Phật học cơ bản
Phật giáo & Nhân sinh
Tác giả: Thích Minh Đức
04/05/2553 22:34 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Phật giáo và nhân sinh (Phần II)
 
   Phật giáo và nhân sinh, đề tài này tương đối dễ triển khai, bởi vì trong mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi giây phút chúng ta đều hiện hữu trong cuộc nhân sinh, mỗi hoạt động của chúng ta cũng đều phản ánh nhân sinh. Nói cách khác, Phật giáo chính là nhân sinh quan triệt để. 

   Vì sao nói Phật giáo là nhân sinh quan triệt để? Ví dụ như nói: chúng ta thường thấy những cô gái rất đẹp thì mỗi ngày các cô gái này cần phải trang điểm, sửa soạn sắc đẹp, lo chăm sóc chải chuốt mái tóc dài, có người thì lo kết theo kiểu đuôi sam… Ở Đài Loan, hiện rất thịnh hành các loại phấn thoa, các loại keo để uốn tóc cho xoăn lại, các loại mỹ phẩm để nhuộm màu tóc .v.v… và rất nhiều, rất nhiều thứ mỹ phẩm khác nữa. Như thế, chỉ nội vấn đề chăm lo sắc đẹp, mái tóc mà hằng ngày những cô gái ấy đã tốn không biết bao nhiêu thời gian, tiền bạc và chính họ đã bị sắc đẹp, mái tóc của mình làm khổ rồi. Ngoài ra còn các vấn đề khác nữa, như trang phục quần áo, giày dép…, mặc dù đã có hàng tá bộ quần áo, hàng chục đôi giày đủ kiểu, nhưng khi nhìn thấy có những bộ quần áo mới, những đôi giày kiểu mới khác, mà chưa mua được thì họ càng thấy đau khổ vô cùng. Ở đây chỉ đơn cử một ví dụ mà chúng ta thường thấy trước mắt, chứ thực tế trong xã hội còn có biết bao nhiêu khó khăn đau khổ mà chính con người tự gây ra cho mình và cho người khác. Trước các vấn đề như thế của xã hội, từ góc độ Phật giáo mà nhìn, tức là theo nhân sinh quan Phật giáo thì trước hết, chúng ta không được mơ hồ tức là không được thiếu hiểu biết về chính bản thân và xã hội.
 
   21. KHÔNG MƠ HỒ

   Đối với vấn đề nhân sinh, theo Phật giáo thì chúng ta không được mơ hồ, tức là không được hiểu biết sai lầm về bản thân và xã hội. Cơ thể của chúng ta chịu sự chi phối của định luật vô thường, thân thể này thật sự không phải là một vật trong sạch. Ví như chúng ta bị cảm cúm, sổ mũi thì các thứ nước mũi, đàm giải thải ra, hoặc là đau bụng thổ tả .vv… Theo quan niệm của Phật giáo, không có cái gì gọi là “mỹ nữ” cả, mỹ nữ chỉ là một cái xác. Nếu như chúng ta tách riêng ra từng bộ phận của cơ thể đó thì chúng ta sẽ thấy chúng là những vật gì? Và trong từng bộ phận đó chúng ta có còn tìm thấy mỹ nữ ở trong đó hay không?

   Nói cách khác, Phật giáo chính là sự hiểu biết chân chính, không được mơ hồ đối với bản thân, sự vật, hiện tượng mà cần phải thấy rõ được bản chất của các sự vật hiện tượng. Như vậy, đối với một người học Phật, sau khi đã học hỏi nghiên cứu thấu đáo về vũ trụ và nhân sinh, thì không có việc gì có thể lừa gạt được người đó, và họ không bao giờ bị mê mờ trước các sự vật, hiện tượng. Ví như nói những người con gái, vì muốn mãi mãi được trẻ đẹp mà mỗi ngày họ phải lãng phí thời gian đến mấy giờ đồng hồ để trang điểm cho thân thể. Hôm nay trang điểm, rồi ngày mai lại phải trang điểm, thế nhưng sự thật thì sắc đẹp có giữ gìn mãi mãi được đâu? Tôi thường nghĩ, nếu như những người con gái đó cứ tiêu tốn thời gian để trang điểm cho sắc đẹp giả tạo của mình thì họ quả là những người rất đáng thương.
 
   22. THẾ GIAN KHÔNG CÓ GÌ LÀ THẬT CỦA MÌNH
 
   Các bậc Thánh nhân đã từng nói với chúng ta rằng: “Thế gian chỉ để chúng ta sử dụng, chứ không phải là sở hữu của ta”. Điều này nghĩa là: bất kỳ vật nào ở trong thế gian này cũng chỉ là vật tạm thời mà ta mượn để sử dụng mà thôi, thật sự thì không có vật gì vĩnh viễn tồn tại. Giả như hôm nay bạn có rất nhiều tiền, nhưng sau khi bạn chết rồi thì tiền cũng không còn là của bạn nữa. Hoặc như hôm nay bạn có một chiếc giường ngủ thật đẹp và thường ngày bạn rất thích nằm ở trên đó, nhưng sau khi bạn chết, lập tức bạn bị người ta bưng đặt vào quan tài và sau đó sẽ đưa đến lò hỏa táng, và chiếc giường đó bạn cũng không mang theo được. Và ngày nay con cái của bạn rất mực hiếu thuận, nhưng rồi một ngày kia bạn cũng phải lìa xa chúng mà đi vào cõi thiên thu. Điều này nói lên rằng: “Cảnh tốt cũng vô thường”.

   Trên cuộc đời này không có một vật nào thường hằng cả, vì thế mới nói “thế gian vi ngã sở dụng”, nghĩa là chúng ta chỉ tạm thời mượn chúng để sử dụng mà thôi. Và “phi ngã sở hữu”, chính là nói trên cuộc đời này không có cái gì là của ta. Bây giờ trong túi bạn tạm thời có tiền, nhưng biết đâu ngày mai lại nằm trong túi của tôi, rồi ngày kia lại nằm trong ngân hàng? Và biết đâu một tai nạn bất ngờ đến với bạn thì tiền kia đâu còn là của bạn nữa? Vì thế, người học Phật không nên ỷ thế mình có nhiều tiền mà sinh tâm kiêu ngạo, và cũng không nên vì thấy mình nghèo mà lại tự ty mặc cảm. Trong cuộc sống, một ngày ăn no ba bữa cơm canh đạm bạc, cuộc sống yên ổn thanh bình thì đó cũng là một cuộc sống tốt vậy.

   Nhân vì mọi người không hiểu rõ chân lý, không biết quý trọng sinh mạng, cho nên đức Phật dạy: “Sự nghèo nàn về tâm linh chính là sự bần cùng đáng sợ nhất của kiếp người. Người khốn cùng nhất trên thế giới này không phải là người không có tiền mà chính là người không có trí tuệ”. Không có trí tuệ thì bạn chính là một kẻ bần cùng, còn không có tiền bạn nhất định không phải là môt người bần cùng. Kính thưa quý vị! Hôm nay quý vị nghe tôi thuyết giảng Phật pháp, có phải là quý vị giàu có hơn những người có nhiều tiền phải không?
 
   23. TÂM BAO THÁI HƯ (tấm lòng ôm trọn cả thái hư)
   Có người hỏi tôi rằng: “Huệ Luật pháp sư, Thầy nói Thầy có rất nhiều tiền phải không? Như vậy so với Vương Vĩnh Khánh của Đài Loan và Hoàng Tổ Diệu của Singapore thì ai giàu hơn?”.

   Kính thưa quý vị! Nếu như chúng ta có nhiều tiền mà chúng ta lại chấp trước vào tiền bạc của mình thì hằng ngày chúng ta bị chính đồng tiền của chúng ta làm cho khổ sở. Tại Đài Loan thì tay chân của các băng nhóm trộm cướp như băng “Hắc tinh”, “Hồng tinh” rất nhiều, và bọn chúng luôn luôn tìm cơ hội để tiếp cận với những người giàu có, thế nhưng rất hiếm những người như thế tìm đến các Hòa thượng như chúng tôi.

   Tấm lòng của những người tu hành như chúng tôi ôm trọn cả thái hư, bao gồm cả vũ trụ. Khi chúng ta không tham đắm chấp trước đối với thế gian này, thì hết thảy hư không khắp cả pháp giới này đều là tài sản của chúng ta, quý vị thấy có đúng không? Kính thưa quý vị! Chỉ cần quý vị hiểu rõ được giáo lý Phật Đà, buôn bỏ hết mọi sự chấp trước, thì tất cả sơn hà đại địa, nơi nào cũng là tài sản của quý vị.

   Có một số vị giám đốc của các công ty cậy mình có nhiều tiền rồi thường làm khó dễ các nhân viên của mình, hễ có ai làm việc không thuận theo ý của họ một chút là họ lập tức nổi giận, không xem mọi người ra gì, không tôn trọng mọi người xung quanh. Những người luôn tự cao tự đại, tự cho mình là ưu việt hơn tất cả mọi người, luôn luôn sống trong sự ca tụng tâng bốc của mọi người thì họ quả thật là những kẻ rất đáng thương, và họ cũng chính là những người yếu đuối nhất, bởi vì họ không thể nào vượt qua được những biến chuyển của cuộc sống, những khó khăn, những điều bất như ý khác trong cuộc đời, và nhất là họ không vượt qua được chính bản thân mình.
 
   24. THƯỞNG THỨC MỘT ĐÓA HOA
 
   Kính thưa quý vị! Hiện tại với bông hoa đang ở trước mặt của tôi đây, bông hoa này thật đẹp phải không quý vị? Nhưng nếu như bây giờ có một người đang tức giận, thì quý vị thử nghĩ xem, người đó khi nhìn thấy bông hoa, anh ta có cảm nhận được cái đẹp của bông hoa hay không? Còn đối với một người bị thất tình, khi chúng ta bảo anh ta nhìn bông hoa này thì trong lòng anh ta chỉ nghĩ về hình bóng của người yêu chứ thật sự không thấy được vẻ đẹp của bông hoa. Còn đối với một người vừa chết vợ thì cho dù bông hoa này có đẹp thế nào đi nữa, ông ta vẫn không cảm nhận được khi nhìn thấy nó, bởi vì ông ta vừa mất đi một người bạn đời thân thiết, và như vậy trong lòng ông ta mang một nỗi đau buồn rất lớn. Như thế nội tâm ông ta đã bị sự đau khổ buồn rầu chi phối và ông ta không còn cảm nhận được cái đẹp vốn có của bông hoa. Hoặc là ngay trong hội chúng đây, giả như có vị nào bị mất tiền, vậy xin hỏi quý vị, đối với người đó, khi nhìn thấy bông hoa này thì người đó không thấy được cái đẹp của bông hoa mà chỉ nhìn thấy số tiền của mình đã mất, và đối với người này thì nhìn vào cái gì người ấy cũng thấy thành tiền cả, phải không? Như thế từ bông hoa, nhưng người mất tiền thì  thấy nó thành tiền, và cứ mãi nghĩ đến tiền mà có thể người đó trở nên lú lẫn, mất hết cả sự sáng suốt để đối mặt với cuộc sống hiện tại. Thưa quý vị! Nội tâm của con người rất khó chế ngự, muốn chế ngự được tâm mình thì cần phải thực tập sự buông xả. Ví như khi nhìn một bông hoa, cảm giác về bông hoa tùy theo tâm trạng của mỗi người mà có sự khác biệt, người thất tình, người chết vợ, người mất tiền… đều có cái nhìn về bông hoa khác nhau. Thật đúng là: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

   Đối với một người tu hành thì khi nhìn một bông hoa, người ấy sẽ thưởng thức được một cách trọn vẹn cái đẹp của bông hoa, bởi vì người ấy có được sự chánh niệm. Chánh niệm là chất liệu thắp sáng hiện hữu. Một người có chánh niệm nghĩa là khi đang nhìn thấy bông hoa thì trong nội tâm người ấy không bận suy nghĩ về bất kì một việc nào khác, mà người đó tập trung ý thức của mình vào bông hoa để nhận diện được sự hiện hữu mầu nhiệm của bông hoa ngay trong giờ phút hiện tại.

   Kính thưa quý vị! Trong cuộc sống thường ngày của chúng ta nói riêng hay trong cuộc nhân sinh nói chung, có rất nhiều và rất nhiều bông hoa mầu nhiệm như vậy. Đó là sự hiện diện của những người thân yêu của chúng ta như cha, mẹ, vợ, chồng, bạn bè con cái… nhưng vì thiếu chánh niệm, nên đã có những lúc chúng ta quên đi sự hiện diện của họ đối với chúng ta. Và thật đáng buồn hơn là đã có không ít lần chúng ta đã làm cho người thân chúng ta đau khổ. Ở đây, không phải vì chúng ta thiếu tình thương đối với người thân yêu mà chính là chúng ta đã thiếu sự hiểu biết về những người thân yêu của chúng ta. Chúng ta luôn nói là yêu thương mọi người nhưng chính chúng ta lại thiếu hiểu biết về những người đó, và khi đã thiếu sự hiểu biết đối tượng thì tình thương có lúc lại làm cho đối tượng đau khổ, vì thế người xưa đã nói: “Thương nhau mà lại bằng mười phụ nhau” là vậy.

   Kính thưa quý vị! Trong cuộc sống chúng ta cần phải có sự tri túc, tức là biết đủ đối với bản thân. Bởi vì có tri túc là chúng ta không có sự tham cầu đối với thế gian này, ngay đó chúng ta mới có niềm vui từ nội tâm. Khi có niềm vui từ nội tâm, chúng ta mới cảm nhận được những giá trị của hạnh phúc hiện hữu quanh ta. Còn nếu không thì chúng ta cứ bị tham lam, danh vọng, ganh ghét, đau khổ .vv… chi phối mà không bao giờ tự mình cảm nhận được những hạnh phúc trong cuộc sống.

   Tục ngữ nói: “Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao”, nghĩa là con người chúng ta khi không còn lòng tham thì nhân cách sẽ tự cao đẹp. Một người mà khi trong lòng không còn tham cầu thì phẩm hạnh của người ấy tự nhiên sẽ cao siêu, mà không cần phải có người tâng bốc hay dua nịnh. Lại nói: “Vô dục tắc cương”, nghĩa là không ham muốn thì sẽ là cương trực, vững chãi. Thật vậy, một người không ham muốn thì họ sẽ không bị kiêng kỵ bất cứ điều gì, lời nói của người ấy luôn là một lời nói ngay thẳng, không bao giờ phải quanh co, dua nịnh người khác.

   Người tu hành nhìn thấy bông hoa đẹp bởi vì họ có một nội tâm tươi đẹp. Bởi vì người tu hành có thể xả bỏ được sự chấp trước, không chấp ngã cũng không chấp tướng. Vì sao như vậy? Bởi vì họ hiểu được rằng, thân thể của chúng ta thật sự chỉ là do các yếu tố khác nhau giả hợp tạo nên, nếu như chúng ta quán sát kỹ về chính bản thân mình thì ai ai cũng có thể thấy được sự giả hợp đó. Tôi ví dụ, nếu như thân thể này thật sự là của ta, vậy tại sao, chúng ta không biết được lúc nào chúng ta sẽ bị bệnh, lúc nào chúng ta sẽ chết .v.v... Vì thế, đức Phật đã dạy, cuộc đời không có cái gì được gọi là vĩnh hằng bất biến, mà mọi cái, mọi sự, mọi vật luôn trôi chảy và biến đổi, đó chính là sự vô thường của cuộc sống. Nếu như chúng ta hiểu rõ được sự vô thường của cuộc đời thì chúng ta sẽ không bị trở ngại, không bị phiền não chi phối, không bị cuộc sống làm đau khổ, bởi vì họ đã hiểu rõ mặt thật của cuộc đời. 
 
   25. MỌI VIỆC DO TÂM
 
   Những người tu học Phật pháp, điều thiết yếu nhất là phải bình tâm trước tất cả mọi việc, mọi hoàn cảnh. Cho dù đang đối diện với bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng phải bình tĩnh, để quán sát nhận xét. Có như vậy, chúng ta mới có được sự nhận định và giải quyết vấn đề một cách đúng đắn. Và như thế thì cho dù gặp phải hoàn cảnh nào chúng ta cũng có được sự an lạc và vững chãi. Vì thế mới nói “cảnh vốn không tốt xấu, chỉ do tâm tạo nên”. Hoàn cảnh vốn nó không tự nói là tốt hay là xấu. Giả sử hôm nay tâm tình của chúng ta đang rất vui vẻ hạnh phúc thì chúng ta cảm thấy tất cả mọi việc đều là vui cả, nhưng nếu như hiện tại tâm tình của chúng ta không tốt thì gặp bất cứ chuyện gì chúng ta cũng cảm thấy không tốt cả.

   Nói tóm lại, tất cả đều là vấn đề của nội tâm chúng ta chứ không phải là do ngoại cảnh. Điều này trong kinh Hoa Nghiêm nói “nếu có người muốn biết tất cả Phật ba đời, nên quán pháp giới tánh, tất cả do tâm tạo” (nhược nhân dục liễu tri tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo). Điều này có nghĩa là: “Nếu như có người nào muốn hiểu rõ được tất cả chư Phật ở khắp trong mười phương, suốt cả ba đời đã thành Phật như thế nào thì hãy quán chiếu vào “tánh của Pháp giới”, nghĩa là hãy quán chiếu để thấy rõ tất cả vũ trụ vạn vật, tất cả đều do tâm tạo ra, đều nhân nơi tâm mà hiện hữu. Vì thế, sự nghèo nàn về tâm linh chính là sự nghèo nàn đáng sợ nhất của cuộc sống con người. Cho nên, kính thưa quý vị, chúng ta có thể thiếu thốn về vật chất, tiền bạc, nhưng nhất định chúng ta không thể thiếu về trí tuệ.
 
   26. SINH TỬ là VIỆC LỚN 
 
   Chúng ta vẫn đang đàm luận về nhân sinh. Vấn đề Phật giáo nhấn mạnh nhiều nhất đó là quan niệm về sự “sinh tử”. Phật giáo muốn mọi người nhận rõ chân tướng của sinh, lão, bệnh, tử. Vì thế, trong kinh nói đức Phật chỉ vì “sinh tử đại sự” mà muốn làm cho chúng sinh ngộ nhập tri kiến Phật, muốn mọi người hiểu rõ con người từ đâu mà đến, chết rồi sẽ đi về đâu?
 
    27. NHÂN DUYÊN BA ĐỜI 
 
   Quan niệm về sinh mạng của Cơ Đốc giáo là hai đời (hiện tại và tương lai, tức đời này và đời sau), Thiên chúa giáo cũng quan niệm như thế. Nghĩa là, theo quan niệm của Cơ đốc và Thiên Chúa giáo thì con người là do Thượng đế sáng tạo ra, và đời sau, sau khi trải qua sự phán xét của Chúa mà sẽ được lên thiên đường hay xuống địa ngục.

   Theo quan điểm của Phật giáo thì sinh mạng của con người tương tục từ quá khứ đến hiện tại cho tới tương lai, hay nói gọn là “tam thế quan niệm”. Phật giáo dùng quan điểm này để giải thích “sinh” từ đâu mà tới. Nguồn gốc của “sinh” chính là “nghiệp lực”, tức là năng lực của nghiệp hay “sức mạnh của sự tạo tác”.

