nhân của nó,
như muốn nhổ cái thân cây, thì phải bớí cho hết cái rễ ăn sâu trong lòng
đất.
Trong khi Nhân Quả, Phật dạy rằng: "Các ông phải biết, ví tập nhân phiền
não mới có quả khổ sanh tử, vậy các ông phải dứt trừ phiền nào tập
nhân. Khi đã dứt trừ rồi, lại thường thương nắm chắc chổ dứt trừ cho
chắn chắc, không khi nào nới bỏ. Ðến khi chứng được đạo Niết Bàn, thì
phải tất nhiên tập nhân phiền não phải diệt hết, mả khổ luân hồi cũng
không còn".
Thế cho biết, muốn giải thoát tất phải tu hành. Mà tu hành là gì?
Là diệt trừ tập nhân phiền não vậy. Diệt trừ phần nào tập nhân là đã
bước đến hết gần giải thoát chừng ấy, như một cái phao; càng bớt dần
chừng nào vật nặng dìm nó xuống, thì nó lại nổi dần lên mặt nước chừng
ấy vậy.
II.- THỨ LỚP ĐOẠN HOẶC
Như chúng ta đã biết trong bài Tập đế, tập nhân phiền não rất phức
tạp, có thứ mong manh, cạn cợt, có thứ in sâu vào tâm thức từ lâu đời
lâu kiếp rất khó dứt trừ. Do tính chất cạn sâu của các thứ phiền não ấy,
nên đoạn trừ cũng phải tuần tự, theo thứ lớp.
Có hai lớp đoạn hoặc chính là:
1.- Kiến đạo sở đoạn hoặc:
Những mê lầm nầy, khi thấy chánh đạo mới đoạn được. Ðây là sự dứt trừ
những sai lầm về phần lý trí. Những phiền não nầy thuộc loại cạn cợt gây
ra bởi sự gần gũi tà sư, sự tuyên truyền tà vạy của sách vở, cùng những
người tri kiến không chân chánh. Nếu gặp được Minh sư, thấy đưọc chân
lý, thì liền đoạn hết. Vì thế sự dứt trừ những phiên não nầy, gọi là
"Kiến đạo sở đoạn hoặc".
2.- Tu đạo sở đoạn hoặc:
Những mê lầm nầy, khi tu đạo mới đoạn được. Ðây là sự đoạn trừ những
phiền não, sâu kín, đã đâm sâu gốc rễ trong tâm thức, biến thành thói
quen, như sự chấp ngã, sự say đắm nhục dục, tham, giận, kiêu căng v.v...
Ðối với những thứ phiền não nầy, phải cần nhiều công phu tu hành dẻo
dai, chắc chắn mới có thể đoạn trừ được. Do đó, mới gọi là "Tu đạo sở
đoạn hoặc".
III.-CÁC TẦNG BẬC TU CHỨNG
Ðoạn trên đã nói tổng quát về hai loại đoạn diệt phiền não cho dễ
phân biệt và dễ hiẻu. Ðến đây, để có một ý niệm rõ ràng về các tầng bậc
tu chứng mà một hành giả cần phải trải qua, chúng ta hãy tuần tự điểm
qua các quả vị từ thấp đến cao.
1.- Tứ Gia Hạnh:
Muốn đoạn trừ kiến hoặc, trước tiên người tu hành phải rời xa các tà
thuyết, xoay tâm ý, tư tưởng dần vào chân lý: vô thường, vô ngã, bất
tịnh, tứ đế, để nhận chân được các tánh cách vô thường, vô ngã, bất
tịnh, không thật v.v... của cuộc đời. Nhờ sự gần gũi với chân lý như
thế, nên những điều thấy biết sai lầm điên đảo sẽ tan hết và tám mươi
tám món kiến hoặc cũng không còn. Tuy nhiên, không phải chỉ trong một
lúc mà đoạn được tất cả kiến hoặc; trái lại, phải cần nhiều thời giờ,
công phu tu tập. Từ những tư tưởng, thành kiến mê lầm của phàm phu mà
đến Thánh trí để dự vào lòng Thánh quả, người tu hành phải tu bốn gia
hạnh sau đây:
- Noản vị: Noản là hơi nóng; vị là địa vị. Người xưa, khi muốn lấy
lửa, họ dùng hai thanh củi tre cọ sát vào nhau; trước khi lửa sắp bật
lên, phải qua giai đoạn phát ra hơi nóng. Người tu hành muốn có lửa trí
tuệ, cũng phải trải qua giai đoạn hơi nóng. Tất nhiên hơi nóng lửa trí
tuệ chưa đốt cháy được củi phiền não, nhưng không thể không qua giai
đoạn nầy được. Ðó là giai đoạn "Noản vị".
- Ðảnh vị: Ðảnh là chóp cao. Qua khỏi giai đoạn Noản vị, người tu hành
tiếp tục tiến bước và lên được trên chóp đỉnh núi mê lầm. Ðứng ở địa vị
nầy, toàn thân hành giả được tắm trong khoảng không gian rộng rãi vô
biên, nhưng chân chưa rời khỏi chóp núi mê lầm.
- Nhẫn vị: Nhẫn là nhẫn nhịn, chịu đựng. Người biết nhịn, luôn luôn
vẫn yên lặng sáng suốt trước sự khuấy phá của đối phương. Người tu hành
lên đến bậc này, trí giác ngộ đã gần sáng tỏ, thân tâm vẫn giữ được mực
yên lặng trong sáng, mặc dù các pháp có lăng xăng và ẩn hiện.
- Thế đệ nhất vị: Bậc nầy cao quí nhất trong đời. Tu đến bậc này là
một công phu rất to tát, gần giải thoát ra ngoài vòng Dục giới, như con
diều giấy bay liệng giữa không trung, tự do qua lại, không còn bị cái gì
làm ngăn ngại, ngoài sợi giây gai nhỏ. Nếu bứt sợi gai kia là diều bay
luôn. Cũng như thế, người tu hành phá hết phần kiến hoặc nhỏ nhít sau
cùng là được giải thoát luôn.
Tóm lại, người tu hành thường xuyên qua bốn món gia hạnh nầy, tức là
phá được cái lầm về tri kiến hay kiến hoặc, cái lầm của Phi phi tưởng mà
chứng đặng quả Tu đà hoàn là quả vị đầu tiên trong Thanh văn thừa.
2.- Tu Đà Hoàn:
Tiếng Hán dịch là Dư lưu quả (dự vào dòng Thánh). Ở quả vị này, ý thức
đã sáng suốt, không còn bị mê lầm nữa, song thất thức còn chấp ngã, nên
phải trở lại trong cõi Dục, nhiều nhất là bảy phen sanh tử nữa, mới gọt
sạch các kiết sử phiền não thầm kín, nằm nép trong tâm thức, và chứng
quả Tu Đà Hoàn.
3.- Tư Đà Hàm:
Tiếng Hán dịch là Nhất lai, nghĩa là một phen sanh lại cõi Dục để tu
hành và dứt cho sạch phần mê lầm ở cõi Dục, mới tiến đến bực A Na Hàm.
Trên kia, quả Tu đà hoàn chỉ là kết quả của công phu tu hành đoạn được
kiến hoặc, chứ chứ đá động đến tư hoặc. Sau khi chứng quả Thánh đầu tiên
rồi, phải tu nữa để đoạn trừ tư hoặc, mới chứng được bậc nầy. Tuy
nhiên, ở cõi Dục có chín phẩm tư hoặc, mà vị này chỉ mới đoạn có sáu
phẩm, còn ba phẩm nữa chưa đoạn. Nghĩa là mới đoạn sáu phẩm thô thiển
bên ngoài, còn ba phẩm sâu kín bên trong chưa đoạn. Vì thế, phải trở lại
một phen để đoạn cho hết ba phần sau, mới bước lên Thánh quả thứ ba là
Tư Đà Hàm được.
4.- A Na Hàm:
Tiếng Hán dịch là Bất lai (nghĩa là không trở lại cõi Dục nữa). Khi còn
mê lầm của cõi Dục lôi kéo, mới sanh vào cõi Dục. Ðến địa vị A na hàm
nầy những mê lầm ấy không còn nữa, nên không bị tái sanh ở đấy nữa, trừ
trường hợp phát nguyện trở lại cõi nầy để độ sanh. Vị nầy ở cõi Trời Ngũ
tịnh cư thuộc Sắc giới, cũng gọi là Ngũ bất hoàn thiên hay Ngũ na hàm.
Vị nầy đã cách xa chúng ta như trời vực, đã thoát ra ngoài cõi Dục. Tuy
thế, họ vẫn còn mang trong mình những mê lầm vi tế câu sanh của hai cõi
Sắc và Vô sắc. Vì vậy, ở Ngũ tịnh cư thiên, họ phải tu luyện để dứt cho
hết vi tế hoặc, mới bước lên Thánh quả A La Hán (Tư hoặc gồm có chín
phẩm. Tư đà hàm quả đoạn sáu hoặc, A na hàm quả đoạn thêm ba hoặc; đến A
La Hán quả là đoạn hết).
5.- A La Hán:
Ðây là quả vị cao nhất, trong Thanh Văn Thừa. Tiếng Hán dịch có ba nghĩa:
- Ứng cúng: Vị nầy có phước đức hoàn toàn, trí huệ hơn cả, đáng làm nơi phước điền cho chúng sinh cúng dường.
- Phá ác: Vị nầy đã phá tan những nhiền não tội ác, không còn bị chúng khuấy phá sai sử trói vuộv nữa.
- Vô sanh: Vị nầy không còn bị xoay vần trong sanh tử luân hồi nữa, vì đã phá trừ được phiền não là yếu tố của sanh tử luân hồi.
Trong ba nghĩa nầy, Vô sanh là nghĩa quan trọng hơn hết, nên đã được
nêu lên trong chữ A La Hán. Vị nầy không những đã phá hết mê hoặc nông
cạn, mà chính ngay chủng tử mê lầm thầm kín cũng đã dứt sạch. Cho đến
chủng tử cháp ngã là nguồn gốc phiền não, nguồn gốc luân hồi, cũng bị
dẹp lại một bên, không còn bóng dáng ra vào trong A lại da thức nữa.
Tính cách của lòng ngã chấp là khiến chúng sanh luôn luôn cố chấp bản
thân nhỏ hẹp, tạo thành ranh giới giữa mình và người, mình và sự vật, để
rồi gây nên vô lượng tội nghiệp và chịu vô lượg khổ báo. Một tính cách
nguy hại của lòng ngã chấp nữa là thường làm cho chúng sanh không tỏ
ngộ, không thể chấp được cái tánh "đồng nhất, không mất" của vạn sự vạn
vật. Do đó, chúng sanh phải chịu lắm nỗi thăng trầm với xác thân bé nhỏ
của mình.
Vị A La Hán, do sự cố công bền chí, đã diệt được lòng chấp ngã ấy, nên
không bị sống chết khổ đau, lo buồn sợ hãi chi phối. Như đồ đệ của ả phù
dung, một khi đã bỏ được bệnh nghiền thì không còn ra vào nơi tiệm hút
làm bạn với bàn đèn ống khói nữa. A La Hán là vị đã đoạn được cái sai
lầm của cõi trời Phi phi tưởng, nên không còn vương vấn với các cõi trời
ấy nữa.
Song quả A La Hán cũng chia làm hai bực, tùy theo căn cơ lanh lợi hoặc chậm lụt của các vị ấy.
- Bất hồi tâm độn A La Hán: là vị A La Hán trầm không trệ tịch, tự
thỏa chí vào địa vị đã chứng, chứ không phát tâm xoay về Ðại Thừa.
- Hồi tâm đại A La Hán: là vị A La Hán lợi căn lợi trí, phát tâm xoay về Ðại Thừa rộng lớn chứ không tự mãn ở địa vị đã chứng.
IV.- GIÁ TRỊ (DIỆU DỤNG) CỦA BỐN CÕI THÁNH
Bốn quả thánh của Thanh văn trên đây, đều là những kết quả giải thoát
hiển nhiên của công phu tu tập. Không cứ căn cơ nào đều có thể ở ngay
trong cảnh giới củA mình (kinh gọi là tự địa, tự giới), mà tu tập để đạt
đến bốn quả vị ấy. Hễ đoạn trừ mê lầm được chứng nào thì chứng quả đến
chừng ấy, chứ không phải chờ sanh qua thế gian khác mới chứng quả kia
đâu.
Khi chứng đến quả Tu đà hoàn thì gọi "Kiến đạo sở đoạn". Ở đây, ý thức
đã tương ứng với Huệ tâm sở, sáng suốt, trực nhận đạo lý một cách rõ
ràng. Còn các vị sau, thuộc về "Tu đạo sở đoạn", nghĩa là sau khi đã gội
rửa các chủng tử mê lầm (tư hoăc) của A lại da thức mới chứng được. Do
sự dứt trừ phiền não sâu hay cạn đó, mà diệu dụng của mỗi quả vị khác
nhau.
Ở địa vị "Kiến đạo sở đoạn" là thành tựu được năm phép thần thông (công dụng tự tại không bị chướng ngại).
- Thiên nhãn thông: Nhãn lực soi thấy khắp muôn loài cùng sự sanh hóa trong thế gian bao la hiện tại.
- Thiên nhĩ thông: Nhĩ lực nghe khắp mọi nơi, đủ các tiếng tăm đồng loại và dị loại.
- Tha tâm thông: Tâm lực biết được tâm niệm, sở cầu của kẻ khác.
- Túc mạng thông: Trí lực hay biết các kiếp trước của mình.
- Thần túc thông: Có hai nghĩa: một là được thần thông tự tại như ý
muốn, hai là trong giây lát muốn đi đâu liền được như ý muốn, không bị
sự vật hữu hình làm chướng ngại.
Năm phép thần thông nầy, tuy có đặc biệt hơn nhân loại nhiều, song
chưa phải là điểm quan trọng của người tu hành cầu giải thoát. Ðiểm quan
trọng nhất của người tu giải thoát là "Lậu tận thông". Lậu tận thông là
được trí tuệ thông suốt cả ba đời, không còn bị các phiền não hữu lậu
làm ngăn ngại, nghĩa là giải thoát sanh tử. Chỉ những vị A La Hán mới
được Lậu Tận Thông.
V.- DIỆT ĐẾ TỨC NIẾT BÀN
Kinh Niết Bàn dạy: "Các phiền não diệt gọi là Niết Bàn, xa lìa các pháp hữu vi cũng gọi là Niết Bàn".
Như các đoạn trước của bài nầy đã nói, đến bốn quả Thánh thì phiền não
nông cạn và sâu kín đã tuần tự bị tiêu diệt. Vậy chứng được bốn quả
Thánh ấy, tức là đã chứng được Niết Bàn. Nói một cách khác, Diệt đế tức
là Niết Bàn.
