[04]
GIẢI VỀ NIẾT BÀN
XIN CHO BIẾT Ý NGHĨA VỀ NIẾT BÀN?
NIẾT BÀN là mục tiêu chính yếu
của PHẬT GIÁO. Là mục tiêu cuối cùng của người tu theo đạo Phật. Người ta vì sợ
sự sống thống khổ bởi phiền não sanh ra, nên cố gắng tinh tấn tu hành để đến
NIẾT BÀN, là nơi không còn phiền não, hay trừ tận tuyệt, hoặc dụi tắt được ba
ngọn LỬA ĐỘC là THAM LAM, SÂN HẬN, và SI MÊ.
NIẾT BÀN LÀ THẾ NÀO?
NIẾT BÀN là một danh từ trừu
tượng siêu thế, khó cho người thông hiểu một cách dễ dàng và cũng khó cho vị
PHÁP SƯ hay GIẢNG SƯ hay một vị trí thức nào có thể giải thích một cách rõ rệt
cho được.
NIẾT BÀN là nơi tuyệt đối, mà
vạn vật trên thế gian này đều là vật tương đối, nên không thể đem so sánh ví dụ
cho dễ hiểu được. Hơn nữa, NIẾT BÀN, cần phải hiểu cho bằng trí tuệ chứ không
phải bằng tâm thức. Cũng như người nằm MỘNG không thể chỉ giấc MỘNG của mình
cho người khác biết được. Cũng như chúng sanh là người bị ba loại ĐỘC là THAM,
SÂN SI thiêu đốt. Nhờ uống các thứ THUỐC như Bố thí Trì giới, Tham thiền hay
HÀNH theo BÁT CHÁNH ĐẠO. Khi uống THUỐC trúng căn bệnh, bệnh tức khỏi, khi bị
ĐAU, khổ như thế nào, bây giờ MẠNH cảm thấy vui sướng ra làm sao, NIẾT BÀN cũng
ví như thế ấy.
XIN ĐỊNH NGHĨA VÀ CHIẾT TỰ HAI CHỮ NIẾT BÀN?
NIẾT BÀN cũng có nhiều tên khác
nhau như VIMUTTI "Giải Thoát" NIRODHA "Dụt Tắt" NIRVANA
"BẮC PHẠN" NIBBÀNA "NAM PHẠN" mặc dù có nhiều TÊN, chung
quy cũng chỉ có một ý nghĩa là DỤT TẮT PHIỀN NÃO không còn Khổ. NIBBÀNA, chia
làm hai phần là NI và VÀNA. Ni có nghĩa là ra khỏi. Vàna là RỪNG. Muốn cho dễ
đọc, dễ học, Phạn ngữ chữ VÀNA đổi thành BÀNA khi chữ B đứng sau NI, có thể
thêm một chữ B nữa, nên khi nối lại thành NIBBÀNA, có nghĩa là RA KHỎI RỪNG.
Rừng đây, ý nói RỪNG PHIỀN NÃO,
đầy đau khổ.
Phàm ở đời, người bị lạc trong
rừng, thì có rất nhiều điều tai hại nguy hiểm như thú dữ, rắn độc, phi nhơn,
hầm hố, gai góc v.v... khó ra khỏi được. Là nơi đáng lo sợ hốt hoảng, tối tăm
kinh khủng. đây là nói rừng thường, chứ RỪNG PHIỀN NÃO của chúng sanh thì lại
càng âm u và nhiều cảm bẩy cùng các thứ độc hại khác nữa.
Người bị lạc trong Rừng, còn tìm
phương, kiếm kế ra được. Trái lại đi vào RỪNG PHIỀN NÃO, bị VÔ MINH che án, DỤC
VỌNG kéo lôi, chúng sanh khó mà tìm phương giải thoát.
Vì vậy, NIẾT BÀN cũng có nghĩa
là người đã thoát ra khỏi RỪNG, đã thoát khỏi phiền não trong tâm, vượt khỏi
mọi sự kinh khủng, lo âu, tai hại trên.
NIẾT BÀN cũng có nghĩa là dụi
tắt. Y nói phiền não là một thứ LỬA vô hình, rất nóng nảy, hằng thiêu đốt chúng
sanh, nên chi chư vị Thanh Văn đệ tử Phật hằng cố ráng sức mình, dụi tắt ngọn
lửa bên trong. Khi ngọn lửa dụi tắt rồi, tức là đã đến NIẾT BÀN, tức hết khổ.
CHO BIẾT TƯỚNG CỦA NIẾT BÀN?
NIẾT BÀN là nơi an tịnh tuyệt
đối. Không thể giải bằng lời ví dụ được. Bằng sự việc được. Nhưng NIẾT BÀN có
ba đặt điểm khác thường là.
- TRẠNG THÁI NIẾT BÀN có sự hoàn toàn thanh tịnh
- VỊ NIẾT BÀN có sự BẤT DIỆT là VỊ
- HIỆN TƯỢNG NIẾT BÀN không có giới hạn là HIỆN TƯỢNG.
Sở dĩ, người mà không thấu đáo
hay đạt được QUẢ vị NIẾT BÀN thanh cao, bởi vì người còn chứa đựng nhiều phiền
não là tham lam, sân hận, si mê, tà kiến, tạo ra nghiệp chướng thiện hay ác,
nên mãi ở trong vòng phiền não, chịu sanh tử luân hồi mãi mãi. Khi dụi tắt được
sự ngủ ngầm trong tâm không còn dư sót tức là đắc được NIẾT BÀN, ra khỏi RỪNG
rồi vậy.
NIẾT BÀN CÓ MẤY LOẠI?
Theo KINH, NIẾT BÀN có ba loại:
- HỮU DƯ NIẾT BÀN
- VÔ DƯ NIẾT BÀN
- XÁ LỢI NIẾT BÀN
THẾ NÀO GỌI LÀ HỮU DƯ NIẾT BÀN?
Bậc HÀNH GIẢ tu hành tinh tấn,
lóng lòng trong sạch đã dụi tắt được phiền não, đã đắt ĐẠO QUẢ A LA HÁN, nghĩa
là đã hoàn toàn thanh tịnh, sáng suốt, nhưng còn mang xác thân NGŨ UẨN này còn
chung đụng với mùi trần song không hề bị ô nhiễm bởi vị Trần nữa.
THẾ NÀO GỌI LÀ VÔ DƯ NIẾT BÀN?
Nghĩa là chư THÁNH đã đắt đạo
QUẢ A LA HÁN, dụi tắt phiền não rồi, khi ấy cũng vừa hết tuổi thọ, xả bỏ tấm
thân ngũ uẩn này để nhập vào cảnh giới thanh tịnh trường cửu an vui tuyệt đối
ra khỏi vòng Tam Giới.
XÁ LỢI NIẾT BÀN LÀ NGHĨA LÀM SAO?
Đức Phật GOTAMA chúng ta, Ngài
nguyện Xá Lợi hài cốt của Ngài lưu tồn lại trong tam giới (trời người, long
cung) trong thời gian năm ngàn năm. Để cho chúng sanh lễ bái cúng dường cho có
phước, tô bồi đức tin, tu hành cho bớt khổ. Sau thời gian 5.000 năm, tất cả Xá
Lợi bất cứ ở đâu do năng lực của pháp thập độ sẽ tụ tập cả về Bồ Đề Đạo Tràng,
thành một đức Phật như xưa. Ngài sẽ thuyết pháp trong vòng bảy ngày.
Sau đó, Xá Lợi sẽ tự nhiên tiêu
hoại cùng như giáo pháp của Đấng Thiên Nhơn Sư không còn nữa.
TĂNG
TĂNG LÀ GÌ?
Phạn ngữ SANGHA hán âm TĂNG GIÀ
là người đã nguyện cát ái ly gia, lìa xa ngôi nhà phàm nhơn thế tục sống cuộc
đời không nhà cửa, không gia tài sự sản để cho tinh thần rảnh rang thoải mái,
mà tu hành theo giáo lý của Phật tổ GOTAMA. Ăn theo Phật, ở theo Phật, mặc theo
Phật. Hành trì giáo lý của đức Phật với ý nguyện "XÃ PHÚ CẦU BẦN, XÃ THÂN
CẦU ĐẠO" hướng về mục đích tối thượng là chuyển mê, khai ngộ, ly khổ đắc
lạc, ngõ hầu tự độ lấy mình và tùy duyên hóa độ quần sanh đến nơi an vui hết
khổ.
TĂNG CÓ MẤY HẠNG VÀ KHÁC BIỆT RA SAO?
Tăng có hai là:
- BHIKKHU. Tỳ khưu
- SAMANERO. Sa di
VỀ GIỚI LUẬT giữa Tỳ khưu và Sa
di đã giải rõ ở phần LUẬT " PHÁP BẢO" rồi. Xin xem lại cho rõ.
XIN CHO BIẾT TỲ KHƯU CÓ NGHĨA LÀ GÌ?
Phạn ngữ BHIKKHU Hán âm Tỳ khưu
còn có ba nghĩa: 1. KHẤT SĨ; 2. BỐ MA; 3. PHẢ ÁC
KHẤT SĨ NGHĨA LÀ SAO?
KHẤT SĨ là người tu sĩ đi xin
ăn. Xin các món tứ vật dụng của Tín Thí Đàn Na, để duy trì xác thân, để nuôi
mạng sống, để hành đạo từ bi, tìm phương giải thoát, KHẤT SĨ còn có hai nghĩa.
- THƯỢNG KHẤT PHẬT PHÁP
- HẠ ĐÀN VIỆT KHẤT
THƯỢNG KHẤT PHẬT PHÁP LÀ THẾ NÀO?
Trước hết, bổn phận của người
muốn xuất gia tu Phật, phải dọn mình cho trong sạch. Học hỏi GIÁO LÝ cho suốt
thông, rồi đến trình bạch với vị Tỳ khưu cao hạ trưởng lão xin làm đệ tử xuất
gia, tu theo phạm hạnh.
DỌN MÌNH CHO TRONG SẠCH Ý NGHĨA LÀM SAO?
- Phải là người không có bệnh
truyền nhiễm (như lao, cùi, hủi)
- Phải là người có ngũ quan đầy
đủ.
- Phải là người không mắc nợ thế
gian (như trốn xâu, lậu thuế, thâm lạm công quỹ v.v...)
- Phải là độc thân, nếu có gia
đình phải được sự đồng ý chấp thuận của cha mẹ, vợ con v.v...