   Trong quá trình từ khi chúng ta sinh ra đến khi chết đi thì có dài có ngắn khác nhau. Đối với vấn đề phúc, họa, sống, chết này, theo quan điểm của Cơ Đốc giáo, cho rằng tất cả đều do Thượng đế an bài. Nhưng theo quan điểm của Phật giáo thì đó là do sự dẫn dắt của nghiệp lực. Nghiệp là sự tạo tác, hành động. Nếu tạo tác, hành động thể hiện qua thân thì gọi là thân nghiệp, thể hiện qua miệng thì gọi là khẩu nghiệp và thể hiện qua ý thì gọi là ý nghiệp. Chính sự tạo tác, hành động này của chúng ta đã tạo thành một năng lực dẫn dắt chúng ta và đó chính là “nghiệp lực”, và đương nhiên “nghiệp lực” của người này sẽ không giống với người kia, vì thế nên trong cuộc sống mới có sự khác biệt giữa mọi người. Giả sử như trong đời trước anh đã sát sinh quá nhiều, nhất định đời này anh sẽ bị đoản mạng, hay trong cuộc sống hiện tại mà chúng ta làm quá nhiều việc ác thì ngay trong cuộc sống này ta cũng không có hạnh phúc, an lạc và nhất định đời sau chúng ta sẽ phải thọ nhận những quả báo đau khổ. Đó chính là:
“Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.

   28. SỢ CHẾT HAY SỢ SỐNG?
 
   Mọi người chúng ta đều có một quan niệm sai lầm, đó là rất sợ cái chết. Nhìn thấy trong nhà ai có một cỗ quan tài, nếu như đi ngang qua nhà đó thì mọi người rất là sợ sệt, sợ hồn ma của người chết, sợ người chết hóa thành ma hù dọa chúng ta... Kính thưa quý vị! Chúng ta không nên sợ cái chết, điều chúng ta đáng phải sợ chính là sự sống của chúng ta. Vì sao vậy?

   Kính thưa quý vị! Có thể trong hội chúng này sẽ có nhiều người ngạc nhiên phải không?

   Thưa quý vị! Thật vậy, cái chết không có gì đáng sợ cả. Bởi vì trong cuộc đời, đã có sinh nhất định phải có tử, không hề có ngoại lệ. Không có người nào có thể trốn khỏi lưỡi hái của tử thần. Chúng ta đã được sinh ra, nhất định chúng ta sẽ phải chết. Cái chết không từ một ai, cũng không thiên vị một người nào. Cho dù quý vị có quyền cao chức trọng cũng không hối lộ được cho thần chết. Vì vậy, chúng tôi nói rằng, chúng ta không nên sợ chết, bởi vì đó là một sự thật mà bất kỳ người nào cũng không tránh khỏi. Đã là một sự thật không tránh khỏi thì tại sao chúng ta lại phải sợ, mà lại không chịu nhìn rõ và tiếp nhận nó?Vì sao chúng ta phải sợ chính cuộc sống của chính mình? 

   Thưa quý vị! Chúng ta sợ cuộc sống của mình đó là sợ mình không làm chủ được bản thân, không tu tập chánh pháp, sống thiếu lòng vị tha… mà phải gây đau khổ cho chính bản thân và cho cả mọi người xung quanh. Vì vậy, khi biết sợ cuộc sống của mình, tức là chúng ta biết nhìn lại những việc làm, những lời nói, những suy nghĩ của bản thân để có cơ hội tu sửa bản thân trở thành tốt hơn, trở thành con người có ích cho gia đình và xã hội. Vì thế, khi chúng ta biết sợ cuộc sống của mình chính là để sửa mình tốt hơn, xây dựng cuộc đời tốt hơn và yêu cuộc đời hơn chứ không phải chối bỏ cuộc đời.

   Như vậy, bây giờ trong hội chúng đây vị nào không còn sợ chết thì đưa tay lên! Ôi! Trời ơi! Tất cả quý vị đều không sợ chết nữa rồi sao? Vậy thì tốt quá! Tất cả quý vị đều đồng ý với chúng tôi về quan niệm trên phải không? Thật vậy, kính thưa quý vị, chúng ta sống trong cuộc đời, chúng ta cần phải có cái nhìn chính xác về cuộc đời, đừng để cuộc đời lừa dối mình. Chúng ta phải biết rằng cái chết không có gì đáng sợ cả, bởi vì đó là định luật tất yếu của thế gian này, không một ai có thể tránh khỏi. Vì thế, khi cái chết đến với mình, chúng ta nhất định phải nói với nó rằng: trời đất có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông; con người thì có sinh, lão, bệnh, tử. Đây là một quá trình diễn biến rất tự nhiên, không ai có thể vượt ra ngoài nó được.
Mỗi ngày chúng ta đều sợ cái chết đến với mình. Trong lúc còn sống, chúng ta không hiểu biết về cái chết, mà lại luôn luôn sợ hãi  nó, luôn luôn lo lắng về cái chết, thế rồi hoài nghi không biết có hay không có đời sau? Thêm nữa, giả sử như có người không có cơ hội đi nghe và học hỏi Phật pháp, cũng không có bạn bè thân hữu chỉ bảo để hiểu về sự thật của cuộc đời, thế rồi người đó đến lúc lâm chung cũng còn mơ mơ hồ hồ, tâm lý sợ sệt, đau khổ khởi lên và thế là sẽ tự mình đi vào cõi khổ.

   Kính thưa quý vị! Ngày nay chúng ta có mặt trên cuộc đời này, nhất định sẽ có ngày chúng ta phải chết. Đối với vũ trụ, đối với nhân loại thì cái chết là một hiện tượng rất tự nhiên. Nếu như con người mà không chết, thì thế gian này sẽ không có sự “vô thường”, mà nếu như không có sự vô thường thì quý vị nghĩ xem, khi chúng ta chào đời chỉ là một đứa bé nhỏ xíu, và chúng ta sẽ mãi mãi là đứa bé nhỏ xíu như vậy mà không bao giờ lớn lên, trưởng thành được. Như thế, quý vị nghĩ xem điều đó có đúng không? Vì thế chúng ta không nên sợ cái chết, mà chỉ nên sợ ta đã sống không tốt mà thôi.

   Như vậy, làm thế nào để chúng ta trở thành “bất sinh”? Có phương pháp nào để chúng ta có thể trở thành bất sinh hay không? Kính thưa quý vị, tôi xin thưa là có. Đó là tu tập thiền định đạt đến minh tâm kiến tánh, tâm trí khai ngộ. Hoặc tu tập theo Tịnh độ, chí tâm niệm Phật, đạt đến nhất tâm bất loạn, hoa khai kiến Phật ngộ vô sinh thì liễu sinh thoát tử. Ngược lại, nếu như quý vị chạy theo sự mê tín ở bên ngoài, tin theo quỷ thần, đồng bóng, tin theo những lời mê hoặc dụ dỗ của những kẻ lường gạt, bất lương thì quý vị không thể nào giải thoát, mà quý vị sẽ rơi vào con đường tà đạo. Bởi vì những kẻ đó không có phương pháp chân chính, không theo con đường chân chính cho nên bản thân họ cũng rơi vào phàm phu sinh tử luân hồi trong lục đạo, vậy làm sao họ có thể hướng dẫn quý vị thoát ly sinh tử?
 
   29. LÀM THẾ NÀO ĐỂ KHÔNG CÒN SINH TỬ?

   Hôm nay, vấn đề chính mà chúng tôi muốn nói đến chính là “làm thế nào thì chúng ta mới không còn tái sinh”. Trong kinh, đức Phật đã từng dạy chúng ta cần phải “minh tâm kiến tánh”, nghĩa là phải tu tập, thực hành những lời dạy của đức Phật để làm sáng tỏ nội tâm, thấu suốt bản tánh vốn không sinh diệt của mình. Sinh từ đâu đến? Chính là từ sự khởi tâm động niệm. Bởi vì ngay từ lúc chúng ta mới móng tâm, khởi niệm thì chính từ trong tâm của chúng ta đã có một sức mạnh đưa đẩy chúng ta đi đến sự chấp thủ, xả bỏ. Đó chính là chúng ta đang đi vào sự sinh tử.

   Ví dụ trong khi bạn đang tham đắm vào tiền bạc, của cải vật chất của bạn thì khi bạn từ trong nhà đi ra ngoài, trong lòng bạn luôn luôn nghĩ đến những của cải vật chất, tiền bạc…, bạn cứ lo nghĩ rằng không biết mình đã khóa tủ cá nhân, két sắt đã kĩ chưa. Và bạn cứ luôn luôn lo nghĩ về vấn đề đó mãi không thôi. Vậy trong thời gian đó, bản thân bạn luôn bị sự lo lắng, phiền muộn chi phối. Hay giả như một vị giám đốc có công việc phải đi công tác, vị này có một người vợ rất xinh đẹp đang ở nhà, nếu như vị giám đốc đó thiếu chất liệu của sự hiểu biết, tin tưởng, thương yêu đối với người vợ của mình, mà trong lòng anh ta chỉ có sự chấp ngã, ích kỷ hẹp hòi thì trong lòng anh ta luôn luôn bị sự lo lắng phiền muộn giày vò. Anh ta lo lắng không biết người vợ của mình ở nhà có làm đúng theo lời mình đã căn dặn hay không? Không biết người vợ ở nhà có chung thủy với mình hay không? Và rất là nhiều điều lo nghĩ khác nữa. Cứ như thế anh ta sẽ bị những lo lắng phiền muộn chi phối và không còn đủ sáng suốt để giải quyết công việc.

   Nếu như đối với bất cứ sự việc gì chúng ta cũng tham đắm chấp trước thì nhất định chúng ta sê bị luân hồi trong cõi trần gian này. Hay nói cách khác, chỉ cần chúng ta còn một niệm chấp trước không được đoạn trừ thì nhất định chúng ta sẽ không bao giờ đạt được sự minh tâm kiến tánh, không thể nào vượt thoát được sinh tử luân hồi.

   Có người hỏi: “Khi một vị thiền sư đã khai ngộ thì có gì đặc biệt?”. Tôi xin nói: “Rất là đặc biệt”. Vì sao vậy? Bởi vì đối với một vị thiền sư đã đạt ngộ thì không có bất kì sự việc gì có thể làm cho nội tâm người đó lay động, không ai có thể đem  những sự việc như vinh nhục, hơn thua, được mất đến làm cho người đó phải bận tâm, vì những vị này đã thấy rõ những sự việc trên đều lả giả hợp, hư vọng. Các bậc Thánh nhân không bao giờ mong cầu mọi người ai ai cũng ca tụng hay tâng bốc họ. Nếu như trong cuộc sống mà mọi người ai cũng ca tụng và tâng bốc ta, như vậy thế giới này sẽ trở thành một thế giới như thế nào? Trong cuộc sống mà mọi người ai ai cũng ca tụng và tâng bốc ta thì sự ca tụng đó có còn ý nghĩa nữa không? Và đó có phải là sự thật hay không? Trong cuộc đời có người khen ta, cũng có người chê bai hủy báng ta, như thế cuộc đời mới có ý nghĩa, có như thế chúng ta mới hiểu được cái quý báu của sự tu tập.

30. VÌ SAO CHÚNG TA LẠI PHẢI ĐẦU THAI? 
 
   Vì sao chúng ta lại phải đầu thai? Bởi vì do những vọng tưởng của chúng ta liên tục không chấm dứt, chúng ta cứ mãi chấp chặt vào những ý niệm hơn thua, được mất, những tranh đua danh lợi… mà không bao giờ dừng nghỉ, vì thế chúng ta nhất định sẽ bị đầu thai trở lại.

   Sự tham đắm cũng có rất nhiều thứ. Có người thì đam mê đối với tiền bạc, có người thì đam mê nữ sắc, có người lại suốt ngày chỉ biết có ăn và ngủ, có người thì chạy theo danh vọng, địa vị, lợi dưỡng… Người nào tham ăn, tham ngủ thì kiếp sau nhất định sẽ là bà con thân quyến của loài heo. Ở đây, chúng ta phải hiểu cũng có thể sẽ trực tiếp đầu thai làm heo, nhưng có thể sẽ đầu thai làm người nhưng lại mang đầy đủ bản chất của loài heo. Đối với người đam mê theo sắc đẹp thì kiếp sau sẽ đầu thai làm loài chim oanh vũ. Loài chim oanh vũ này có bộ lông rất đẹp, và chúng rất yêu thích bộ lông tuyệt đẹp của mình. Đó chính là do những hạt giống của sự đam mê tham đắm tạo nên.

   Ngược lại, với các bậc Thánh nhân thì khác, họ không bao giờ tham đắm đối với sắc đẹp, lợi danh… bởi vì các bậc Thánh với trí tuệ của sự tu tập, các Ngài thấy rõ được thế gian này từ con người cho đến tất cả mọi sự, mọi vật đều chuyển biến vô thường, tất cả đều do nhân duyên mà sinh, mà đã có sinh, đã vô thường thì nhất định chúng sẽ không tồn tại mãi mãi. Nếu chúng ta cứ tham đắm, chấp trước vào sắc thân của ta, sắc thân của người, tham đắm vào danh lợi hơn thua… thì nhất định chúng ta sẽ bị khổ đau. Vì thế mà nói: “Người đã ngộ so với người chưa ngộ khác nhau rất lớn; người có tu tập so với người không tu tập khác nhau rất nhiều”.

   Tại Đài Loan, tôi thường đến thuyết giảng ở các trường đại học, có khi ở lại cũng mấy ngày. Có một lần tôi bị mất một vạn đồng. Các vị đồng học rất lo lắng, họ cứ băn khoăn rằng: thỉnh Thầy đến thuyết giảng mà lại có người lấy cắp tiền của Thầy, thật là một điều xấu hổ. Sư phụ đã từ bi, tự lo tiền đi máy bay đến đây thuyết pháp dù cho thời tiết ở đây rất lạnh, sư phụ cũng không quản ngại khó nhọc, vậy mà có kẻ còn lấy trộm tiền của sư phụ. Rất nhiều bạn sinh viên bàn luận tìm xem ai đã lấy trộm và đang cất giấu ở chỗ nào. Thế nhưng các bạn sinh viên ấy cũng ngạc nhiên khi nhìn thấy sư phụ không hề lo lắng khẩn trương chút nào, mà còn rất vui vẻ thuyết giảng nữa. Thế rồi có người nhịn không được bèn đến hỏi tôi: “Thưa Thầy, không phải Thầy đã mất một vạn đồng sao?”.

   Tôi trả lời: “Không có, chỉ là người khác lấy đi dùng mà thôi, không có mất. Khi tiền còn ở trong tay của chúng ta thì chúng ta sử dụng, khi tiền ở trong tay người khác thì người khác sử dụng. Dù cho ai sử dụng thì cũng tạm thời mà thôi, khi thì trong tay người này, lúc thì trong tay người khác”. Vì thế, khi một người đã hiểu đạo thì trong cuộc sống hằng ngày, người này rất an lạc, vui vẻ, hạnh phúc, họ không bị phiền não, tức giận và sự tham đắm chấp trước chi phối.

   Hôm nay, quý vị đến đây nghe Phật pháp thì so với những người làm ra nhiều tiền, quý vị còn kiếm được nhiều tiền hơn. Vì sao vậy? Bởi vì quý vị đến nghe pháp là quý vị có được một thứ tài sản vô cùng quý báu mà cho dù có tiền, quý vị cũng không thể mua được. Tài sản đó là trí tuệ. Bởi vì đạo Phật là đạo trí tuệ, là đạo của tình thương và sự hiểu biết. Cho nên quý vị đi nghe pháp chính là quý vị đã học tập, hiểu rõ và thực hành những lời đức Phật dạy vào trong cuộc sống hằng ngày. Đó chính là quý vị thực hành khai mở trí tuệ từ nội tâm của chính mình, là quý vị đang khơi dậy những hạt giống của lòng thương yêu và sự hiểu biết. Chúng ta tu tập và áp dụng Phật pháp vào cuộc sống hằng ngày, chính là chúng ta đang tưới tẩm và vun xới những hạt giống trí tuệ và tình thương của chúng ta ngày càng lớn dần lên. Và như thế những mầm mống, những chất liệu của sự phiền não, giận hờn và ngu dốt sẽ được diệt trừ và hạnh phúc, an lạc sẽ đến với ta và mọi người xung quanh ta. Nếu trong cuộc sống hiện tại chúng ta có an lạc và hạnh phúc, chúng ta lại còn đem lại an lạc và hạnh phúc ấy cho mọi người thì nhất định tương lai, chúng ta sẽ không phải chịu những quả báo, những khổ đau đến với chúng ta. Đó chính là chúng ta tin tưởng vào nhân quả nghiệp báo.
 
   31. MÊ TÍN
 
   Đối với người không nghiên cứu, tu học Phật pháp thì họ cho rằng những người tu học Phật pháp là mê tín, quý vị cũng không nên buồn phiền làm gì. Vì sao vậy? Bởi vì so với những người tự cho rằng mình không mê tín ấy thì quý vị còn tốt hơn họ rất nhiều. Chắc có lẽ quý vị ngạc nhiên lắm phải không? Quý vị nên biết, điều mà họ cho rằng “mê tín”, đó chính là sự tin tưởng một cách sâu sắc vào đạo lý nhân quả. Chúng ta học Phật pháp, tin sâu vào nhân quả báo ứng, cho nên chúng ta sẽ không làm những việc ác như cướp của giết người, trộm cắp, tham nhũng… Như thế “mê tín” không làm tổn hại đến người khác mà còn biết tu tập để hoàn thiện nhân cách của bản thân, biết chia sẻ khổ đau của người khác thì cũng nên “mê tín” lắm. Còn những người tự cho mình không mê tín ấy thì họ không từ bất kỳ một việc ác nào mà không làm. Vì thế, khi người nào nói quý vị là “mê tín” thì quý vị cần hiểu rõ ràng về quan niệm mê tín của người đang nói.

   32. QUY Y 
 
   Ở Singapore, phần lớn những người chưa được tu học Phật pháp đều tin vào những đồng bóng trong các am miếu. Có người còn đi đến các am miếu để hỏi các đồng cốt cho số về để đánh bạc, thế nhưng càng đánh càng thua. Có không ít người sau khi thua hết tiền bạc đã tự sát. Đối với những đối tượng như thế này, quý vị khuyên họ quy y thì trong số họ sẽ có rất nhiều người không hiểu được thế nào là quy y. Có một vị thiếu niên anh tuấn vừa mới tin Phật, anh ta liền đến hỏi tôi: “Bạch Thầy, quy y rồi có thể kết hôn được không? Con bái Thầy làm sư phụ rồi con có cưới vợ được không?”.

   Tôi trả lời với anh ta rằng: “Được, nhưng không được lấy nhiều vợ”.
Có người hỏi: “Bạch Thầy, con rất thích đánh mạt chượt, nếu như quy y rồi sau này con có thể đánh bạc được nữa không?”.
   Tôi trả lời: “Có thể được nhưng đánh ít thôi, không được thua nhiều”.
   Những người như trên họ chưa hiểu biết gì về Phật pháp, cho nên tôi nói với họ rằng quy y không có vướng bận về giới luật gì cả. Quy y là để họ xác nhận bản thân mình là một tín đồ Phật giáo mà thôi.

   Có người hỏi: “Quy y rồi có phải ăn chay không?”. Anh ta muốn quy y nhưng không biết ăn chay.
   Tôi trả lời: “Không sao cả, không ăn chay cũng không sao, anh có thể ăn cá, thịt và các loại thức ăn, nhưng không được sát sinh”.