Niết Bàn hay Niết Bàn na hay Nê hoàn là do dịch âm chữ Phạn Nirvana mà ra. Niết Bàn có nhiều nghĩa như sau:
- Niết (Nir) là ra khỏi; Bàn (vana) là rừng mê, Niết Bàn là khỏi rừng mê.
- Niết là chẳng; Bàn là dệt. Còn phiền não thì còn dệt ra sanh tử, không
phiền não thì không còn dệt ra sanh tử. Vậy Niết Bàn là không dệt ra
sanh tử luân hồi.
Chữ Bàn cũng có nghĩa là không ngăn ngại. Niết Bàn còn có nhiều nghĩa
khác nữa, song tóm lại không ngoài ba nghĩa: Bất sanh, giải thoát, tịch
diệt.
- Bất sanh, nghĩa là không sanh ra, không sanh các thứ mê lầm tội lỗi.
- Giải thoát, nghĩa là thoát ra ngoài sự ràng buộc, không mắc vào các huyễn ngã, huyễn pháp.
- Tịch diệt, nghĩa là vắng lặng, dứt sạch. Vắng lặng, an lành, dứt sạch tất cả nguồn gốc mê lầm.
Vì lẽ Niết Bàn có nhiều nghĩa như thế, nên trong kinh thường để nguyên âm mà không dịch nghĩa.
Theo định nghĩa của chữ Niết Bàn nầy, thì bốn quả vị trên kia đều gọi
Niết Bàn cả. Song vì đã hoàn toàn hay chưa hoàn toàn mà chia ra làm hai
thứ:
1.- Hữu dư y Niết Bàn: (Niết Bàn chưa hoàn toàn).
Từ quả vị thứ nhất Tu đà hoàn đến quả vị thứ ba A na hàm, tuy đã đoạn
trừ tập nhân phiền não, những chưa tuyệt diệu, tuy đã vắng lặng an vui,
nhưng chưa viên mãn, tuy an vui chưa hoàn toàn, vì phiền não và báo thân
phiền não còn sót lại, nên gọi là Niết bàn hữu dư y. Vì phiền não còn
sót lại nên phải chịu quả báo sanh tử trong năm bảy đời; song ngã chấp
đã phục, nên ở trong sanh tử mà vẫn được tự tại, chứ không bị ràng buộc
như chúng sinh.
2.- Vô dư y Niết Bàn: (Niết Bàn hoàn toàn).
Ðến quả vị A La Hán, đã đoạn hết phiền não, diệt hết câu sanh ngã chấp,
nên hoàn toàn giải thoát cả khổ nhân lẫn khổ quả. Sự sanh tử không còn
buộc ràng vị nầy được nữa, nên gọi là Niết Bàn vô dư y. Ðây là quả vị
cao tột của hàng Thanh văn. Ðến đây ngọn lửa dục vọng đã hoàn toàn tắt
hết, và trí vô ngại hiện ra một cách đầy đủ, không khi nào còn trở lại
tâm khởi chấp ngã nữa. Vì thế, nên được tự tại giải thoát ngoài vòng ba
cõi: Dục, Sắc, và Vô sắc giới.
VI.- NIẾT BÀN CỦA ĐẠI THỪA GIÁO
Phật Giáo gồm có Tiểu Thừa và Ðại Thừa mà Niết Bàn là danh từ chung
cho cả hai thừa ấy. Trên đây đã nói đến Diệt đế, hay Niết Bàn của Tiểu
Thừa, nhưng chưa nói đến Niết Bàn của Ðại Thừa. Vậy nói đến Niết Bàn,
thì cũng nên mở rộng phạm vi, nói luôn cả Niết Bàn của Ðại Thừa để độc
giả có một quan niệm đầy đủ về hai chữ Niết Bàn.
Nói như thế, không có nghĩa là Niết Bàn của Tiểu Thừa và Ðại Thừa là hai
loại hoàn toàn khác nhau về tính chất. Nếu có khác, thì chỉ khác về
phạm vi rộng hẹp, rốt ráo hay chưa rốt ráo mà thôi; nghĩa là Niết Bàn
của Ðại Thừa rộng rãi hơn có thể gồm cả Niết Bàn của Tiểu Thừa, mà Niết
Bàn của Tiểu Thừa không thể gồm cả Niết Bàn của Ðại Thừa. Các thánh giả
Nhị thừa (Tiểu Thừa) tuy đã đoạn hết phiền não, nhưng tập khí vẫn còn,
công đức trí tuệ chưa viên mãn nên Niết Bàn mà họ chứng, dù là Niết Bàn
của hàng A La Hán đi nữa, đối với Ðại Thừa cũng chưa hoàn toàn, nghĩa là
còn là Hữu dư y Niết Bàn. Chỉ có Niết Bàn của chư Phật mới được gọi là
Vô dư y Niết Bàn.
Ngoài cái nghĩa rộng hẹp trên, Niết Bàn của Ðại Thừa đại khái có hai loại:
1.- Vô trụ xứ Niết Bàn:
Ðây là Niết Bàn của các vị Bồ Tát. Các A La Hán, do tu nhân giải thoát
mà chứng được quả giải thoát; nhưng chưa biết nguồn gốc của nhân quả,
còn chấp có thực pháp phải tu, quả vị phải chứng, nên chưa được hoàn
toàn tự tại. Các vị Bồ Tát thì trái lại, đã hiểu rõ "Tam giới duy tâm,
vạn pháp duy thức", pháp tánh bình đẳng như như; không thấy một pháp gì
cố định, một vật gì chắc thật, biệt lập chỉ thấy chúng là những hình ảnh
giả dối, do đối đãi với thức tâm, tạo thành bởi thức tâm. Các vị Bồ Tát
không có tâm địa đảo điên sai lầm, không gán cho sự vật một giá trị
nhứt định, như tốt, xấu, khổ, vui, nên không sanh ra những thái độ oán,
thân, bỉ, thử, ưa, ghét. Hễ còn tri kiến sai lầm đó, là còn bị chướng
ngại khổ đau. Các vị ấy tu hành chứng theo sự tánh bình đẳng, đem tâm
hòa đồng cùng sự vật mà làm việc lợi tha. Tuy làm việc lợi tha, mà vẫn ở
trong chánh quán. Quán các phép như huyễn hư hóa, không có thật sanh
tử, không có thật Niết Bàn, không bao giờ trụ trước (vô trụ). Do đó, Bồ
Tát thường ra vào sanh tử lấy pháp lục độ để độ sanh, mà vẫn ở trong
Niết Bàn tự tại.
2.- Tánh tịnh Niết Bàn:
Ðây là một thứ Niết Bàn tự tánh thường vắng lặng mà thườg sáng suốt,
thường sáng suốt mà thường vắng lặng ra ngoài tâm lượng hẹp hòi của phàm
phu và trí thức hữu hạn của Nhị thừa, ngoại đạo. Nó thường bộc lộ sáng
suốt nơi chư Phật, mà vẫn thường sẵn có nơi mọi loài chúng sinh. Trong
kinh có khi gọi đó là Phật tánh, là chơn tâm, là Như lai tạng v.v...
Nếu chúng sinh tự tin mình có tánh Niết Bàn thanh tịnh, và khởi tâm tu hành theo tự tánh ấy, tức có thể thành Phật không sai.
Mạng tự tánh Niết Bàn mà để cho phiền não cấu trần che lấp, thì làm chúng sanh trầm luân trong bể khổ.
Trái lại, ngộ tự tánh Niết Bàn mà hết vọng tưởng mê lầm là thành Phật, và có đầy đủ bốn đức: thường, lạc, ngã, tịnh.
- Thường nghĩa là không bị chi phối bởi tánh vô thường, khi nào cũng như
khi nào, không lên bổng xuống trầm không có già trẻ, chết sống, đổi
thay.
- Lạc nghĩa là không còn khổ não, lo buồn. "
- Ngã là được hoàn toàn tự chủ, không bị nội tâm hay ngoại cảnh chi phối.
- Tịnh là không còn ô nhiễm, luôn luôn thanh tịnh, trong sáng.
Chúng ta đừng lầm tưởng tánh "Chơn thường" nầy với điều thường hằng của
thế gian; tánh "Chơn lạc" với sự vui thích tương đối là sự vui thích còn
che đậy mầm mống đau khổ bên trong; tánh "Chơn ngã" với sự tự chủ trong
nhất thời, tự chủ ngày nay bị động ngày mai; tánh "Chơn tịnh" với sự
trong sạch tương đối ở thế gian, sự trong sạch vật chất, sự tướng bên
ngoài, chứ bên trong vẫn còn nhiễm ô.
Vì tính cách quí trọng, cao cả tuyệt đối của bốn đức; Thường, Lạc, Ngã,
Tịnh nên tánh tịnh Niết Bàn là thứ Niết Bàn cao quí tột đỉnh của đạo
Phật, và người Phật tử Ðại Thừa trong khi tu hành, đều phát nguyện rộng
lớn quyết tâm chứng được thứ Niết Bàn ấy mới thôi.
VII.- BIỆN MINH VỀ NIẾT BÀN
Tánh cách của Niết Bàn quá rộng rãi, cảnh giới của Niết Bàn quá cao
thâm, nên hay gây ra nhiều sự hiểu lầm cho các căn cơ thiển bạc, mà tập
quán, thành kiến, hoàn cảnh hằng ngày làm chủ trí thức. Người đời hay
lấy tâm lượng hẹp hòi của mình để hình dung Niết Bàn, và đã hình dung
một cách sai lạc, nên cuối cùng họ kết luận rằng: cứu cánh của đạo Phật
là một sự không tưởng. Câu chuyện ngụ ngôn sau đây chứng minh một cách
hùng hồn tâm trạng ấy:
Ngày xưa có một con cá, vì nó là loài ở nước, nên dĩ nhiên cuộc đời chỉ sống trong nước, và ngoài nước ra không biết gì hết.
Một hôm nó đang nhởn nhơ bơi lội trong hồ, tình cờ gặp một con rùa, mà
nó đã quen từ trước, đi du lịch trên đất liền về. Nó liền chào:
- Chào anh! Ðã từ lâu tôi không gặp anh. Vậy xưa rày anh ở đâu?
- Ồ! Tôi đi du lịch từ trên đất liền về. Trên ấy, mặt đất khô ráo quá!
- Ðất khô! Anh nói cái gì lạ vậy? Tôi chưa bao giờ thấy nơi nào kỳ lạ như vậy. Lẽ nào lại có đất khô?
- Xin thề rằng tôi không nói đùa với anh đâu. Nhưng nếu quả tình anh
không thể tin được thì tùy anh, không ai ngăn cản được anh; nhưng dù
sao, tôi cũng mới từ đó về.
- Này anh, anh hãy cố gắng diễn đạt cho hợp lý hơn. Tôi nghi rằng cách
diễn đạt của anh chưa được rõ ràng lắm. Anh vui lòng cho tôi biết đất mà
anh nói đó có giống như cái gì trong thế gian của chúng ta ở đây? Nó có
ẩm ướt không?
- Không! Nó không ẩm ướt.
- Thế nó có mát dịu và lạnh không?
- Nó không mát, không dịu mà cũng chẳng lạnh.
- Thế nó có trong suốt để cho ánh sáng xuyên qua được không?
- Không, nó không trong suốt và ánh sáng không thể xuyên qua được.
- Thế nó có mềm và dễ bị ép để cho tôi có thể quậy vi và đi lại dễ dàng trong ấy không?
- Không, nó không mềm, không bị dồn ép dễ dàng và trong ấy, anh cũng không thể bơi lội được.
- Thế nó có lưu động và đổ thành thác được không?
- Không, nó không lưu động và cũng không đổ thành thác được.
- Vậy thì nó có dâng lên để tạo thành những mũi sóng bạc đầu được không?
- Không, tôi chưa bao giờ thấy nó dâng thành làn sóng cả.
Ðến đây, con cá vênh váo tự đắc than rằng:
- Tôi đã từng nói với anh rằng: đất mà anh nói đó là không phải cái gì
cả. Tôi cũng vừa hỏi anh về đất ấy và với câu hỏi nào anh cũng trả lời
rằng không. Ðất anh nói đã là không phải bất cứ cái gì tôi nêu ra, vậy
thì đất hẳn là ngoan không. Anh đừng tìm cách bịp tôi nữa.
- Tốt! Anh đã quả quyết rằng không có đất liền. Tôi cũng không có cách
nào hơn là cứ để anh tiếp tục tin như anh đã nghĩ. Nhưng một mai, có ai
khác hơn tôi và đủ sức phân biệt cho anh thấy sự sai khác giữa đất và
nước, ngày ấy anh sẽ thấy rằng anh chỉ là một con cá ngốc.
Tâm trạng của con cá này là tâm trạng của một số người thường dựa vào sự
hiểu biết nông cạn của mình, để quan niệm Niết Bàn. Có người nghĩ rằng
Niết Bàn là một trạng thái hư vô tịch diệt luôn; có người nghĩ Niết Bàn
là cảnh Thiên đường như của ngoại đạo; có người lại bảo nếu Niết Bàn
không phải là hư vô tich diệt mà cũng không phải là Thiên đường, thì
Niết Bàn là một không tưởng.
Niết Bàn không thể là một trạng thái hư vô tich diệt được. Tam tạng giáo
điển chưa bao giờ nói đến cảnh giới hư vô ấy. Sự hiểu lầm Niết Bàn với
hư vô là con đẻ của sự nghiên cứu thô thiển, nông cạn qua các định nghĩa
của Niết Bàn. Nghe nói Niết Bàn tức là "Diệt", người ta vội tưởng ngay
"Diệt" nghĩa là hoại diệt không có gì tồn tại cả. Người ta không ngờ
rằng "Diệt" ở đây, có nghĩa là diệt nguồn gốc đau khổ, phiền não, mê
lầm. Mà khi đau khổ diệt thì an vui tất phát sinh, mê lầm diệt thì sáng
suốt tất tỏ lộ.
Như trên đã trình bày, Niết Bàn có đủ diệu dụng: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh thì sao gọi là hư vô được?
Niết Bàn của Phật cũng không phải là một cảnh thiên đường như người đời
và các ngoại đạo thường ca tụng. Nguyên nhân của sự hiểu lầm này là do
tập quán xem Phật Giáo cũng như các "thần đạo" khác. Trước khi Phật
giáng thế, trong kinh Vệ đà (Véda) của ngoại đạo ở Ấn độ, cũng từ dùng
danh từ Niết Bàn với nhiều định nghĩa khác nhau, tùy theo trình độ hiểu
biết cao thấp của họ. Có đạo cho chết rồi mất hẳn là Niết Bàn; có đạo
cho cõi trời của Dục giới là Niết Bàn; có đạo cho chứng được tánh không
tham ái ở cõi Sơ thiền là Niết Bàn; có đạo cho các định cảnh Không vô
biên xứ; Phi phi tưởng xứ ở cõi trời Vô sắc là Niết Bàn.