- Phải là người rảnh rỗi, không
bân rộn dính mắc vì quân vụ hay công vụ.
Khi đầy đủ phận sự trên, tinh
thần mới được thoải mái trong sạch, yên tâm mà HÀNH ĐẠO dễ dàng.
HỌC HỎI GIÁO LÝ CHO THÔNG SUỐT LÀ THẾ NÀO?
Bổn phận của người GIỚI TỬ, học
hỏi cho thông suốt luật lệ của bậc XUẤT GIA, giới luật của vị SA DI, TỲ KHƯU,
học hỏi về GIỚI ĐỊNH TUỆ cho thuần phục, quan niệm, suy xét, nghiên cứu về GIÁO
LÝ cao siêu của đức PHẬT TỔ đã chuẩn hành.
XIN Y BÁT CHƠN TRUYỀN LÀ THẾ NÀO?
Khi đã thông suốt và thực hành
đầy đủ PHẬN SỰ của người GIỚI TỬ, vị trưởng lão nhận thấy trình độ khả năng và
đức hạnh đầy đủ, đồng ý cho làm lễ XUẤT GIA thọ trì QUY GIỚI và ban trao Y BÁT
chơn truyền cho GIỚI TỬ, theo Luật lệ của đức Phật đã chuẩn hành.
LỄ BAN TRUYỀN Y BÁT CÓ ĐIỀU KIỆN GÌ KHÔNG?
Vị trưởng lão là THẦY TẾ ĐÔ phải
có thâm niên MƯỜI HẠ trở lên, thì được thu nhận và ban truyền Y BÁT cho đệ tử.
Nếu GIỚI TỬ xin tu SA DI, thì THẦY TẾ ĐỘ ban truyền cho cũng được.
Trái lại, khi GIỚI TỬ xin thọ CỤ
TÚC GIỚI là Tỳ Khưu tu lên bậc cao luôn, thì lễ XUẤT GIA ban, truyền Y BÁT phải
có đủ năm vị Tỳ khưu trở lên tham dự chứng minh, thì mới đúng LUẬT TĂNG SƯ, lễ
XUẤT GIA mới thành tựu.
LỄ BAN TRUYỀN Y BÁT RA SAO?
Theo nghi thức "KHẨU TRUYỀN
TÂM THỌ".
Trước nhất, GIỚI TỬ phải chân
thành SÁM HỐI các tội lỗi lầm mình đã vô ý quên mình dễ duôi phạm phải trước
Tăng. Xong rồi, trình bạch với thầy TẾ ĐÔ để xin thọ trì QUY GIỚI. Bổn phận của
THẦY, sau khi xét hỏi những điều cần yếu, xong ban truyền Y BÁT cho đệ tử, nhắc
nhở những lời GIÁO HUẤN theo như luật lệ của đức Phật đã chuẩn hành.
Lễ ban truyền Y BÁT xong, GIỚI
TỬ đã cởi bỏ nếp sống thế nhơn, khoác trên mình bộ y, có tăng tướng trang
nghiêm, nhận lãnh trách nhiệm Sứ giả của đấng TOÀN GIÁC thay mặt ba đời chư
Phật, dạy dỗ quần sanh, và cũng được gọi là "PHƯỚC ĐIỀN VIÊN" của chư
thiên và nhơn loại.
XIN CHO BIẾT Ý NGHĨA VỀ LÁ Y?
Theo lời Phật dạy:
- Người Tu sĩ sống cuộc đời đạm
bạc, đi lượm vải dơ, vải bỏ, giặt sạch, khâu vá cho lành lặn tử tế, nhuộm màu
vàng Cà Sa hoại sắc làm Y mà mặc để che thân thể, tránh muỗi mòng nắng gió,
ngăn ngừa sự lạnh, sự nóng. Nhưng khi có thí chủ dâng cúng vải hoặc y đã may
sẳn thì được thọ dụng. Y hình chữ nhật. Không có tay, không có cúc như áo quần
người thế tục. Y lại có viền chung quanh, may thành điều khoản, khuôn khổ thước
tấc ấn định. Y lại còn có ba thứ:
- UẤT ĐÀ LA TĂNG (y vai trái hay ngoại)
- AN ĐÀ HỘI (y nội hay trong)
- HỒNG SÁCH (y lót mồ hôi, ý như áo lót)
Tam y thì có thêm bộ Y TĂNG GIÀ
LÊ (hai hay ba lớp vải) dành cho các TỲ KHƯU. Y màu VÀNG CASAVAK hay còn gọi là
màu VÀNG hoại sắc .
XIN CHO BIẾT Ý NGHĨA VỀ MÀU CÀ SA HOẠI SẮC?
Đức Phật hằng khuyên dạy, người
tu sĩ sống cuộc đời "THANH BẦN THEO CHÁNH MẠNG". Để che thân thể cho
kín mình tử tế, các thầy Tỳ khưu đi lượm vải dơ, vải bỏ đem giặt cho sạch sẽ,
khâu vá cho lành lặn, nhuộm một màu hoại sắc mà mặc. Y ấy là PHẤN TẢO Y hay
TOÁI TẠP Y.
PHẤN TẢO LÀ NGHĨA THẾ NÀO?
Nghĩa là y làm ra do vải dính đồ
dơ như bùn, đất, máu v.v...Ở xứ Ân Độ ngày xưa, khi có người chết, thân nhân
lấy vải bao quấn tử thi. Đàn bà màu trắng, đàn ông màu hồng không có hòm vỏ
(Quan tài) như bên ta. Đặt tử thi trên giường hay tấm ván. Họ khiêng vào rừng
bỏ đó để cho chim, muông cắn xé ăn thịt....Khi Điểu thú ăn mổ, thì lớp vải quấn
rơi ra, ba bốn ngày, họ đến lượm những xương tàn còn rơi rớt lại đem đi đốt, và
hốt tro tàn xương sót đem về thờ. Vải bó tử thi dính đầy mủ máu bùn đất, rơi
vãi đó đây. Thầy tỳ khưu đi lượm vải ấy, nấu nước sôi ngâm giặt cho sạch, khâu
vá xong, nhuộm màu vàng hoại sắc mà mặc. Đức Phật hằng ngợi khen, vị Tỳ khưu
nào có PHẤN TẢO Y hay còn được gọi là THIẾT GIÁP BÀO vậy.
TẠI SAO PHẤN TẢO Y CÒN GỌI THIẾT GIÁP BÀO?
Thế thường, một vị tướng ra
trận, xông pha giữa chốn chiến trường muôn tên ngàn giáo, đạn bắn, thương đâm,
nào gươm đao, mác v.v...mà có mặc THIẾT GIÁP BÀO thì sinh mạng sẽ được bảo đảm
một phần lớn. Vị Tỳ khưu mặc PHẤN TẢO Y để đè nén phiền não, chiến thắng trận
giặc lòng cũng như thế ấy
CHƯ TĂNG,
ĐỆ TỬ PHẬT CÓ VỊ NÀO ĐẮP PHẤN TẢO Y?
Chư THÁNH TĂNG thì nhiều. Song
có Ngài trưởng lão MÀHA KASAPPA (CA DIẾP) là người được đức Phật ban cho chính
PHẤN TẢO Y của Ngài và Đại đức duy trì luôn khi.
CHƯ TĂNG CÓ
PHẢI ĐẮP PHẤN TẢO Y CẢ KHÔNG?
Không. Luật định là như vậy. Để
diệt lòng ham muốn, sống cuộc đời TRI TÚC theo phạm hạnh, song khi có thí chủ
dâng cúng y hoặc vải, thì bậc xuất gia được phép thọ dụng.
HÌNH THỂ LÁ Y NHƯ THẾ NÀO?
Y hình chữ NHẬT. Không có tay,
không có nút. Có bờ viền chung quanh như bờ ngăn của đám ruộng, có từng điều,
từng khoản như bờ ngăn nước, từng khổ, từng miếng theo thước tất đã ấn định.
TẠI SAO Y LẠI CÓ VIỀN, CÓ KHOẢN CHI VẬY?
Y tượng trưng cho đám ruộng
phước. Thế thường, người nông phu gieo vãi hạt giống trong đám ruộng để đến mùa
thu hoạch hoa màu bông trái làm thực phẩm nuôi mạng sống. Y của chư Tăng, ví
như đám ruộng để chư thiên và nhơn loại gieo hạt giống lành vào mà được hưởng
quả phước thanh cao vậy.
Ngày xưa, khi Phật còn tại thế,
lúc đức THẾ TÔN cùng đoàn đệ tử ngang qua xứ MA KIỆT GIÀ, đứng trên đồi nhìn
xuống, thấy ruộng nương thứ lớp, đám thấp, đám cao, bờ bậc hẳn hoi. Đức Phật
bèn gọi Đại đức ANANDA mà dạy rằng:
- Này ANANDA. Ruộng nương của xứ
MA KIỆT GIÀ coi có thứ lớp ngăn nắp, ANANDA có thể lấy đó làm mẫu may y cho
Tăng được không?
Đại đức ANANDA vâng theo lời
Phật dạy, về cắt vải may y, y theo hình thể đám ruộng, dâng hầu lên đức THẾ
TÔN, Ngài ngợi khen.
Vả lại để ngăn ngừa đạo tặc, thế
thường khi vải đã cắt ra may lại, thành từng miếng to, nhỏ rồi thì kẻ trộm
không muốn lấy làm gì, vì đã mất giá trị. đó cũng là nguyên nhân, phương cách
cho chư TĂNG HÀNH ĐẠO dễ dàng, khỏi bận rộn tâm lo lắng cất giữ.
TAM Y cũng còn có ý nghĩa là cặp
cánh của con chim PHƯỢNG HOÀNG hay còn gọi là LÁ CỜ LA HÁN vậy.
THẾ NÀO GỌI LÀ CẶP CÁNH CỦA CHIM PHƯỢNG HOÀNG?
Chim PHƯỢNG, chúa của các loài
chim, có cặp CÁNH to rộng, vùng vẫy giữa không gian, bay đi đây, đó tự do thỏa
thích. TAM Y đối với bậc XUẤT GIA cũng như thế đó. Có TAM Y QUẢ BÁT chơn
truyền, người Tu sẽ rảnh rang công chuyện, không bận bịu việc đời, mà tự do tu
hành hoặc tha phương HÀNH ĐẠO, tế độ quần sanh.