   Anh ta nói: “Thưa sư phụ, thật là đáng xấu hổ, bởi vì con rất thích ăn gỏi thịt”.
   Tôi trả lời: “Không sao đâu. Anh cũng có thể ăn gỏi thịt, nhưng phải sau năm ngày ăn chay, nếu chịu không nỗi thì lại ăn gỏi thịt một lần”. Anh ta trở về, nghe theo lời dặn và cố  gắng ăn chay. Một ngày, hai ngày, ba ngày, và ăn đến ngày thứ tư, sang ngày thứ năm anh ta chịu không nỗi và cảm thấy rất là khổ sở, những lúc không ăn thì nước miếng cứ chảy ra, thân thể cảm thấy rất lạnh và mồ hôi lại toát ra. Thế là anh ta liền đến gặp tôi và thưa: “Thưa Thầy, con đã ăn chay bốn ngày nay, thật sự con chịu không được nữa rồi”.

   Tôi nói với anh ta: “Không sao, anh cứ ăn thịt lại đi!”.
   Thế là anh ta về nấu một nồi thịt thật lớn và ăn liên tục như chưa bao giờ được ăn, kết quả là vì ăn quá nhiều chất béo, bị đau bụng tiêu chảy.

   Anh ta nói với tôi, bệnh tiêu chảy thật là lợi hại, khi con vào nhà vệ sinh, không cần dùng sức mà trong bụng cứ chạy tuồn tuột ra hết, nó chạy như động cơ phản lực vậy. Kết quả vì để tập ăn chay, trải qua tám năm, đến bây giờ anh ta vẫn còn ăn thịt và chưa thể ăn chay được. Quý vị nghĩ xem, đối với nhiều người, vấn đề quy y, ăn chay rất là khó khăn, không đơn giản chút nào. Cho nên, trong quá trình tu tập, hướng dẫn mọi người, chúng ta phải biết tùy duyên mà sử dụng phương tiện, không nên quá cứng nhắc vào bất cứ một điều khoản quy định nào cả.

   Vì thế nên có những đối tượng chúng tôi nói quy y rồi cũng có thể đánh bạc, nhưng tốt nhất là không nên đánh. Quy y rồi cũng được cưới vợ nhưng phải sống chung thủy, không được lấy nhiều vợ. Quy y không có quy định giới luật gì cả và cũng không cần thiết phải ăn chay. Nếu như ngay từ đầu mà tôi nói thẳng với họ rằng quy y rồi không được đánh bạc, quy y phải tuân thủ giới luật, phải ăn chay thì nhất định họ sẽ không quy y và sẽ không bao giờ đến với Phật giáo nữa, và như thế họ sẽ không có được cơ hội để tiếp xúc với giáo lý Phật đà để tu tập và sữa chữa những sai lầm của mình. Do đó, với những đối tượng như vậy, tôi phải sử dụng phương tiện quyền xảo để từ từ hướng dẫn họ và trong thực tế đã có những kết quả rất khả quan. Những người như trên, trong giai đoạn đầu có khó khăn nhưng về sau họ có những bước tiến rất tốt sau khi đã tiếp xúc học hỏi và thực tập lời Phật dạy. Bởi vì sau khi họ có thực tập, dù không nhiều nhưng bản thân họ tự cảm nhận được những ích lợi của việc thực tập lời Phật dạy và họ tự chuyển hóa bản thân.

   Quý vị sống ở tại Singapore này, muốn quy y với chúng tôi cũng được, nhưng tốt nhất là nên quy y với các vị thầy ở đây. Bởi vì sau khi quy y, chúng ta cần phải thân cận học hỏi và thực tập. Tôi ở Đài Loan, nếu có vấn đề gì thắc mắc cần phải có thầy để thỉnh giáo thì thật là bất tiện. Cho nên quý vị nên quy y với các vị thầy ở đây, và điều cần thiết nhất là sau khi đã quy y thì cố gắng học hỏi và thực hành những điều đức Phật dạy vào trong cuộc sống hằng ngày, có như thế quý vị mới cảm nhận được những giá trị chân thật của đạo Phật trong cuộc sống của bản thân mình, của gia đình mình và của xã hội như thế nào. Đức Phật đã dạy: “Ta xuất hiện ở đời là vì mục đích đem lại an lạc hạnh phúc cho chư thiên và loài người”.

   33. QUÁ KHỨ, TƯƠNG LAI và HIỆN TẠI 
 
   Hôm nay, chúng ta sẽ bàn về những điều mà đức Phật đã dạy.
   Phật dạy: “Do thiếu hiểu biết, con người thường thích nhớ tưởng đến quá khứ, để cho những ký ức trong quá khứ trở về làm lay động tâm thức của ta trong cuộc sống hiện tại”. Chúng ta vẫn luôn luôn luôn hồi tưởng về quá khứ, hồi tưởng về những tang thương, những khổ đau, những niềm vui và những vinh quang của quá khứ. Chúng ta cứ sống với những ký ức của quá khứ thì đó là một loại chấp trước. Chúng ta đang sống trong hiện tại mà lại kỳ vọng về tương lai, thế nhưng tương lai của chúng ta thì ta lại chưa biết. Thế nên, đức Phật dạy: “Hãy luôn luôn nắm vững và sống trọn vẹn trong giờ phút hiện tại, chúng ta sẽ có được sự an lạc vĩnh hằng”.

   Ví dụ như ngày hôm nay, tại sân vận động này, số lượng thính giả đến nghe pháp có thể hơn hai mươi ngàn người. Nếu như ngay bây giờ quý vị nghe Phật pháp rồi ứng dụng ngay vào trong sự chuyển hóa nội tâm của quý vị, bằng cách quý vị hãy lắng đọng tâm tư chú tâm nghe pháp và buông bỏ hết những hồi ức của quá khứ, không chấp trước vọng tưởng đến tương lai, nhất định quý vị sẽ có được an lạc hạnh phúc ngay trong giờ phút này. Trong cuộc sống, bất kỳ việc gì xảy đến cho chúng ta, chúng ta cũng không nên than vãn rằng trong quá khứ mình đã như thế này thế kia, hay nghĩ rằng tương lai mình sẽ như thế này thế kia, mà chúng ta hãy nhìn thẳng vào sự thật trong hiện tại đang xảy ra với chúng ta để có cách giải quyết cho thật tốt. Vì cho dù chúng ta có suy nghĩ thế nào về quá khứ hay tương lai thì sự thật trong hiện tại vẫn đang xảy ra với chúng ta. Trong kinh Người Biết Sống Một Mình, đức Phật cũng đã từng dạy:
“Đừng tìm về quá
Đừng tưởng tới tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới
Hãy quán chiếu sự sống
Trong giờ phút hiện tại
Bậc thức giả an trú
Vững chãi và thảnh thơi
Phải tinh tiến hôm nay
Kẻo ngày mai không kịp
Cái chết đến bất ngờ
Không thể nào mặc cả…”

   Vậy chúng ta hãy vững vàng chấp nhận mọi sự mọi việc xảy đến với mình và tìm cách giải quyết sự việc một cách tốt nhất. Điều cần thiết là chúng ta phải có lòng tin đối với bản thân, và tận tâm tận lực giải quyết công việc thì cho dù người khác có phê bình, công kích chúng ta bao nhiêu đi nữa cũng không quan trọng. Cũng như bản thân chúng tôi hôm nay đến đây thuyết giảng, chúng tôi đã tận tâm tận lực rồi thì cho dù chúng tôi giảng không hay và người khác có cái nhìn về chúng tôi thế nào đi nữa, đối với chúng tôi cũng không quan trọng.

   34. TIẾP NHẬN SỰ PHÊ BÌNH 
 
   Con người chúng ta rất là kỳ lạ. Đang khi bạn có tiền, mọi người muốn phê bình bạn; và khi bạn không có tiền, người khác cũng sẽ phê bình bạn. Khi bạn thành công, mọi người tìm cách phê bình bạn, mà khi bạn thất bại người khác lại cũng muốn phê bình bạn.

   Đức Phật dạy: “Trên thế gian không có người nào sẽ không bị người khác phê bình”. Vì thế, đối với những nghịch cảnh, mọi người cần phải xem đó là một điều tự nhiên, mỗi người cần phải tiếp nhận mọi sự phê bình để có thể quán sát lại những hành động của bản thân. Đứng từ góc độ của một người tiếp nhận sự phê bình mà nói, thì trên cuộc đời này, sự cung kính hay hủy báng của người khác, sự vinh nhục hay đúng sai của một người hay của một sự việc đều không có một tiêu chuẩn chính xác nào cả.

   Vì thế, chúng ta cần phải luôn luôn giữ gìn tâm ý của mình, luôn luôn giữ vững chánh niệm trong tâm để không bị tám ngonï gió của thế gian là lợi ích (lợi), hao tổn (suy), chê bai (hủy), khen ngợi (dự), ca tụng (xưng), chỉ trích (cơ), đau khổ (khổ), vui vẻ (lạc) làm cho lay động. Trong bất kỳ thời gian, hoàn cảnh, nơi chốn nào, chúng ta cũng cần phải tu tập giữ gìn tâm ý, phải luôn luôn bình tĩnh, an tường, tâm trí luôn luôn tự tại, an lạc.

   35. TRUY CẦU MỘT CÁCH SAI LẦM
 
   Đức Phật dạy: “Sở dĩ con người chúng ta bị khổ đau nhiều chính vì chúng ta thường tìm cầu một cách sai lầm”.

   Do không hiểu rõ sự lý, con người suốtngày cứ sống trong đau khổ. Sự thật, không có ai làm cho chúng ta đau khổ, mà chính bản thân chúng ta tự làm cho mình đau khổ mà thôi. Quý vị hãy quán xét lại trong tâm của mình đi, xem thử ai đã làm cho quý vị đau khổ? Chỉ có là khi quý vị làm một việc xấu thì bản thân của quý vị đã mang vào một nhân xấu, và tự trong tâm quý vị đang tự trách mình khiến cho bản thân cảm thấy ân hận, đau khổ. Cho nên nói: “Con người sở dĩ đau khổ, chính do sự tìm cầu, hành động sai lầm của bản thân”.

   Chúng ta tìm cầu tiền bạc, bởi vì tiền bạc cũng quan trọng. Như bản thân chúng tôi đây, cũng có nhu cầu về tiền bạc, chẳng hạn như cần tiền để mua vé máy bay đến đây. Thế nhưng, tiền chỉ có tính quan trọng tương đối, không phải là quan trọng tuyệt đối. Khi bạn đang cần tiền thì tiền rất quan trọng, khi bạn đã có nhiều tiền và gởi tiền trong ngân hàng thì lúc đó chỉ là một cuốn sổ hay là một con số hoặc là một chiếc cạc mà thôi, như vậy tiền hoàn toàn không có tính nhu cầu tuyệt đối.

   Ví như nói bạn đang buồn phiền, trong lòng không vui, thì cho dù bạn có nhiều tiền song trong lòng vẫn buồn phiền, không vui. Hay giả như bạn là một ngôi sao ca nhạc, hay một minh tinh màn bạc thì cuộc sống của bạn sẽ rất là vui vẻ phải không? Chưa hẳn đã như vậy. Hay bạn cho rằng các chính trị gia, các doanh nhân thành đạt hay các nhân vật có tiếng tăm trong xã hội thì cuộc sống của họ sẽ rất hạnh phúc? Không hoàn toàn đúng như thế. Bởi vì những nhân vật ấy cũng có những khổ đau, những bất hạnh trong cuộc sống mà có khi chỉ bản thân họ tự biết mà thôi. Con người chúng ta sở dĩ bị đau khổ, không hạnh phúc chính vì đã đem cả cuộc đời của mình để tìm cầu tiền bạc, danh dự, sắc đẹp… và cũng chính vì vậy mà chúng ta đã sống cả cuộc đời trong sự lao khổ, bôn ba.

   Một vị Thiền sư đã nói: “Danh vọng, lợi ích và sắc đẹp, để kiếm được ba thứ này, kẻ phàm phu mãi mãi bị lưu chuyển”. Ví dụ như nói kiếm tiền, kỳ thực là chúng ta không phải đang kiếm tiền mà là chúng ta đang bị tiền kiếm. Tiền đã lấy mất đi tuổi thanh xuân, tiền đã lấy đi dung nhan, đã lấy đi thời gian của chúng ta và tiền cũng đã lấy đi cả sinh mạng của chúng ta nữa. Vì thế, nói chúng ta đi kiếm tiền, chi bằng nói rằng chúng ta đã bị tiền kiếm đi. Cho nên, Phật dạy chúng ta hãy tỉnh giác, sống trong tỉnh thức, đừng mê mờ chạy theo những ảo ảnh của cuộc đời. Quý vị nên nhớ, chúng ta học Phật pháp, cần phải hiểu rõ, phải giác ngộ về sự thật của cuộc đời.
 
   36. SỰ ĐỊNH TĨNH của NỘI TÂM

   Đức Phật dạy: “Sự định tĩnh được phát xuất từ nội tâm, không phải tìm cầu từ bên ngoài”.

   Sự yên tĩnh của nội tâm có được phải nhờ sự tu tập, buông xả của bản thân. Mỗi người chúng ta nếu muốn sống một cuộc sống cho thật an nhiên tự tại, nhất định chúng ta cần phải hạ thủ công phu, tu tập để thanh lọc nội tâm.

   Quý vị cần phải quán sát xem vạn vật trong trời đất, quý vị sẽ thấy trong chớp mắt chúng biến hóa vô cùng, không có thể tánh thực tại. Vì thế, quý vị không nên chấp trước, đam mê, được như thế quý vị mới thật sự là một người giàu có.

   Bây giờ tôi xin hỏi quý vị: sự chấp trước có chỗ nào xấu? Hiện tại, trong tay tôi đang cầm chiếc khăn này, vậy khi tôi đang cầm chiếc khăn, tôi có thể cầm cái tách trà này để uống được không? Không được phải không quý vị? Tâm của chúng ta cũng như vậy, khi chúng ta đã chấp trước đam mê một cái gì, một điều gì rồi, chúng ta không thể dung nạp những cái khác, những điều khác nữa, cho dù đó là những cái đẹp, những điều hay. Ví dụ nói bây giờ trong tay của chúng ta không cầm một vật gì cả, thì chúng ta mới có thể cầm vật khác lên được, và khi muốn cầm một vật khác nữa thì chúng ta phải bỏ vật mà chúng ta đang cầm xuống. Như thế, muốn thưởng thức, học hỏi nhiều điều, muốn có cơ hội hiểu biết người khác, chúng ta phải thực tập hạnh buông xả. Nếu không, trong cuộc sống chúng ta cứ chấp chặt một điều gì mà không chịu xả bỏ, hay chúng ta có định kiến không tốt về một người nào, nội kết với một ai mà không chịu buông xả… chúng ta không bao giờ có cơ hội để tiếp nhận những cái hay cái tốt khác, và chúng ta cũng không bao giờ tha thứ được cho người khác cũng như không tiếp nhận được việc tốt của người khác. Thế nên, sự buông xả chính là tài sản quý giá nhất, tài sản này quý vị lại không tốn tiền mua.

   Nếu lòng chúng ta luôn luôn chấp chặt một điều gì thì thật khổ sở. Nếu có người nào nói với ta vài ba câu gì đó là tối về, chúng ta cứ trằn trọc không sao ngủ được. Rồi cứ trằn trọc suy nghĩ: “Vì sao mà người ấy lại chê bai mình đến như vậy? Vì sao mà người ấy lại muốn công kích mình?…”. Cứ như thế, chúng ta sẽ bị đau khổ vì những chuyện không đâu vào đâu.
 
 37. KHÔNG THẸN VỚI LÒNG
 
   Kính thưa quý vị!
   Trong cuộc sống, làm bất kỳ một việc gì, chúng ta cần phải hỏi lại lương tâm của chính mình, xem thử mình có làm sai việc gì không? Chúng ta cần phải hỏi lại tự bản thân chứ không phải hỏi người khác. Vì Phật dạy chúng ta phải chịu trách nhiệm với tất cả những việc mà chúng ta đã làm. Nếu chúng ta thật sự không có sai lầm thì cho dù người khác có phỉ báng, công kích hay tìm cách nói xấu, chúng ta vẫn an nhiên bất động, hay cho dù có người tỏ thái độ thương hại ta thì cũng vậy thôi, bởi vì bản thân chúng ta thấy rõ mình không thẹn với lòng đối với những việc mình đã làm.

   Lương tâm ở trong lòng mỗi người, đó chính là một vị quan tòa tốt nhất. Chúng ta có thể dối gạt, che giấu người khác, dối gạt cha mẹ, bạn bè, thầy cô giáo, hay dối gạt cả với đất nước…, nhưng chúng ta không thể dối gạt được lương tâm của mình. Lương tâm của mỗi người chính là sự trong sạch nhất của nội tâm người ấy. Trong suốt hai mươi bốn giờ, lương tâm luôn là vị quan thanh liêm, phán xét mọi hành động của chúng ta. Nhân quả chính là ở đây, tuyệt đối không sai chạy. Nó còn ghi chép đầy đủ và chính xác hơn cả chiếc máy vi tính chính xác nhất mà không có loại virut nào có thể phá hoại được. Vì thế, quý vị cần phải hiểu, quý vị tu học Phật pháp, có thể nghe qua băng giảng hoặc trực tiếp nghe Thầy giảng, quý vị cần phải thực tập ngay những điều mình đã được nghe, được học vào trong cuộc sống của bản thân mình, gia đình mình và xã hội mình để có được trí tuệ, an lạc và hạnh phúc cho bản thân, và cho mọi người.

   Chỉ cần chúng ta không thẹn với lòng thì chúng ta sẽ không bận lòng với những phê bình hay chỉ trích của người khác. Đây chính là chúng ta đạt được sự an ổn và định tĩnh của nội tâm vậy.

   38. PHẬT PHÁP và TÔN GIÁO
 
   Phật giáo siêu việt hơn tôn giáo, siêu việt hơn tất cả các loại triết học. Tất cả các tôn giáo có mặt trên thế giới đều nói rằng có một vị thần, hay vị thượng đế tối cao có đầy đủ năng lực ban thưởng hay trừng phạt con người. Thế nhưng, Phật giáo cho rằng, mỗi chúng ta đều có đủ khả năng ban thưởng hay trừng phạt chính mình, nghĩa là mỗi chúng ta đều có khả năng làm chủ hành vi, hành động của chính mình, và mọi người đều phải chịu trách nhiệm với những hành vi, hành động đó. Cho nên, chúng ta muốn thành Phật hay muốn vào địa ngục đều do bản thân chúng ta quyết định, không ai quyết định thay cho chúng ta.

   Chư vị Tổ sư cũng đã từng nói: “Phật giáo không phải là tôn giáo, không phải là triết học mà lại siêu việt tôn giáo, siêu việt triết học”. Nói Phật giáo là tôn giáo, đó là vì phương tiện mà nói. Vì sao nói Phật giáo không phải là tôn giáo? Bởi vì định nghĩa của tôn giáo là có giáo chủ, có một đấng tối cao có đầy đủ quyền lực siêu nhiên, có giáo nghĩa, giáo đoàn… Tất cả những tôn giáo đều nói rằng có một đấng tối cao có đầy đủ quyền lực siêu nhiên, thế nhưng đức Phật Thích-ca Mâu-ni của chúng ta không phải là một đấng siêu nhiên, đức Phật cũng nói rằng: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”, và đức Phật cũng không có quyền ban thưởng hay trừng phạt ai cả. Ngài dạy rằng mỗi người đều phải nhận tất cả kết quả từ những việc làm của bản thân. Ngài cũng không dạy mọi người hãy cứ tin Ngài thì sẽ được về cõi Tây Phương Cực Lạc, còn không tin thì sẽ bị đày xuống địa ngục, mà Ngài dạy, muốn tin thì phải hiểu, muốn tin Phật thì phải hiểu Phật là gì. Đức Phật đã dạy: “Các ngươi chớ vội tin ta. Tin ta mà không hiểu ta thì chính là các ngươi phỉ báng ta một cách thậm tệ vậy”. Vì thế, đạo Phật mới được mệnh danh là đạo của trí tuệ.
 