Nhưng, với đạo Phật những nơi ấy còn ở trong vòng tam giới luân hồi. Bởi
ở đó chưa diệt được hết lòng chấp ngã, chấp pháp, còn sống chết theo
vọng tưởng sanh diệt, chứ chưa được rốt ráo như Niết Bàn của Phật. Nói
một cách tóm tắt dễ hiểu, Niết Bàn của đạo Phật là sự thể nhập vào bản
thể sáng suốt, thanh tịnh, đầy đủ các đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Bản
thể ấy không phải chết lặng mà là sống dộng, có dầy đủ công năng, một sự
sống động vắng lặng, mà kinh thường gọi là "vắng thường soi, soi mà
thường vắng" (tịch nhi thường chiếu, chiếu nhi thường tịch).
Một học giả Tây phương rất thông hiểu về đạo học Ðông phương. Ông Ram
Linsen đã viết trong quyển Le Destin du XX siècle (vận mệnh của thế kỷ
hai mươi) như sau về Niết Bàn: "Niết Bàn không phải tịch nhiên bất động,
cũng không phải là cái trống không, là cái chết mất vô tông vô
tích. Niết Bàn là sự thực chứng cái bản thể của vũ trụ. Không thực chứng
được cái bản thể đó là người còn thiếu sót, là sống một đời sống mất
quân bình giữa xác thịt và tâm linh. Niết Bàn không phải là ngoài cái
động. Chính Niết Bàn mới là nguồn gốc của những việc làm chân chính. Ðây
là một sự thật, nhất là đối với Ðại Thừa Phật Giáo".
Như thế, Niết Bàn không phải là một lối không tưởng, viễn vông không
thực hiện được. Miễn là tự tin mình có tánh Niết Bàn và cố gắng tập sống
theo tự tánh ấy, thì Niết Bàn là một kết quả rất thiết thực. Mê muội
không tự tin mình có tánh Niết Bàn là chúng sanh; tự tin mình có tánh
Niết Bàn và phát triển tánh ấy là Thánh giả. Ðể cho phiền não tham, sân,
si vô minh chấp ngã làm chủ, là luân hồi. Gạn lọc cáu bẩn phiền não vô
minh nơi tâm thức cho hết sạch, như hạn bỏ bùn nhơ noi nước, cho đến khi
ly nước hoàn toán trong suốt, ấy là Niết Bàn hiển hiện.
VIII.- MỘT MẪU CHUYỆN VỀ NIẾT BÀN
Ðể chứng minh tánh cách triền phược của phiền não và giải thoát của
Niết Bàn trên đây, trong kinh Samitha Nikaya (Tạp A Hàm) Phật kể một mẫu
chuyện như sau:
"Có một tên trộm bị người ta bắt được đem nạp cho nhà vua. Muốn giam giữ
nó, nhà vua ra lệnh dở nắp rương thả ra bốn con rắn dộc. Con thứ nhất
quấn lấy tay mặt tội nhân; con thứ hai quấn lấy tay trái tội nhân; con
thứ ba quấn lấy ngang hông và con thứ tư quấn quanh cổ nó.
Một người đức hạnh đến gần tội nhân, thấy rõ tình cảnh, liền nói rằng:
- Người đã bị người ta giữ gìn cẩn thận, vậy hãy đứng yên, chớ nên cựa
quậy mà bị rắn cắn. Nọc con rắn thứ nhất sẽ là cho thân người cứng đơ
như đá; nọc con rắn thứ hai làm cho thân người tiêu ra như nước; nọc rắn
thứ ba làm cho thân người tan ra như bột và bị gió cuốn đi; nọc con rắn
thứ tư sẽ đốt người cháy như ngọn lửa.
Tên trộm trả lời:
- Không phải! Những con rắn ấy đều là đồ trang sức của tôi. Ðây là đôi
vòng của tôi, đây là sợi dây chuyển cổ và đây là sợi dây lưng.
Người đức hạnh lại dạy nó từ từ gỡ bốn con rắn ấy, đem bỏ vào trong rương, đậy nắp lại, rồi mau mau chạy trốn.
Nó làm theo.
Hay tin, nhà vua liền truyền lệnh cho năm trên lính đuổi theo bắt tên trộm.
Nó ráng chạy được một đổi, lại gặp người đức hạnh khi nãy hô to:
- Người hãy chạy thật mau lên! Có năm tên lính đang đuổi theo sau lưng
kìa! Chúng lại thả ra bốn con rắn độc để rượt bắt người đấy. Khi đã đuối
sức, tên trộm liền dừng chân lại, và thấy phía trước có sáu cái nhà bỏ
trống, vừà bị sáu tên cướp vào vét sạch của cải.
Sáu tên cướp lại nhập đoàn với năm tên lính để đuổi bắt nó.
Người đức hạnh lại hô to lên nữa:
- Ngưòi ráng chạy mau lên! Bọn cướp và lính nhà vua sắp đến nơi. Chúng
lại bắt thêm một người bạn thân của người để dụ người trở về trị tội.
Nhưng chạy được một đỗi, tội nhân lại gặp một cái biển ngay trước mặt,
nên phải dừng chân lại. Nó hết sức lo âu, vì tại đây không có ghe thuyền
chi để thoát thân cả.
Người đức hạnh dạy nó lấy tám cành cây khô, kết lại thành bè, để bơi đi trốn.
Làm bè xong, nó bơi ra được một đỗi thì gặp một hòn cù lao. Nó định ghé
lên, nhng dòm ngoái lại phía sau, thấy quân lính vẫn còn đuổi nà theo.
Nó cố sức bơi đến một cù lao thứ nhì, rồi thứ ba và thứ tư. Nhân dân ở
tại chỗ đó liền tôn nó lên làm vua. Lúc ấy, đoàn người đuổi theo sau nó
đều bị tiêu diệt và nó không còn thấy hình bóng đâu nữa!
Nhà vua ám chỉ cái nghiệp; tên trộm, ám chỉ người đi tìm đạo; bốn con
rắn độc, ám chỉ tứ đại; năm tên lính, ám chỉ ngũ uẩn; sáu cái nhà bỏ
trống sau khi bị cướp, ám chỉ sáu căn; sáu tên cướp, ám chỉ sáu trần;
tám cành cây kết lại thành bè, ám chỉ bát chánh đạo; bốn cù lao, ám chỉ
bốn bực thiền định hay bốn quả Thánh; lễ tôn vương, ám chỉ sự giải
thoát; sự tiêu diệt của đoàn người đuổi theo sau, ám chỉ sự tan biến của
màn vô minh và sự bẻ gảy bánh xe luân hồi".
Mẫu chuyện trên nầy ngụ ý rằng: kẻ phàm phu bị màn vô minh che lấp, đắm
mê theo vật dục, nhận khổ làm vui, nhận xấu là tốt, khác gì kẻ tội trộm
nhận rắn độc làm đồ trang sức. Nếu nó không nhờ nhà tu hành đức hạnh dạy
bảo, thì đâu biết mình đang bị rắn độc bao vây để chạy thoát, và đâu có
gắng sức dẻo dai để bước lên bờ giải thoát.
Chúng sinh khi còn mê lầm, gây nên tội lỗi, thì giờ phút nào cũng bị cầm
tù trong đau khổ, bị trói buộc vì nghiệp nhân. Nhưng đến khi bước lên
bờ giải thoát, được tự tại thì chẳng khác gì một vị chúa tể.
Bốn cù lao mà tên trộm đến được trong câu chuyện này, chỉ mới có nghĩa
là bốn quả Thánh của hàng Nhị thừa chưa phải là Niết Bàn rốt ráo, hoàn
toàn của chư Phật. Nhưng dù sao câu chuyện trên cũng cho chúng ta một ý
niệm thô thiển về sự tiến triển của kẻ tu hành đi từ cảnh giới đau khổ,
phiền não là cảnh giới Ta bà nầy, đến trạng thái Thường, Lạc, Ngã, Tịnh
là Niết Bàn.
Nói tóm lại, Diệt đế tức là chân lý chắc thật nói về quả vị mà một kẻ tu hành có thể chứng được. Quả vị ấy tức là Niết Bàn.
Nhưng vì sự tu hành có thấp có cao, có rộng có hẹp, nên quả chứng tức là Niết Bàn cũng có thấp có cao.
Ðối với hàng Tiểu Thừa, thì ba quả đầu: Tu đà hoàn, tư đà hàm, A na hàm
là thuộc về hữu dư y Niết Bàn, vì phiền não chưa hoàn toàn tuyệt diệu.
Chỉ đến quả vị A La Hán là quả vị mà mọi phiền não đã tuyệt diệt, mới
thuộc về Vô dư y Niết Bàn.
So với Ðại Thừa, thì Niết Bàn của A La Hán cũng còn là Hữu dư y Niết
Bàn, vì các vị A La Hán mặc dù phiền não đã dứt sạch, ngã chấp đã hết,
nhưng pháp chấp hãy còn, thấy có pháp mình tu, có Niết Bàn mình chứng,
nên chưa có thể gọi là được Vô dư y Niết Bàn. Chỉ có Niết Bàn của Ðại
Thừa mới là Vô dư y Niết Bàn, vì ở đây đã dứt sạch ngã chấp, pháp chấp,
không còn thấy có pháp mình tu, Niết Bàn mình chứng.
Niết Bàn của Ðại Thừa có hai loại: Vô trụ xứ Niết Bàn của các vị Bồ Tát,
và Tánh tịnh Niết Bàn là chân tánh bản lai thanh tịnh và sáng suốt của
vũ trụ, mà các đức Phật đã thể chứng.
Trên đây kể sơ qua các loại Niết bàn, là các quả vị của Diệt đế Niết Bàn
mà chúng tôi diễn tả bằng văn tự ở đây so với Niết Bàn thật, còn xa
cách muôn trùng. Nhưng với hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, không có
phương tiện nào khác hơn, để trình bày và tìm hiểu Niết Bàn, thì đành
phải dùng văn tự vậy.
Muốn thấy được Niết Bàn thật, phải tự mình thân chứng, phải thể nhập
Niết Bàn. Muốn thân chứng, thể nhập Niết Bàn, cần phải tu theo phương
pháp mà đức Phật đã dạy trong phần Ðạo đế, là phần mà chúng tôi sẽ trình
bày trong những bài sau đây.
CHƯƠNG NĂM
ĐẠO ĐẾ
(Nirodha Gamadukkha)
NÓI TỔNG QUÁT VỀ ĐẠO ĐẾ
Như trong bài trước đã nói, muốn thực chứng, thể nhập Niết Bàn thì phải
tu theo phương pháp mà Phật đã dạy. Phương pháp chân chính, có hiệu quả
chắc thật để thành Phật đó là Ðạo đế. Phần nầy là phần quan trọng nhất
trong bài Tứ diệu đế, vì nếu có rõ biết đời là đau khổ, nguyên nhân của
nó là gì, và nếu có thiết tha cầu giải thoát khỏi cảnh khổ để đến một
cõi an vui tốt đẹp nhất là Niết Bàn, nhưng nếu không có phương pháp hiệu
nghiệm để thực hiện ý muốn ấy, thì biết cho nhiều cũng vô ích và càng
thêm đau khổ. Do đó, Ðạo đế là phần quan trọng và được Phật dạy một cách
rõ ràng chu đáo.
Ðạo đế có ba mươi bảy phẩm, chia ra làm bảy loại:
- Bốn món Niệm xứ (Tứ Niệm Xứ).
- Bốn món Chánh cần (Tứ Chánh cần).
- Bốn món Như ý túc (Tứ Như ý túc).
- Năm Căn (ngũ Căn).
- Năm Lực (Ngũ Lực).
- Bảy phần Bồ đề (Thất Bồ đề phần).
- Tám phần Chánh đạo (Bát Chánh đạo phần).
A.- TỨ NIỆM XỨ
ĐỊNH NGHĨA VỀ TỨ NIỆM XỨ
Tứ là bốn; Niệm là hằng nhớ nghĩ; Xứ là nơi chốn. Tứ Niệm Xứ là bốn
chỗ, bốn điều mà kẻ tu hành thường để tâm nhớ nghĩ đến. Ðó là:
- Quán Thân bất tịnh.
- Quán Tâm vô thường.
- Quán Pháp vô ngã.
- Quán thọ thị khổ.
1.- Quán thân bất tịnh:
Quán nghĩa là tập trung tư tưởng để quán sát cho thấu đáo. Bất tịnh
nghĩa là không sạch. Quán thân bất tịnh nghĩa là tập trung tư tưởng để
quan sát một cách tường tận về sự dơ bẩn của cái thân ta.
Nói cái thân là bất tịnh, chắc có nhiều người ngạc nhiên, phản đối cho là Phật đã nói quá đáng.
Trong đời còn cái gì quý báu hơn cái thân đâu? Người ta bảo bọc nó, nâng
niu nó, cung phụng nó đủ điều. Người ta cung cấp cho nó đủ thức ngon
vật lạ; người ta đùm bọc nó trong hàng lụa, là, gấm vóc; người ta che
chở nó trong nhà cao cửa lớn; người ta dám làm tất cả những việc bất
nhân tổn đức để cho nó được sung sướng. Cái thân được quý chuộng, tôn
trọng như thế, mà bảo rằng nó là dơ bẩn, gớm ghiếc thì ai mà nghe được.
Song bình tĩnh mà xét lại, cái thân nầy thật không có gi là trong sạch
cả. Ngay từ khi mới đầu thai, cái thân nầy đã bất tịnh rồi, vì nó là do
hai thứ nhơ nhớp là phụ tinh và mẫu huyết mà cấu thành. Ở trạng thái đầu
tiên, nó chẳng khác gì một con hộ trùng, rồi dần dần lớn bằng hạt đậu,
rồi bằng miếng thịt, nằm lẫn trong máu me nhơ nhớp.
Về sau, nhờ sự duy trì của nghiệp thức nó tượng thành hình người, chìm
ngập trong một cái bọc đầy máu huyết. Cái thân nằm co rút trong đó cho
đến chín tháng mười ngày, rồi chun theo một con đường rất bẩn thỉu, để
ra khỏi bụng mẹ. Từ đó, nhờ những thực phẩm phần nhiều cũng không được
tinh khiết gì như thịt cá, mà cái thân lớn dần. Nếu xét về sự tiêu hóa
của thức ăn thì chúng ta cũng không khỏi lấy làm khó chịu: những món
ngon vật lạ, mới nuốt vào thì cũng ưa thích, nhưng khi đã nuốt vào khỏi
cổ cách một đêm đã biến thành đồ bất tịnh khi bài tiết ra thì không ai
chịu nổi, ngay đến chủ nhân của nó. Chưa nó đâu xa, cái thân nầy vài
ngày chưa tắm đã thấy bẩn thỉu, rít rắm; cái miệng sáng dạy chưa súc, đã
nghe có mùi rồi. Trong thân, chín lỗ thường trôi chảy ra những đồ bất
tịnh như: đại, tiểu, ghèn, rái, mũi, dãi...lắm chuyện nhơ nhớp. Ðó là
mới nói bề ngoài, bề trong thân người lại dơ hơn thập phần. Khi mổ bụng
một con gà, con heo ta thấy một đống nào bọc chứa, ruột non, ruột già,
tim, gan, phèo, phổi, bong bóng... như thế nào, thì các bộ phận trong cơ
thể ta cũng chẳng khác gì thế ấy. Nhất là bộ tiêu hóa là chỗ chứa đựng
đủ thứ vật thực hôi thúi, chẳng khác gì một thùng phân.