TAM Y CÒN TƯỢNG TRƯNG CHO LÁ CỜ LA HÁN THẾ NÀO?
Phạn ngữ ARAHAM, hán âm A LA HÁN
là bậc đã giải thoát, không còn phiền não, là bậc VÔ SANH, là bậc đã bẽ gãy
bánh xe sanh tử luân hồi, là bậc đáng cho chúng sanh lễ bái, cúng dường. Chư
Tăng có TAM Y là biểu tượng cho các đức tánh trong sạch, trọn lành kia, nên còn
được gọi là NGỌN CỜ LA HÁN vậy.
QUẢ BÁT LÀ THẾ NÀO?
Bát là vật dụng bằng đá, bằng
đất, hay bằng sắt để thọ dụng vật thực của chúng sanh cúng dường. BÁT là hình
tròn, có nắp đậy.
Khi đức Phật THÀNH ĐẠO dưới cội
cây BỒ ĐỀ, hai vị thương gia là BÁC LỆ CA và GIA LỆ PHÙ BA được chư thiên mách
bảo, đem vật thực đến dâng cúng đấng ĐẠI GIÁC NGỘ. Phật quán xét, thấy ba đời
chư Phật không hề đưa tay nhận lãnh trực tiếp vật thực của thí chủ.
Khi ấy, trời TỨ ĐẠI THIÊN VƯƠNG
hiểu ý mới hiện ra dâng BÁT ĐÁ xin ngài dùng. Từ đó về sau, khắp đó đây
"HOẰNG ĐẠO CỨU ĐỜI" với chiếc BÁT ĐÁ thanh đạm Ngài đã chu du phổ độ
quần sanh với phẩm hạnh thanh cao "TRÌ BÌNH KHẤT THỰC", cứu khổ độ
sanh.
TRÌ BÌNH CÓ NGHĨA NHƯ THẾ NÀO?
Như phần trên đã giải, sau khi
được ban truyền QUY GIỚI, thọ phẩm hạnh thanh cao, có tăng tướng trang nghiêm
gọi là "THƯỢNG KHẤT PHẬT PHÁP".
Khi đã có tăng tướng rồi, vị Tu
sĩ sống đời thanh bần theo chánh mạng, ngày ngày mang bát xin ăn để nuôi mạng
sống gọi là "HẠ ĐÀN VIỆT KHẤT".
Gọi "HẠ ĐÀN VIỆT
KHẤT", là đi xin vật ăn miếng uống cùng bốn món vật dụng của tín thí đàn
na. Cũng có nghĩa là xin tấm lòng tốt của chúng sanh vậy. Vì rằng, làm các nghề
như ruộng nương rẫy bái, bán buôn, canh cải là việc làm của phàm nhơn thế tục.
Một khi sinh hoạt làm lụng, thì tâm tư phải suy nghĩ, ưu tư lợi hại, lo được lo
thua, phải toan tính thiệt hơn, lo còn, lo mất vì miếng ăn, sự sống, tâm phải
bận rộn thì làm sao TU HÀNH cho thanh tịnh được?
Người TU SĨ dứt bỏ nếp sống thế
nhơn, vui theo phạm hạnh "THANH BẦN THEO CHÁNH MẠNG" sống nhờ tấm
lòng tốt của Tín Thí Đàn Na, không vui khi được, không buồn khi không, TRI TÚC
qua ngày, tùy được, tùy có, để dành thì giờ quý báu mà học mà tu cho thoải mái.
Vả lại đi TRÌ BÌNH cũng là PHÁP HÀNH của ba đời chư Phật vậy.
PHÁP HÀNH NGHĨA LÀ SAO?
Thì giờ của đức Phật khi còn tại
thế. Nữa đêm, gần sáng, Ngài tham THIỀN, quán tưởng, rải lòng bác ái đến muôn
vạn quần sanh và dùng TUỆ NHÃN để thấy ai là người hữu duyên nên tế độ
Sáng ra, Ngài ôm BÁT đi TRÌ BÌNH
KHẤT THỰC, để tế độ quần sanh. Chư Tăng cũng noi theo tấm gương cao cả ấy. khi
đi BÁT, đứng trước nhà, là gom tâm thanh tịnh, dùng điển từ ái, niệm KINH cầu
nguyện cho gia chủ được mọi sự lành vui phúc lạc. Gia đình thấy không mời
thỉnh, mà có bậc tu hành đến nhà cầu nguyện, cõi lòng hoan hỷ phát sanh, và tùy
tiện trong nhà có vật thực gì chín sẵn (như cơm khoai, sắn, bắp, trái cây
v.v...) đem dâng cúng. Như thế gọi là gieo hạt giống lành trong đám ruộng phước
vậy.
NHÀ KHÔNG DÂNG CÚNG, KHÔNG CẦU NGUYỆN SAO?
TRÌ BÌNH nguyên tắc là phải đi
từng nhà một. Không phân biệt giàu nghèo, sang hèn quân dân hay tôn giáo, màu
da sắc tộc nào cả. Cầu nguyện vơí lòng từ ái, thí chủ dâng cúng cũng tốt, không
cúng chả sao. Đó là phận sự của người xuất gia, chứ không phải đi xin ăn như
mọi người khất cái đâu.
TRÌ BÌNH KHẤT THỰC CÒN CÓ Ý NGHĨA NÀO NỮA?
PHÁP HÀNH, rải lòng bác ái, cầu
nguyện cho chúng sanh là mục đích chính. Ngoài ra, còn là phương pháp dạy dỗ
uốn nắn tâm, diệt trừ phiền não, tập tành đức tánh nhẫn nại, nhịn nhục và thực
hành NĂM PHÁP là cho mọi người kính mến.
THẾ NÀO GỌI LÀ DIỆT TRỪ PHIỀN NÃO NỘI TÂM?
Đi KHẤT THỰC có nhiều gian lao
vất vả. Đầu đội trời, chân đạp đất, không kể nắng mưa, nóng lạnh... Lại nữa, có
người không bố thí cúng dường thì thôi, lại còn buông lời thô lỗ cộc cằn, hoặc
trêu chọc v.v...
ĐI BÁT có người quý trọng, lại
cũng có lắm kẻ khinh khi. Có người không biết, hoặc có người tỏ lộ những hành
vi bất nhã v.v...nếu HÀNH GIẢ thiếu đức TIN, không có lòng nhẫn nại là không
thể đè nén diệt trừ phiền não nội tâm được, mà thối chuyển, ngao ngán ngã lòng,
thì cũng khó mà thực hành cho được.
THỰC HÀNH NĂM PHÁP LÀM CHO NGƯỜI KÍNH MẾN LÀ SAO?
1. Phải có đức tin (tin nơi giáo lý cao siêu của Phật)
2. Biết hổ thẹn tội lỗi
3. Biết ghê sợ tội lỗi
4. Siêng năng dũng mãnh
5. Có nhiều trí tuệ.
Gương sáng của ba đời chư Phật
là rải lòng từ bi thương xót mọi người, mọi loài mà hòa mình vào đại chúng
"Ngày ngày mang bát xin ăn".
Quyết noi gương theo đấng TRỌN
LÀNH, thì PHÁP- HÀNH, Pháp mà đức Phật hằng ngợi khen, người tu sĩ phải quyết
tâm thực hành cho được:
Khi thọ dụng lễ vật của Tín Thí
Đàn Na là đề mục cho người xuất gia quán niệm suy xét lấy thân mình, hành vi
Phạm Hạnh của ta có xứng đáng được cho người lễ bái cúng dường chưa? Nếu thấy
rõ tội lỗi trong sự dễ duôi giải đãi và ghê sợ tội lỗi, thì phải mau mau thức
tỉnh, siêng năng tinh tấn tu hành cho khỏi phụ lòng hoài vọng của Tín Thí Đàn
Na.
Khi đã tịnh tấn, nỗ lực thu
thúc, học tập tham thiền, thì tâm thanh tịnh và phát sanh trí tuệ.
Trong KINH ANGUTTARA NIKÀYA
DASAKA NIPATTA đức Phật dạy:
- Này các Thầy Tỳ khưu. Các
người phải luôn luôn ghi nhớ 10 Điều QUÁN TƯỞNG:
1. HÀNH GIẢ luôn quán tưởng, Ta là người có hình thể khác
hơn thế tục.
2. Sự hành đạo của ta phải khác hơn thế nữa.
3. Đời sống của ta phải nương nhờ nơi kẻ khác.
4. Ta có thể chê trách ta về giới luật không?
5. Chư đạo hữu có thể chê trách ta về giới
luật?
6. Ta sẽ chia lìa nhơn vật thương yêu quý mến.
7. Ta có nghiệp là di sản của ta. Nghiệp là nơi sinh ra ta. Nghiệp là quyến
thuộc của ta. Nghiệp là nơi nương nhờ của ta.
8. Ngày và đêm hằng qua mau, hiện giờ ta đang làm gì
9. Tri kiến giải thoát là pháp diệt trừ phiền não, ta đã có hay chưa?
10. Ta đã làm tròn phận sự và trau giồi phạm hạnh đúng theo lời Phật dạy hay
chưa?
Đó là "MƯỜI ĐIỀU QUÁN
TƯỞNG" mà bậc xuất gia tu hành phải quán tưởng luôn khi. Khi thực hiện
đúng theo lời Phật dạy, trau giồi phẩm hạnh thanh cao, xứng đáng cho chúng sanh
lễ bái cúng dường. Bằng trái lại thì sự tai hại cũng không sao lường được. Đã
không đưa mình đến nơi an vui giải thoát lại còn bị sa đọa trong bốn đường ác
đạo khổ đau.
TẠI SAO TU HÀNH KHÔNG CHÍNH ĐÁNG LẠI CÓ TAI HẠI?
Hãy nghe đức Phật dạy các thầy
Tỳ khưu về năm hạng cướp vĩ đại. Năm hạng cướp ấy là gì?
- Này các thầy Tỳ khưu.
Trong thế gian này có một đảng
cướp vĩ đại, chúng hằng có ức niệm rằng không biết bao giờ ta có hằng trăm,
hàng ngàn người theo hầu hạ ta, bảo vệ ta, dâng các món tứ vật dụng hằng ngày
cho ta? Ta sẽ đi khắp thôn xã tổng tỉnh, tự ta cướp bóc, tự ta chặt đầu người,
tự ta phóng hỏa hay bảo kẻ khác phóng hỏa. Tướng cướp có hàng trăm, hàng ngàn
người tùy tùng rồi vào kinh thành cướp phá, như thế nào? Cũng như có hạng Tỳ
khưu trong pháp Luật của NHƯ LAI là người có lòng ham muốn đê tiện như vầy.