39. DUYÊN SINH, DUYÊN DIỆT

   Phật giáo giảng về cái gì?
   Kính thưa quý vị! Phật giáo giảng về nhân duyên. Đó là duyên sinh và duyên diệt. Duyên sinh nghĩa là mọi sự mọi vật trên thế gian này đều do nhiều yếu tố, điều kiện kết hợp lại mà phát sinh, không có một sự một vật nào được sinh ra một cách tự nhiên, nghĩa là không có sự vật, sự việc nào chỉ do một yếu tố làm sinh ra mà phải do nhiều yếu tố kết hợp sinh ra. Duyên diệt nghĩa là khi những điều kiện để các yếu tố kết hợp với nhau không còn nữa thì sự vật sự việc sẽ không còn hiện diện, tồn tại. Sự không còn hiện diện hay tồn tại của bất kỳ sự vật, sự việc nào, không phải do chúng tự nhiên mất đi, hay là do một đấng quyền năng nào làm cho chúng mất đi, mà là do các yếu tố, các điều kiện của sự vật sự việc ấy đã hết và chúng sẽ chuyển sang một dạng nhân duyên mới, tạo ra các sự vật, sự việc mới. Ví dụ như hôm nay, mọi người chúng ta cùng có duyên gặp nhau ở đây, cũng chính là duyên sinh chúng ta mới cùng tập hợp tại đây để nghe pháp. Sau khi chúng tôi giảng xong, quý vị ai về nhà nấy, đó là duyên diệt. Thế nhưng khi chúng tôi về chúng tôi sẽ làm việc khác nơi khác, và quý vị trở về, mỗi người sẽ có một công việc khác, nghĩa là sẽ có các duyên khác sinh ra các việc khác.

    40. NẮM VỮNG và SÁNG TẠO NHÂN DUYÊN
 
   Nhớ lại khi tôi còn học đại học, có một vị tín đồ Cơ Đốc giáo nói với tôi rằng: “Phật giáo của các bạn nói rằng đức Phật đang khống chế các bạn và đức Phật là chủ tể sáng tạo ra thế giới này”.

   Tôi nói với anh ta rằng: “Phật giáo không nói những điều như vậy. Tay của bạn muốn nắm lại cũng do bạn, mà muốn buông ra cũng do bạn. Tất cả mọi việc làm đều do tự thân mỗi chúng ta quyết định”. Nếu như hôm nay anh giết người thì cho dù anh có đến quỳ trước Phật, Phật cũng không thể cứu anh được. Và đức Phật sẽ nói với anh rằng: “Anh không tin nhân quả, anh muốn giết người, phóng hỏa thì ta làm sao mà cứu anh được?”.

   Vì thế có người hỏi: “Tụng kinh nhất định có thể tiêu trừ tai nạn được hay không?”. Điều này cũng không nhất định, bởi nếu như bạn không làm việc xấu thì tụng kinh có thể tiêu trừ tai nạn. Thế nhưng, nếu bạn làm việc xấu, sát nhân, phóng hỏa thì bạn có tụng bao nhiêu đi nữa cũng vô dụng mà thôi. Nếu tụng kinh có thể tiêu trừ những tai nạn, những hậu quả do việc làm xấu ác của chúng ta gây ra thì đức Phật Thích-ca Mâu-ni là người bao che cho tội ác rồi, và Phật giáo đã trở thành một nơi dung chứa cho những kẻ gây ra tội ác.

   Vì thế, tụng kinh không nhất định sẽ tiêu trừ tai nạn, bởi vì tất cả còn tùy thuộc vào những việc làm của mỗi người chúng ta. Nếu như bạn làm hại một lần đến năm mươi người, rồi bạn lại đến trước Phật sám hối, cầu xin Phật cứu bạn, như thế thì Phật cũng đành chịu thôi. Bởi vì những việc bạn làm thì bạn phải có trách nhiệm với những kết quả của những việc làm đó, chứ Phật không có quyền xóa bỏ những kết quả đó được. Hoặc là bạn đem những sản phẩm độc hại, sản phẩm kém chất lượng đi lừa dối để bán cho người tiêu dùng để kiếm tiền, đến khi bị phát hiện, bị pháp luật truy bắt, lúc này bạn đến cầu Phật, xin Phật cứu giúp, tha thứ thì thử hỏi Phật làm sao mà cứu được, và nhất định bạn sẽ bị pháp luật xét xử mà thôi. Bạn làm những việc bất thiện, hại nước hại dân thì nhất định bạn sẽ bị pháp luật xét xử, và khi đã làm những việc ác rồi thì cho dù bạn có tụng kinh gì đi nữa cũng vô ích thôi. Bởi vì lúc này bạn tụng kinh với mục đích là cầu cho pháp luật không xét xử những việc làm xấu ác của bạn chứ không phải tụng kinh vì mục đích thanh lọc nội tâm, tìm hiểu lời Phật dạy. Trong Phật giáo hoàn toàn không có điều này. Chúng ta không nên có những nhìn nhận một cách sai lầm về Phật giáo như vậy. 

   Chúng tôi đã nói bàn tay của chúng ta có thể nắm lại hay mở ra đều tuỳ thuộc vào bản thân của mỗi chúng ta. Vì thế, đức Phật dạy về nhân duyên sinh, nhân duyên diệt, không phải là muốn chúng ta cứ buông thả mình trôi theo những dòng chảy của cuộc đời, mà đó chính là đức Phật muốn nói với chúng ta rằng: muốn làm thiện hay làm ác đều do chính bản thân chúng ta quyết định. Chúng ta muốn an lạc hạnh phúc hay đau khổ đều do tự thân mỗi của chúng ta.

   Thế nên, dưới cái nhìn của nhân duyên sinh, những sự việc xảy ra không phải là chúng ta cứ nhắm mắt thuận theo đó, không biết làm gì, mà chính là trong cái nhìn duyên sinh ấy, chúng ta tích cực chủ động để cải biến, làm thay đổi chiều hướng của sự việc, thay đổi chính bản thân chúng ta. Chúng ta phải biết nắm bắt cơ hội, tạo ra những cơ hội tốt, những nhân duyên tốt để trong quan hệ giữa người với người có được những mối liên hệ tốt đẹp, cùng nhau xây dựng một cuộc sống mà trong đó mọi người biết tin tưởng, thương yêu, tôn trọng lẫn nhau, không ai dối gạt ai, không ai tìm cách hại ai. Đó chính là chúng ta cùng tạo nhân duyên xây dựng cuộc sống an lạc, xây dựng cõi Tịnh độ ngay trong cuộc đời này.
 
 41. HẠNH PHÚC TỪ ĐÂU ĐẾN?

   Một nhà triết học đã nói: “Người có trí tuệ thì tùy lúc, tùy nơi đều có thể tự tìm được hạnh phúc cho bản thân; người không có trí tuệ thì lại mong cầu người khác đem hạnh phúc đến cho mình”.

   Kính thưa quý vị! An lạc, hạnh phúc đến từ sự giải thoát, an tĩnh của nội tâm. Nếu như nội tâm chúng ta không an lạc, vui vẻ thì ta có thể cầu mong người nào đem đến được niềm vui cho mình?

   Làm người chúng ta không nên bàn đến chuyện của người khác. Trong nhà mình, chúng ta không nên bàn luận nhà người khác. Không nên bàn luận nhà người khác tốt hay không tốt. Một người mà suốt từ sáng đến tối cứ luôn nói đến chuyện thị phi, đúng sai của thiên hạ rồi mong cho mình được an lạc hạnh phúc thì làm sao mà có được an lạc hạnh phúc? Suốt ngày chỉ nói người này sai, người kia không đúng, còn bản thân mình thì quá sai quấy mà lại không biết, lại cứ cho rằng người khác không tốt.

   Con người chúng ta có một nhược điểm rất đáng thương, đó là không nhìn thấy lỗi của mình mà chỉ nhìn thấy lỗi của người khác. Điều này cũng giống như trên mặt của mình đang bị rất nhiều bùn đất dính phải, mình lại không thấy, mà mình lại nhìn thấy một vết bẩn trên mặt của người khác, rồi lại chê cười người khác rằng: “Trên mặt của anh có vết bẩn, thật là tức cười”. Nhưng khi đó, người kia sẽ nói lại với chúng ta: “Tôi chỉ có một vết thôi, còn anh bị cả mặt sao anh lại không thấy?”.

   Con người thường không tự thấy được mặt thật của mình, mà lại rất chú ý đến việc làm của người khác, có khi lại chú ý rất nhiều nữa là khác. Khuyết điểm của bản thân thì không thấy, lại mỗi ngày đều phê bình sự tốt xấu của người, mỗi ngày đều mãi chê bai trách cứ người khác. Chúng ta thật kỳ lạ, tự đem những khuyết điểm của người khác làm phiền não cho bản thân, tự mình chuốc khổ cho mình.

   Vì thế nên nói: “Người có trí tuệ thì tùy lúc, tùy nơi đều có thể sống an lạc, vui vẻ. Chỉ cần chúng ta xả bỏ tâm tình, không nên để ý đến chuyện thị phi của người khác, chúng ta có thể cảm nhận được sự hiện hữu hết sức nhiệm mầu của vạn vật trong trời đất, như thế tự thân ta sẽ có được sự an lạc, nhẹ nhàng. Còn nếu chúng ta không buông xả được những tâm tình của mình, mà cứ vướng mắc vào những hơn thua được mất của cuộc đời, thì làm sao chúng ta sống có hạnh phúc và an lạc?

   Đức Phật dạy: “Không ai có thể đem lại sự đau khổ cho ta mà chính chúng ta tự gây đau khổ cho bản thân mình”. Lại nói: “Người nào hy vọng người khác đem hạnh phúc đến cho mình thì cũng giống như một người ăn mày đi xin thức ăn của người khác vậy, thật là khổ sở”. Bởi vì không phải người khác có thể đem hạnh phúc cho chúng ta, mà chính chính chúng ta tự tạo ra vậy. An lạc, hạnh phúc có được chính là nhờ vào sự giải thoát, tự tại, sự siêu việt, xả bỏ, không chấp trước phiền não của chúng ta trước mọi hoàn cảnh. Tất cả đều dựa vào bản thân mình. Bất luận người khác có cho ta bao nhiêu của cải đi nữa, cũng không cho ta được sự an lạc và hạnh phúc.

   42. NHÌN LẠI BẢN THÂN 
   Quý vị nên biết chỉ có trí tuệ và tình thương xuất phát từ nội tâm, chúng ta mới có được hạnh phúc và an lạc trong cuộc sống hiện tại.

   Một nhà triết học đã nói: “Phạm sai lầm là bình thường, tha thứ mới là cao thượng”. Câu nói này rất quan trọng, quý vị không nên xem thường nó. Chúng ta sống trong cuộc đời, mỗi chúng ta ít nhiều gì cũng đã từng phạm sai lầm, chỉ khác nhau là lớn nhỏ, nặng nhẹ mà thôi. Chúng tôi mong muốn rằng quý vị sau khi đã học Phật pháp rồi, thì nên học tập và thực hành những điều Phật dạy, đó là biết khoan dung, tha thứ những khuyết điểm, lỗi lầm của người khác. Giả như quý vị không phạm sai lầm thì tốt rồi, nhưng biết tha thứ và khoan dung với lỗi lầm của người khác lại càng quý hơn nữa, và nhất là đừng chú ý đến những lỗi lầm của người khác.

   Người học Phật, cần thiết nhất chính là mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây phải luôn luôn chú ý đến hành vi của bản thân. Cần phải thực tập và luôn luôn duy trì chánh niệm trong mỗi lời nói, cử chỉ, hành vi và suy nghĩ của mình, nghĩa là phải luôn luôn ý thức được mình đang làm gì, nói gì và suy nghĩ gì. Nếu như hằng ngày chúng ta chỉ chú ý đến những khuyết điểm, sai lầm của người khác, chúng ta sẽ không có thời gian để nhìn lại bản thân, và như thế chúng ta chưa phải là một Phật tử đúng nghĩa. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni không bao giờ dạy chúng ta suốt ngày hãy  nhìn vào khuyết điểm, lỗi lầm của người khác, Ngài chỉ dạy chúng ta hằng ngày hãy quán chiếu, nhìn lại bản thân của chính mình, nhìn lại những khuyết điểm, sai lầm, những yếu kém của bản thân mình để sửa đổi hoàn thiện.
 
43. THA THỨ và BAO DUNG

   Một nhà tâm lý học nói: “Chúng ta nhất định phải hiểu được lập trường của người khác. Những bất đồng, những xung đột, tranh chấp xảy ra giữa người với người chính là do chúng ta đã không đặt mình vào vị thế của đối phương”. Nếu chúng ta đứng trên vị thế của đối phương, đồng thời cũng đứng trên vị thế của mình để suy xét, trao đổi lập trường thì chúng ta sẽ không bị phiền não. Bởi vì khi chúng ta thử đặt mình vào vị thế của người khác, chúng ta mới thấy rằng: vị thế khác nhau thì cách nhìn sẽ khác nhau và như vậy, tác phong cũng sẽ khác nhau. Hiểu được vậy chúng ta sẽ không phê phán hay chỉ trích việc làm của người khác.

   Vì thế, chúng tôi chân thành khuyên quý vị, sau khi học Phật rồi, quý vị không nên công kích người khác, không nên làm tổn thương người khác, mà đối với một sự việc nào xảy đến với người khác, mình không nên vội vàng lên án hay chỉ trích mà hãy thử đặt mình vào vị thế của người đó để suy nghĩ. Làm như thế chúng ta mới có thể nhận ra rằng: “Sở dĩ hôm nay người ấy hành động như vậy, nhất định là có cái lý của họ”. Vì thế, người xưa đã nói: “Người nào có khả năng dung nạp những ý kiến khác với kiến giải của mình thì mới có thể thành tựu được sự vĩ đại của bản thân”.

   Nói một cách đơn giản, một người bình thường thì không đủ sự rộng lượng để dung nạp những ý kiến khác với ý kiến của bản thân. Chẳng hạn như cách nhìn của tôi khác với quý vị, lập tức tôi sẽ tìm cách công kích quý vị. Còn quý vị thì tìm biện pháp để đánh gục chúng tôi, và trong khi đang tận sức tìm biện pháp mà chưa có thì lại sinh tâm hủy báng, gây tạo thị phi. Con người chúng ta thật là đáng thương như thế đó!

   Nếu có thể bao dung đối với cách nhìn của những người bất đồng ý kiến, chúng ta mới chính là con người vĩ đại. Chúng ta thường phạm một lỗi lầm nghiêm trọng, đó là hay xem thường người khác. Ví dụ như chê bai người khác: “Bạn rất tệ!”. Thật sự ý nghĩa trong đó chính là chúng ta muốn nói “tôi vĩ đại hơn bạn”. Mục đích muốn cho mình cao thượng vĩ đại hơn người khác bằng cách chê bai người khác thì đó không phải là người quân tử, vì người xưa đã từng nói: “Hữu xạ tự nhiên hương”.

   Thưa quý vị! Trong cuộc sống, chúng ta không nên xây dựng sự nghiệp thành công của mình trên sự khổ đau của người khác, không nên vì muốn cho mình được nổi tiếng mà chúng ta lại chê bai chỉ trích người khác. Vì thế, chúng ta cần phải thể hiện tính khiêm cung trong cách nói của mình, như nói: “Các bạn đều là những người vĩ đại, cao thượng hơn tôi rất nhiều”. Trong cuộc sống, bạn cần phải thấy được ưu điểm của người khác, và luôn luôn tán thán sự vĩ đại của người khác mới đúng.

   Bất luận bạn là vương tôn công tử, là người buôn bán, người hầu, người làm công tác vệ sinh… tất cả cũng đều tốt cả. Trong mối quan hệ tồn tại xã hội, mỗi người đều có một công việc tùy theo điều kiện, hoàn cảnh, tùy theo sự phân công lao động xã hội. Tuy mỗi người mỗi ngành nghề khác nhau nhưng tất cả đều có một điểm chung, đó là: cùng nhau xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Chúng ta cần phải hiểu rõ trong vũ trụ này, một ngọn cỏ, một bông hoa hay một viên đá... tất cả đều có không gian sinh tồn của nó, huống gì là con người. Vì thế, chúng ta cần phải tôn trọng người khác, phải biết dung nạp người khác. Nếu như chúng ta cứ nhìn nhận người khác qua lăng kính của sự xấu xa, thì nhất định người khác không thể nhìn nhận chúng ta bằng lăng kính tốt đẹp được. Và, quý vị thử nghĩ xem, trong cuộc đời này mà ai ai cũng cho người khác là xấu cả thì thử hỏi, thế giới này sẽ như thế nào?

   Trên thế giới này, không phải ai cũng đều là Thánh nhân, vì thế chúng ta không nên chú ý phê bình người khác, càng không nên công kích và làm thương tổn người khác, bởi vì làm như thế, chính bản thân chúng ta sẽ là người chịu nhận sự đau khổ và bất an nhiều nhất. Chúng ta cũng không cần phải bận tâm đến chuyện thị phi của người khác. Sự đúng sai, tốt xấu… của mọi người sẽ được sự phán xét công bằng của quy luật nhân quả.

   44. BÌNH THƯỜNG 
 
   Bây giờ, chúng tôi sẽ hướng dẫn quý vị một phương pháp thực tập giải thoát. Chỉ một câu nói thôi cũng sẽ giúp quý vị có được sự an lạc, quý vị cố gắng ghi nhớ. Nếu như quý vị thực hiện điều này trong cuộc sống, nhất định quý vị sẽ luôn sống trong sự yên ổn và hạnh phúc. Đó là quý vị phải luôn luôn nói với bản thân của mình rằng: “Ta là một con người bình thường trên thế giới này, ta không có cái gì đặc biệt cả”. Được như vậy, quý vị sẽ có được sự giải thoát. Vì sao vậy? Sở dĩ chúng ta tranh chấp, ganh đua, chê bai hay hãm hại lẫn nhau chính là vì chúng ta luôn tự cho mình là tài giỏi hơn người, cho nên hễ thấy ai hơn mình thì sinh lòng đố kỵ ganh ghét… và tìm cách hãm hại, như thế những phiền não, khổ đau từ đây mà phát khởi.

   Kính thưa quý vị! Chúng ta thường tự nói với bản thân, rằng mình là một con người bình thường, nói như thế không phải là tự khinh khi bản thân mình mà đó chính là phương pháp tự xây dựng và hoàn thiện bản thân. Bởi vì khi chúng ta biết bản thân mình là một con người bình thường không có gì đặc biệt, chúng ta mới có thể nỗ lực học hỏi, tiếp thu ý kiến, tôn trọng người khác để hoàn thiện bản thân. Còn nếu chúng ta tự cho mình là một người đặc biệt, là người tài giỏi thì chúng ta sẽ xem thường tất cả mọi người, xem thường tất cả mọi ý kiến, trở thành một người cao ngạo, mục hạ vô nhân. Vì thế, người nào mà luôn tự biết tôn trọng người khác, biết nhìn nhận những thiếu sót của bản thân, biết nhận mình là một người bình thường trong cuộc đời này thì đó là một người ưu việt.

   Có người nói với tôi rằng: “Tuệ Luật pháp sư, Thầy cũng chỉ là một người bình thường thôi, có gì là đặc biệt đâu!”. Đúng như vậy. Bản thân chúng tôi cũng là một người rất tầm thường thôi, nếu không muốn nói là tệ nữa. Quý vị cũng thấy rồi đó, tôi không được cao to, đẹp trai, lại không phải là người học cao hiểu rộng, cho nên mọi người nói tôi là một người bình thường là rất đúng.