Ðó là mới nói khi lành mạnh, còn khi đau ốm lại càng dễ sợ hơn: nào đàm,
nào mũi, thúi tha tanh hôi không sao chịu được, nhất là gặp những bệnh
nan y như lao, cùi, giang mai, hoa liễu, thì thật là không ai dám lại
gần. Ðó là khi trẻ, còn khi già đầu bạc răng long, lưng còm, da nhăn, má
cóp, đi đứng yếu ớt, không còn đủ sức để sửa soạn bề ngoài thì lại càng
nhớp nhúa hơn nữa.
Ðến khi chết, nghiệp thức không còn duy trì để thay lớn mới đổi lớp cũ,
thì da thịt rã rời, đụng đâu rệu đấy. Nếu không đem chôn cất cho kín,
thì ruồi bọ, sâu, giòi rúc rỉa, mùi hôi thúi xông lên không ai chịu
nổi.
Vậy cái thân nầy quả thật là bất tịnh, không còn chối cãi vào đâu được.
Nhưng người đời vì không xét kỹ nên mới yêu quý nó, cưng dưỡng nó đủ
điều: hễ thân ưa thì mình ưa, thân ghét thì mình ghét; làm nô lệ cho
thân, gây nghiệp, chịu quả báo đời đời kiếp kiếp không dứt. Cũng vì
thân, mà tham, sân, si nổi lên; cũng vì thân mà sát, đạo, dâm sinh ra;
cũng vì thân mà vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiện, ác khẩu hoành hành. Trăm
ngàn vạn điều lỗi lầm, cũng vì quá cưng dưỡng cái thân nầy mà tạo thành
ra.
Vậy hành giả cần phải quan sát rõ cái thân là bất tịnh, mới tránh được những nghiệp tham ái. Nhưng quán sát như thế nào?
Xưa ở Ấn độ, khi một hành giả muốn quán sát thân bất tịnh, thì tìm đến
khu rừng người ta bỏ xác người chết, gọi là thi lâm(*) để quán theo lối
"Cửu tưởng quán" của Phật dạy. Phép quán này gồm các giai đoạn như sau:
- Trướng tưởng: Ngày đầu ở gần bên cạnh thây chết, quán thây sình trướng to lên.
- Thanh ứ tưởng: Ngày thứ hai quán thây bị gió nắng xanh xám.
- Hoại tưởng: Ngày thứ ba quán thây bị rã nát.
- Huyết đồ tưởng: Ngày thứ tư, quán thây máu thịt rơi rớt lai láng.
- Nồng lãnh tưởng: Ngày thứ năm, quán thây chết da thịt rục rã.
- Hám tưởng: Ngày thứ sáu, quán chim thú đến mổ ăn thây.
- Tán tưởng: Ngày thứ bảy, quán sau khi chim thú ăn, gân xương, đầu mình, tay chân chia tan nát vỡ.
- Cốt tưởng: Ngày thứ tám, quán huyết thịt đã hết, chỉ còn bộ xương trắng bừa bãi.
- Thiêu tưởng: Ngày thứ chín, quán bộ xương trắng đốt cháy thành tro đất.
Chín phép quán tưởng nầy, để đối trị lòng tham sắc dục.
Một khi phép quán nầy đã thuần thục, thì kẻ tu hành thấy một cách tường
tận như ở trước mắt, thân mình và tất cả mọi người điều bất tịnh, không
có gì đáng quý chuộng, ham muốn. Do đó, có thể đối trị được bịnh tham
sắc dục là một bịnh rất trầm trọng và nguy hiểm của con người trên bước
đường tu hành. Nhưng quán thân bất tịnh là để trừ lòng tham sắc dục, chứ
không phải để ghê tởm thân mình, đến nỗi hủy bỏ mạng sống, như sáu mươi
vị Tỳ Kheo trong thời Phật tại thế, sau khi quán thân bất tịnh thuần
thục rồi, thấy ghê tởm mình và người chung quanh, đến nỗi thuê người
giết đi. Ðấy là một điều mà đức Phật nghiêm cấm.
Ngày nay chúng ta không có được huệ nhãn như Phật để trỏ vào bọn nữ sắc
mà Thiên ma sai đến để quấy rối, và bảo rằng: "Những cái túi kia đựng
toàn những đồ dơ bẩn kia, hãy đi đi, ta không dùng!". Nhưng nhờ khoa học
đã phát minh ra quang tuyến, chúng ta có thể thấy được rõ ràng những bộ
xương sườn, xương sống, đầu lâu, tim, gan, phèo, phổi của một tuyệt thế
giai nhân, qua ống rọi kiếng. Và chỉ chừng ấy cũng đủ cho chúng ta quan
niệm rằng: Cái đẹp chỉ là bộ mã bên ngoà , là lớp da bọc, chứ bên trong
thì bộ xương nào cũng giống nhau cả, và chiếu qua quang tuyến X, thì
cái đầu lâu của một người đẹp, cũng chẵn khác gì cái đầu lâu trắng phếu
đang nằm lăn lóc ngoài bãi tha ma.
Hỡi Phật tử! Nếu ai đã phát tâm chân thật tu hành, thì hãy cố gắng thi
hành pháp "quán thân bất tịnh"; nếu chưa đủ phương tiện để thực hành
phép quán ấy, thì cũng đừng bao giờ nên quên rằng: thân người không
trong sạch, không có gì đáng say mê đắm đuối để đến nỗi phải gây ra bao
nhiêu tai hại, tội lỗi không lường cho mình và người chung quanh.
2-. Quán tâm vô thường:
Tâm vô thường, nghĩa là cái tướng của tự tâm chúng ta luôn luôn đổi
thay, không thường. Cái tướng của tự tâm là gì? Chính là cái phân biệt,
hiểu biết hằng ngày, cái thức.
Người không học Phật thì không nhận biết thể chơn như rộng lớn cùng khắp
cả vũ trụ, mà nhận lầm cái phân biệt, cái thức là ta, và cho rằng cái
ta ấy là thường còn, không thay đổi, như những ngoại đạo chấp có thần
ngã hay có linh hồn thường trụ.
Thần ngã là lối chấp của "Số luận sư". Họ cho rằng mỗi chúng ta có thần
ngã tự tại, trong sạch, nhưng vì phân biệt, nên nhận thấy có vũ trụ vạn
hữu, rồi sanh lòng ưa muốn, bỏ mất thần ngã tự tại trong sạch ấy. Vậy
muốn cho thần ngã được giải thoát, thì phải dứt cả các món phân biệt.
Dứt cho hết sạch, không thấy, không nghe, không biết nữa, thì thần ngã
mới hiển lộ ra, và khi ấy mới nhận biết rằng vì mình mới sanh ra có vũ
trụ. Họ cho như thế là rốt ráo, mà không biết thần ngã ấy cũng chỉ là
vọng thức mà thôi.
Còn linh hồn là lối chấp của đa số thần giáo. Họ cho rằng duy có xác
thịt chết, chứ cái linh hồn trong trường hợp nào cũng vẫn nhận biết
mình, biết người, cũng thấy nghe như xác thịt, không bao giờ chết.
Nhưng sự thật không phải thế: cái tâm của chúng ta không thường chút nào
hết. Nó thay đổi luôn, khi nhỏ khác, khi lớn khác, khi có học khác, khi
chưa học khác, khi vui khi buồn, khi thương khi ghét, khi chuyên niệm
về một chỗ, khi tản mát ra các trần duyên... thật không có gí là thường
hết. Nó là tâm pháp vô thường, nó thay đổi đủ cách, tùy chỗ tu tập của
mình mà tiến hóa. Nếu tâm là thường thì không có sanh tử. Nếu tâm là
thường, thì dù có tu hành cũng không tăng trưởng, thì người dốt cứ dốt,
người vụng cứ vụng, người dữ cứ dữ. Nếu tâm là thường thì không có nhân
quả, tu cũng chừng ấy, mà lành cũng chừng ấy, cho đến người học, người
không học cũng như nhau, chẳng có gì sai khác, thay đổi cả.
Vì muốn đối trị cái vọng chấp kia, nên Phật mới dạy phép quán "Tâm vô
thường", để cho chúng sanh nhận biết rằng cái tâm không phải như một vật
bất biến vô dụng, không phải là cái ta chắc thật muôn đời, rồi nương
vào đó mà sanh ra không biết bao nhiêu là vọng tưởng phiền não. Những
tánh tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến v.v... đều do ngã chấp mà sanh ra
cả.
Lại cũng vì chấp tâm là thường nên chi chi cũng là do bản tánh của mình,
không thể sửa đổi được, như bảo: "Tánh tôi hay nóng giận, hay tham
lam"; "Tánh tôi hay đa mê đờn ca xướng hát"; "Tánh tôi thích cờ bạc rượu
chè".
Họ cho đó là một lối bào chữa, vì không phải lỗi tại họ, mà tại cái bản
ngã chắc thật của họ như thế rồi, không làm sao sửa đổi được. Do đó, họ
không thể nâng cao tâm trí theo con đường chơn chánh được.
Vậy, Phật tử chúng ta cần phải quán sát cái "tâm vô thường" đổi cái tâm
mê lầm ra cái tâm giác ngộ, phải trừ ngã chấp để ra khỏi vòng sanh tử
luân hồi.
3.- Quán pháp vô ngã:
Pháp, theo tiếng Phạn là Dharma. Tiếng Hán dịch là quỹ trì, nghĩa là nắm
giữ phạm vi của mình, như vuông, dài, tròn, méo... để mỗi khi người ta
trông đến, liền nhận biết cái nầy là gì, và khỏi lẫn lộn với vật khác.
Nghĩa chữ Pháp rộng lớn mênh mông, chỉ cho tất cả mọi sự thật trên vũ
trụ, chẳng những các vật hữu hình, cho đến các vật vô hình tưởng tượng
như lông rùa, sừng thỏ, cũng gọi là pháp cả.
Còn Ngã có nghĩa là chủ lễ, là riêng có tự tướng của mình. Người ta
thường chấp các pháp đều có tự tướng của người, vật có tự tướng của vật,
thế giới có tự tướng của quốc gia, xã hội có tự tướng của xã hội.
Ðã chấp có tự tướng của mình, tất nhiên thấy có tự tướng của người khác.
Ðối với tự tướng của một vật, hễ về mình thì không về người khác, còn
về người khác thì không về mình. Do đó, sinh ra tâm niệm nhân, ngã, bỉ
thử, quý trọng, khinh rẽ, tranh chấp, đấu tranh trong xã hội.
Song, xét ra cho kỹ thì các pháp nào phải thật có "tự tướng". Nói về lục
trần thì sắc đối với không, động đối với tịnh, sanh đối với diệt... nào
có cái gì riêng một mình thật có tự tướng đâu! Trần đối với căn mà có
hình tướng, căn đối với trần mà có tác dụng, ngoài trần không có căn,
ngoài căn không có trần. Như thế, thì biết tất cả các pháp, dù căn, dù
trần cũng đều không có tự tướng.
trong kinh Lăng Nghiên có câu: "Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu sanh,
nhân duyên biệt ly, hư vọng hữu diệt". Nghĩa là: các nhân duyên nhóm họp
thì giả dối có sanh, các nhân duyên chia rẽ, thì giả dối có hoại diệt.
Vậy đủ biết: tất cả các pháp làm nhân duyên cho nhau, in tuồng là có,
chứ không có tự tướng. Không có tự tướng, tức là "vô ngã" (không thật).
Ví như trong giấc chiêm bao, vì nhân duyên chiêm bao hiện ra thấy có
cảnh nầy cảnh khác. Ðương khi ấy, người chiêm bao, cũng lầm tưởng là
thật có, đến khi thức dậy, mới nhận ra đó là cảnh giả dối trong chiêm
bao. Chúng ta cũng thế, vì mê lầm nên không nhận ra được sự giả dối của
sự vật. Trong khi tâm duyên với cảnh, cảnh duyên với tâm, vạn pháp hiện
ra giữa vũ trụ, chúng ta tưởng là thật có. Thật ra, các pháp đều không
tự tướng, đều là "vô ngã".
Chúng ta không biết lý "pháp vô ngã", cho nên ngoài bị hoàn cảnh kích
thích, trong bị phiền não lay động, quay cuồng theo sự múa rối của giả
cảnh. Vì thế, tuy muốn tự tại mà chưa lúc nào chúng ta được tự tại, muốn
an vui mà chưa lúc nào được an vui, muốn thường trụ mà vẫn phải trôi
lăn trong vòng sanh tử.
Nếu chúng ta chứng được pháp vô ngã rồi, thì một thể vô ngã trùm khắp cả
pháp giới. Cảnh cũng vô ngã, tâm thức cũng vô ngã, thì còn cái chi mà
ghét, mà thương, mà chịu sanh tử luân hồi nữa.
Pháp vô ngã là lối tu giải thoát rốt ráo. Nếu ai ai cũng biết tu hạnh vô
ngã một đôi phần thì đâu có sự ích kỷ hại nhân, và cảnh tượng thế giới
hòa bình đâu phải là điều không thể thực hiện được?
4.- Quán thọ thị khổ:
Thọ là chịu, nhận lãnh. Thọ thi khổ nghĩa là có nhận lãnh là có khổ.
Nhận lãnh đây là nhận lãnh cái gì? Và vì sao nhận lãnh lại khổ?
Nhận lãnh ở đây có nghĩa vô cùng rộng rãi, nghĩa là nhận lãnh tất cả
những gì mà người đời có thể nhận được trong cuộc sống. Trước tiên nhận
lãnh cái thân nầy là cái thân riêng của ta, cái tâm nầy là cái tâm riêng
của ta. Sự thọ nhận nầy là nguồn gốc đầu tiên để thọ nhận những cái
khác nhau về sau: để giữ gìn thân mạng, ta thọ cái ăn, thọ cái mặc, thọ
cái ở, thọ sắc, thanh, hương, vị, xúc; thọ những cái gì làm cho ta khoái
trá, thích thú, vui vẻ. Và lòng tham càng nhiều, thì thọ lại càng lắm.
Từ cái thọ cần thiết cho cuộc sống, ta tiến dần đến những cái thọ ít cần
thiết, rồi đến những cái thọ xa xỉ, thừa thải vô ích, nhưng vì thói
quen góp nhặt, tham lam, ta không thể bỏ qua được. Nói tóm lại, mỗi
chúng sanh, mỗi cuộc đời là một chuỗi thọ nhận liên tiếp. Và chính thọ
nhận ấy là mần chính của đau khổ.