- Không biết bao giờ ta có hàng
trăm, hàng ngàn đệ tử đoanh vây theo hầu hạ ta, dâng cúng, cung cấp món ăn vật
uống, rồi đi đến làng tổng quận tỉnh và kinh đô, hàng xuất gia, kẻ cư sĩ phải
kính nể cúng dường, nhưng giới hạnh thì lôi thôi, lòng đầy tham dục, thì đó là
hạng cướp thứ nhất vậy.
THẾ NÀO LÀ HẠNG CƯỚP THỨ NHÌ?
Đức Phật dạy rằng: - Này các
thầy Tỳ khưu. Có nhóm Tỳ khưu đê tiện trong pháp luật này, lợi dụng lòng tin
của tín đồ nuôi mạng mình bằng cách tà mạng như (cho bùa, làm phép, chữa bệnh,
bốc thuốc v.v...) Giới hạnh không trang nghiêm, sai quấy giới luật hằng theo
phá hoại các hạng tu hành chơn chánh đúng theo GIỚI LUẬT của NHƯ LAI đã giáo
truyền. Đây là hạng cướp thứ nhì.
THẾ NÀO LÀ HẠNG CƯỚP THỨ BA?
Đức Phật dạy rằng: - Này các
thầy Tỳ khưu. Có nhóm Tỳ khưu đê tiện, học xong KINH LUẬT của NHƯ LAI đã giáo
truyền, lại tự cao, tự đại coi thường kinh bỉ các bậc trưởng lão, này các thầy
Tỳ khưu đây là hạng cướp thứ ba.
HẠNG CƯỚP THỨ TƯ LÀ THẾ NÀO?
Đức Thế Tôn có dạy:
- Này các thầy Tỳ khưu. Có nhóm
Tỳ khưu đê tiện trong Giáo Pháp này, giúp đỡ tín đồ bằng động sản của Tăng như
giường mùng, mền chiếu v.v... và đồ bất động sản như đất chùa hay chùa cho
người thế tục, với mong cầu lợi lộc riêng tư, thì đây là hạng cướp thứ tư.
Và Đức Thế Tôn giải tiếp:
- Này các thầy Tỳ khưu. Có nhóm
Tỳ khưu đê tịên trong pháp luật này, tự khoe mình đắc Pháp của bậc cao nhơn mà
chính mình không có, với mưu cầu lợi lộc, thì gọi là hạng cướp thứ năm vậy.
Năm hạng cướp vừa kể trên đây,
là những kẻ cướp hung tợn nguy hại, ác độc hơn cả những hạng cướp nào trên thế
gian này đến cõi Phạm Thiên. Vì sao?
Vì các thầy Tỳ khưu ăn cướp, vật
thực của Tín Thí Đàn Na bằng cách cúng dường, rồi còn lôi kéo hướng dẫn tín đồ
theo đường mê tín dị đoan, để cầu mong lợi lộc cho mình, bằng cách bàn môn tà
đạo thì nó còn tai hại hơn chặt đầu người, phóng hỏa đốt người nữa.
Bởi vậy cho nên, đức Phật cũng
hằng khuyên dạy: - Này các thầy Tỳ khưu. Thà các người ngồi ôm, nằm ôm vào đống
lửa đang cháy hừng hực, còn hơn các người ngồi ôm, nằm ôm các hàng công chúa,
tiểu thư, con gái các hàng quý tộc vua chúa giàu sang xinh đẹp, có bàn tay bàn
chân dịu đỏ như son, vì rằng ôm lửa, nằm vào lửa nó chỉ phỏng da, cháy trán hay
thiêu đốt mạng căn của các người một đời, một kiếp thôi.
Trái lại, lợi dụng hình thức
phạm hạnh mà làm điều xằng bậy, trược hạnh xấu xa, nó sẽ thiêu đốt huệ căn của
các người trong vô lượng kiếp và bị khổ thời gian rất lâu dài, vì khi chết,
sanh vào ác đạo thời gian vô tận.
Tóm lại, KHẤT SĨ là HẠNH NGUYỆN
quý báu cao cả của ba đời chư Phật, mà các bậc XUẤT GIA là người thay mặt để
nêu cao tấm GƯƠNG cao đẹp cho quần sanh với đầy đủ phẩm hạnh trang nghiêm, thì
đó là một cách bảo vệ và hoằng dương CHÁNH GIÁO cao thượng, thiết thực.
XIN CHO BIẾT Ý NGHĨA VỀ BỐ MA?
BỐ MA có ý nói là sợ MA. Xa lìa
Ma. Đè nén diệt trừ Ma. Ma đây còn được chia làm năm loại:
1. PHIỀN NÃO MA. Ám chỉ thói hư
tật xấu do TAM ĐỘC là THAM SÂN và SI sinh ra lo âu, buồn giận v.v...
2. TỬ THẦN MA. Ám chỉ về sự chết
của chúng sanh.
3. THIÊN MA. Một hạng Chư Thiên
chuyên đi khuyến hóa chúng sanh làm việc ác, ngăn cản việc thiện, sự tấn hóa tu
hành. Hạng chư Thiên này ở cung trời DẠ MA, một bên thiện, một bên ác.
4. NGŨ UẨN MA. Ám chỉ về sắc thọ
tưởng hành thức. Ngũ UẨN này kết hợp làm cho chúng sanh chịu bao thống khổ, lo
âu, sầu muộn v.v...
5. THIỆN ÁC MA. Thiện đây, ám
chỉ THIỆN HỮU LẬU, nghĩa là nó sợi dây trói cột chúng sanh trong vòng TAM GIỚI,
không cho thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi khi làm Trời, khi làm Người, khi
làm Thú v.v...
THIỆN HỮU LẬU LÀ THẾ NÀO?
HỮU LẬU THIỆN gồm có:
- Một trong cõi người.
- Sáu trong cõi dục giới
- Mười sáu trong cõi sắc
- Bốn trong cõi Vô Sắc
Cộng chung tất cả là 26 từng.
Tuy ở trong 26 từng ấy, có nhiều sự lạc thú thanh nhàn do theo nhân phước đã
tạo theo bảo trợ, nhưng đến khi hết phước, hết tuổi thọ vẫn còn phải chết, phải
bị tái sanh, loanh quanh trong vòng TAM GIỚI, do đó gọi là LOKKA KUSALA
"THẾ GIAN THIỆN".
CHO BIẾT Ý NGHĨA VỀ TAM GIỚI?
Nếu kể TAM GIỚI, phải tính luôn
cả bốn ĐƯỜNG ÁC nữa đó là:
1. Địa ngục
2. Ngạ quỷ
3. Súc sanh
4. A tu La
Đều phải chịu mọi điều thống
khổ, lo âu, sợ sệt. Kể đến cõi người. Tuy sanh làm người, song cũng có thể chia
làm năm hạng như sau:
1. Người như chư thiên.
2. Người như người.
3. Người như súc sanh.
4. Người như ngạ quỷ.
5. Người như địa ngục.
NGƯỜI NHƯ CHƯ
THIÊN LÀ THẾ NÀO?
Chư Thiên là hạng chúng sanh đã
làm được nhiều việc LÀNH như bố thí, tham thiền. Do nhờ phước báu ấy bảo trợ
như món ăn, vật uống các món tứ vật dụng tự nhiên mà có, đi lại dễ dàng, có hào
quang xinh đẹp, sáng ngời rực rỡ, ở trong những bảo điện nguy nga tráng lệ, có
nhiều kẻ hầu, người hạ v.v...Hạng người như chư thiên cũng như thế ấy, tuy làm
người mà có quyền cao tước trọng, nhà cửa khang trang, giàu sang phúc túc, sắc
thân xinh tốt, đầy đủ sự an vui lạc thú hơn mọi người.
NGƯỜI NHƯ NGƯỜI LÀ THẾ NÀO?
Hạng chúng sanh có lục căn đầy
đủ. Các món tứ vật dụng do công sức làm ra cũng vừa phải lẽ, túc y túc thực, có
trí tuệ nhận biết chơn lý, thấy được nhơn quả, biết lành, biết dữ, phải, trái
v.v...
NGƯỜI NHƯ SÚC SANH LÀ THẾ NÀO?
Chúng sanh này mang lông, đội
sừng, hai chân, bốn chân, nhiều chân hoặc không chân v.v... ví như trâu, bò,
heo, chó...hằng ngày làm công việc nặng nề cực nhọc dãi nắng, dầm mưa lại còn
bị hành hạ đánh đập trói lôi, xiềng xích, khi chết còn bị phanh thây xẻ thịt
biết bao tủi hổ, nhọc nhằn, đau khổ v.v...
Cũng như thế ấy, tuy mang thân
người nhưng thiếu phước tạo gây, nên văn dốt, võ nhác, tối tăm ngu độn sanh vào
gia đình nghèo đói cơ hàn, cơm không đủ no, áo không đủ ấm, phải làm những công
việc nặng nề cực nhọc đổ mồ hôi nuôi mạng sống, bị người sai khiến đày đọa, lại
còn bị người rẻ rúng khinh khi.
HẠNG NGƯỜI NHƯ NGẠ QUỶ LÀ THẾ NÀO?
PETA dịch là "QUỶ ĐÓI"
bụng đói, miệng khát nhe nanh, ăn toàn mủ máu hôi tanh. Chịu đói, lạnh, do nhân
xấu xa bần tiện keo kiệt bủn xỉn nhất là lòng tham lam quá độ, mong mỏi cướp
giựt của người khác do nhân ác đã gieo. Có hạng người tuy mang thân người mà
phải mang tật nguyền bệnh hoạn, nghèo đói, ăn không được, uống không thông, cơn
bệnh hành hạ đau nhứt ngày đêm, rên la, than khóc cũng như thế ấy.
NGƯỜI NHƯ ĐỊA NGỤC LÀ THẾ NÀO?