   Thưa quý vị! Nếu chúng ta tự cho mình là một người siêu việt hơn mọi người thì khi có một ai đó có ý kiến phê bình về chúng ta, chúng ta sẽ rất đau khổ. Tôi lấy ví dụ, như bạn là một ngôi sao ca nhạc hoặc một ngôi sao điện ảnh, khi lên sàng diễn sẽ được nhiều người vỗ tay tán thưởng, và như thế suốt ngày bạn sẽ sống trong tiếng vỗ tay tán thưởng của nhiều người. Thế nhưng, cuộc đời không phải lúc nào cũng êm xuôi như vậy. Nếu có một ngày nào đó mà sau khi biểu diễn xong, bạn nhận được không phải là tiếng vỗ tay tán thưởng mà là những tiếng la ó phản đối hoặc chê bai, thì bạn nghĩ xem, bạn sẽ như thế nào? Nhất định là sau khi bước xuống sân khấu, bạn sẽ rất đau khổ và phiền muộn, vì bạn đã không có phương pháp tiếp nhận những đả kích hay chê bai của người khác. Nếu như trong cuộc sống mà người khác đả kích quý vị, nhưng quý vị vẫn an nhiên không bị lay động bởi sự đả kích của người khác thì sẽ không có vấn đề gì xảy ra. Cho nên trong cuộc sống, dù người khác có công kích mình, mình nhất định cũng không nên công kích lại người.

   Vì thế, chúng ta hãy làm một người bình thường trên thế giới này, một người không có gì đặc biệt, không có gì siêu việt và đừng có chấp trước vào sự khen tặng, vào những vinh quang tạm thời của cuộc đời thì nhất định chúng ta sẽ có những ngày tháng sống an lạc hạnh phúc. Quý vị nghĩ có đúng như thế không?

   Người nào hiểu được vấn đề và làm một con người bình thường, sống một cuộc đời bình thản, thì đó chính là người hạnh phúc nhất trên cuộc đời này.
Có một Phật tử đến nói với tôi: “Thưa sư phụ, nếu nói vậy không phải là tự mình làm cho mình mất thể diện hay sao?”.

   Tôi trả lời: “Anh cần phải hiểu rõ điều này. Khi chúng ta đã tận tâm tận lực làm một công việc nào đó rồi, mà người khác phê bình hay làm tổn hại đến mình thì đương nhiên, mình cần phải an nhiên bất động trước sự phê bình chỉ trích. Đó không phải là tự làm mất thể diện của mình, mà đó là thể hiện bản lĩnh và khả năng tiếp nhận của bản thân”.

   Bất kỳ người nào cũng không thể làm vừa lòng tất cả mọi người được, nếu như sống mà chúng ta cứ chờ đợi vào sự tán thưởng của người khác thì đó quả là một sự mong cầu viễn vông. Nó không ích lợi gì mà còn tăng thêm sự đau khổ cho ta mà thôi.

   45. TÁN THÁN, TÙY HỶ 
 
   Một nhà tâm lý học nói: “Khen ngợi người khác nên khen ở những nơi công cộng đông người”. Chúng ta khen ngợi người khác nên khen ngợi trước đông đảo mọi người. Chỉ trích một người hay kiến nghị đối với một ai, chúng ta cần phải tế nhị, nhẹ nhàng và kín đáo.

   Phật giáo thường nói về vấn đề “tùy hỷ công đức, xưng tán Như Lai”, nghĩa là đối với bất kỳ việc gì mà người khác có sự thành công thì chúng ta cần phải chung vui và ủng hộ cho sự thành công đó, không nên tìm cách chê bai hay ganh tỵ. Trong cuộc sống, chúng ta cần phải dùng tấm lòng thương yêu, lòng hòa nhã, lòng nhẫn nhục; lời nói thương yêu, lời nói hòa nhã, lời nói có tính chất xây dựng để thương yêu và quan tâm đến mọi người. Vì thế, nhất định quý vị phải ghi nhớ: “Khen ngợi người khác cần phải khen ngợi trước đông đảo mọi người, còn góp ý xây dựng hay chỉ trích người khác thì cần phải tế nhị và kín đáo”.

   Đức Phật đã dạy: “Người nào mà suốt ngày chỉ chú ý đến khuyết điểm của người khác thì bản thân người đó tràn đầy khuyết điểm, bởi vì người ấy không có thời gian để nhìn lại mình, để thấy được những sai sót, khuyết điểm của bản thân mà đã lãng phí thời gian vào sự chê bai và chỉ trích người khác”.

   Nếu suốt ngày chúng ta cứ mãi chú ý đến những hành vi của người khác, và chỉ thấy toàn khuyết điểm của người khác, chúng ta sẽ được lợi gì? Phải chăng, cái mà chúng ta được đó chính là đem những phiền não, rác rưởi của người khác về làm tài sản của mình. Như thế, chính chúng ta tự làm ô uế nội tâm trong sạch của chúng ta. Nội tâm chúng ta vốn thanh tịnh, bản thân ta vốn có thể an nhiên tự tại, nhưng chính vì chúng ta đã ngu muội chú ý đến thị phi của người mà tự mình chuốc khổ cho mình, thật là đáng trách!
 
   46. THAY ĐỔI TỰ THÂN

   Đức Phật đã dạy: “Chúng ta hãy thay đổi bản thân, khi có đủ năng lực mới nên làm thay đổi người khác”. Nho gia cũng nói: “Ta đây một ngày ba lần tự thức tỉnh mình”, trước hết cần phải tu thân, tiếp theo là tề gia và sau đó mới bình thiên hạ.

   Hôm nay chúng ta bị khổ đau là vì sao? Chính vì chúng ta đang luôn luôn nghĩ đến chuyện tìm lỗi người khác, chúng ta muốn làm người khác thay đổi. Chồng thì muốn vợ phải thay đổi, vợ lại muốn chồng phải thay đổi, hai người không ai chịu nhường nhịn ai, không ai chấp nhận tự thay đổi bản thân, cứ như thế dẫn đến những tranh chấp và đổ vỡ hạnh phúc gia đình.

   Đức Phật có dạy: “Chúng ta không thể bắt buộc mọi người trên thế giới này theo một tiêu chuẩn đồng nhất được, mỗi người có một tiêu chuẩn của riêng mình. Tiêu chuẩn không giống nhau, tư tưởng khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, từ đó cách nhìn nhận về vấn đề cũng khác nhau”. Vì thế, trong mối quan hệ giữa người với người, chúng ta cần phải biết tôn trọng quyết định của người khác, của đoàn thể. Trong cuộc sống, sinh hoạt của đoàn thể, khi mà ý kiến của chúng ta khác với ý kiến chung của mọi người thì chúng ta cần phải biết tôn trọng ý kiến chung của đoàn thể. Làm như thế, chúng ta vừa biết tôn trọng ý kiến của mọi người, vừa thể hiện tình đoàn kết. Trong Phật giáo, chúng ta luôn luôn đề cao tinh thần hòa hợp và đoàn kết.

   47. KHÔNG SỢ NGOẠI ĐẠO 
 
   Có một vị Phật tử đến gặp tôi và nói với vẻ rất khẩn trương rằng: “Bạch Thầy! Hiện nay các tôn giáo khác đang phát triển rất mạnh, họ đang tìm mọi cách truyền bá rộng rãi tôn giáo của mình, vậy chúng ta phải làm sao?”.

   Tôi trả lời: “Những tôn giáo khác phát triển mạnh thế nào cũng không quan trọng, chỉ cần Phật giáo chúng ta không có những tranh chấp, những loạn động ngay trong nội bộ của mình thì thử hỏi có ai làm gì được chúng ta! Điều đáng sợ chính là trong nội bộ Phật giáo chúng ta không hòa hợp, đoàn kết, lại tranh chấp, chia rẽ lẫn nhau mà thôi”.

   Vì sao lại sợ điều này? Tôi xin lấy ví dụ để quý vị rõ. Ví dụ hôm nay, tôi đến đây thuyết giảng, thế nhưng trong khi thuyết giảng thì tôi lại công kích chê bai các vị giảng sư khác. Người này phê bình chỉ trích người khác, nhóm này chê bai nhóm khác và đoàn thể này chê bai chỉ trích đoàn thể khác, cứ như thế, cùng trong một ngôi nhà Phật pháp mà chúng ta không tin tưởng lẫn nhau, thương yêu và đùm bọc cho nhau, lại công kích hủy báng lẫn nhau thì điều này mới là điều đáng sợ nhất. Vì thế, chúng tôi nói không có việc gì đáng sợ cả, chỉ sợ là sợ ngay trong bản thân nội bộ của chúng ta mất đi sự hòa hợp đoàn kết mà thôi.

   Cũng giống như một cây đại thọ, thân thì rất lớn nhưng rễ của nó thì đã hư rồi, vậy thì chúng ta có bón cho nó bao nhiêu phân, bao nhiêu chất dinh dưỡng đi nữa cũng trở thành vô dụng. Nếu như trong tự thân nội bộ Phật giáo chúng ta mà thiếu sự tín nhiện, hòa hợp và đùm bọc lẫn nhau thì chẳng có cách gì làm cho Phật giáo hưng thịnh lên được. Điều này chẳng phải người nào có khả năng phá hoại chúng ta mà chính là chúng ta đã tự phá hoại bản thân mình. Vì thế, kính thưa quý vị! Đã là người đệ tử Phật, chúng ta hãy đồng tâm nhất trí, đoàn kết với nhau, cùng nhau xây dựng hạnh phúc cho mình và cho mọi người, cùng xây dựng đạo pháp, dân tộc và đất nước ngày càng giàu đẹp.

   48. KHÔNG NÊN MƠ TƯỞNG VIỄN VÔNG
 
   Một nhà triết học nói: “Khi chúng ta tìm cầu không được một vật gì hay một điều gì, chúng ta đều cho rằng vật ấy, điều ấy là đẹp nhất, là tốt nhất, là quý nhất”. Đó chính là vì chúng ta không hiểu rõ được chân tướng của các sự vật, hiện tượng xảy ra trong cuộc sống. Nếu như chúng ta chịu khó dành thời gian để tham cứu, tìm hiểu về các sự vật, sự việc đó thì chúng ta sẽ phát hiện ra những khuyết điểm, những thiếu sót của các sự vật hiện tượng kia, chứ chúng tuyệt đối không toàn mỹ như chúng ta đã tưởng tượng. Vì thế, đối với bất cứ sự vật, sự việc nào, chúng ta cũng không nên mơ tưởng viễn vông về nó, không nên chấp trước đam mê đối với các sự vật, sự việc…

   Ví dụ một người con trai đang để ý theo đuổi một cô gái mà anh ta cho là người trong mộng của mình, anh ta sẽ tìm mọi cách để chiếm được cảm tình của cô gái đó. Thế nhưng, nếu như anh ta làm mọi cách mà cô gái ấy cũng không đáp lại tấm chân tình của anh ta thì quý vị nghĩ xem, anh ta sẽ như thế nào? Anh ta sẽ không kể đến thân mạng của mình để tìm mọi cách làm cho người con gái đó đáp lại tình cảm của anh. Ví như anh ta biết được lúc nào cô gái ấy sẽ đi làm, lúc nào tan sở, lúc nào đi đâu… thì anh ta sẽ đi theo cô ta bất kỳ lúc nào, bất cứ ở đâu. Quý vị nghĩ xem, sở dĩ anh ta không kể đến thân mạng của mình để theo đuổi cô gái cũng chỉ vì bị sắc đẹp bên ngoài của cô gái mê hoặc, chứ thật sự anh ta chưa hiểu biết gì về người con gái ấy cả. Khi chưa hiểu về một người thì làm sao có thể yêu thương người đó được, quý vị nghĩ có đúng vậy không? Vì thế, anh ta nói yêu cô gái ấy nhưng thật sự là yêu sắc đẹp bên ngoài của cô ta mà thôi.

   Nếu như người con trai đó có cơ hội tiếp xúc và nói chuyện với cô gái, quan hệ giữa hai người càng ngày càng trở nên thân mật hơn và họ trở thành bạn bè của nhau. Trong thời gian đầu mới quen nhau, nhất định quan hệ giữa họ rất tốt. Thế nhưng, trải qua một thời gian quen nhau, có những lúc ý kiến bất đồng, họ không còn nhường nhịn nhau như lúc đầu mới quen mà sẽ cãi vả nhau, có lúc còn khoa tay múa chân. Thế nhưng, vì rất yêu cô gái cho nên người con trai tuy muốn rời xa cô gái nhưng lại bỏ không được. Gặp nhau thì thường tranh cãi, tranh cãi rồi lại muốn xa nhau, song xa nhau vài này lại thấy nhớ, người này đợi điện thoại của người kia, đi tới đi lui chẳng ai làm được một việc gì cả. Quý vị thấy thế nào? Con người chúng ta có mâu thuẩn không? Vì thế, chúng tôi muốn quý vị hiểu điều này: bất kỳ một sự việc gì chúng ta cũng cần phải có thời gian để tìm hiểu chân tướng của nó, đừng có vội vàng hấp tấp, không nên quá ảo tưởng và cũng không nên chấp trước đam mê vào những việc, những điều mà mình muốn nhưng không đạt được.

   Còn nếu như hai người vẫn chưa hiểu được nhau, chưa thông cảm những yếu kém của nhau, nhưng vì bất kỳ lý do nào đó mà hai người cùng tiến đến hôn nhân thì đó thật là một bi kịch. Bởi vì sau khi kết hôn, giữa hai người sẽ không ai chịu nhường nhịn ai, ai cũng cho mình là nhân vật quan trọng, thế rồi cứ suốt ngày tranh cãi lẫn nhau, thậm chí người con trai còn thô bạo sử dụng vũ lực đối với cô gái. Vì sao vậy? Bởi vì giữa hai người đã không có sự hiểu biết thông cảm lẫn nhau mà lại đi đến hôn nhân. Hôn nhân đã không được xây dựng trên nền tảng của sự thương yêu, hiểu biết thật sự mà lại xây dựng trên những hào nhoáng bên ngoài của nhau, hoặc vì lý do nào đó mà thiếu đi sự hiểu biết và thương yêu thông cảm nhau thật sự thì đó chính là bi kịch của hôn nhân. Vì thế, trước khi tiến đến hôn nhân, mọi người cần phải tìm hiểu nhau, nhất là phải biết rằng, tình yêu, hạnh phúc gia đình cần phải xây dựng trên tình thương và sự hiểu biết, chia sẻ và thông cảm lẫn nhau.
 
    49. BIẾT ĐỦ

   Thưa quý vị! Trong cuộc sống, nếu cái gì không đạt được thì chúng ta cũng không nên cưỡng cầu, bởi vì làm như thế chúng ta sẽ tự gây cho bản thân mình rất nhiều đau khổ, và đó cũng chính là nguồn gốc của những khổ đau mà con người đã gây ra cho nhau trong cuộc sống. Đối với những điều, những sự việc gì mà chúng ta không có được hoặc không đạt được, chúng ta cũng đừng cho rằng những cái đó là đẹp nhất, là hay nhất, ngoài ra không còn cái nào hơn cả. Trong cuộc sống, còn rất nhiều điều mầu nhiệm mà vì thiếu sự hiểu biết, chúng ta đã không nhận ra được.

   Bất kỳ một sự việc nào chúng ta cũng không nên quá ảo tưởng về nó. Không nên thần thánh hóa một con người, cũng không nên trông cậy người khác có thể đem hạnh phúc, an lạc đến cho bản thân mình. Chúng ta cần phải dựa vào chính bản thân chúng ta, dựa vào cái tâm ít ham muốn và biết đủ của chúng ta thì nhất định hằng ngày, chúng ta sẽ có được sự an lạc và hạnh phúc thật sự. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng đã dạy: “Có ít ham muốn là có Niết bàn”. Chúng ta cần phải quán xét nội tâm của mình, cần phải làm chủ được bản thân, đừng vọng tưởng ở bên ngoài. Hạnh phúc hay khổ đau đều do chúng ta tự quyết định, đừng bao giờ tìm cầu hạnh phúc cho bản thân từ người khác, bởi vì như thế cũng giống như một người trong nhà của mình có rất nhiều của cải, thế nhưng không biết mà lại đi xin ăn ở đầu đường xó chợ, thật là đáng thương vậy.

   Nếu như chúng ta hiểu rõ được về sự thật của cuộc đời, chúng ta không chấp trước đam mê vào những danh lợi hư ảo, không mơ tưởng hão huyền, không vọng ngoại tìm cầu mà an trú trong sự biết đủ của tự thân, vui với sự an lạc của nội tâm, như thế chính ta là người an lạc hạnh phúc nhất trên đời này vậy.
 
   50. HIẾN TẶNG

   Đức Phật từng dạy chúng ta: “Hãy lấy sự hiến tặng làm niềm vui”. Chúng ta cần phải biết rằng “hạnh phúc chính là sự cho đi chứ không phải là sự chiếm đoạt”. Nếu chúng ta luôn luôn biết sống vì người khác, nhất định khi chúng ta đi đến nơi nào, sống ở đâu, cũng đều được mọi người hoan nghênh, tiếp đón.

   Con người chúng ta cũng thật kỳ lạ, ai cũng muốn mình được người khác chìu chuộng, giúp đỡ; ai cũng thích ỷ lại vào người khác. Tôi nói ví dụ, ở một công ty, hay một đoàn thể nào đó, người nào cũng thích mình luôn được nhàn nhã, công việc thì muốn đùn đẩy cho nhau, nhưng khi lãnh lương lại muốn lương mình cao hơn người khác. Nếu có người nào nhờ cậy mình làm một việc nào đó thì mình liền lên giọng “tôi mà lại làm việc đó sao?”.

   Chúng ta thường có tánh tự tôn, tự ái rất cao, luôn cho mình là nhân vật trung tâm, là người quan trọng, và lúc nào cũng muốn mọi người hãy tuân theo ý kiến của mình; luôn cho mình là đúng và công việc của mình là quan trọng, còn công việc của người khác là thứ yếu. Sự thật thì trong xã hội, mỗi người đều có một công việc riêng, không ai có thể tự cho rằng công việc của mình là quan trọng, cao đẹp hơn người khác. Tôi ví dụ như một bác sĩ, công việc của họ là cứu chữa mọi người. Đó là một công việc vô cùng cao quý. Thế nhưng, có những bác sĩ chỉ biết đến tiền mà thôi, kê toa thuốc cho bệnh nhân mà lại theo lợi nhuận phần trăm của các nhà phân phối thuốc, vậy thì những bác sĩ ấy có đáng tôn trọng hay không? Còn đối với những người lao công, những công nhân vệ sinh thì chúng ta có thể cho rằng công việc của họ là hạ đẳng được sao? Những người chuyên đi làm sạch đường phố, chuyên dọn sạch những dơ bẩn của xã hội mà chúng ta lại cho rằng nghề của họ là thấp kém được sao? Vì thế, nghề nghiệp vốn không có phân chia cao thấp, mà chỉ có con người tốt hay không tốt mà thôi. Cho nên, trong đối nhân xử thế, chúng ta cần phải biết tôn trọng mọi người, phải biết rằng hạnh phúc của bản thân chính là làm cho mọi người hạnh phúc.

   Một nhà triết học đã nói: “Chúng ta đối xử tốt với mọi người, thì cũng giống như ta cầm bình nước hoa tưới thơm mọi người và mọi vật xung quanh. Làm như thế bản thân chúng ta cũng được thơm theo”.