Trước tiên ta thọ nhận cuộc đời; nhưng cuộc đời là gì nếu không phải là
một trường đau khổ, như chúng ta đã thấy trong phần khổ đế? nào sanh,
nào lão, nào bệnh, nào tử, nào yêu mà phải xa lìa, nào oán mà phải gặp
gỡ v.v... thật là toàn những khổ nhưng đó là mới nói những nỗi khổ căn
bản. Ngoài ra, còn bao nhiêu nỗi khổ khác, cũng do thọ mà ra như: nhận
được một cái gì cho là quý thì nơm nớp sợ mất, lo tìm kiếm cách nầy,
chước nọ để giữ gìn nó. Nhưng cuộc đời đã là vô thường thì còn cái gì là
tồn tại mãi? Ngay cuộc đời của ta mà cũng không giữ mãi được thì còn
cái gì được nữa? Do đó, sanh buồn thương, tiếc nuối, mất ăn bỏ ngủ. Và
người càng thọ nhiều chừng nào lại càng khổ chừng ấy. Kẻ giàu thì sợ mất
của, kẻ có địa vị thì sợ mất địa vị, kẻ có người yêu đẹp thì sợ mất
người yêu, kẻ có danh vọng lớn thì sợ mất danh vọng...
Nhưng có phải muốn thọ lãnh thì bao giờ cũng được thọ lãnh theo ý muốn
đâu? Thọ mà may gặp thuận cảnh thì được thỏa dạ trong phát đầu tiên,
nhưng thọ mà gặp nghịch cảnh thì càng thêm đau khổ. Ở đời, thuận cảnh
thì ít, mà nghịch cảnh thì quá nhiều. Thường thường, ta ngửa tay mong
nhận lãnh một cái nầy, mà một cái trái ngược khác lại rơi vào tay ta !
Do đó, sanh giận dữ, thất vọng, khổ đau.
Ðó là nghĩa của "Thọ thì khổ". Phép quán nầy mục đích đối trị bệnh tham
là một bệnh trầm trọng nhất trong các bệnh phiền não, đã ăn sâu gốc rễ
trong lòng chúng sanh từ lâu đời lâu kiếp.
Vậy Phật tử chúng ta, muốn diệt trừ tánh tham, phải quán "thọ thị khổ".
ta phải luôn luôn nhớ lời Phật dạy: hễ có lãnh thọ thì có khổ; càng lãnh
thọ nhiều thì càng khổ lắm, càng ít lãnh thọ, thì khổ đau càng ít. Tất
nhiên chúng ta không thể xả bỏ tất cả trong một lúc; nhưng chúng ta nên
tuần tự xả những gì dễ xả, có thể xả được, rồi đi dần đến những cái khó
xả. Càng xả chứng nào lại càng nhẹ gánh đau thương. Người đời thường cho
rằng càng gánh nhiều vàng bạc châu báu, danh vọng, địa vị, sắc đẹp, vui
thú, lại càng sướng; nhưng đã gọi là gánh gì thì gánh cũng là gánh, và
càng gánh nặng thì vai càng đau, chân càng mỏi, đi càng chậm; tóm lại
khổ càng nhiều. Trái lại, nếu chúng ta không lãnh thọ, như sắc đẹp, mùi
ngon, vị lạ v.v... thì thân tâm ta không bị lay động. Ðối với cảnh ta
thấy không có gì đáng ưa, cũng không có gì đáng khổ sở. Như thế mới được
an nhiên tự tại thoát vòng khổ đau.
"Tứ niệm xứ" là giáo lý căn bản trong phần Ðạo đế. Có hiểu được giáo lý
nầy một cách tường tận thì sự tu hành mới vững chắc được. Nó đánh đổ
được một cách rốt ráo bốn thánh kiến sai lầm lớn lao của con người là:
tưởng thân mình là quý báu tốt đẹp trong sạch; tưởng tâm mình là vĩnh
viễn thường còn, như một linh hồn bất diệt; tưởng mọi sự vật trên đời
nầy chắc thật trường cữu; tưởng thu nhận tom góp được nhiều chừng nào
thì sung sướng chừng ấy.
Nhưng sự thật lại rất trái ngược:
- Thân thì bất tịnh, như một cái đãy đựng đồ dơ, không đáng nâng niu chìu chuộng.
- Tâm thì vô thường, luôn luôn biến đổi theo với hoàn cảnh bên ngoài, không có gì là trường tồn, bất diệt.
- Pháp thì vô ngã, không có tự tánh nhất định, không chắc thật mà đều là như huyễn như hóa.
- Thọ thì khổ, chẳng hạn, ta thọ lãnh cái thân, thì cái thân là dơ bẩn;
ta thọ lãnh cái tâm, thì tâm là vô thường là luôn luôn biến đổi; ta thọ
lãnh sự vật ở chung quanh, thì sự vật đều là giả trá, như khói, như mây.
Do đó, càng thọ lãnh nhiều chừng nào, lại càng đau khổ nhiều chừng ấy.
Vậy chúng ta phải luôn luôn quán sát, ghi nhớ bốn sự thật trên đây.
Càng chứng được bốn sự thật ấy chừng nào thì sự chấp ngã, chấp pháp,
tham, sân, si lại càng bớt dần chừng ấy.
Phật tử càng nắm vững bốn sự thật ấy chừng nào, thì sự tu hành theo các
môn trong Ðạo đế sau nầy, như bốn món chánh cần, bốn món Như ý túc, Ngũ
căn, Ngũ lực v.v... mới dõng mãnh và chóng có kết quả chừng ấy.
(*) Ở Ấn Độ có bốn cách táng người chết là thả xuống sông, hỏa thiêu, chôn và bỏ vào rừng.
B.- TỨ CHÁNH CẦN
Nhờ Tứ Niệm Xứ, chúng ta đã thấy rõ sự thật của đời. Ðó là: thân bất
tịnh, tâm vô thường, pháp vô ngã và thọ thị khổ. Thấy rõ được sự thật
đau khổ ấy rồi, chúng ta phải gia công, cố sức làm thế nào để thoát ra
ngoài móng vuốt nguy hiểm của chúng.
Muốn thế, sự siêng năng, tinh tấn là điều kiện trên hết trong công cuộc giải thoát của chúng ta.
Ngoài đời cũng như trong đạo, mỗi người muốn đạt được kết quả tốt đẹp
trong đời mình thì phải luôn luôn gia cồn gắng sức. Nhất là người tu
hành, mà cái quả là xuất trần, cái cứu kính là an vui vĩnh viễn, thì sự
gia công, sức cố gắng lại càng phải bền bỉ, dẻo dai vượt bực mới thành
tựu được.
Hơn ai cả, đức Phật hiểu rõ sự quan trọng của tự tướng, nên đã dạy bảo
chúng ta trước khi đi sâu vào Ðạo, phải chuẩn bị những phương tiện cần
thiết, phải tỏ rõ một thái độ quyết tâm: Quyết tâm xa lánh điều dữ và
thực hiện những điều lành. Ðó là ý nghĩa của "Tứ Chánh cần" mà chúng ta
sẽ nghiên cứu dưới đây.
I.- ĐỊNH NGHĨA TỨ CHÁNH CẦN
Tứ Chánh cần là bốn phép siêng năng tinh tấn hợp với chánh đạo. Bốn phép tinh tấn ấy là:
- Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sinh.
- Tinh tấn dứt trừ những điều ác phát sinh.
- Tinh tấn phát triển những điều lành chưa phát sinh.
- Tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh.
II.- QUAN NIỆM VỀ ĐIỀU LÀNH VÀ ĐIỀU DỮ TRONG ĐẠO PHẬT
Trước khi làm điều lành tránh điều dữ, chúng ta phải biết rõ thế nào
là lành, thế nào là dữ. Những điều dữ là những điều gì có thể làm tổn
hại cho mình và người trong hiện tại cũng như trong tương lai. Chúng bao
giờ cũng nghịch với từ bi, bình đẳng, trí tuệ và chân lý.
Trái lại, những điều lành là những điều có thể lợi ích cho mình và
người, trong hiện tại cũng như tương lai. Chúng bao giờ cũng hợ với từ
bi, bình đẳng, trí tuệ và chân lý.
Với hai định nghĩa nầy, không phải đợi đến khi phát lộ ra bằng hành
động, mới gọi là lành hay dữ. Ngay trong ý nghĩ, và quan trọng nhứt là ý
nghĩ, cũng đã phân biệt được lành hay dữ rồi. Theo đạo Phật, ba nơi
phát sanh của lành hay dữ là: thân, khẩu, ý. Như thế, một cử chỉ, một
lời nói hay một ý nghĩ, đều có thể là lành hay dữ. Do đó, đức Phật dạy
chúng ta phải ngăn ngừa những điều dữ, hay thực hiện những điều lành,
ngay khi chúng còn ở trong ý thức.
(Xem lại bài tập Thập thiện trong khóa nhì)
III.- NỘI DUNG CỦA TỨ CHÁNH CẦN
1.- Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sanh:
Tâm mình chưa móng tưởng điều ác thì mình phải ráng giữ gìn, đừng cho nó
phát khởi lên, cũng như sợi dây buộc mũi con trâu, kềm nó, không cho ăn
lúa.
Sau đây là một ít thí dụ cụ thể có thể xảy ra hằng ngày trong đời chúng ta:
- Khi chúng ta muốn tổ chức một cuộc đi săn bắn, để lấy thịt rừng cụng
ly đánh chén với bè bạn, nhưng chúng ta lại nghĩ: "ta đã là đệ tử Phật,
đã thọ tam quy, trì ngũ giới rồi, không lẽ dám quên lời hứa nguyện, sát
hại chúng sinh và uống rượu!". Thế là chúng ta không thi hành cuộc săn
bắn nữa.
- Khi phát khởi tâm gian lận, muốn lập mưu kế lấy của người, chúng ta
liền xét lại rằng: "Của mình mất mình biết buồn rầu, thì của người mất
người đâu có vui! Vả lại, mình đã nguyện trọn đời không tham một vật nhỏ
của ai, lẽ nào mình dám quên lời thệ nguyện?" Sau khi nghĩ thế rồi,
chúng ta không thi hành mưu kế đen tối trên nữa.
- Khi móng tâm hoa nguyệt, chúng ta lại nghĩ rằng: "Mình đã nguyện trọn
đời không tà dâm, thì phải trì chí giừ gìn tiết hạnh". Và do ý nghĩa ấy,
chúng ta ngăn chặn được lòng hoa nguyệt.
- Khi muốn nói dối để cho được việc riêng của mình, chúng ta liền nghĩ
rằng: "Mình đã nguyện trọn đời nói lời ngay thật, thì phải cố gắng giừ
cho trọn lời thệ nguyện". Như thế, chúng ta khỏi phạm tội vọng ngữ.
Nói tám lại, mỗi khi tâm chúng ta móng lên một ý nghĩ sái quấy, muốn
thực hiện một điều ác gì, chúng ta phải tìm những lý do chánh đáng,
tưởng nghĩa đến hậu quả tai hại của nó, để dập tắt ngay những ý nghĩ bất
chính, và ngăn ngừa không để cho nó phát sinh trong hành động.
Người tu hành sợ các giặc phiền não, si mê len lỏi vào tâm mình cướp mất
của báu công đức, nên luôn luôn cẩn thận giữ gìn, như người nhà giàu
giữ của: ngăn tường đóng ngõ, bỏ tủ, khóa chặt không để cho kẻ gian vào
nhà trộm mất.
Sự ngăn chặn, giữ gìn không cho điều ác phát khởi nầy, không phải hạn
cuộc trong một thời gian nhất định nào, mà trái lại, phải tiếp tục luôn
luôn trong từng sát na, từng giây phút, từng ngày tháng, từng năm nầy
sang năm khác, cho đến chừng nào tâm mình được thuần thục an nhiên,
không nghĩ đến điều ác nữa mới thôi. Công cuộc ngăn chận nầy đòi hỏi một
sự siêng năng, tinh tấn dẻo dai, bền bỉ mới có hy vọng thành tựu được
như ý muốn.
2.- Tinh tấn dứt trừ những điều ác đã phát sanh:
Trong đời sống của chúng ta, nhất là khi chưa hiểu biết Phật pháp và
không tu hành, chúng ta đã phạm rất nhiều tội ác. Những tội ác nầy làm
cho tâm của ta càng ngày càng tối tăm, lu mờ, như một tấm gương bỏ lâu
ngày, không ai chùi rửa, không thể soi được nữa. Nay chúng ta đã nhận
thấy cái nguy hại của những điều ác, thì chúng ta phải quyết tâm dứt
trừ. Ðiều ác không ở đâu xa, chúng phát sinh trong thân, khẩu, ý của mỗi
chúng ta. Vậy, trừ tội ác tức là ngăn chận không cho thân, khẩu, ý
chúng ta tiếp tục tạo nghiệp dữ nữa. Nhưng cái đà tội lỗi, như cái đà
một chiếc xe xuống dốc, càng xuống càng mau, càng mãnh liệt, cho nên
muốn diệt trừ tội lỗi, chúng ta phải vận dụng nhiều nghị lực, nhiều cố
gắng, phải luôn luôn siêng năng tinh tấn. Ðể ngăn chận cái đà tội lỗi,
Phật tử chúng ta phải luôn luôn nhớ nghĩ như vầy:
- Sát sanh là điều ác đã gây tội lỗi cho mình phải mắc nợ máu thịt và mạng sống, lại làm hại cho người lẫn vật.
- Trộm cướp làm khổ cho người bị nghèo đói, rách rưới, buồn rầu đau khổ không thể kể xiết.
- Tà dâm là điều không hợp lễ tiết, thường gây sự rối ren trong gia đình
và nhất là mang tiếng xâùu hổ, làm mất phẩm giá con người.
- Nói dối mất lòng tin cậy.
- Nói thêu dệt làm chia lìa ân nghĩa.
- Nói lưỡi hai chiều làm tăng trưởng oán thù.
- Nói lời hung ác, trước dơ miệng mình, sau chiêu lấy họa.
- Ham muốn quá sức (tham) thấy mình thiếu mãi, càng khổ thân nhọc trí.
- Giận hờn tức tối, lửa sân nổi lên, làm hư công hỏng việc và bao nhiêu rừng công đức đều tiêu tan.
- Si mê không rõ chánh tà, mờ ám chân lý gây đủ các tội.
Xét như vậy rồi, nếu tội ác đã trót lỡ sanh, thì bất cứ tội nào chằng
hạn, chúng ta phải đoạn trừ tận gốc rễ, đừng cho nó đâm chồi nẩy nhánh
nữa. Trong lúc đó, chúng ta lại huân tập các hột giống lành thay thế vào
tạng thức, thì lần hồi, chúng ta sẽ trở thành người thuần thiện.