Do tội sát sanh hại mạng người
thú không chút xót thương. Làm những điều tội lỗi xấu xa như đâm thuê chém
mướn, hoặc phạm ngũ nghịch đại trọng tội, hoặc làm đồ tể để nuôi mạng sống v.v...Chúng
sanh nầy chết đi thọ sanh vào cảnh giới địa ngục lãnh chịu hình phạt bị chém
đầu, tra tấn, bị mổ bụng, lôi gan, đập xương, róc thịt, ăn hòn sắt nóng, uống
nước đồng sôi, sống đi chết lại ngàn lần, lửa cháy hỏa hào, ngày đêm thiêu đốt
không ngừng nghỉ v.v...
Tuy mạng thân người, có một hạng
người làm những sai trái, phạm vào phép nước, luật vua, tạo tác những tội ác,
gây tai hại cho nhiều người, phạm vào luật lệ quốc gia, mà phải lãnh chịu cảnh
tra tấn, tù đày, bị hành hạ đánh đập ngày đêm cũng như thế ấy.
Nói chung, lấy cảnh người, mà
suy niệm cho kỹ, cũng đã tượng trưng cho bốn đường ác, cõi người và cảnh giới
Chư Thiên một phần rồi vậy.
CHO BIẾT VỀ CÕI TRỜI DỤC GIỚI?
Có sáu cảnh giới như sau:
1. TỨ ĐẠI THIÊN VƯƠNG
Từng trời thấp nhất trong các từng
trời do bốn vị Thiên Vương cai quản.
- Vua KUVERA - TRÌ QUỐC Thiên vương.
- Vua DHATARATTHA - TÁNG HƯƠNG Thiên Vương
- Vua VIRUPAKKHA - QUẢNG MỤC Thiên Vương
- Vua VIRULHAKA - ĐA VĂN Thiên Vương.
Có tuổi Thọ là 500 tuổi như ý,
bằng 9 triệu rưỡi cõi người. Vì rằng, một ngày, một đêm ở cõi trời bằng 50 năm
ở cõi thế. Cũng như một ngày một đêm ở dương thế là bằng vạn tử, vạn sanh ở khổ
cảnh.
2. ĐAO LỢI THIÊN
Cũng còn gọi là cảnh TAM THẬP
TAM THIÊN, có 33 vị THIÊN VƯƠNG cai quản, do đức Trời ĐẾ THÍCH làm Chủ. Nơi có
tuổi THỌ là 1.000 tuổi NHƯ Ý, bằng 36 triệu rưỡi cõi người.
3. DẠ MA THIÊN
Còn gọi là cảnh DIỆT KHỔ . Có
tuổi THỌ 2.000 năm bằng 144 triệu tuổi cõi người.
4. ĐÂU XUẤT ĐÀ THIÊN.
Cảnh giới khoái lạc. Nơi an nghĩ
của các vị Bồ tát sau khi thực hành tròn đủ MƯỜI PHÁP THẬP ĐỘ. Có tuổi THỌ
4.000 năm, bằng 576 triệu tuổi cõi người.
5. HÓA LẠC THIÊN.
Cảnh giới của những vị trời ở
trong những cung điện đẹp đẽ, to lớn. Có tuổi THỌ 8.000 năm NHƯ Ý, so với tuổi
người là 2.304 triệu năm.
6. THA HÓA TỰ TẠI THIÊN
Cảnh giới của những vị trời có
khả năng tạo ra những vị trời khác để phục vụ cho mình. Có tuổi THỌ 16.000 tuổi
NHƯ Ý. Bằng 9.126 triệu năm của người.
Chư Thiên trong sáu cõi Dục Giới
trên cũng có hình thể, nhưng vật chất, (sắc) của các vị ấy tế nhị, rất tế nhị
hơn sắc của cõi người nhiều. Vì thế mắt thường, người không thấy được. Tất cả
những vị ấy, đều phải chết, mặc dù trên vài phương diện, như hình thể nơi ở,
vật thực thì được sung mãn hơn cảnh người nhiều.
Về trí tuệ, các vị ấy thường
không hơn người. Chư Thiên trong cõi DỤC GIỚI đều hóa sanh, bỗng nhiên xuất
hiện dưới hình thức một thanh niên hay thanh nữ lối 16 tuổi, đó là cảnh giới có
nhiều khoái lạc tạm bợ.
Bốn cảnh khổ, cảnh người và sáu
cảnh trời đều nằm trong DỤC GIỚI cả.
CHO BIẾT VỀ CẢNH TRỜI SẮC GIỚI?
SẮC GIỚI còn chia ra bốn cảnh
tương ứng với trình độ THIỀN mà HÀNH GIẢ đã đắc.
SƠ THIỀN CÓ BA LÀ:
1. PHẠM CHÚNG THIỀN. - Cảnh giới
các vị trời tùy tùng cho các vị Phạm Thiên. Thọ 1/3 kiếp trái đất.
2. PHẠM PHỤ THIỀN. - Cảnh giới
của những vị Phụ Thiên thân cận các vị Phạm thiên. Thọ 1/2 kiếp.
3. ĐẠI PHẠM THIỀN. - Cảnh giới
của các vị đại PHẠM THIỀN có nhiều hạnh phúc, đẹp đẽ và tuổi thọ nhiều hơn các
PHẠM THIÊN khác là một kiếp trái đất, nhờ phước báu đã tạo, do công phu THIỀN
ĐỊNH.
NHỊ THIỀN CÓ BA LÀ.
4. THIỂU QUANG THIÊN. - Cảnh
giới của những vị Phạm Thiên có ít hào quang. Thọ 2 kiếp trái đất.
5. VÔ LƯỢNG QUANG THIÊN.- Cảnh
giới của những vị Phạm Thiên có ánh sáng vô cùng. Thọ 4 kiếp trái đất.
6. QUANG ÂM THIÊN. - Cảnh giới
của những vị Phạm Thiên có hào quang rực rỡ. Thọ 8 kiếp trái đất.
TAM THIỀN CÓ BA LÀ
7. THIỂU TỊNH THIÊN. - Cảnh giới
của những vị Phạm Thiên có hào quang nhỏ, tuổi thọ 16 kiếp trái đất.
8. VÔ LƯỢNG QUANG THIÊN. - Cảnh
giới của những vị Phạm Thiên có hào quang vững chắc không xao động. Tuổi thọ 32
kiếp trái đất.
9. BIẾN TỊNH THIÊN. - Cảnh giới
của những vị Phạm Thiên có hào quang vững chắc không xao động. Tuổi thọ 64 kiếp
trái đất.
TỨ THIỀN CÓ BẢY LÀ
10. QUẢNG QUẢ THIÊN. - Cảnh giới
của những vị Phạm Thiên hưởng quả rộng lớn. Tuổi thọ 500 kiếp.
11. VÔ TƯỞNG THIÊN. - Cảnh giới
của những vị Phạm Thiên không có Tâm. Tuổi thọ 500 kiếp trái Đất.
12. VÔ PHIỀN THIÊN. - Cảnh giới
của những vị Phạm Thiên hoàn toàn tinh khiết trường cửu có tuổi thọ 1.000 kiếp
trái đất
13. VÔ NHIỆT THIÊN. - Cảnh giới
của những vị Phạm Thiên hoàn toàn thanh tịnh. Tuổi thọ 2.000 kiếp.
14. THIỆN HIỆN THIÊN. - Cảnh
giới của những vị phạm thiên hoàn toàn đẹp đẽ. Thọ 4.000 kiếp trái đất.
15. THIỆN KIẾN THIÊN. - Cảnh
giới của những vị Phạm Thiên hoàn toàn quang đãng. Thọ 8.000 kiếp trái đất.
16. VÔ THIỂU THIÊN. - Cảnh giới
của những vị Phạm Thiên tối thượng. Tuổi thọ 16.000 kiếp trái đất.
BỐN CẢNH TRỜI VÔ SẮC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
1. KHÔNG VÔ BIÊN XỨ THIÊN.
Cảnh giới có quan niệm Không
gian vô cùng vô tận có tuổi thọ hai muôn kiếp trái đất.
2. THỨC VÔ BIÊN XỨ THIÊN
Cảnh giới có quan niệm rằng
"THỨC vô cùng tận" có tuổi thọ là tám muôn kiếp trái đất.
3. VÔ SỞ HỮU XỨ THIÊN
Cảnh giới có quan niệm rằng
không không vô cùng tận có tuổi thọ mười sáu muôn kiếp đất.
4. PHI TƯỞNG PHI PHI TƯỞNG THIÊN
Cảnh giới có quan niệm rằng
không có Trí giác cũng không có Trí giác. Có tuổi thọ tám muôn bốn ngàn kiếp
trái đất. Cũng nên ghi rằng "không có giống nam cũng như không có giống nữ
trong những cảnh SẮC GIỚI và VÔ SẮC GIỚI". -- (Cộng tất cả 31 từng trong
TAM GIỚI). Y theo BẢN DỊCH của Hòa Thượng Tỳ Khưu KIM QUANG.
Tóm lại, từ hạng chúng sanh đê
tiện khổ cực Nhất (nhứt nhựt, nhứt Dạ vạn Tử vạn sanh) cho đến hạng chúng sanh
sống với tuổi thọ 84 ngàn đại kiếp, nhưng đến khi hết phước, hết tuổi thọ, lại
cũng phải tái sanh, còn phải chịu chi phối dưới định luật vô thường.
Cho nên, bậc Xuất Gia là phải cố
gắng diệt trừ phiền não để thoát ra khỏi vòng TAM GIỚI, ra khỏi LƯỚI của MA
VƯƠNG, đến cảnh NIẾT BÀN cho xứng danh là BỐ MA đó vậy.
Nên ghi nhận rằng, đức Phật
không nhắm truyền bá một lý thuyết về vũ trụ. Dù những cảnh giới trên có hay
không, điều ấy không ảnh hưởng gì đến cho giáo lý của Ngài. Không ai bị bắt
buộc phải tin một điều gì, nếu điều ấy không thích hợp với sự suy luận của
mình. Nhưng nếu bác bỏ tất cả những gì mà lý tưởng hữu hạn của ta không thể
quán niệm được, thì điều ấy cũng không phải hoàn toàn chánh đáng. Muốn tỏ hơn,
xin tìm xem nơi quyển "ĐỨC PHẬT VÀ PHẬT PHÁP" của giảng sư NARÀDA đã
xuất bản.
XIN CHO BIẾT Ý NGHĨA VỀ PHẢ ÁC?
PHẢ ÁC hay còn được gọi là PHẢN
ÁC. Chư Tăng là những người đã nguyện"CÁI ÁI LY GIA, XÃ PHÚ CẦU BẦN, XÃ
THÂN CẦU ĐẠO" với mục đích duy nhất là giải thoát ra khỏi vòng TAM GIỚI
KHỔ.