   Nếu như người nào mà mỗi ngày đều dùng thái độ thương yêu, hòa nhã để đối xử với mọi người, không kiêu căng, tự tôn, không gây tổn hại cho người khác, mà luôn luôn tán thán mọi người, nhất định rằng nhân cách của người đó sẽ ngày một thăng hoa.

  Giá trị của con người, của cuộc sống, của cuộc đời không phải ở việc chúng ta chiếm dụng được bao nhiêu, mà chính là chúng ta đã hiến tặng cho người nhiều hay ít.
 
    51. NHỮNG LAO NGỤC của các HIỆN TƯỢNG

   Người xưa nói: “Tất cả các hiện tượng đều là những ngục tù giam hãm chúng ta”.

   Vì sao nói tất cả hiện tượng đều là những ngục tù giam hãm chúng ta? Vì nếu như bạn tham đắm về vấn đề tiền bạc, bạn sẽ bị nhốt trong cái ngục tù tiền bạc. Nếu như bạn đam mê về danh vọng, bạn sẽ bị nhốt trong ngục tù danh vọng. Nếu như bạn muốn trở thành một người nổi tiếng, muốn nhiều người biết về bạn, và bạn cứ nghĩ rằng càng nhiều người biết về mình càng tốt, thế nhưng đối với người xuất gia chúng tôi, càng ít người biết về mình thì càng tốt. Vì như thế thì mình càng ít bị mọi người quấy rối, mình càng có nhiều thời gian để tu tập, thực hành lời Phật dạy để thanh lọc nội tâm. Nếu như bạn là một người nổi tiếng, rất nhiều người biết về bạn, suốt ngày bạn phải nghe điện thoại, trả lời phỏng vấn… mất rất nhiều thời gian, mà thật sự có khi không có thời gian để ăn cơm nữa là khác chứ đừng nói đến thời gian để tu tập, và có khi cả ngày bạn cứ sống mà không phải là sống, bởi vì suốt ngày bạn đều sống với máy điện thoại, sống với người hâm mộ… chứ thật sự bạn có sống cho bản thân mình đâu? Và nguy hiểm nhất là suốt ngày bạn đều sống trong sự tâng bốc, ca tụng của người khác mà không có thời gian để tu tập, nhìn lại tâm mình, lâu ngày sẽ trở thành thói quen là luôn sống trong sự ca tụng của người khác. Thế rồi, nếu một ngày bạn không nhận được điện thoại, hay thiếu sự ca tụng của người khác, bạn sẽ cảm thấy bứt rứt khó chịu, nhất là khi có người nào đó không những không khen ngợi ca tụng bạn mà còn khuyên bạn nên dành thời gian nhiều hơn cho sự tu tập, quán chiếu nội tâm, không nên suốt ngày cứ sống với những thứ  giả tạm đó thì bạn liền tức giận, lớn tiếng chê trách người ấy là thiếu hiểu biết, sống không biết theo thời thế, là bảo thủ, là thiếu văn minh… Thế nhưng, sự tu tập để đạt được an lạc cho nội tâm thì không thể tìm thấy trong trong những cuộc điện thoại, không thể tìm thấy trong những chiếc điện thoại đắt tiền hay trong những lời tâng bốc khen tặng của người khác, mà chính là trong sự nỗ lực tu tập của bản thân. Sự tu tập đó cần phải có thời gian, có sự yên tĩnh để tu tập và quán chiếu. Vì thế, sự nổi tiếng chẳng có ý nghĩa gì đối với một người tu học Phật pháp, nhất là đối với những người xuất gia. Thế nhưng ngày nay, người học Phật lại thích được nổi tiếng, thích có được nhiều bằng cấp, song lại ít muốn quán chiếu nội tâm, thật là đáng buồn thay!

   Tục ngữ nói: “Người sợ nổi tiếng, heo sợ béo”. Vì sao vậy? Bởi vì người nổi tiếng sẽ bị khổ vì sự nổi tiếng, heo mà mập thì mau bị bắt vào lò mổ. Thế nên nói: “Tất cả hiện tượng đều là ngục tù”.

   Trong cuộc sống, chúng ta không chỉ tham tiền, mà còn đam mê sắc đẹp, danh lợi, tham ăn, tham ngủ… Lòng tham của con người thật không cùng tận. Chưa có thì muốn có, có rồi lại muốn có nhiều hơn. Thế nhưng, chúng ta lại không biết rằng tham tiền thì sẽ bị khổ vì tiền, tham sắc thì sẽ bị khổ vì sắc, tham danh tất sẽ bị khổ vì danh… Vì vậy, nếu chúng ta không chịu tu tập để dứt trừ lòng tham từ trong nội tâm, chúng ta mãi mãi sẽ bị phiền não, khổ đau chi phối.

   Thế nên, chỉ cần chúng ta không chấm dứt sự hướng ngoại, không dứt trừ những tâm niệm dựa bắt vào các hiện tượng thì chúng ta sẽ mãi mãi bị chướng ngại, sẽ luôn bị sợ hãi, phiền não chi phối và sẽ không bao giờ có được sự tự tại, giải thoát.

    52. KHÔNG A DUA, HÙA THEO
 
   Trong kinh Kalama, đức Phật dạy: “Này Kalama! Đừng vội tin tưởng vào một điều gì vì thường nghe nhắc đến điều ấy luôn, đừng vội tin tưởng vào một điều gì vì đó là một tập tục đã quen rồi của ngàn xưa để lại, đừng vội tin tưởng vào những điều sáo ngữ hay bất cứ một điều gì dù điều ấy được nhiều người nhắc đến!”.

   “Này Kalama! Đừng vội tin tưởng vào bất cứ điều gì dù cho đó là bút tích của một Thánh nhân xưa để lại bảo chúng ta tin điều ấy, đừng vội tin tưởng vào điều gì dù điều ấy được nhiều ý kiến bênh vực hay một tập tục lâu đời khiến chúng ta tin đó là thật, đừng vội tin tưởng bất cứ điều gì dù điều ấy được sự che chở của người có quyền lực hay là của nhà truyền giáo!”.

   “Mà này Kalama! Tất cả những sự thật, theo kinh nghiệm riêng của ngươi, được những người trí xác nhận và sau khi nhận thức rõ ràng rằng nó phù hợp với lẽ phải, nó đem lại hạnh phúc cho bản thân và mọi người, mọi loài thì chính đó là sự thật mà ngươi hãy tin theo và cố gắng sống theo sự thật ấy!”

   Vì thế, thưa quý vị! Đối với bất kỳ sự việc nào, chúng ta cũng cần phải dùng trí tuệ để xét đoán, cần phải hiểu đúng bản chất của nó, không nên hành động theo cảm tính, cần phải phân biệt rõ đâu là đúng sai, thiện ác, tốt xấu.

   Người xưa nói: “Chúng ta kính mến Thầy của chúng ta giống như chúng ta yêu thích chân lý vậy”.

   Thật vậy, quý vị cần phải thông qua sự tư duy, chọn lựa rồi mới phát khởi niềm tin, đó mới chính là một loại tín ngưỡng được xây dựng trên nền tảng của trí tuệ. Vì thế, đối với Phật giáo là trí tín, nghĩa là tin một cách có trí tuệ, chứ không phải là mê tín, là tin một cách mơ hồ. Phật dạy: “Các ngươi chớ vội tin Ta, tin Ta mà không hiểu Ta thì chính là phỉ báng Ta một cách thậm tệ”.

   Hiện nay, có một số người cho rằng, những người tin Phật, những người đi chùa nghe pháp, những người tìm hiểu Phật pháp là thần kinh có vấn đề. Vậy chúng tôi xin hỏi quý vị, các trường đại học mời chúng tôi đến thuyết giảng về Phật giáo thì những vị lãnh đạo của các trường đại học đó đều bị bệnh thần kinh cả sao? Hàng chục ngàn sinh viên tham dự nghe chúng tôi thuyết giảng cũng toàn là những người bị bệnh thần kinh cả sao? Vì thế, đối với những kẻ có tâm muốn xuyên tạc Phật giáo, các vị cần phải cảnh giác. Bởi vì những kẻ đó không phải là tín đồ của Phật giáo, hoặc là giả dạng tín đồ Phật giáo. Họ không có sự hiểu biết đối với Phật giáo, lại không có chí mong cầu mở rộng kiến thức hiểu biết của mình nên họ không có lòng đón nhận ý kiến của người khác, lại không muốn tiếp nhận những kiến thức, những tư tưởng khác tôn giáo mình và nhất là vì lòng đố kỵ, họ đã không ngừng tìm cách bôi nhọ và chống phá phá Phật giáo. Quý vị cần phải xây dựng đức tin trên sự hiểu biết chân chánh của mình để có được niềm tin vững chắc vào Phật giáo. Đó là tin tưởng chắc chắn rằng, Phật giáo truyền đến nơi nào thì nhất định sẽ đem đến an lạc, hạnh phúc thật sự cho nơi ấy, và Phật giáo không bao giờ truyền đạo bằng cách dựa vào những cuộc chiến tranh xâm lược. Khi đã có được niềm tin vững chắc rồi thì cho dù người ta có nói xấu hay bôi nhọ Phật giáo, thậm chí cả sự đe dọa đi nữa, chúng ta cũng không lay chuyển được đức tin của mình.

   53. SIÊU VIỆT TỰ NGÃ
 
   Đức Phật dạy: “Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình, tự chiến thắng mình là chiến công oanh liệt nhất”.

   Làm người, điều trọng yếu không phải là mưu cầu cho bản thân được nhiều của cải vật chất, cái chính là làm sao trong cuộc sống, chúng ta có được sự quân bình giữa đời sống vật chất và tinh thần, có được sự an tĩnh của nội tâm, làm chủ được bản thân trong mọi hoàn cảnh, hay nói rõ hơn chính là chúng ta cần phải có trí tuệ. Bởi vì, trong thực tế, không thiếu những người giàu có mà vẫn khổ đau, không thiếu những người giàu có mà bị người đời gắng cho danh hiệu là trọc phú, tức những kẻ giàu có bẩn thỉu. Thật vậy, sự giàu có mà được xây dựng trên mồ hôi, nước mắt và thậm chí là máu của người khác thì đúng là giàu có bẩn thỉu. Giàu có bằng cách tham nhũng, hối lộ thì đúng là không hơn gì những kẻ cướp của giết người. Thế nhưng, vì sao người ta lại luôn luôn tìm mọi cách để làm giàu một cách bất chánh như vậy? Là vì những con người đó thiếu trí tuệ, họ đã để cho lòng tham lam dắt dẫn. Suốt ngày từ sáng đến tối, họ chỉ biết là làm sao để có được thật nhiều tiền, bất kể có được bằng cách nào. Những người như thế thật đáng tôi nghiệp, bởi vì họ không bao giờ có được hạnh phúc, không bao giờ có được giây phút an lạc, cho đến lúc từ giã cuộc đời, họ cũng ra đi trong sự đau khổ.

   Chúng ta cần phải biết rằng, thân thể là gốc của mọi thống khổ. Lão tử nói: “Ta có cái hoạn lớn vì ta có thân này”. Vì có thân thể này nên mới nói “thân là gốc khổ, tâm là rừng tội”. Nhưng vì sao có thân là có khổ? Sự thực, ngoài những cái khổ do sự thay đổi của các điều kiện tự nhiên thì cái khổ chính và nhiều nhất là cái khổ do con người tự tạo đối với bản thân và cả những người xung quanh mình. Đó chính là sự chấp ngã, nghĩa là chúng ta đã lầm chấp thân này thật là của ta, thế rồi để cung phụng cho cái ta đó, chúng ta đã không ngừng tìm mọi cách để cung phụng cho cái thân giả tạm của mình. Cũng vì sự chấp ngã đó mà con người đã không ngừng tạo bao nhiêu việc ác, không từ bỏ bất kỳ thủ đoạn nào để đạt được mục đích tìm cầu cho mình từ của cải vật chất cho đến địa vị danh vọng. Cho nên người xưa đã nói “nhất tướng công thành vạn cốt khô”â. Và trong thực tế, những cuộc chiến tranh phi nghĩa của những kẻ tự xưng mình là văn minh, tiến bộ gây ra cho những đất nước, những người dân vô tội, tất cả cũng không ngoài lòng tham và sự chấp ngã, cái ngã được nhân danh là vì mục đích khai hóa, mục đích mang lại công bằng cho mọi người.

   Làm người, chúng ta nhất định phải dùng trí tuệ để quán xét mọi sự mọi việc và nhất là quán xét bản thân chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi chúng ta cần phải dành thời gian nhìn lại bản thân mình, nhìn lại những suy nghĩ, hành động, lời nói và việc làm của mình. Có như thế, chúng ta mới có thể thấy được những suy nghĩ, hành động, lời nói của mình là đúng hay sai; những việc chúng ta làm, những điều chúng ta nói có gây  ra khổ đau cho người khác hay không? Có mang tính cách xây dựng hay không? Có đem đến hạnh phúc an lạc cho người khác hay không? Những suy nghĩ, lời nói và việc làm của chúng ta có được xuất phát từ sự hiểu biết và tình thương hay không? Hay lại phát xuất từ lòng tham, sự tức giận và sự ngu dốt. Nếu chúng ta có nhìn lại bản thân mình thì chúng ta mới có cơ hội thấy được những yếu kém của bản thân, những sai lầm của mình, và như thế chúng ta mới có đủ trí tuệ để vượt lên sự chấp thủ sai lầm về ngã, về cái tôi của mình.

   54. PHẬT GIÁO và TRIẾT HỌC
 
   Sau khi chúng ta có được sự nhận thức chính xác về Phật pháp, về nhân sinh rồi, trải qua sự chứng nghiệm tu tập của bản thân thì nhất định chúng ta sẽ gặt hái được sự an lạc hạnh phúc nội tại. Vì thế, Phật giáo không phải là triết học, vì triết học không phải lúc nào cũng có thể chứng minh được bằng thực tiễn, mà đó là “hình nhi thượng”. “Hình” thì chúng ta có thể thấy được, sờ mó, nắm bắt được, nhưng “hình nhi thượng” thì chúng ta không thể nhìn thấy, sờ mó hay nắm bắt được. Vì thế, triết học không thể dùng bản thân để thực chứng. Triết học là các quy luật chung nhất của tồn tại và tư duy, nghĩa là quy luật mà cả tồn tại (tức giới tự nhiên và xã hội) lẫn tư duy của con người và quá trình nhận thức đều phải phục tùng. Triết học xét cho cùng thì cũng là một trong những hình thái ý thức xã hội, cũng bị quy định bởi các quan hệ kinh tế, văn hóa, chính trị… của xã hội. Như thế chúng ta thấy, đối với triết học, mỗi người, mỗi một thời đại có một quan niệm khác nhau. Lý luận của triết học thực chất chỉ là những giả thiết, suy đoán của ý thức, do đó mà triết học của người này khác với triết học của người kia và các nhà triết học trên thế giới cũng đã không ngừng tranh luận với nhau, thậm chí có khi vì quan điểm về triết học bất đồng mà xảy ra bạo động.

   Phật giáo lại không như vậy, chúng ta có thể chứng minh được điều này thông qua bốn yếu tố Tín, Giải, Hành, Chứng trong Phật giáo. Hiện tại, chúng ta tin tưởng tuyệt đối đức Phật là một người có trí tuệ toàn vẹn, là một bậc giác ngộ. Chúng ta tin tưởng đối với đức Phật, đó gọi là Tín. Tiếp theo là Giải, chính là hiểu rõ chân lý, hiểu rõ lời Phật dạy. Thứ ba là Hành, nghĩa là sau khi đã hiểu những lới Phật dạy thì chúng ta phải thực hành những lời dạy ấy trong cuộc sống của bản thân và cộng đồng. Trong khi chúng ta thực hành những lời dạy ấy thì chính tự thân chúng ta chứng nghiệm được những lợi ích do sự thực hành đưa đến, đó gọi là Chứng. Như vậy, những lời dạy của đức Phật là những phương pháp thực hành mà mỗi chúng ta ai cũng có thể chứng nghiệm được qua sự thực hành của bản thân, chứ Phật pháp không phải là những lời nói suông, không phải là những mệnh đề lý luận hay suy đoán. Vì thế, có thể khẳng định, nếu đứng trên góc độ của triết học mà xét thì trong Phật giáo có tính chất triết học, nhưng Phật giáo không phải là thuần tuý triết học, vì triết học là quá trình tư duy, lý luận, suy đoán còn Phật giáo là sự thể chứng, là thực nghiệm.

   55. THIỀN, SỰ SIÊU VIỆT của TÂM LINH 
 
   Nguyên nhân chủ yếu nhất của mọi phiền não chính là chúng ta thiếu sự tu tập của nội tâm. Chúng ta thiếu sự tu tập cho nên những tư duy của mình thường gây ra phiền não cho chính bản thân mình. Thiền sẽ giúp chúng ta có được sự an tĩnh nội tại, giúp chúng ta có được những tư duy đúng, những nhận xét đúng về bản chất của mọi sự vật hiện tượng. Vì thế, mỗi một người chúng ta cần phải học và thực hành thiền để có được sự siêu việt về tâm linh. Vậy, thiền là gì? Thiền chính là phương pháp luyện tâm. Thực hành thiền chính là chúng ta làm chủ được tâm của mình trong mọi hoàn cảnh, là chúng ta ý thức được mình đang làm gì, đang nghĩ gì và đang nói gì trong giây phút hiện tại, thấy rõ được những chuyển biến của các sự vật hiện tượng trong cuộc sống, thấy rõ được bản chất vô thường và vô ngã của vạn pháp. Vì thế, thiền là một yếu tố không thể thiếu trong cuộc sống của tất cả mọi người trên cuộc đời này, nếu như mọi người muốn xây dựng một cuộc sống an lạc và hạnh phúc. Chúng ta có thể thấy những khổ đau mà con người gây ra cho nhau chính là do con người thiếu chánh niệm, nghĩa là thiếu chất liệu của thiền trong hành động của bản thân. Bởi vì có chánh niệm, nghĩa là có chất liệu của thiền, mọi người sẽ ý thức được những việc làm của mình và có trách nhiệm đối với những việc làm đó. Và khi mà con người ai ai cũng có ý thức, có trách nhiệm đối với những việc làm của mình thì người đó sẽ không bao giờ gây đau khổ cho người khác, mà ngược lại họ sẽ luôn luôn tìm cách làm cho người khác được hạnh phúc. Quý vị có thể thấy rõ điều này trong cuộc sống của gia đình mình. Nếu trong một gia đình mà vợ không hiểu được chồng, chồng không hiểu được vợ, và cha mẹ, con cái không hiểu được nhau thì gia đình đó sẽ như thế nào? Trong một gia đình mà mọi người không ý thức được sự hiện diện của mỗi thành viên là những yếu tố xây dựng nên hạnh phúc của gia đình, không ý thức được rằng mình có hạnh phúc khi và chỉ khi những thành viên trong gia đình mình có hạnh phúc thì những gia đình đó là những gia đình đau khổ. Do mỗi người chúng ta thiếu thực tập thiền trong cuộc sống cho nên chúng ta đã tự gây ra đau khổ cho bản thân và cho cả mọi người quanh ta.