3. Tinh tấn làm phát sanh những điều lành chưa phát sanh:
Nhiều khi chúng ta có những ý định hay đẹp, muốn giúp ích người nầy,
nâng đỡ người khác, nhưng vì tánh giải đãi, hay thiếu nghị lực, chúng ta
không thực hiện được những ý định tốt đẹp ấy. Như thế, dù có thiện chí
bao nhiêu, cũng không đem lại lợi ích gì cho ta và cho người chung quanh
cả. Muốn tạo những thiện nghiệp, như nói lời hòa nhã với mọi người
trong mọi trường hợp, bố thí cho người nghèo túng, giúp đỡ cho người có
công ăn việc làm, thì chúng ta đừng chần chờ, mà trái lại, phải hăng
hái, tinh tấn làm ngay. Ta phải luôn luôn thúc đẩy ta, biến những ý nghĩ
tốt thành hành động. Người Pháp có câu tục ngữ rất có ý nghĩa, để châm
biếm những người có dự định tốt mà không bao giờ thực hiện: "Ðịa ngục
lót đầy những dự định tốt". (L'enfer est pavé de bonnes intentions).
Thật đúng như vậy, ở đời có bao nhiêu người có nhiều thiện chí, có ý
định làm điều hay điều phải, nhưng cho đến chết vẫn chưa thực hiện được,
và mang theo xuống địa ngục.
Vậy chúng ta phải luôn luôn hăng hái làm phát triển những điều lành, mỗi
khi chúng vừa móng khởi trong tâm, đừng chần chờ, giải đãi cho đến khi
tử thần đến gõ cửa, mới ân hận là mình chưa gây tạo được cho mình những
nhân lành gì cả, nên phải rơi vào địa ngục.
4.- Tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sanh:
Những điều lành khi đã phát lộ ra hành động rồi, chúng ta đừng cho thế là vừa, là đủ, không cần phải cố gắng làm thêm nữa.
Khi chúng ta làm điều trọn lành, chúng ta có lợi về hai phương diện: một
mặt, ngăn chặn điều ác không cho tác hại; một mặt, làm điều thiện có
lợi ích cho mình và cho người. Chẳng hạn, như khi chúng ta thọ giới bất
sát sinh và thật hành theo giới ấy, là chúng ta vừa ngăn chận sự giết
hại người và vật, mà vừa chuộc người và phóng sinh nữa. Các giới khác
cũng vậy, nghĩa là một mặt vừa "chỉ ác", một mặt vừa "tu thiện", rồi cứ
như thế mà siêng năng Tinh tấn luôn luôn mới được. Chúng ta phải tập làm
điều thiện cho thật thuần thục, cho thành thói quen, cho đến khi mỗi ý
nghĩ, mỗi lời nói, mỗi việc làm điều thiện cả mới được.
III.- Ý NGHĨA RỘNG LỚN VÀ DIỆU DỤNG CỦA TỨ CHÁNH CẦN
Tứ Chánh Cần là bốn phép siêng năng chân chính trong công cuộc diệt
trừ tội ác và phát triển điều thiện. Nó bao gồm tất cả những quy điều
căn bản thiết yếu của mọi tôn giáo, đạo đức, luân lý.
Thật thế, nếu suốt đời, chúng ta chỉ theo cho đúng bốn phép siêng năng
nầy là: ngăn ngừa không cho những điều ác phát sinh, diệt trừ những điều
ác đã lỡ phát sinh; thúc đẩy thực hiện những điều lành vừa mống lên ở
trong tâm, tiếp tục thực hiện được, nếu chúng ta tinh tấn làm được như
thế, thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt được địa vị Thánh hiền.
C.- TỨ NHƯ Ý TÚC
Sau khi đã nhận rõ được chân tướng của cõi đời (Tứ niệm xứ), đã quyết
tâm bỏ ác theo thiện (Tứ Chánh cần), hành giả muốn đi xa trên đường đạo,
cần phải vạch cho mình một hướng tiến nhất định và phải có một thái độ
quyết tâm nhắm theo đúng hướng đã vạch mà đi, không nhìn ngang nhìn
ngửa, không mong ước cái này cái khác. Hành giả chí quyết đi một đường,
tập trung tất cả mong ước, chí nguyện, ý chí, năng lực tinh thần của
mình vào đó đến khi được toại nguyện như ý mới thôi.
Muốn được như thế, hành giả phải tu theo pháp môn "Tứ Như ý túc", một trong những pháp môn của Ðạo đế dưới đây.
I.- ĐỊNH NGHĨA TỨ NHƯ Ý TÚC
Tứ như ý túc là bốn phép thiền định. Nói cho rõ đó là bốn phương tiện
giúp chúng ta thành tựu các tam ma địa (Samadhi: chánh định), vì thế
nên cũng gọi là định pháp. "Như ý" là được như ý mình muốn. "Túc" là
chân, có nghĩa nương tựa mà cũng có nghĩa là đầy đủ. Tứ Như ý túc, có
nghĩa là bốn phép làm nơi nương tựa cho các công đức thiền định, thần
thông được thành tựu mỹ mãn như ý muốn của mình. Bởi lý do ấy, nên cũng
gọi nó bằng tên Tứ thần túc. Luận Câu xá quyển 25 có nói: "Vì sao định
mà gọi là thần túc? Vì các công đức linh diệu thù thắng đều nương nơi
bốn định này mà được thành tựu".
Bốn định ấy là:
- Dục Như ý túc
- Tinh tấn Như ý túc
- Nhất tâm Tứ Như ý túc
- Quán Như ý túc.
II.- NỘI DUNG CỦA TỨ NHƯ Ý TÚC
1.- Dục như ý túc: Dục là mong muốn. Mong muốn một cách thiết tha,
mong muốn cho kỳ được, mong muốn cho đến khi mãn nguyện mới thôi. Ðó gọi
là dục như ý túc. Nhưng mong muốn cái gì? Tại sao đã là Phật tử mà còn
"dục", còn mong muốn?
Trước tiên, chúng ta nên nhận định rõ ràng tánh chất của sự mong muốn ở
đây. Có thứ mong muốn thỏa mãn những thú tánh, những tham vọng, đó là
mong muốn tội lỗi, nên diệt trừ. Có thứ mong muốn hướng thượng, trong
lành, như mong muốn sống một cuộc đời đẹp đẽ, thanh cao, mong muốn được
giải thoát ra ngoài biển khổ sanh tử, đó là thứ mong muốn hợp lý, đáng
khuyến khích. Người Phật tử mong muốn được thành đạt pháp tiền định mình
đang tu, để tiến lên chứng các Thánh quả. Thứ mong muốn này rất cần cho
người tu hành; nếu không mong muốn thiết tha, mãnh liệt thì khó mà đi
đến đích giải thoát được. Ðây cũng là một sự cải chính rất hùng hồn để
đánh tan quan niệm sai lầm cho rằng: người Phật tử phải diệt dục, mà
diệt dục nghĩa là diệt tất cả, diệt luôn cả sự sống. Thật ra diệt dục ở
đây tức là dục vọng, diệt những phần ham muốn xấu xa đê hèn, làm cho con
người bị đọa xuống hàng thấp thỏi như loài súc sanh, địa ngục, chứ đâu
có diệt luôn cả những chí nguyện, những mong ước, những đức tánh tốt đẹp
của con người. Sự mong muốn sau nầy, người Phật tử không bao giờ lãng
quên, trái lại họ trút cả tâm tư hướng về cái đích mình đang nhắm, những
pháp mình đang tu. Người thế gian ưa thích vật dục mạnh mẽ như thế nào,
thì người tu hành mong muốn thành tựu những pháp thiền định của mình
cũng mạnh mẽ như thế ấy. Có như thế, hành giả mới tăng tiến mãi trên
bước đường tu hành của mình.
2.- Tinh tấn như ý túc:
Tinh tấn là dũng mãnh, chuyên nhất vào pháp thiền định mình đang tu.
Phần trên chỉ mới là sự ước muốn. Sự ước muốn dù đẹp đẽ bao nhiêu mà
không ra công, gắng sức, luôn luôn bền tâm vững chí, nghĩa là thiếu sự
tinh tấn dũng mãnh, thì ước muốn muôn đời cũng chỉ là ước muốn suông mà
thôi.
Chúng ta nên nhớ rằng: tinh tấn không phải chỉ là sự hăng hái, bồng bột
trong chốc lát, như sự ồ ạt, bốc cháy của ngọn lửa rơm. Tinh tấn là nghị
lực tu tập mạnh mẽ, thường hằng, không bao giờ gián đoạn. Trong kinh Di
Giáo đức Thế Tôn có dạy: "... Như người kéo cây lấy lửa, cây chưa nóng
đã thôi, tuy muốn được lửa, nhưng khó thể được".
Vậy người muốn chứng đạo quả, phải thường tinh tấn đầy đủ như ý mình ước nguyện.
3.- Nhất tâm như ý túc:
Nhất tâm là tâm chuyên nhất vào định cảnh, không bào giờ tán loạn. Một
con sông lớn, nếu bị chia nhiều nhánh tất nhiên sức chảy của nó bị yếu.
Trái lại, một giòng suối nhỏ, nếu chỉ chảy một đường, cũng đủ sức xoi
thủng đá. Người tu hành, tâm được chuyên nhất, không bị tán loạn, thì
muôn sự đều thành. Phật có dạy: "Như người chứa nước, khéo giữ bờ đê,
người tu hành giữ nước trí tuệ cũng vậy, phải khéo tu thiền định, chớ
cho tán động".
4.- Quán như ý túc:
Quán nghĩa là dùng trí tuệ sáng suốt quán sát pháp mình đang tu. Quán
trí ấy do định mà phát sanh, trí ấy là tịnh trí. Vì tịnh cho nên nó có
thể như thật thông đạt thật nghĩa (chân lý) của các pháp (vũ trụ).
III.- TÓM TẮT Ý NGHĨA VÀ DIỆU DỤNG CỦA TỨ NHƯ Ý TÚC
Sở dĩ Dục, Tinh tấn, Nhất tâm và Quán đều được gọi là như ý túc, vì
chúng ta là những thứ để cho tất cả công đức tu hành, thần lực nương vào
đó mà phát sanh, hợp như ý muốn của hành giả.
Bốn phép nầy như bốn nấc thanh kế tiếp theo nhau, để đưa hanh giả từ cái
nhân hữu lậu mê mờ, đến cái nhân vô lậu giải thoát: Trước hết, do tu
tâm hằng mong muốn (Dục), cho nên sự tu tập dũng mãnh (Tinh tấn); nhờ sự
tu tập dũng mãnh, nên phiền não tiêu, tán động hết, do đó tÂm được
chuyên nhất (Nhất tâm), nhờ tâm chuyên nhất nên quán trí được thanh tịnh
mãnh lợi (Quán), và có năng lực phá tan cội gốc vô minh.
Khi vô minh hết, thì vô số nghiệp chướng phải tiêu, hằng sa trí đức phát
hiện. Người tu hành, khi trí tuệ và công đức viên mãn tức khắc đẦy đủ
vô biên thần dụng trong sự hiện thân, hiện độ để cứu khổ chúng sanh, chứ
đâu có phải chỉ khi chứng được lục thông mới được tự tại?
D.- NGŨ CĂN, NGŨ LỰC
Trong ba mươi bảy món trợ đạo, Ngũ căn và Ngũ lực là những phương pháp
quý báu, cũng quan trọng như các pháp khác; có thể đưa người tu hành từ
địa vị phàm phu đến các Thánh quả trong ba thừa. Chúng là sự phục sức
trang nghiêm, là phương tiện công hiệu giúp người thẳng tiến trên bước
đường tu đạo, chứng quả. Vậy Phật tử chúng ta không thể không biết để
trì hành.
I.- ĐỊNH NGHĨA NGŨ CĂN
Ngũ căn là năm căn. Căn đây tức là căn bản, là gốc rễ, là nguồn gốc để tất cả các thiện pháp xuất phát.
Luận Trí Ðộ, quyển thứ mười, giải rằng: "Năm căn này là căn bản để phát
sanh tất cả thiện pháp, nên gọi là ngũ căn". Năm căn ấy là: Tín căn, Tấn
căn, Niệm căn, Ðịnh căn, Huệ căn.
II.- NỘI DUNG CỦA NGŨ CĂN
1.- Tín căn:
Là lòng tin mạnh mẽ vững chắc. Lòng tin này không giống như lòng tin mù
quáng, vô điều kiện, bất chấp lý trí của phần nhiều ngoại đạo. Lòng tin ở
đây là con đẻ của lý trí, là kết quả của sự suy luận sáng suốt, của sự
quan sát kỹ càng. Ðức Phật không bao giờ bắt buộc Phật tử tin một điều
gì mà không suy luận được, không giải thích được. Vì lòng tin của người
Phật tử khởi từ trí xét đoán. Bởi thế nên nó vô cùng vững chắc, mãnh
liệt. Chính nó là căn bản phát sinh các hạnh lành, Phật dạy: "Tin là mẹ
vô lượng của công đức". Nhưng Phật tử tin cái gì? Phật tử tin Tam Bảo:
- Tin Phật: Phật tử biết rằng đức Phật là đấng hoàn toàn giác ngộ, giải
thoát. Vì thế, Phật tử suốt đời tin tưởng theo Phật, để hướng tiến đến
sự giác ngộ, giải thoát mà Phật đã thân chứng.
- Tin pháp: Pháp là chân lý, là sự thật mà đức Phật đã khám phá ra và
truyền lại cho chúng ta. Hay nói một cách khác, pháp là giáo lý đúng như
sự thật mà đức Phật đã thuyết minh. Chúng ta tin tưởng những giáo lý
ấy, vì người nói ra là đức Phật, đã thân chứng được và giác ngộ được nhờ
giáo lý ấy.
- Tin Tăng: Tăng là người thật hành các giáo lý của Phật để giác ngộ
mình và người, là kẻ thay Phật đưa cao ngọn đuốc chánh pháp sáng ngời,
để soi đường cho chúng sinh. Vì thế, Phật tử suốt đời quy hướng về
Tăng.
2.- Tấn căn:
Tấn là tinh tấn. Tấn căn là sự dũng mãnh tinh tấn trên bước đường tu tập
không bao giờ thối lui. Nếu đã có lòng tin chắc chắn mà không tinh tấn
thực hiện, làm theo những điều mình tin, thì lòng tin suông ấy trở thành
vô dụng, không đưa chúng ta đến đâu cả.
Vậy cho nên người Phật tử đã tin Tam Bảo, thì phải luôn luôn tinh tấn
thực hành giáo lý của Phật.Theo Luận Nhiếp Ðại Thừa, tinh tấn có ba
thứ:
- Bị giáp tinh tấn: Nghĩa là mang áo giáp tinh tấn. Người Phật tử trong
cuộc chiến đấu để diệt trừ đau khổ, tiến tới giải thoát, cần phải mang
áo giáp tinh tấn, để khi xông pha vào trận địa "phiền não", khỏi bị ma
quân hảm hại. Nhờ có áo giáp này, người Phật tử tin tưởng ở năng lực của
mình hùng dũng tiến tới, không sợ gian nan nguy hiểm, không lùi bước
trước một trở ngại hay một địch thủ nào.