Khi đã có TĂNG TƯỚNG trang
nghiêm, học hỏi và thực hành GIỚI LUẬT để PHẢN ÁC TÙNG THIỆN, phản giả quy
chơn, phản tà quy chánh, bỏ mê về ngộ, xa khổ về vui, đó là nhiệm vụ tối cần,
là mục tiêu tối thượng của người CẦU ĐẠO GIẢI THOÁT vậy.
ĐI TRÌ BÌNH SAO GỌI NUÔI MÌNH THEO CHÁNH MẠNG?
Đức THẾ TÔN hằng khuyên dạy chư
Tăng, hằng ngày phải đi TRÌ BÌNH KHẤT THỰC để CỨU KHỔ ĐỘ SANH. Để đem lại sự an
vui cho mọi người, mọi loài, mọi giới để chúng sanh có điều kiện gieo duyên làm
phước trong CHÁNH PHÁP, vãi hạt giống lành trong đám ruộng phước (do lòng bi
mẫn) là nuôi mình theo CHÁNH MẠNG.
Mỗi ngày chỉ ăn một bữa (ngọ
thời) tùy được, tùy có, không khen cũng không chê, không mừng cũng không vui
hay lo lắng, hoặc ao ước đòi hỏi theo nhục dục cá nhơn. Hằng luôn quán niệm bốn
món vật dụng để cố gắng tinh tấn tu hành (đó là Tự Độ lấy mình) gọi là CHÁNH
MẠNG vậy.
NUÔI MÌNH THEO TÀ MẠNG LÀ THẾ NÀO?
Người xuất gia sống cuộc đời
không chơn chánh, đức Phật gọi là NESANA " TÀ MẠNG" có 21 điều.
1. VELU DÀNAM - Cho người thế tre.
2. PATTA DÀNAM - Cho người thế lá
3. PASSA DÀNAM - Cho người thế bông hoa
4. PHÀLA DÀNAM - Cho người thế trái.
5. DANTAKATTHA DÀNAM - Cho người tăm xỉa răng
6. MUKHODAKA DÀNAM - Cho nước rửa mặt
7. DINNÀNA DÀNAM - Cho xà phòng tắm giặt
8. CUNNA DÀNAM - Cho phấn bột thoa mình
9. MATIKA DÀNAM - Cho đất sét
10. VÀTUKAMYYÀTÀ - Hạ mình nói lời tôn kính người tại gia
11. MUGGASÀPATA - Nói những lời thêu dệt
12. PÀRIGHATYATÀ - Giữ con cho người thế
13. JANGHAPPESANIYÀ - Làm thuê cho người thế
14. VEJJAKAMMA - Làm thầy thuốc chữa bệnh
15. DÙTAKAMMA - Làm tống thư văn cho người
16. PAHIGANANAM - Ngoài việc đi thơ, còn đem chuyện người này mách lại người
kia.
17. PINDIPPÀTIPPINDIKÀ - Đem vật thực mà mình khất thực cho người ăn trước, rồi
mới khất thực ăn sau.
18. DÀNIPADÀNAM - Cho đi, cho lại, nghĩa là người thế cho vật này, xuất gia cho
vật nọ, gọi là thù tạc.
19. VUTTHUVIJJÀ - Làm thầy địa lý, chỉ nơi chôn cất, phâm kim, đặt huyệt.
20. HAKKHITTAVIJJÀ - Coi sao hạn, nghĩa là coi bói toán rồi cúng cho người.
21. ANGIVIJJÀ - Coi tướng số, đoán tử vi tốt xấu.
Đó là 21 ĐIỀU TÀ MẠNG không
chính đáng của vị Tỳ khưu, mà các hàng thiện trí thức chê bai.
LÀM THẦY ĐỊA, CÚNG SAO HẠN SAO GỌI LÀ TÀ MẠNG?
Theo LUẬT NHƠN QUẢ LIÊN QUAN,
làm lành hưởng quả vui, làm dữ mang quả khổ, đúng như NHO GIÁO có câu
"CHỦNG QUẢ ĐẮC QUẢ, CHỦNG ĐẬU ĐẮC ĐẬU" có nghĩa là trồng DƯA thì được
DƯA, tỉa ĐẬU thì hái ĐẬU.
Đức Phật khuyên dạy:
- Chính ta là tạo hóa của ta.
Thiên đàng do ta tạo. Địa ngục cũng chính ta gây. Phước hay tội đều do ta cả.
Gọi là "TỰ TÁC TỰ THỌ". Ngoài ta ra, không có một vị Thần linh toàn
năng toàn trí nào, có thể ban phước hay rước họa cho ai được cả.
Như vậy, làm thầy địa lý, cúng
sao hạn, coi tướng số, đoán tử vi, vẽ bùa chú, trừ tà, ếm quỷ là hành vi của
hạng người không chơn chánh. Lợi dụng vào lòng tin yếu kém của tín đồ để đưa họ
vào con đường mê tín dị đoan tin tưởng nơi đấng thần quyền tha lực, chỉ biết
cầu khẩn van xin nơi một đấng thiêng liêng huyền bí, mà không chịu TỰ TU TỰ ĐỘ,
đó là nhân đưa CHÁNH PHÁP đến chỗ lu mờ suy yếu, há không phải là TÀ MẠNG sao?
Dẫn chứng ví dụ cho dễ hiểu. Có
một nhóm người hung ác dữ tợn kia, chuyên đi cướp của, giết người, đốt xóm, phá
làng, làm những điều xấu xa tội lỗi. Khi bị quân binh đánh dẹp, bắt bỏ vào ngục
thất, để đưa ra tòa, kêu án mà lãnh chịu hình phạt tù đày hoặc tử hình theo như
cái tội mà họ đã gây ra tạo ra.
Rồi trong khi ấy vợ, con quyến
thuộc của nhóm người nói trên, đem vàng bạc châu báu lo lót hối lộ cho vị quan
tòa thanh liêm chánh trực để xin giảm án hay ân xá, tha bổng cho các tội nhơn
có được không?
Chắc chắn là không được như thế
nào, thì việc cúng vàng mã, hình nộm, tướng rơm v.v...chỉ là việc làm của hạng
người mê tín dị đoan mà thôi.
Vã lại, xét cho kỹ, người dương
thế dùng loại tiền gì?
Người cõi âm dùng tiền tệ gì?
Luật lệ nào cho phép oan hồn uổng tử nhận lãnh tiêu pha? Vả lại đã có lòng cho,
sao lại đem đi đốt ráo cả vậy?
Nói họ thần thông phép tắc để
nhận, sao họ không biến hóa ra mà dùng, lại hốt tro tàn đem về làm gì. Họ thụ
hưởng được hồi nào? Chẳng qua là khi mua vàng mã (với giá khá đắt) số tiền chui
vào rương, vào tủ của số người sản xuất đó. Nước Việt Nam ta hơn một
ngàn năm bị đô hộ dưới sự cai trị của người phương Bắc, phong tục tập quán, lễ
nghi phong hóa một phần lớn do người phương Bắc bày vẽ. Vàng mã cũng do mấy chú
Tài phiệt đặt bày.
Để tiêu thu các món hàng trên,
nên họ dựng lên câu chuyện "ĐƯỜNG VƯƠNG LÝ THẾ DÂN DU ĐỊA PHỦ" các
oan hồn uổng tử khóc lóc xin tiền, thiếu bạc v.v...
Câu chuyện thật hoang đường, thế
nhơn vốn nhẹ, nghe bùi tai là tin ngay chứ không chiu suy xét cho kỹ, nhất là ở
đời có hạng người tham lam ích kỷ, cho vay cắt cổ, tham nhũng ô lại, làm những
việc độc ác, vơ vét tận xương tủy của dân lành, miễn sao cho vừa lòng ích kỷ cá
nhơn. Đã thế lại còn lo sợ cho tương lai sau khi chết, lo mua sắm gửi gắm kho
vàng, kho bạc dưới diêm vương, để sau khi chết xuống có sẵn mà tiêu xài, hối lộ
Diêm vương, Quỷ sứ, mong những vị này thu nhận của hối lộ, mà giảm khinh hình
phạt cho v.v...
Đem sự việc trên mà suy luận.
Người Việt Nam ta dùng tiền
ngân hàng Việt Nam.
Người Anh dùng Anh kim, người Mỹ dùng Đô-la, người Pháp dùng Frăng v.v...Vậy đố
ai biết Diêm Vương dùng thứ tiền tệ chi? Một miếng giấy súc, quệt một chút kim
nhũ hay ngân nhũ. Hoặc khắc bản gỗ để in tiền xưa, rồi đốt cho người cõi âm
dùng, thì đúng là một việc quá ư khôi hài, và không khéo ta lại khinh thường
vong hồn người quá cố.
Nói rộng ra, các nước theo Phật
giáo chơn chánh như Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan v.v...hay các nước văn minh
như Âu, Mỹ, người ta không cúng vàng đốt mã, chắc họ hàng, thân quyến của họ
nghèo túng lắm.
Nếu họ đói, nghèo sẽ sanh tâm
trộm cướp. Bên Việt Nam
ta có nhiều vàng kho, bạc nén tích trữ để dành, họ sẽ tràn qua xâm lăng, cướp
giật, thì chắc chắn họ hàng nhà ta liệu có giữ nổi cùng không? Chắc cũng phải
lo sợ mất mát, thì khổ lắm chứ chơi sao? sống đã khổ vì giữ của, chết cũng
không an tâm vì lắm của, nhiều vàng.
Đó là luận lý LÝ NHƠN QUẢ mà nói
cho cùng, chứ khi chúng sanh chết, phải đi thọ sanh theo duyên nghiệp của mình
khi sanh tiền gây tạo chứ đâu có phải nằm đó mà chờ sự thế thẩm văn xin, cúng
cấp đâu?
Tóm lại, người TU SĨ XUẤT GIA
mong vượt ra khỏi vòng TAM GIỚI KHỔ, phải tìm sự lợi ích cho mình và sự lợi ích
cho quần sanh bằng CHÁNH MẠNG, và tránh xa NĂM ĐIỀU TỘI LỖI mà đức Phật hằng
khuyên răn nhắc nhở.
NĂM ĐIỀU TỘI LỖI ẤY NHƯ THẾ NÀO?