   Có thực tập thiền, chúng ta mới có thể an nhiên vượt qua những biến chuyển của cuộc đời. Thực tập thiền trong cuộc sống, chúng ta có thể thấy được tự tánh vô thường và vô ngã của mọi sự vật hiện tượng, chúng ta mới thong dong tự tại trong cuộc sống vô thường biến chuyển này. Và chính nhờ sự thực tập đó, chúng ta mới không bị những hơn thua, được mất… làm lay động. Như vậy, chúng ta sống trong vô thường mà không bị vô thường chi phối. Đó chính là sự siêu việt của tâm linh hay nói cách khác đó chính là thiền. Những người tu học Phật pháp cần phải thực tập thiền. Muốn có sự đạt ngộ, chứng ngộ thì không thể không thực hành thiền trong quá trình tu tập. Thiền chính là mạch sống, là tinh hoa của Phật giáo. Có thiền mới có trí tuệ giải thoát.

   56. ĐEM NIỀM VUI ĐẾN CHO MỌI NGƯỜI
 
   Đức Phật dạy: “Nếu như người nào luôn luôn đem niềm vui đến cho người khác thì nhất định người đó là một người rất hạnh phúc”, và “những người sống theo nguyên tắc không làm tổn hại đến các loài chúng sinh thì đó là những người có phước đức nhất”. Điều này có nghĩa là chúng ta sống trong cuộc đời, không nên làm những việc bất chánh như sát sinh, giết người cướp của, bắt cóc, tống tiền…

   Trong kinh, đức Phật cũng đã từng dạy: “Làm cho chúng sinh hoan hỷ cũng chính là làm cho chư Phật hoan hỷ”.

   Trong cuộc sống, chúng ta cần phải làm cho mọi người sống tin tưởng nhau, sống vui vẻ và tràn đầy hy vọng. Chúng ta làm cho người khác được an vui thì cũng chính là mình tự làm cho mình được an vui, bởi vì khi mình đem niềm vui đến cho người khác thì chính lúc ấy, trong lòng của chúng ta hoàn toàn không có sự phiền não, khổ đau. Chúng ta đem niềm vui đến cho mọi người thì trong tâm chúng ta cũng tràn đầy niềm vui và đó cũng chính là tấm lòng của chư Phật, Bồ-tát. Nghĩa là một tấm lòng vì hạnh phúc an lạc của mọi người, mọi loài và hoàn toàn không có lợi ích riêng tư mà chỉ thuần một vị: đó là tấm lòng thương yêu tất cả mọi loài. Vì thế, trong cuộc sống, chúng ta cần phải “sáng cho người thêm niềm vui, chiều giúp người bớt khổ”.

    57. LÀM CHỦ BẢN THÂN 
 
   Phật dạy: “Trong cuộc sống của chúng ta, không có kẻ thù nào đáng sợ bằng chính lòng tham, sự tật đố, sự sân hận của chính bản thân chúng ta. Điều đáng sợ nhất của con người chính là những tư tưởng bất chính, những thói hư tật xấu tiềm ẩn chính trong con người, bởi vì chính những thứ này thường làm cho người ta không còn làm chủ được chính mình”.

   Vì thế, trên thế giới này, kẻ thù lớn nhất của chúng ta cũng chính là bản thân chúng ta. Chúng ta cần phải có sự tu tập để chuyển hóa bản thân, chuyển hóa những hạt giống bất thiện trong ta trở thành những hạt giống của tình thưong yêu và sự hiểu biết.

   Phật cũng dạy: “Chúng ta cần phải hiểu rõ về hoàn cảnh môi trường của mình đang sống để điều chỉnh bản thân sao cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh. Nếu như một người sống ở một nơi nào đó mà không hiểu được môi trường, phong tục tập quán… của nơi đó thì nhất định người đó sẽ sớm bị đào thải”.

   Chúng ta không thể làm cho thế giới này thái bình bằng cách sửa chữa, uốn nắn tất cả mọi người trên thế giới trở thành hiền lương được. Cũng giống như chúng ta không thể làm cho tất cả những núi sông, ao hồ… trên trái đất này trở thành đất bằng được. Trên thế giới này, mỗi quốc gia sẽ có một nền văn hóa, phong tục… riêng. Và trong cùng một quốc gia, mỗi nơi cũng có phong tục, văn hóa riêng của từng nơi ấy. Vì thế, một người học Phật pháp, chúng ta phải biết ứng dụng phương pháp tùy duyên bất biến một cách linh hoạt. Chúng ta phải áp dụng giáo lý Phật Đà vào trong cuộc sống tu tập bản thân, làm lợi lạc mọi người một cách uyển chuyển để đưa Phật giáo vào cuộc sống xã hội, để Phật giáo hóa xã hội. Thế nhưng, áp dụng giáo lý tùy duyên cũng cần phải có một niềm tin vững chắc vào Phật pháp, phải có được nội tâm vững chãi, phải có năng lượng của sự tu tập đủ mạnh để làm chủ được tâm mình. Nếu không, chúng ta đi vào đời với mục đích Phật hóa xã hội nhưng cuối cùng lại bị thế tục hóa bản thân chúng ta. Không Phật hóa được xã hội mà ngược lại bị thế tục hóa Phật giáo thì thật là vô cùng nguy hiểm.

   Trong cuộc sống hằng ngày, nếu nội tâm của chúng ta luôn luôn hòa nhã, nhẹ nhàng thì nhất định chúng ta sẽ có được sự an lạc hạnh phúc. Muốn sống được an lạc như thế, chúng ta cần phải thực tập hạnh buông xả. Người nào buông xả được những cảm giác, những hỷ nộ, ái ố của bản thân, buông xả những ý niệm về danh lợi, được mất, hơn thua của cuộc đời… người đó sẽ là những người hạnh phúc nhất.

   Có một người đến bạch với đức Phật rằng: “Kính bạch đức Phật, mỗi ngày con đều đào khoét đất núi, hy vọng sang bằng được ngọn núi và đem đất ấy đi lấp những con đường hư hỏng, với hy vọng giúp mọi người luôn luôn đi được trên những vùng đất bằng phẳng”. 

   Đức Phật bèn nói với người đó rằng “Ông muốn làm cho núi được bằng phẳng không bằng tự làm cho tâm mình được bằng phẳng. Ông muốn lấp đi những con đường hư hỏng trên mặt đất không bằng hãy tự chữa lành những vết thương trong tâm của chính mình”.

   Vì thế nên nói: “Tâm bình thế giới bình, tâm tịnh quốc độ tịnh”. Muốn thế giới được hòa bình thì trước hết, mỗi người cần phải làm cho tâm mình được bình thản, phải làm chủ được bản thân mình trong mọi hoàn cảnh. Còn nếu như trong lòng chúng ta tràn đầy thù hận, tràn đầy sự hiếu chiến mà lại nói rằng đi giúp người khác có tự do bình đẳng, hạnh phúc thì quả thật, điều đó giống như xây lâu đài trên cát vậy.
 
   58. BÌNH TĨNH, KHÔNG SÂN HẬN

   Đức Phật dạy: “Khi chúng ta có những sai lầm, nếu như mọi người có ý nhắc nhở, khuyên bảo thì chúng ta không nên tức giận, không nên ôm giận trong lòng hoặc lớn tiếng tranh cãi. Nếu làm được như thế chúng ta sẽ sửa chữa được nhiều khuyết điểm để hoàn thiện bản thân. Khi trong lòng chúng ta không được vui, hoặc những khi chúng ta bị kích động thì nhất định, chúng ta không nên vội vàng quyết định bất kỳ một việc nào cả. Có những khi chỉ vì một sai lầm nhất thời mà suốt cả đời chúng ta hối hận không hết”.
 Vì thế, trong cuộc sống, chúng ta cần phải luôn luôn bình tĩnh, làm chủ bản thân đừng để sự tức giận chi phối. Cần phải dùng trí tuệ để soi xét sự việc, soi xét bản thân. Đối với mọi việc cần phải có sự suy xét kỹ càng, hợp tình hợp lý rồi mới quyết định. Quyết định như thế chúng ta mới tránh được những sai lầm, tránh được những hối hận về sau.

   Trong cuộc sống, chúng ta cần thực hành đức tính nhẫn nhịn, tha thứ và bao dung, bởi vì chính những đức tính này giúp chúng ta có đựơc những quyết định đúng đắn. Chúng ta cần phải biết đồng cảm, biết chia sẻ với những khó khăn của người khác, không nên có ý niệm bới lông tìm vết, cần phải hiểu người và nhất là phải biết tha thứ đối với những sai lầm của người khác. Chúng ta biết những yếu kém, những khuyết điểm của người khác thì ngay trong bản thân của ta cũng có, nhưng vì chúng ta không tự thấy được khuyết điểm của mình mà thôi, cũng giống như con mắt thấy được mọi vật nhưng lại không nhìn thấy chính nó. Khi thấy người khác sai lầm thì hãy nên nhìn lại bản thân mình, đó mới là người có trí tuệ.

   Đức Phật dạy: “Tức giận người khác thì cũng giống như người đi lạc vào núi không có đường ra”. Sự tức giận ấy không chỉ làm tổn thương người khác mà còn làm bản thân mệt mỏi, tâm trí rối loạn.

   Quý vị nên nhớ, một lời nói gây đau khổ cho người tác hại còn hơn dùng mũi tên để bắn người nữa. Vì sao vậy? Bởi vì mũi tên bắn trúng, tuy đau thật, nhưng chúng ta có thể nhổ ra và dùng thuốc làm cho nó lành lại. Còn những lời nói ác, vết thương trong lòng do những lời nói ác gây ra thì khó mà chữa trị được. Và có khi chỉ vì một lời nói thiếu chánh niệm, một lời nói thiếu chất liệu của sự xây dựng, của tình thương yêu và sự hiểu biết mà làm cho gia đình ly tán, bạn bè chia cách, dòng họ thù hận lẫn nhau. Vì thế, trong cuộc sống, chúng ta cần phải giữ gìn chánh niệm trong lời nói của mình.

   59. TỪ BI, NGUYỆN LỰC 
 
   Đức Phật dạy: “Biện pháp chinh phục kẻ thù tốt nhất chính là dùng tình thương, lòng nhân từ và sự tha thứ”.

   Đối với đức tin, đức Phật cũng đã dạy: “Tín ngưỡng phải thông qua trí tuệ, không phải bằng cảm tình. Tín ngưỡng nếu có trí tuệ thì mới bền vững, vì thế không nên dùng cảm tình để đến với tín ngưỡng tôn giáo”.

   Trong cuộc sống làm người, chúng ta không nên hằng ngày cứ mãi chú ý đến người khác, mà chúng ta nên để thời gian nhìn lại xem mình còn nhiều công việc chưa hoàn thành, cần phải tập trung tinh thần để hoàn thành những tâm nguyện của bản thân, bởi vì mỗi người chúng ta sống cần phải có những tâm nguyện và cố gắng hoàn thành những tâm nguyện ấy, không nên bàn luận đến chuyện của người, không nên làm thương tổn người khác.
Chúng ta cần phải thường xuyên nhìn lại mình, nhận ra những khuyết điểm, những yếu kém của bản thân để chuyển hóa, sửa đổi và hoàn thiện. Nếu chúng ta suốt ngày cứ chú ý đến những sai lầm của người khác thì chúng ta sẽ dễ dàng tức giận đối với người, như thế chúng ta sẽ luôn luôn sống trong sự tức giận và khổ đau.

   Con người chúng ta cũng thật là kỳ lạ, đó là rất dễ nhìn thấy lỗi của người nhưng lại không nhìn thấy lỗi của mình. Vì thế, là những người học Phật, quý vị cần phải luôn biết nhìn lại mình. Hãy luôn luôn nhớ kỹ điều này: “Tĩnh tọa thường tư kỷ quá, nhàn đàm mạc luận nhân phi”, nghĩa là: “Ngồi yên thì nên nhìn lại những sai lầm của mình, nói chuyện thì không nên bàn đến lỗi của người khác”.

    60. HIỂU RÕ CUỘC SỐNG TỰ TẠI GIẢI THOÁT
 
   Trong cuộc sống, chúng ta bị khổ đau, bị luân hồi chính là vì chúng ta không hiểu rõ được mặt thật của cuộc đời. Do không hiểu được mặt thật của cuộc đời cho nên chúng ta mới sinh tâm đam mê và chấp trước, khi chúng ta còn đam mê chấp trước thì không bao giờ chúng ta được giải thoát.

   Thế nên, là một người học Phật, chúng ta cần phải xả bỏ tất cả mọi vọng tưởng, chấp trước sai lầm và thường nuôi dưỡng đức tánh từ bi, thiểu dục, tri túc để làm tăng thêm niềm hỷ lạc trong tâm của mình. Dùng trí tuệ Phật pháp để quán chiếu tất cả các pháp, thấu triệt được chân tướng của vũ trụ vạn hữu, thấu triệt được sự sinh diệt biến chuyển, duyên sinh vô ngã của các pháp. Được như thế, chúng ta mới có được sự an lạc, giải thoát,  tự tại trong cuộc sống.

    61. PHẬT GIÁO với VẤN ĐỀ LUÂN HỒI
 
   Kính thưa quý vị! Hôm nay là ngày giảng thứ ba của chúng tôi. Cho đến hôm nay, chúng tôi nhận thấy số lượng người đến nghe thuyết giảng rất đông, theo sự thống kê của ban tổ chức thì số lượng người đến nghe pháp khoảng trên hai vạn bốn nghìn người (hai muơi bốn nghìn).

   Kính thưa quý vị! Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn như thế mà số lượng người đến nghe pháp đông như vậy, làm cho chúng tôi thật cảm động và phấn khởi vô cùng. Đồng thời điều đó cũng phản ánh nhu cầu học tập nghe pháp của quý vị Phật tử là rất lớn. Chúng tôi hy vọng trong mấy ngày qua, có thể đã ít nhiều đem đến cho quý vị một số hiểu biết về Phật giáo để quý vị có thể áp dụng vào trong đời sống hằng ngày của bản thân và qua đó, cũng có thể làm cho quý vị hiểu được Phật giáo không phải là mê tín, không phải là tiêu cực. Qua những buổi thuyết giảng này, quý vị có thể có được cái nhìn chính xác hơn về Phật giáo, về cuộc đời, về kiếp nhân sinh để rồi chúng ta nỗ lực tu tập, hoàn thiện nhân cách của chính mình, góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp, cùng nhau xây dựng cảnh giới Cực Lạc ngay trong cuộc sống hiện tại.

   Hai ngày qua, chúng tôi đã giảng về chủ đề “Phật giáo và nhân sinh”, hôm nay chúng tôi sẽ giảng về chủ đề “Phật giáo và luân hồi”. Chủ đề này tương đối khó thuyết giảng, cũng như khi quý vị nghe cũng có những vấn đề tương đối khó hiểu. Vì chúng ta đây toàn là phàm phu, chưa có đủ khả năng để nhìn thấy cõi sống của chư thiên, cũng như không thể nhìn thấy cõi sống của các loài A tu la, ngạ quỷ và chốn địa ngục mà chúng ta chỉ thấy được cuộc sống của loài người và súc sinh mà thôi. Vì thế, khi nói về chủ đề Phật giáo và luân hồi sẽ tương đối hơi trừu tượng. Do đó, đối với người diễn giảng và người nghe nhất định sẽ gặp một số khó khăn. Thế nhưng, khi giảng về vấn đề luân hồi trong sáu đường thì chúng tôi lại rất hứng thú, bởi vì trong nội dung của chủ đề này có rất nhiều điều thú vị, kính mong quý vị lắng đọng tâm tư để lắng nghe và chiêm nghiệm.
 
62. KHÔNG LÀM CHỦ được vấn đề SINH TỬ

   Trước tiên chúng ta cần bắt đầu từ chữ “tại sao?”. Tại sao chúng ta lại đầu thai?

   Có lẽ, trong tất cả chúng ta đây, ai ai cũng sẽ có một câu trả lời giống nhau đó là: “Tôi thật không biết. Cha mẹ kết hôn rồi sinh tôi ra, chứ tôi hoàn toàn không chủ động trong vấn đề xuất hiện của bản thân trong cuộc đời, nghĩa là tôi không chủ động được trong vấn đề tái sinh của bản thân”.

   Sau khi được sinh ra, chúng ta luôn muốn tồn tại, kể cả khi còn nhỏ cho đến lúc khôn lớn, chúng ta luôn tìm mọi cách để cho bản thân được mãi mãi khỏe mạnh, không già, không bệnh và được trường sinh bất lão. Thế nhưng, thực tế lại không được như thế. Dầu cho chúng ta có làm gì đi nữa thì cũng chỉ tồn tại mấy mươi năm, và cho dù có người hơn một trăm năm rồi cũng phải nhắm mắt xuôi tay. Và trong khoảng thời gian mấy mươi năm hay một trăm năm hoặc hơn một trăm năm đó, có được mấy ai không bị bệnh hoạn, không bị những khổ đau của cuộc sống chi phối?

   Vì sao chúng ta lại chết? Ai bảo chúng ta chết? Chúng ta có muốn chết không? Trong quý vị đây có ai muốn chết thì đưa tay lên xem nào? Không có ai cả phải không? Không ai muốn chết cả, nhưng có ai tránh được cái chết không?

   Vì thế mới nói: chúng ta không làm chủ được sự tái sinh của bản thân, chúng ta đang rất mơ hồ đối với vần đề sinh tử của chính bản thân mình. Chúng ta không làm chủ được sự sống và sự chết của bản thân, không chủ động được sự xuất hiện trong cuộc đời này của mình cũng như không chủ động được lúc nào mình sẽ từ giã cõi đời. Vì thế, chúng ta không thể làm chủ được sự sống và chết của chính bản thân chúng ta.
 
   63. NGHIỆP LỰC và SỰ LUÂN HỒI
 
   Nói đơn giản, sự sống và chết của mỗi chúng ta đều do một sức mạnh dẫn dắt, sức mạnh này không phải là thượng đế, hay thần linh, ma quỷ, mà trong Phật giáo gọi đó là nghiệp lực, tức là sức mạnh của nghiệp. Vậy nghiệp là gì và nghiệp lực là gì? Chúng tôi sẽ giải thích cho quý vị hiểu rõ vào phần sau.

   Vì sao chúng ta lại bị luân hồi? Kỳ thật thì mỗi ngày chúng ta đều đang luân hồi. Nếu nói rộng ra thì luân hồi bao gồm từ quá khứ, đến hiện tại và tới vị lai. Nhưng nếu nói chính xác thì trong từng giây, từng phút, từng giờ, từng ngày của cuộc sống chúng ta đều đang trải qua sự luân hồi. Luân hồi chính là sự vận chuyển, thay đổi một cách liên tục. Nói rằng chúng ta đang luân hồi trong từng phút, từng giây chính là nói đến sự thay đổi trong từng ý niệm, từng ý nghĩ của chúng ta. Những suy nghĩ, tư duy của chúng ta thay đổi liên tục, hết ý niệm này đến ý niệm khác không có lúc nào dừng nghỉ. Hôm nay chúng ta đang vui nhưng ngày mai chưa hẳn đã vui, hoặc bây giờ vui nhưng lát nữa không nhất định sẽ còn vui nữa. Hay hiện tại ta rất đau khổ nhưng không phải là ta sẽ mãi đau khổ. Sự biến đổi liên tục trong từng ý niệm của chúng ta đó chính là sự luân hồi. Sự chuyển đổi từ đời sống này sang đời sống khác cũng gọi là luân hồi. Sự thay đổi liên tục từng ý niệm đó, chúng ta cũng không làm chủ được, và sự chuyển tiếp của cuộc sống (tái sinh) chúng ta cũng không làm chủ được.