- Gia hạnh tinh tấn: Nghĩa là luôn luôn gắng sức không bao giờ dừng nghĩ
trên bước đường đi đến giải thoát. Với thứ tinh tấn này, người Phật tử
càng tiến càng hăng, càng thêm sức lực, càng phấn chí không bao giờ biết
mệt mỏi.
- Vô hỷ túc tinh tấn: Vô hỷ túc tinh tấn nghĩa là không vui sướng tự
mãn, cho là vừa đủ khi mới thu được một ít thắng lợi trên đường tu hành.
Người Phật tử chưa chứng được Phật quả, thì còn gia công gắng sức tu
luyện mãi, chứ không chịu dừng nghỉ, vui thú với một quả vị thấp thỏi,
tạm bợ, như người bộ hành khi chưa đến đích cuối cùng, thì còn hăng hái
bước mãi, chứ không chịu chấm dứt cuộc hành trình của mình, bằng cách an
phận ở mãi trong quán trọ bên đường.
3.- Niệm căn:
Niệm là ghi nhớ. Ghi nhớ những gì?
- Thứ nhất niệm thí: nghĩa là nhớ tu bố thí. Người Phật tử thường ngày
nhớ đem tài sản bố thí cho người bần cùng; đem hùng lực cứu giúp người
sợ hãi; đem chánh pháp chỉ giáo cho người si mê, khiến họ hết khổ được
vui.
- Thứ hai niệm giới: nghĩa là nhớ trì tịnh giới để đoạn trừ các phiền
não nghiệp chướng, tăng trưởng mọi hạnh lành. Giới có ba thứ:
- Nhiếp luật nghi giới: Những giới để ngăn cấm các hạnh nghiệp thô xấu, đoạn diệt các nghiệp chướng nơi thân tâm.
- Nhiếp thiện pháp giới: Những quy điều đúng pháp và lợi ích, người thực hành theo nó, có thể thành tựu tất cả pháp lành.
- Nhiêu ích hữu tình giới: Những điều luật làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh.
- Thứ ba niệm thiên: Luận Nhiếp Ðại Thừa có nói: "Thiên niệm trụ là
an trụ bón món thiền định". Vậy niệm thiên là nhớ tu các niệm thiền
định, để gạn sạch tất cả phiền não, thể chứng chân như:
4.- Ðịnh căn:
Ðịnh hay tịnh lự do dịch nghĩa chữ Phạn là Dhyana (Thiền na). Ðịnh là
lắng tâm yên tịnh, chuyên chú vào chánh pháp, để suy đạt thật nghĩa của
nó. Theo Luận Nhiếp Ðại Thừa, định có thể chia làm ba bậc:
- An trụ định: Ðể tâm an trụ vào định cảnh, không cho tán động, do đó phiến não được tiêu trừ.
- Dẫn phát định: Do đoạn sạch phiền não nên được phát sanh sáu món thần thông là các công đức thù thắng.
- Thành sở tác sự định: Do đã phát khởi được các công đức, thần thông,
nên thường làm lợi ích cho tất cả chúng sanh; cứu độ chúng sanh giải
thoát sanh tử, chứng được Niết Bàn.
5.- Huệ căn:
Huệ là trí huệ sáng suốt, thâm nhập được chân tướng của vạn pháp. Trí
huệ ấy không có sự phân biệt, vì phân biệt là tác dụng của vọng thức, là
mê lầm. Cũng theo Luận Nhiếp Ðại Thừa, trí huệ có ba thứ:
- Vô phân biệt gia hạnh huệ: Quán trí nầy không còn thấy có phân biệt,
nhưng còn có gia hạnh, nghĩa là còn phải dụng công tu hành, để thành
tựu hoàn toàn vô phân biệt trí. Vì thế, nên gọi là "vô phân biệt gia
hạnh huệ".
- Vô phân biệt huệ: Trí huệ nầy không có sự phân biệt, mà không cần
phải gia hạnh vì đã thuần phục. Do không phân biệt nên không có mê vọng.
Nhờ trí huệ này, người tu hành được tự tại thể chứng nhân như.
- Vô phân biệt hậu đắc huệ: Hay hậu đắc trí, nghĩa là trí huệ có được
sau khi đã chứng được chân như. Trí huệ này hoàn toàn sáng suốt, tỏ ngộ
được thật nghĩa của các pháp. Chư Phật nhờ hậu đắc trí nầy mà thi tác vô
lượng công đức, để cứu độ chúng sanh.
III.- ĐỊNH NGHĨA NGŨ LỰC
Nói một cách tổng quát, giản dị, huệ căn là trí huệ do thiền định đã
làm lắng sạch các vọng tưởng, phân biệt mà phát sanh. Nó thông đạt được
sự thật của các pháp; nó là căn nguyên phát sanh mọi việc vĩ đại để giải
thoát chúng sanh.
Ngũ lực tức là năm năng lực vĩ đại, năm thần lực của Ngũ căn. Nói một
cách dễ hiểu: Ngũ căn như năm cánh tay, còn ngũ lực như là sức mạnh của
năm cánh tay ấy.
IV.- THÀNH PHẦN VÀ NỘI DUNG CỦA NGŨ LỰC
1.- Tín lực:
Tức là thần lực của đức tin, hay sức mạnh lớn lao, vi diệu do tín căn phát sinh.
2.- Tấn lực:
Tức thần lực của đức tinh tấn, hay sức mạnh bất thối chuyển, kiên cố, có
thể sang bằng mọi trở lực, sức mạnh này do tấn căn phát sinh.
3.- Niệm lực:
Tức là thần lực của sự ghi nhớ, hay sức mạnh lớn lao bền chắc của niệm căn.
4.- Ðịnh lực:
Tức thần lực của sự tập trung tư tưởng hay sức mạnh vĩ đại của định căn.
5.- Huệ lực:
Tức thần lực của trí huệ hay sức mạnh vô biên của huệ căn.
Nói một cách tổng quát, những sức mạnh nầy là kết quả thâu đạt được do
sự kiên cố tu luyện của Ngũ căn. Nó như là một ngọn lửa bật lên sau khi
người ta đã nỗ lực cọ sát hai cây củi vào nhau để lấy lửa.
V.- DIỆU DỤNG CỦA NGŨ CĂN VÀ NGŨ LỰC
Như chúng ta đã thấy ở trên, Ngũ căn và Ngũ lực vừa là hai căn bản,
vừa là nghị lực để phát sinh, tăng trưởng vô lượng công đức thù thắng.
Bất luận người nào, hễ đã lấy trí làm nền tảng, tinh tấn thật hành chánh
pháp (tấn), hằng ghi nhứ chánh pháp để tiến tu (niệm), tập trung tư
tưởng để trừ sạch vô minh phiền não, đem diệu huệ vô phân biệt (huệ) để
chứng chân như, thì người ấy thế nào cũng nắm chắc trong tay quả vị vô
thượng Bồ đề. Vì sao? Vì người ấy đã có những thần lực vĩ đại (Ngũ lực)
do Ngũ căn gây tạo. Với ngũ lực nầy, hành giả như người bộ hành có đủ
phương tiện linh lợi, diệu dụng để băng rừng, vượt biển và đi đến đích
cuối cùng. Ðích cuối cùng của người tu hành theo chánh pháp tức là thành
Phật. Ðến đích này, người ấy là ánh sáng của chúng sinh gieo mầm an
lạc. Chính người mới có đủ thần lực, diệu dụng làm cho chúng sinh trở
thành những kẻ hoàn toàn giải thoát, hoàn toàn giác ngộ.
Kết quả của Ngũ căn và Ngũ lực lớn lao, quý báu như thế đó, chúng ta không thể không tu theo hai pháp môn ấy.
E.- THẤT BỒ ĐỀ PHẦN
Thất Bồ đề phần cũng là một pháp môn quan trọng không kém gì ngũ căn,
ngũ lực. Sở dĩ đức Phật chế ra nhiều pháp môn như thế là để tùy căn cơ
từng người, ai hợp pháp môn thì tu theo pháp môn ấy, Những pháp môn nầy
về tên gọi, về chi tiết thì có khác nhau, nhưng về đại thể, về tinh thần
thì có nhiều chỗ giống nhau. Vì thế, chúng ta sẽ thấy trong pháp môn
"Thất Bồ đề phần" có nhiều điểm giống như trong "Tứ Như ý túc" hay "Ngũ
căn, Ngũ lực".
I.- ĐỊNH NGHĨA THẤT BỒ ĐỀ PHẦN
Bồ đề do phiên âm chữ Phạn Boddhi mà ra. Người Trung hoa dịch là Giác
đạo, hay đạo quả gíac ngộ. Phần là từng phần, từng loại. Thất Bồ đề
phần là bảy pháp tu tập tuần tự hướng đến đạo quả vô thường Bồ đề, hay
bảy pháp giúp người tu hành thành tựu đạo quả Ðại giác.
Nó cũng có tên là Thất giác chi. "Giác: tức là Bồ đề, còn "Chi" tức cũng
như phần vậy. Thất giác chi tức là bảy nhánh, bảy phương tiện đi đến
đích giác ngộ.
II.- THÀNH PHẦN VÀ NỘI DUNG CỦA THẤT BỒ ĐỀ PHẦN
Thất Bồ đề phần gồm có:
1.- Trạch pháp:
Trạch là lựa chọn; Pháp là pháp môn, là phương pháp tu hành. Trạch pháp
là dùng trí huệ để lựa chọn pháp lành để tu, pháp dữ để tránh. Trong sự
tu tập, nếu ta không có trí phân biệt chánh tà, tất phải lầm lạc. Như
các bài trước đã nói, lòng tin của người Phật tử phải dựa trên lý trí,
nếu không là mê tín. Ðức Phật có dạy: "Hãy dùng trí huệ suy nghiệm, giải
trạch các pháp, rồi sẽ tin thọ, thật hành theo". Nếu tu lầm, tin chạ,
điều có nguy hại gấp trăm nghìn lần người không tu hành. Vì vậy, Phật tử
chúng ta muốn thẳng tiến trên đường giác ngộ, giải thoát, không phải
nghe ai bảo gì tin nấy, không phải tự bảo một cách bừa bãi: "đạo nào
cũng tốt cả"; không phải dung dung hòa Phật giáo với ngoại đạo; trái
lại, Phật tử cần sáng suốt để phòng sự đánh lộn sòng của các ngoại đạo,
sự xuyên tạc xảo quyệt để làm mất lòng tin sáng suốt của chúng ta. Chúng
ta phải luôn luôn tỉnh táo phân biệt chánh, tà, chân, ngụy; phải thường
trí huệ mà giản trạch cả những pháp ở ngoài và những ý tưởng chơn vọng
của tâm để tu, để đoạn.
2.- Tinh tấn:
Nhưng một khi đã lựa chọn được pháp môn chân chính để tu rồi, thì phải
tinh tấn, nghĩa là luôn luôn dũng tiến trên bước đường tu tập, không
quản ngại gian lao khó nhọc, không khiếp sợ; không thối chuyển, không tự
mãn, tự cao mà bỏ dở mục đích chưa đạt được (như đã nói ở bài ngũ
căn).
3.- Hỷ:
Nghĩa là hoan hỷ. Nhờ tinh tấn tu hành, nên đoạn trừ được dần phiền não
thành tựu vô lượng công đức, do đó, sanh tâm hoan hỷ và phấn chí tu
hành.
4.- Khinh an:
Khinh là nhẹ nhàng. An là an ổn. Nhờ sự tinh tiến tu tập nên thân tâm
được thanh tịnh; do đó người tu hành cảm thấy nhẹ nhàng, khoan khoái,
khinh an, như đã trút được gánh nặng dục vọng, mê mờ.
5.- Niệm: (Cũng như chữ niệm trong mấy bài trước)
Nghĩa là thường ghi nhớ chánh pháp để thực hành. Tâm niệm ta, nếu không
thường nhớ chánh pháp, tất nhiên tạp niệm phát sanh, phiền não tăng
trưởng. Cũng như một đám đất nếu không trồng hoa, thì cỏ mọc. Vì thế
người tu hành cần phải để tâm ghi nhớ chánh pháp, đừng cho xao lãng
buông lung nghĩ bậy.
6.- Định: (Cũng như chữ định ở mấy bài trước)
Nghĩa là tâm chuyên chú, tập trung vào pháp mình đang tu.
7.- Xả:
Nghĩa là bỏ ra ngoài không vướng bận. Xả tức là hành xả tâm sở, một trong mười một món Thiện tâm sở.
III.- HÀNH XẢ NGHĨA LÀ THẾ NÀO?
Người tu hành, nhờ trí sáng suốt, nhận biết "thọ là khổ", nên không
nắm giữ một thứ nào hết, dù quý báu bao nhiêu. Ngay trong sự tu hành
cũng vậy, họ không trụ trước ở các pháp mình đã tu, đã chứng; trái lại
họ luôn luôn xả bỏ những gì mình đạt đến, để tiến triển trên bước đường
đi đến giải thoát. Nếu người tu hành cứ mãi say đắm vào quả vị mình đã
chứng, thì suốt đời sẽ bị trầm một nơi đó, không bao giờ có thể tiến
lên, để đạt thành đạo quả vô thượng Bồ đề. Kinh Kim Cang sớ có
nói: "Người tu hành phải như người nương thuyền qua sông, khi thuyền đã
cập bến, nếu ta không bỏ nó để lên bờ, thì đừng hòng đến dâu và biết gì
được. Người muốn thành đấng siêu việt tự tại, cần phải từ trước khước
mọi đắm say".
Pháp hành xả nầy giúp chúng ta thành tựu sự siêu việt.
Tóm lại, người tu bảy pháp Bồ đề phần nầy, chắc chắn sẽ được bốn kết quả quý báu sau đây:
- Tất cả pháp ác đều được tiêu trừ.
- Tất cả pháp lành càng ngày càng tăng trưởng.
- Vì thường tu thiện, đoạn ác, nên luôn luôn được an lạc, không bị đau khổ.
- Sẽ chứng thành Phật quả.
G.- BÁT CHÁNH ĐẠO
Trong ba mươi bảy món trợ đạo, Bát Chánh đạo là một pháp môn chính, được
nhắc nhở đến nhiều nhất. Vì thế, mỗi khi nói đến Ðạo đế là người ta
liên tưởng đến Bát Chánh đạo. Thậm chí có người tưởng lầm rằng Ðạo đế
với Bát Chánh đạo là một.