Nuôi mình bằng cách không chơn
chính PÀMADHAMMA
"Pháp TỘI LỖI" có năm
điều:
1. KURANÀ. Nói dối. Có ý muốn
cho người cúng dường mình, nên làm ra vẻ ta đây là người không ham muốn vật tốt
đẹp. Hoặc nói xa, nói gần, có ý cho ta là hạnh kiểm thanh cao. Hoặc làm bằng
cách hành động trong bốn oai nghi, làm bộ như mình là bậc cao nhơn không màn
thế sự, ra khỏi phiền não.
2. LAPANÀ. Sự giả dối bằng lời
nói, là có ý dùng lời khoe khoang, hoặc có ý nói cho người mời thỉnh hoặc dâng
cúng cho mình.
3. NEMITATÀ. Tỏ vẻ cho người
biết rằng: Ta đây ưa muốn cần thiết vật ấy. Bằng cách nói đà, hỏi ướm để xin,
hoặc làm bộ như không biết, không từng thấy hỏi dọ xem để người cúng dường.
Hoặc làm thể như y bị rách rưới, thiếu thốn v.v...để người dâng cúng cho ta,
bằng cách hành động hay nói mà không biết thẹn
4. NIPPESIKATÀ. Nói dịu ngọt, là
dùng lời nói nịnh bợ hoặc khích bác cho thiện tín vì chạm tự ái hay tội nghiệp
mà dâng cúng.
5. LABHENA LÀBHANNIJJGIMSANATÀ.
Tìm Lợi Lộc bằng cách đưa của mình được nơi này ra cho nơi khác để lấy mồi câu
lợi.
Đây là những hành động rất đê
tiện của người xuất gia, tham lam danh lợi, có ý như người cho vay lấy lãi nói
chung, ngưới xuất gia mà sống với NĂM PHÁP TỘI LỖI và 21 ĐIỀU TÀ MẠNG cùng TÁM
PHÁP BẤT CHÁNH, gọi là thầy Tỳ khưu nuôi mạng không chơn chánh.
TÁM PHÁP BẤT CHÁNH LÀ THẾ NÀO?
1. Đoán rằng năm nay trời mưa nhiều tốt.
2. Đoán rằng năm nay trời hạn hán, mất mùa
3. Đoán rằng năm nay lúa gạo đầy đủ
4. Đoán rằng năm nay thiếu lúa gạo đói kém
5. Đoán rằng có sự thái bình
6. Đoán rằng có thiên tai như bão lụt
7. Đoán rằng có bệnh hoạn như dịch hạch phát sanh.
8. Đoán rằng không có bệnh tật chi.
Nói chung, TÁM ĐIỀU DỰ ĐOÁN trên
làm cho đệ tử tín đồ hoang mang, lo sợ, không còn đức tin nơi TỰ LỰC mà chỉ
biết van xin cầu khẩn nơi một sự ban ân, giáng phước che chở hộ trì cũng là
nhân đưa đến sự mê tín dị đoan, trông nhờ nơi THA LỰC THẦN QUYỀN vậy.
BẬC XUẤT GIA TU HÀNH THEO CHÁNH MẠNG CÓ QUẢ GÌ?
Còn là Phàm. Còn phải tu theo
GIỚI ĐỊNH HUỆ để diệt trừ TAM ĐỘC là THAM SÂN SI. Bậc xuất gia tu hành theo
CHÁNH MẠNG có TRẠNG THÁI, PHẬN SỰ, và QUẢ của CHÁNH MẠNG theo hộ trì luôn khi.
THẾ NÀO GỌI LÀ TRẠNG THÁI?
LAKKHANA, dịch là"TRẠNG
THÁI". CHÁNH MẠNG có nghĩa làm cho trong sạch, có nghĩa là không lẫn lộn ở
đời, khác hẳn thế nhơn phàm tục, đáng kính trọng theo như luật của đức Phật đã
giáo truyền.
THẾ NÀO GỌI LÀ PHẬN SỰ?
KICCA dịch là phận sự là có tánh
cách hành động nuôi mạng chơn chánh, là vật đưa người ra khỏi khổ. Ý nói chánh
mạng của bậc xuất gia là tuyệt đối tri túc không tham danh lợi, đó là nhân để
diệt lòng ham muốn đây là lý do giải thoát khỏi khổ.
THẾ NÀO GỌI LÀ QUẢ?
PHÀLA dịch là "QUẢ"
CHÁNH MẠNG có tánh cách dứt bỏ hay dứt sự nuôi mạng không chơn chánh đó là QUẢ.
CHÁNH MẠNG thuộc về THÂN và KHẨU, nên thuộc về LUẬT hay còn gọi là GIỚI. Trong
TẠNG KINH, đoạn về Tỳ khưu giữ mình trong sạch theo CHÁNH MẠNG có TÁM điều AN
VUI như vầy.
1. Không bận rộn về việc giữ gìn của cải.
2. Tìm vật thực vô tội, là không phải hành nghề gì làm ra tiền, hầu mua sắm
thức ăn, nên không TÀ MẠNG.
3. Thọ vật thực đã chín sẳn (do Thí chủ dâng cúng).
4. Không bị làm khó dễ bởi chính phủ, nghĩa là không bị xâu thuế.
5. Không có sự ưa mến, quyến luyến về vật dụng cần như người đời nào xe cộ, nhà
cửa v.v...
6. Không sợ bị kẻ trộm cướp lấy của.
7. Không có sự quan hệ gì với quan quyền vua chúa.
8. Không đi nơi nào cũng không bị ai gạn hỏi ngăn đón lôi thôi.
TẠI SAO ĐẾN CHÙA LỄ PHẬT, PHẢI LẠY CHƯ TĂNG?
LỄ PHẬT là tôn kính ân đức ba
đời chư Phật. Còn đảnh lễ chư Tăng là lạy cái Y cái Bát, cái Hạnh kiểm trang
nghiêm, đức lành, tánh tốt của chư Tăng, người thay mặt ba đời chư Phật để dạy
dỗ quần sanh, chứ đâu phải lạy nhục thể 32 thế trược của ông xoài ông ổi đâu?
Vả lại, một khi đảnh lễ như vậy,
cũng là cách nhắc khéo chư Tăng, là sự động viên khuyến thỉnh chư Tăng tu hành
theo Phạm hạnh.
NHẮC KHÉO CHƯ TĂNG
LÀ NGHĨA LÀM SAO?
Cũng như khi THỌ THỰC của thí
chủ, vị Xuất gia phải luôn luôn quán tưởng, nhắc nhở mình phải như vầy:
- Thí chủ đâu có phải là cha ta,
mẹ ta, thân bằng quyến thuộc của ta. Sở dĩ họ dâng cúng TỨ SỰ cần thiết đến ta
là để cho ta duy trì mạng Sống, mà tu hành theo PHẠM HẠNH, ngõ hầu tế độ quần
sanh. Rồi lấy đó làm đề mục tu hành cho tinh tấn hơn lên.
- Cũng như thế ấy, khi Thiện tín
đãnh lễ ông SƯ, mười ngón tay chấp lại, tượng trưng cho 10 đóa Hoa lòng dâng
cúng đến TAM BẢO, mà ta là người Đại diện đã xứng đáng nhận lãnh vinh dự ấy
chưa? Nếu chưa, thì phải làm sao đây? Phải cố gắng hành đạo cách nầy đây?
- Trái lại, khi Thiện tín đãnh
lễ, ông Sư, tâm lấy làm thoả thích mừng vui vì tự cao, tự đại, mà tu hành thì
dãi đãi, làm biếng dễ duôi, thì đó là mười ngọn giáo nhọn, đâm xoi xỉa xói dày
xéo thân ta đó vậy. Lửa đốt ta, chứ có phải đáng vui, đáng thích, đáng hãnh
diện đâu?
TẠI SAO KHI THIỆN TÍN ĐÃNH LỄ ÔNG SƯ LÀM THINH?
Bà đời chư Phật không bao giờ
cúi đầu hay chấp tay chào xá một chúng sanh nào. Chư Tăng, đại diện ba đời chư
Phật cũng làm như thế ấy. Làm thinh là có ý mặc tưởng, cầu chúc cho thiện tín
được mọi sự an lành, mà cũng là để suy xét đạo hạnh của mình một cách nghiêm
chỉnh vậy.
CÓ CHỖ DẠY "CHƯ
TĂNG LÀ LỬA" Ý NGHĨA THẾ NÀO?
LỬA, nếu ta biết xử dụng, sẽ
sưởi ấm, nấu chín vật thực, làm đuốc soi đường và nhiều việc lợi ích khác. Trái
lại, không biết dùng lửa cho đúng cách, chính nó sẽ thiêu đốt, cháy phỏng muôn
phần đau khổ.
Chư Tăng cũng vậy. Hết lòng cung
kính thờ phụng nghe lời giáo huấn của các Ngài, rồi cố gắng HÀNH theo thì được
mọi sự lợi ích an vui trong đời này cho đến vô lượng kiếp vị lai. Trái lại,
khinh thường rẻ rúng chư Tăng, thì sự quả báo chẳng lành cũng sẽ đến với ta như
thế ấy.
TĂNG CÓ MẤY BẬC, XIN CHO BIẾT?
TĂNG có hai là THÁNH TĂNG và
PHÀM TĂNG. THÁNH TĂNG là những bậc tu hành tinh tấn, dứt trừ phiền não và đã
đến THÁNH VỨC, là đạt đến BỐN ĐẠO, BỐN ĐẠO và một NIẾT BÀN.
BỐN ĐẠO, BỐN QUẢ LÀ THẾ NÀO?
- TU ĐÀ HOÀN ĐẠO - TU ĐÀ HOÀN QUẢ
- TƯ ĐÀ HÀM ĐẠO - TƯ ĐÀ HÀM QUẢ
- A NA HÀM ĐẠO - A NA HÀM QUẢ
- A LA HÁN ĐẠO - A LA HÁN QUẢ
Bốn bậc THÁNH trên lại còn chia
ra THÁNH HỮU LẬU và THÁNH VÔ LẬU.
THÁNH HỮU LẬU là bậc mới nhập
dòng THÁNH VỨC, đè nén phiền não được một phần, chưa dứt hẳn được nên còn phải
bị TÁI SANH LUÂN HỒI như TU ĐÀ HOÀN TƯ ĐÀ HÀM và A NA HÀM.
THÁNH VÔ LẬU là bậc đã diệt tận
gốc rễ của phiền não, đã trong sạch được cả THÂN KHẨU Ý không cò TÁI SANH LUÂN
HỒI lại nữa như A LA HÁN.
THẾ NÀO GỌI LÀ THÁNH TU ĐÀ HOÀN?
TU ĐÀ HOÀN hay còn gọi là
"DỰ LƯU" có nghĩa là bậc sửa sọan vào Dòng THÁNH VỨC do sự tinh tấn
tu hành. Bậc này, dứt được ba sợi dây kiết sử là THÂN KIẾN HOÀI NGHI và GIỚI
CẤM THỦ. Là bậc thấp nhất trong hàng TỨ THÁNH. Bậc này còn phải tái sanh luân
hồi, nhưng không quá bảy kiếp và nhất là không còn bị sa đọa và bốn đường DỮ.
Bậc này còn được gọi là THẤT LAI.
THẾ NÀO GỌI LÀ THÁNH TƯ ĐÀ HÀM?
TƯ ĐÀ HÀM hay còn được
gọi"NHẤT LAI" hay NHẬP LƯU có nghĩa là đã chánh thức nhập vào dòng
THÁNH rồi. Chư vị này diệt tận được ba sợi dây KIẾT SỬ và THÂN KIẾN HOÀI NGHI
và GIỚI CẤM THỦ, song THAM và SÂN đã nhẹ được một phần lớn. Bậc này chỉ phải
TÁI SANH một kiếp nữa mà thôi.
THẾ NÀO GỌI LÀ THÁNH A NA HÀM?
A NA HÀM hay còn gọi được gọi là
BẤT LAI, nghĩa là không còn bị luân hồi nữa. Vì bậc THÁNH này đã dứt trừ được
THƯỢNG PHẦN KIẾT SỬ và Thân kiến, Hoài nghi, Giới cẩm thủ, Tham lam và Sân hận.
Đắc QUẢ này, chư THÁNH thọ sanh vào cung Trời ĐÂU XUẤT ĐÀ để tu hành thêm và
chờ ngày đắc QUẢ A LA HÁN.
THẾ NÀO GỌI LÀ THÁNH A LA HÁN?
A LA HÁN có danh hiệu VÔ SANH,
nghĩa là không còn sanh tử luân hồi lại nữa. Vì bậc THÁNH này đã dứt sạch MƯỜI
SỢI DÂY KIẾT SỬ trói cột chúng sanh là Thân kiến, Hoài nghi, Giới cẩm thủ, Tham
lam, Sân hận, Ái sắc, Ái vô sắc, Phóng dật, Tự phụ và Vô minh. Bậc này đã hoàn
toàn giải thoát ra khỏi vòng TAM GIỚI, nên được gọi là THÁNH VÔ LẬU.
THÁNH TĂNG CÓ HẠNG THIỆN LAI TỲ KHƯU LÀ THẾ NÀO?
EHI BHIKKHU, dịch THIỆN LAI TỲ
KHƯU là bậc đã đào tạo được rất nhiều TIỀN THIỆN DUYÊN từ Vô lượng kiếp. Nhất
là cúng dường bố thí dạo cạo, Y BÁT đến chư Phật TOÀN GIÁC, ĐỘC GIÁC và THINH
VĂN đệ tử Phật, cững như chư PHÀM TĂNG. Do nhân lành trên, nên khi có một đức
Phật ra đời, được nghe PHÁP của Ngài, phát tâm hoan hỷ mừng vui, xin xuất gia
tu theo CHÁNH ĐẠO.
Khi ấy, đức Phật dạy. "Hãy
lại đây, vị THIỆN LAI Tỳ khưu". Khi lời vàng vừa dứt, tự nhiên tóc, râu
rụng sạch, quần áo cân đai sẽ biến mất, mà có đầy đủ TAM Y QUẢ BÁT như một vị
Tỳ khưu đã tu lâu rồi vậy. Đó là do nhờ phước theo bảo trợ. Chư Tăng này được
gọi là EHI BHIKKHU hay THIỆN LAI TỲ KHƯU, tu theo lối ứng hoá.
PHÀM TĂNG LÀ THẾ NÀO?
Là người đã nguyện hy sinh, xã
bỏ đời sống phàm nhơn thế tục, thọ trì phẩm hạnh thanh cao, thay mặt ba đời chư
Phật, cố gắng tinh tấn tu hành theo TAM HỌC là giới định huệ để diệt trừ TAM
ĐỘC là tham sân và si, mong ngày đắc thành ĐẠO QUẢ theo gương các bậc đàn anh
là chư THÁNH THINH VĂN vậy.
BÂY GIỜ CÒN CÓ THÁNH TĂNG ĐẮC QUẢ KHÔNG?
Trong TẠNG KINH có
ghi"CHÁNH GIÁO CÒN, ĐẠO QUẢ CÒN". Đúng như vậy, tu hành cho chín
chắn, đúng theo lời đức Phật dạy, thì chắc chắn sẽ đắc ĐẠO QUẢ không sai bất
luận là xuất gia hay tại gia, song hạng xuất gia thì tâm nhẹ nhàng rảnh rỗi hơn
hàng tại gia, vì còn bị vướn bận bao nhiêu sự trói cột ở đời.
Sở dĩ bây giờ có ít Thánh Tăng,
là vì chúng sanh phước mỏng, nghiệp dày vả lại sự hành chưa hoàn toàn đúng theo
lời Phật dạy. Tinh thần bị phiền não, trần cấu, ô nhiễm quá nhiều.
Và nói một cách khác, nếu có
THÁNH NHƠN đắc QUẢ đi nữa, thì chính tự vị ấy biết, cũng như các vị đồng quả
biết chả lẽ đắc QUẢ rồi, các Ngài đem khoe khoang ĐẠO QUẢ cho mọi người biết
sao?
DO ĐÂU, PHÀM NHƠN KHÔNG BIẾT THÁNH NHƠN ĐẮC QUẢ?
Lấy một ví dụ cho dễ hiểu. Ví
như có một đứa trẻ học lớp Tư. Nó chỉ biết đọc, biết viết, tính toán chút ít.
Trình độ hiểu biết của nó chỉ ở
trong phạm vi lớp Tư mà thôi. Nghe người kia đậu bằng bác sĩ hay kỹ sư, nó cũng
chỉ nghe như vậy thôi, chứ thật ra, nó làm sao hiểu biết được tầm kiến thức của
vị bác sĩ hay kỹ sư như thế nào?
Chúng ta cũng như thế ấy. Màn VÔ
MINH bao đời che án, DANH VỌNG lắm kiếp kéo lôi, mãi say mê quay cuồng với tài
tình danh lợi, lấy giả làm thiệt, lấy không làm có, lấy dơ làm sạch, lấy khổ
làm vui...thì làm sao thấy biết được sự thanh tịnh, vắng lặng an vui tự tại của
chư THÁNH cho được?
NẾU KHÔNG THẤY, BIẾT LÀM SAO TIN TƯỞNG ĐỂ TU?
Lại cần xét ví dụ trên, chả lẽ
như đứa trẻ học lớp tư kia, không biết được tầm kiến thức bao la của vị Bác sĩ
hay Kỹ sư rồi cho là không có trình độ Bác sĩ hay Kỹ sư sao?
Muốn có bằng cấp bác sĩ hay kỹ
sư người học trò phải chuyên cần, phải cố công trì chí, không xao lãng chăm chú
học hỏi, rồi thời gian không lâu, cũng sẽ đạt đến trình độ bác sĩ hay kỹ sư
được.
Cũng như chúng ta, là những
người mong mỏi tìm đạo giải thoát, tìm cho ra con đường thoát khổ về vui thì
việc trứơc nhất là cố gắng tinh tấn dứt bỏ tánh hư, nết xấu, đào tạo, việc
lành.
Như trì trai, giữ giới, tham
THIỀN, quán tưởng, đè nén phiền não, bớt dục vọng thèm khát cá nhơn, trau giồi
tâm cho thanh tịnh thì NIẾT BÀN đâu xa.
TẠI SAO TRONG TĂNG LỮ, VỊ SƯ GIÀ LẠY VỊ SƯ TRẺ?
Đảnh lễ là để tỏ lòng cung kính
Phẩm hạnh thanh cao, công hạnh tu hành, phạm hạnh giải thoát, chứ đâu có phải
lạy 32 thế trược của vị ấy.
Tuy có Tăng tướng như nhau, song
NHO GIÁO có câu "THẮNG NHỨT TUẾ VI NHƠN HUYNH"...có nghĩa là hơn một
tuổi thì làm anh. Ơ đây, thấy vị sư già đảnh lễ vị sư trẻ, là chấp Sự mà quên
Lý rồi. Tuy trẻ nhưng công hạnh cao hơn, tuổi hạ lớn hơn, thọ cụ túc giới trước
hơn thì vị tuy già mà mới tu hoặc nhỏ hạ hơn phải đảnh lễ là việc dễ hiểu vậy
thôi.
Đức Phật có dạy:
- Hai người cùng tu một ngày,
một tháng, hoặc một buổi, song người nào THỌ GIỚI trước là Sư Huynh. Em phải
tôn trọng, kính bái anh, vì như trong gia đình, người em phải kính trọng anh đó
vậy.
TẠI SAO CHA MẸ ÔNG SƯ CŨNG PHẢI ĐẢNH LỄ SƯ, CON
MÌNH?
Như trên đã giải, đảnh lễ là tôn
trọng, kính bái Y BÁT chơn truyền của ba đời chư Phật, đảnh lễ chư Thánh và
Phàm Tăng mà ông Sư là người đại diện, chứ đâu có đảnh lễ một cá nhơn người nào
đâu? Vả lại, đảnh lễ thì có Phước, không thì thôi, chứ ông Sư đâu có bắt buộc.
Sự tín ngưỡng, tôn trọng phát xuất tự đáy lòng mới cao quý, chứ ngoài hình
tướng thị lạy lục, mà trong tâm thì hoài nghi, bực bội, buồn phiền...thì sao
gọi là phước.
Tóm lại, chư TĂNG tuy còn là
PHÀM, nhưng các ngài thay mặt ba đời chư Phật, chư THÁNH TĂNG, thì làm sao cho
phẩm hạnh thanh cao, giới đức trong sạch, cho xứng đáng là PHƯỚC ĐIỀN VIÊN của
chư thiên và NHƠN LOẠI.