Sở dĩ Bát Chánh đạo được xem là pháp môn chính của Ðạo đế, vì pháp môn
nầy rất đầy đủ có thể bao gồm được các pháp môn khác của Ðạo đế. Nó rất
phù hợp với mọi căn cơ, mọi thời đại, mọi phương sở; đối với Tiểu Thừa
cũng như Ðại Thừa, người Ðông phương cũng như Tây phương ai ai cũng đều
công nhận giá trị hoàn toàn cao cả của Bát Chánh đạo, và đều áp dụng
pháp môn nầy trong sự tu hành của mình để doạn trừ phiền não khổ đau,
hầu bước lên con đường giải thoát, an vui, tự tại.
I.- ĐỊNH NGHĨA CỦA BÁT CHÁNH ĐẠO
Bát Chánh đạo là tám con đường ngay thẳng hay tám phương tiện mầu nhiệm đưa chúng sinh đến đời sống chí diệu.
Người ta cũng có thể định nghĩa "Bát Chánh đạo" là con đường chánh có tám ngánh, để đưa chính sinh đến địa vị Thánh.
Cũng có khi người ta gọi Bát Chánh đạo là "Bát Thánh đạo" vì cái diệu dụng của nó sau đây:
- Những kẻ phàm phu học đạo, noi theo pháp môn nầy mà tu, thì khỏi lầm
lạc vào nẻo nguy hiểm, lần hồi sẽ chứng được quả Hiền Thánh.
- Những bậc Hiền, Thánh nương theo tám phương tiện nầy thì sẽ đi đến cảnh Niết Bàn.
Bát Chánh đạo gồm có:
- Chánh kiến.
- Chánh tư duy.
- Chánh ngữ.
- Chánh nghiệp.
- Chánh mạng.
- Chánh tinh tấn.
- Chánh niệm.
- Chánh định.
II.- NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ MỖI THÀNH PHẦN CỦA BÁT CHÁNH ĐẠO
1.- Chánh kiến:
Chánh là ngay thẳng, đúng đắn; Kiến là thấy, nhận biết. Chánh kiến hay
Chánh tri kiến là thấy, nghe, hay, biết một cách ngay thẳng, công minh,
đúng với sự thật khách quan. Người có chánh kiến thấy như thế nào thì
nhận đúng như thế ấy, không lấy trắng làm đen, xấu làm tốt, dở làm hay,
hay trái lại. Sự nhận xét sự vật của người ấy không bị tập quán, thành
kiến, dục vọng ngăn che hay làm sai lạc. Người có chánh kiến biết phân
biệt cái nào giả, cái nào thật. Và khi đã biết cảnh giả, vật dối, thì
mắt không chăm, tâm không chú; còn khi rõ biết cảnh vật thật, lời lẽ
chân, thì chuyên tâm vào sự lý chân thật làm cho đèn huệ sáng ngời, tiền
trần không phương che ám được.
2.- Chánh tư duy:
Tư duy là suy nghĩ, nghiệm xét; nó thuộc về ý thức. Chánh tư duy là suy nghĩ, xét nghiệm chân chánh, tư tưởng đúng với lẽ phải.
Người tu theo phép Chánh tư duy, thường xét nghĩ đạo lý cao siêu, suy
tìm thể tánh nhiệm mầu, biết xét những hành vi lỗi lầm, những ý nghĩ xấu
xa để sám hối; biết suy nghĩ về ba món vô lậu học: Giới, Ðịnh, Huệ, để
tu giải thoát; biết suy xét vô minh và nguyên nhân đau khổ, là nguồn gốc
của tội ác, và tìm phương pháp đúng đắn để tu hành hầu giải thoát cho
mình và cho người.
3-. Chánh ngữ:
Ngữ là lời nói; Chánh ngữ là lời nói chân thật, công bình, ngay thẳng và hợp lý.
Người tu theo chánh ngữ, không bao giờ nói sai, không thiên vị, thấy dở
nói hay, không xuyên tạc, nghe một đường nói một ngả. Người theo chánh
ngữ rất thận trọng lời nói; trước khi muốn nói gì phải suy nghĩ coi có
lợi ích và chân thật không. Xưa đức Khổng Tử vào viếng chốn cổ miếu,
thấy bức tranh họa một hình người kẹp miệng ba lần, ngài day lại dạy môn
đệ phải cẩn thận lời nói.
Ngày xưa, trước khi đức Phật sắp nhập Niết Bàn, có đệ tử hỏi:
- Bạch đức Thế Tôn, khi Phật nhập Niết Bàn rồi, người đời sau gặp nhièu
sách vở ngoại đạo không sao phân biệt với kinh Phật, như thế, biết tin
theo lời nào tu?
Phật dạy:
- Chẳng luận là lời nói của ai miễn là lời ấy đúng sự thật, hợp chân lý thì cứ tin theo mà tu.
Vậy, phàm những lời nói đúng lý, hợp lẽ, có lợi ích cho toàn thể chúng
sinh là chánh ngữ. Những lời nói ấy chúng ta phải tin theo và tập nói
cho đúng như thế.
4.- Chánh nghiệp:
Nghiệp là do người Trung Hoa dịch chữ Phạn Karma mà ra. Nghiệp hay Karma nghĩa là hành động tạo tác.
Chánh nghiệp là hành động, việc làm chân chính, đúng với lẽ phải, phù
hợp với chân lý, có lợi ích co người lẫn vật. Người theo đúng chánh
nghiệp là người luôn luôn thận trọng , giữ gìn mọi hành động của mình,
để khỏi làm tổn hại đến quyền lợi, nghền ghiệp, địa vị, danh giá, hạnh
phúc, tánh mạng của người khác. Hơn nữa người theo đúng chánh nghiệp bao
giờ cũng tôn trọng lương tâm nghề nghiệp của mình, luôn luôn hành động
có lợi ích cho mọi người, mọi vật; và nếu cần, có thể hy sinh quyền lời
hay tánh mạng mình để giải thoát nỗi đau khổ cho người khác.
Ngoài ra cũng gọi là chánh nghiệp, khi dùng trí huệ để quán tưởng những
pháp chân chính, hoặc ngồi Thiền, niệm Phật, hoặc trì tụng kinh hành, để
giữ gìn thân, khẩu, ý ba nghiệp cho thanh tịnh.
5.- Chánh mạng:
Mạng là sự sống, đời sống. Chánh mạng là sanh sống một cách chân chính
bằng nghề nghiệp lương thiện, trong sạch của mình. Người theo đúng Chánh
mạng sống một cuộc đời ngay thật, không gian tham, không làm giàu trên
mồ hôi, nước mắt của người khác, không làm cho người và vật phải đau khổ
vì nghề nghiệp của mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một cuộc đời
có ý nghĩa lợi mình, lợi người, xứng với bát cơm mình ăn không, manh áo
mình mặc chứ không ăn không ngồi rồi, sống bám vào người khác.
Người theo Chánh mạng sống đúng Chánh pháp, không mê tín dị đoan, và
biết thân tứ đại vốn vô thường, nên lấy tịnh giới làm thể, lấy trí huệ
làm mạng, bỏ niệm vọng cầu, an vui với chánh pháp.
6.- Chánh tinh tấn:
Chữ tinh tấn ở đây cũng cùng nghĩa như tinh tấn đã nói trong bài trước,
nghĩa là chuyên cần, siêng năng, thẳng tiến mục đích đã vạch sẵn không
vì một lý do gì mà lùi bước. Chánh tinh tấn là chuyên cần, siêng năng
làm việc chánh nghĩa, lợi lạc cho mình cũng như cho người và vật.
Người theo đúng Chánh tinh tấn, trước tiên, bao giờ cũng hăng hái sửa
mình, cương quyết bài trừ những điều ác, quyết tâm phát triển mọi hạnh
lành (xem bài Tứ Chánh cần). Người theo đúng Chánh tinh tấn, dũng mãnh
tiến lên trên đường đi đến giải thoát, cho đến lúc nào đạt được mục đích
cao cả, cùng tột ấy mới thôi (xem đoạn "Tấn căn" trong bài Ngũ căn).
Nói tóm lại, người theo đúng Chánh tinh tấn, quyết tạo nghiệp vô lậu xuấ
thế gian, lấy chánh trí làm mãnh lực, lấy Niết Bàn làm chỗ quy hướng,
một lòng chẳng trễ, muôn kiếp không dời, quyết công phu, định thành đạo
quả để trước tự độ, sau hóa đôĩ chúng sanh.
7.- Chánh niệm:
Niệm là ghi nhớ (cũng như nghĩa chữ niệm ở các bài trước). Chánh niệm là
ghi nhớ đến những điều hay lẽ phải, những điều lợi lạc cho mình cho
người, những đạo lý chân chính quý trọng cao siêu.
Chánh niệm có hai phần:
- Chánh ức niệm: là nghĩ nhớ đến các điều lỗi lầm để thành tâm sám
hối, và nghĩ nhớ đến Tứ trọng ân: ân cha mẹ, ân tổ quốc, ân chúng sinh
và ân Tam Bảo để lo báo đền.
- Chánh quán niệm: là dùng tâm từ bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, tật
bệnh, mê mờ mà chúng sinh đang mắc phải, để mở rộng lòng thương yêu và
quyết ra tay cứu độ.
Người theo đúng Chánh niệm, thường quán sát cảnh chân đế, năng tưởng
niệm các pháp trợ đạo; bất luận ở đâu và làm gì, cũng nhớ nghĩ đến cái
quả vô lậu xuất thế gian, dù trải qua bao nhiêu số kiếp cũng không thối
tâm xao lãng.
8.- Chánh định:
Chữ "Ðịnh" ở đây cũng đồng nghĩa như chữ định trong các bài trước, nghĩa
là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì, để thấy cho rõ ràng. Chánh
định là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng, đúng với chân lý,
có lợi ích cho mình và người.
Người theo đúng Chánh định, thường tập trung tư tưởng để quan sát những vấn đề chính sau đây:
- Quán thân bất tịnh (bất tịnh quán): túc là quán tưởng thân không thanh
tịnh, để trừ tham dục, sai ái (xem lại đoạn: "quán thân bất tịnh" trong
bài Tứ niệm xứ).
- Quán từ bi (từ bi quán): là quán tưởng tất cả chúng sinh đều là một
chân tâm, bình đẳng không khác, để đoạn trừ thù hận, và mở rộng lòng
thương yêu để cứu độ chúng sinh.
- Quán nhân duyên (nhân duyên quán): là quán tưởng tất cả pháp hữu hình
như muôn vật, vô hình như tâm niệm đều là giả hợp, duyên nhau mà có, chứ
không có một cách chân thật, không trường tồn, để đoạn trừ ngu si, pháp
chấp.
- Quán giới phân biệt (giới phân biệt quán): nghĩa là phân biệt và quán
tưởng sự giả hợp của mười giới: sáu căn, sáu trần, sáu thức để thấy
không thật có "ngã, pháp" ngõ hầu diêth trừ ngã chấp, pháp chấp.
- Quán hơi thở (sổ tức quán:) nghĩa là qúan tưởng bằng cách chuyên chú đếm hơi thở ra vào, để đổi trị sự tán loạn của tâm thức.
Như đã nói ở đoạn mở đề, Bát Chánh đạo là pháp môn rất được thông dụng.
Sự thông dụng này sở dĩ có được là nhờ lợi ích thiết thực và quý báu của
nó đối với đời sống cá nhân của người tu hành, đối với xã hội, và đối
với đời sống tương lai. Có thể tóm tắt những lợi ích, hay công năng của
Bát Chánh đạo trong ba điểm sau đây:
- Cải thiện tự thân: Nếu con người chuyên tu theo tám đường chánh này,
thì sửa đổi được tất cả mọi sự bất chính, mọi tội lỗi trong đời sống
hiện tại của mình, như ý niệm mê mờ, ngôn ngữ đảo điên, hành vi sái
quấy, đời sống vô luân. Khi những điều trên nầy đã được cải thiện, thì
tất cả cuộc đời riêng của mỗi người sẽ chân chính, lợi lạc và thiện mỹ.
- [Cải thiện hoàn cảnh: Nếu trong xã hội ai ai cũng đều chuyên tu theo
tám đường chánh đạo nầy, thì cảnh thế gian sẽ an lành, tịnh lạc, không
còn chiến tranh xâu xé, giết hại lẫn nhau.
- Chứng quả Bồ đề: Người chuyên tu theo tám đường chánh này, không
những có nhiều lợi lạc trong cuộc đời hiện tại mà còn gây tạo cho mình
một tương lai tươi sáng, gieo trồng cho mình những hạt giống Bồ đề để
ngày sau gặt hái quả vô thượng Niết Bàn, đầy đủ bốn đức Thường, Lạc,
Ngã, Tịnh.
Vì những lợi ích quý báu như thế, chúng tôi xin khuyên mọi Phật tử hày phát nguyện cương quyết tu theo Bát Chánh đạo.
TỔNG KẾT VỀ ĐẠO ĐẾ
Chúng ta vừa biết qua nội dung của Ðạo đế , hay ba mươi bảy món trợ
đạo là: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cấn, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất
Bồ đề phần, Bát Chánh đạo. Phần Ðạo đế đã chiếm hết bốn bài trong mười
bài nói về Tứ đế. Chỉ cái số lượng ấy cũng đủ nói lên sự quan trọng mà
đức Phật muốn dành cho phương pháp tu hành để chứng nhập Niết Bàn. Nhưng
chúng ta đừng nên thấy quá nhiều pháp môn mà vội nản lòng, thối chí. Vì
căn cơ chúng sinh không đều, nên đức Phật cần chế ra nhiều pháp môn, để
mỗi người có thể tùy theo căn cơ mính mà lựa pháp môn thích hợp để tu
hành. Tất nhiên một người có thể tu nhiều pháp môn nếu có đủ khả năng,
trí tuệ, sức khỏe; những nếu không đủ điều kiện, thì tu một pháp môn
cũng được. Khi tu thành một pháp, các pháp kia đều thành, vì nó là một
nhiếp thuộc lẫn nhau, trợ thành cho nhau.
Vậy Phật tử không nên ngã lòng thối chí. Với sự quyết tâm, với đức tinh
tấn, chúng ta tuần tự tiến dần vào Ðạo đế, không lo sợ, không nghi ngờ,
cũng không quá bồng bột, nóng nảy, rồi đây chậm hay nhanh, thế nào cũng
phải đến đích.
Hỡi quí vị Phật tử! Mười phương các đức Như Lai, đầu tiên đều nhờ các
pháp môn nầy mà dần dần được viên thành Phật quả. Tất cả Thánh giả trong
ba thừa, đều nương vào đây để tu hành cho đến ngày đạt đích. Chúng ta,
đàn con Phật, những người đang canh cánh ôm ấp bên lòng trí nguyện thành
Phật, để cứu độ và cứu độ chúng sinh, lẽ nào trong lúc đức Phật đã vì
lòng từ bi mà sửa soạn cho chúng ta mọi phương tiện, mọi hành lý để tiến
lên đường giải thoát, chúng ta lại do dự, chần chờ hay thối thác!
Vậy chúng ta hãy mau mau cất bước lên đường giải thoát.