   Chúng ta có thể nhận thấy rõ sự thay đổi ý niệm của mình mà mình không làm chủ được qua sự phân tích của các nhà tâm lý học, đó là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhiều khi chúng ta để cho nhận thức cảm tính chi phối toàn bộ những hành vi của bản thân. Có lúc chúng ta hành động theo nhận thức lý tính nhưng lại hành động thiếu chính xác, nghĩa là chúng ta chưa hoàn toàn làm chủ được về những nhận thức và hành động của bản thân. Vì thế, trong ta luôn có sự xung đột giữa nhận thức lý tính và nhận thức cảm tính, điều này làm cho chúng ta đau khổ, và liên tục khởi tâm động niệm. Sự thực thì luôn luôn có một sức mạnh của ý niệm ẩn tàng trong nội tâm chúng ta, sức mạnh này thường xuyên thôi thúc chúng ta suy nghĩ và hành động. Nếu như một người thiếu sự tu tập thì sẽ phóng túng buông lung để cho sức mạnh đó chi phối nội tâm của mình, và cứ phóng tâm theo những biến chuyển của ngoại cảnh, sống trong những vọng tưởng của tâm thức mà không có khả năng chế ngự. Còn người mới bắt đầu tu tập thì cũng rất khó chế ngự được những vọng tưởng đó. Bởi vì khi họ mới ngồi thiền hay niệm Phật thì cảm thấy vọng tưởng càng khởi lên. Vì sao vậy? Giống như ánh nắng mặt trời chiếu xuống trái đất. Lúc có ánh sáng mặt trời soi chiếu thì chúng ta sẽ thấy rõ rất nhiều hạt bụi đang bay trong không khí, nhưng trong phòng tối, hoặc những lúc thiếu ánh sáng thì chúng ta không thấy được vô số hạt bụi đang bay. Cũng như thế, đối với những người không có sự tu tập thì họ luôn luôn sống trong những vọng tưởng liên tục, nên họ không nhìn thấy được những vọng tưởng của nội tâm. Một khi bắt đầu khởi sự tu tập, dùng trí tuệ quán chiếu thì lúc đó mới thấy rõ rằng nội tâm của mình luôn luôn vọng động, đồng thời cũng nhận thức được để diệt trừ vọng niệm. Làm chủ được nội tâm của mình không phải là một việc dễ dàng. Bởi vì trong nội tâm của chúng ta luôn luôn có ẩn chứa một sức mạnh, mà sức mạnh này liên tục trong bất kỳ giờ nào, phút nào, nó cũng thúc đẩy chúng ta phát khởi vọng tưởng, thế nhưng chúng ta lại rất hiếm khi phát hiện được nó, nhìn lại nó và nhất là điều phục nó.
 
64. THỜI ĐIỂM CHUYỂN TIẾP CỦA SINH MẠNG–TỬ VONG

   Vì sao có sự luân hồi trong sáu nẻo? Hôm nay chúng ta không bắt đầu nói từ sự sinh mà bắt đầu nói từ sự chết.

   Trong lúc chúng ta lâm chung, sinh mạng tiếp theo của chúng ta sẽ tùy theo tâm niệm của chúng ta lúc đó mà thác sinh. Những nghiệp lành và nghiệp dữ mà chúng ta đã làm trong suốt cuộc đời của mình, lúc lâm chung chúng sẽ hiện rõ trước mắt chúng ta. Nào là tham đắm vợ con, tiền bạc, của cải cho đến tham đắm địa vị quyền thế… Nếu chúng ta có bao nhiêu sự tham đắm chấp trước mà chúng ta không buông xả được, thì đến giờ phút lâm chung ấy, ý niệm chấp trước nào mạnh nhất sẽ dẫn dắt thần thức chúng ta đầu thai vào cõi có những yếu tố phù hợp với tâm niệm của chúng ta lúc đó. Điều này có thể ví dụ, như khi chúng ta mở máy radio hay truyền hình vậy. Nếu chúng ta muốn nghe hay xem đài nào thì phải dò sóng có tần số phù hợp với đài phát thì chúng ta mới có thể bắt sóng được.

   Nếu trong cuộc sống thường ngày, chúng ta tu tập thiện pháp đã thành thói quen, nhất định khi lâm chung chúng ta sẽ được sinh về cõi thiện, bởi vì tâm niệm của chúng ta lúc nào cũng nghĩ về việc thiện, nghĩ về điều thiện. Còn nếu sống trong cuộc đời này, chúng ta chuyên làm những việc ác như lừa đảo, trộm cướp, hại người… nhất định sau khi chết, chúng ta sẽ đọa vào những cõi đau khổ như địa ngục, ngạ quỷ, hay súc sinh để trả nợ cũ, bởi vì tâm niệm của chúng ta lúc nào cũng nghĩ đến điều ác, việc ác. Tất cả đều do chúng ta tự tạo ra, chứ thật sự không phải do thần linh hay thượng đế có quyền năng cho ta lên thiên đàng hay đày chúng ta xuống địa ngục. Vì thế, chúng ta sống đã quen tạo nghiệp gì thì lúc lâm chung, sẽ theo đó mà thọ báo.

   Nếu một người bình thường chuyên tâm niệm Phật, lúc nào cũng nghĩ nhớ đến đức Phật và những đức tánh của Phật, lập chí thực hành theo những đức tánh ấy. Trong cuộc sống, người đó đã thực hành những điều ấy bằng cách luôn đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người thì khi lâm chung, nhất định người đó sẽ được sinh về cõi Phật. Trong thực tế đã có rất nhiều người chuyên tâm niệm danh hiệu của đức Phật A-di-đà, và họ tin tưởng một cách chắc chắn rằng lúc lâm chung họ sẽ được sinh về thế giới Cực Lạc. Trong thực tế, điều này đã được chứng minh.

   Tạo nhân như thế nào sẽ có được kết quả như thế ấy, quy luật nhân quả xưa nay không sai chạy bao giờ. Vì thế, luân hồi sáu nẻo cũng chính do chúng ta tự tạo.
 
65. NHỮNG ĐIỀU KIỆN QUYẾT ĐỊNH SỰ LUÂN HỒI

   Thứ nhất: Sức mạnh của ý niệm
   Trước hết, vì chúng ta không làm chủ được ý niệm của mình nên chúng ta bị luân hồi.

   Nếu chúng ta không buông bỏ được những tâm niệm chấp trước, tham đắm, những tâm niệm phiền não… thì những tâm niệm đó luôn nhiễu loạn nội tâm của chúng ta, và đến giờ phút lâm chung chúng ta không làm chủ được tâm niệm của mình, mà bị chúng nhiễu loạn, đến nỗi có người khi chết mắt cũng còn mở trừng trừng vì còn lo lắng đủ điều, không buông xả được những sự chấp trước.

   Quý vị đừng nghĩ tất cả mọi người học Phật pháp thì đều có thể buông xả hết mọi việc một cách dễ dàng. Quý vị không tin điều này phải không? Tôi xin ví dụ để quý vị tự suy nghiệm lại nơi bản thân mình thì quý vị có thể hiểu được điều chúng tôi muốn nói. Đó là ngày mai, chúng tôi sẽ giảng về chủ đề “Thiền học tại trụ sở của Đoàn Hoằng Pháp Thanh Niên”. Sáng mai, lúc quý vị đi đến đó nghe pháp, quý vị quên khóa cửa tủ, quên khóa cửa nhà thì khi đến đó nghe pháp, mới chỉ nghe được hai ba câu thì quý vị đã suy nghĩ: “Ui cha!, sáng nay vì vội vàng đi nghe pháp mà mình đã quên khóa tủ và khóa cửa, không biết bây giờ ở nhà có chuyện gì không?”. Lúc này, tuy đang ở trong giảng đường nhưng quý vị không phải đang nghe giảng pháp mà là đang lo lắng những chuyện ở nhà. Quý vị nghĩ có phải vậy không? Vì thế, không phải cứ nghĩ rằng có học Phật pháp là chúng ta có thể buông bỏ được tất cả, việc này không phải dễ làm, đòi hỏi cần phải có sự tu tập.

   Có vị Phật tử đến nói với tôi: “Thưa Thầy! Đối với vấn đề tiền bạc, con không có chấp trước”. Tôi trả lời: “Thật vậy sao? Tôi không hoàn toàn tin tưởng. Bởi vì bản thân chúng tôi đây vẫn còn chấp trước mà anh lại không còn chấp trước thì thật là lạ”.

   Quý vị nghĩ thế nào? Điều đó có đúng không? Thật sự, đối với chúng ta, mười đồng hay hai mươi đồng thì chúng ta không có chấp trước thật. Nhưng giả sử có khoảng mấy trăm ngàn đô la thì thế nào? Khi đó chúng ta có thể xả bỏ một cách nhẹ nhàng được không? Chúng ta có thể bị mất một lần mấy trăm ngàn đô la mà không có một chút tiếc nuối không? Hoặc khi đang đi trên đường mà chúng ta bất ngờ nhặt được mấy trăm ngàn đô la thì thế nào? Lúc đó có thể chúng ta không có một mảy may động tâm không? Có thể chúng ta đem liền số tiền đó giao nộp cho các cơ quan chức năng để họ tìm cách trả lại cho người đánh rơi mà chúng ta không có một chút hối tiếc không? Vì thế, có thể đối với một số tiền nhỏ chúng ta không tham thật, nhưng khi đối diện với một số tiền lớn, một tài sản có giá trị lớn thì chưa hẳn là chúng ta không khởi tâm tham. Bởi vì tâm tham là một tập quán rất khó trừ bỏ của con người. Vì thế, chúng ta mới thấy trong xã hội, có những người lúc cuộc sống khó khăn họ rất mẫu mực, nhưng khi cuộc sống được cải thiện thì họ lại trở thành những kẻ nô lệ cho đồng tiền, thậm chí trở thành tội phạm do hành vi bất chính, tham nhũng của họ.

   Mỗi người chúng ta khi mạng chung đều dựa vào tâm niệm của bản thân lúc đó mà ra đi. Người không có sự tu tập thì không có biện pháp để điều phục tâm thức của mình. Nếu như khi sắp mạng chung mà sinh tâm tức giận và cứ giữ chặt tâm niệm đó thì nhất định khi chết, người ấy sẽ đọa vào địa ngục. Người có tâm tham lam sâu nặng thì mạng chung sẽ đầu thai trong loài ngạ quỷ. Người giàu có nhưng khi sống lại tham lam, bỏn xẻn, không biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ những người thiếu may mắn… khi mạng chung sẽ bị đọa vào ngạ quỷ… tất cả đều do tâm tham lam bỏn xẻn ích kỷ mà ra. Những người ngu si, không có trí tuệ, lúc nào cũng mơ mơ hồ hồ, có người khuyên bảo tu học Phật pháp mà không chịu tu, lại còn chê bai, phỉ báng, thì khi mạng chung, sẽ đầu thai làm các loài súc sinh. Súc sinh thì không có trí tuệ.

   Thế nên, chính tâm niệm của chúng ta quyết định sự luân hồi của chúng ta. Nếu chúng ta siêng năng tu tập, chuyển hóa nội tâm, siêng năng làm việc thiện, siêng năng niệm Phật... thì khi mạng chung, nhất định chúng ta sẽ được sinh về những cõi thiện, những cảnh giới an lành của chư Phật. Còn nếu trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta chuyên làm những việc lợi mình, hại người như trộm cắp, tham những, giết người, cướp của… thì khi mạng chung, chúng ta sẽ bị đầu thai vào những cảnh giới xấu ác, đau khổ, bởi vì chúng ta đã tạo những hạt nhân xấu ác ấy.

   Vậy, điều thứ nhất quyết định sự luân hồi của chúng ta chính là vì chúng ta không làm chủ được ý niệm của mình.

    Thứ hai: Tập khí (thói quen)
   Điều thứ hai: “Vì sao chúng ta bị luân hồi? Đó chính là vì tập khí (thói quen)”.

   Nói tập khí, có lẽ có nhiều người còn chưa hiểu. Tập khí, nói đơn giản, đó là thói quen, hay nói theo ngôn ngữ của tâm lý học thì đó là “ý thức quán tính”, là một loại hoạt động rất tự nhiên của ý thức. Tôi lấy ví dụ, trong cuộc sống chúng ta, có nhiều người rất dễ nổi giận. Những người đó họ vẫn biết tức giận là một điều không tốt, thế nhưng khi người khác có điều gì làm cho họ không vừa ý, dù là những điều nhỏ nhặt, họ cũng sinh lòng tức giận. Sự tức giận của họ đã trở thành một thói quen, nếu không tức giận thì họ rất khó chịu. Cho dù không ai muốn hơn thua với họ, họ cũng tức giận, đó là do những người ấy không khống chế được những thói quen của họ. Có những người tuy rất giàu có, không thiếu tiền bạc, nhưng khi đi mua hàng hay vào các siêu thị, họ vẫn tìm cách lấy trộm một món hàng hay một vật dụng nào đó, cho dù vật đó giá trị không bao nhiêu. Thói quen đó thật khó đoạn trừ.

   Tôi có một bạn học nữ, là bạn thời học chuyên khoa. Trông cô ta thì cũng chẳng có gì đẹp lắm, thế nhưng suốt ngày cô ta rất thích đứng trước gương để ngắm nghía nhan sắc của mình với dáng vẻ rất thích thú. Mỗi lần cô ta uốn tóc thì chẳng có người nào thích cô ta cả. Đã thế, cô ta còn cầm điếu thuốc nhấp đi nhấp lại trên môi với dáng vẻ rất đắc ý. Thế mới nói, chúng ta ai cũng yêu thích cái đẹp, phụ nữ thì rất thích trang điểm. Đó là một thói quen rất khó thay đổi.

   Với chúng tôi là những người xuất gia, quý vị hãy nhìn xem, đứng ở phía nào cũng thấy cái đầu trọc, không cần phải bận tâm về các kiểu tóc hay các loại keo xịt tóc… Quý vị thấy có khỏe không? Thế nhưng, nhìn vào chúng tôi cũng dễ thương phải không? Vậy thì đâu cần thiết là phải hóa trang mới đẹp? Sự thật, con người chúng ta không chỉ lo trau chuốt vẻ đẹp bên ngoài, mà điều quan trọng chính là vẻ đẹp của tâm hồn. Nếu một người mà tâm địa lương thiện thì tướng mạo sẽ dễ nhìn, cho nên người xưa nói: “Tướng từ tâm sinh” là nghĩa này vậy.

   Những tập khí, hay còn gọi là thói quen, chính là gốc rễ của sinh tư,û và đó cũng chính là gốc rễ của luân hồi

   Vì thế, nói đáp án thứ hai của câu hỏi vì sao chúng ta bị luân hồi chính là “tập khí”, là “ý thức quán tính”, là thói quen. Đó là những tập khí tham lam, sân hận và si mê mà chúng ta không thể khống chế được trong những hành động tạo tác của bản thân.

   Mọi người ai cũng có những tập khí. Tập khí của mỗi người cũng mỗi khác. Chẳng hạn, phụ nữ thì thích trang điểm, thích được người khác chiều chuộng v.v… còn nam giới thì lại có thói quen thích đánh bạc, uống rượu v.v… Thế nhưng, tất cả đều có một điểm chung là những tập khí ấy làm cho mọi người phải khổ sở. Nếu chúng ta có những tập khí quá nặng thì phải xem bản thân có đủ trí tuệ để đoạn trừ nó hay không? Nếu chúng ta không có trí tuệ thì nhất định không thể đoạn trừ những tập khí xấu ác của chính mình. Và như vậy, những tập khí đó sẽ là nhân tố căn bản quyết định sự luân hồi của chúng ta. Đó là một loại sức mạnh mà nếu như không có trí tuệ, thì không có loại sức mạnh nào có thể cản trở nó được.

   Tuy nhiên, nói về tập khí như thế, quý vị cũng cảm thấy khó hiểu phải không? Vì dù sao thì chúng ta cũng đang dùng những khái niệm để diễn tả mà thôi. Nhưng thế giới khái niệm, dù là khái niệm để diễn tả thực tại thì khái niệm đó không phải là bản thân của thực tại. Do vậy, điều cần thiết là chúng ta phải chiêm nghiệm điều đó qua sự thực tập của bản thân. Bây giờ, chúng tôi có thể lấy một ví dụ để minh họa cho vấn đề này, quý vị cố gắng để chiêm nghiệm và hiểu rõ vấn đề. Ví dụ như hằng ngày, chúng ta đều dùng một chiếc ly để đựng sữa uống, và chúng ta cứ dùng chiếc ly đó để đựng sữa mãi như thế. Giả sử một hôm nào đó chúng ta không dùng chiếc ly đó đựng sữa nữa, mà chúng ta đem chiếc ly đó rửa thật sạch, thì quý vị nghĩ xem, chúng ta sẽ ngửi thấy mùi gì trong chiếc ly đó, dù cho nó không có sữa và chúng ta đã rửa sạch? Mùi gì? À, mùi sữa phải không? Đúng vậy! Lúc này, nếu chúng ta dùng chiếc ly đó dựng nước trong để uống thì chúng ta vẫn ngửi thấy mùi sữa. Tập khí của chúng ta nó cũng giống như mùi sữa đó vậy. Còn giả sử như trước kia chúng ta không dùng chiếc ly kia để đựng sữa mà chúng ta dùng để đựng trà thì chúng ta sẽ ngửi thấy mùi trà. Điều này cho chúng ta thấy được, mỗi người trong cuộc sống đều có mỗi thói quen khác nhau.

   Tập khí đúng là rất khó đoạn trừ, nhưng không có nghĩa là không đoạn trừ được. Điều cần thiết là chúng ta có nhận diện được những thói quen xấu (tập khí) trong ta để đoạn trừ nó hay không mà thôi. Tôi còn nhớ có một lần, lúc đó chúng tôi đang học năm thứ hai của đại học. Một hôm, một người bạn cũ thời học ở trường trung học Kiến Quốc đến mời chúng tôi đi dự một buổi lễ khiêu vũ. Tôi nói với anh ta rằng “tôi như vậy làm sao mà tham gia vũ hội, vả lại tôi cũng không biết khiêu vũ, mà chỉ biết niệm Phật thôi”. Anh ta nói rằng: “Không sao đâu”.

   Nhân vì mọi người đều là bạn cũ thời trung học, nhưng khi lên đại học thì mỗi người học mỗi ngành, mỗi trường khác nhau. Anh ta là sinh viên của đại học chính trị, anh ta nói rằng buổi dạ vũ hôm đó vì sinh viên nữ nhiều hơn sinh viên nam nên mời tôi đi tham gia để tăng thêm sức mạnh cho phái nam. Tôi nói tôi không biết khiêu vũ, nhưng anh ta nói không sao cả và vẫn cứ yêu cầu tôi đến tham dự. Thế là hôm đó tôi đi tham dự buổi khiêu vũ. Nhưng khi đi, tôi mang theo một xâu chuỗi niệm Phật với 108 hạt, với tâm niệm khi đến đó tôi cầu nguyện cho những người bạn khiêu vũ được an lành.
Khi tôi vừa đến, từ dưới tầng trệt đi lên lầu, mới lên được nửa cầu thang thì cả đám bạn học chạy túa ra vui mừng nhưng cũng không khỏi ngạc nhiên nói:
   - Bạn đến đây tham gia vũ hội mà tại sao lại đem theo xâu tràng hạt?
   - Đúng rồi, tham gia vũ hội mà cũng mang theo xâu tràng hạt, thật làm mất cả hứng thú!
   Tôi nói:
   - Không sao đâu, các bạn đã gọi tôi đến và tôi đã đến thì nhất định không có vấn đề gì cả!

   Rồi mọi người cùng đi vào. Bên ngoài là sàn nhảy, còn bên trong là phòng âm thanh. Thế là mọi người đi ra sàng nhảy còn tôi thì đi vào trong phòng âm thanh và ngồi xuống, nhắm mắt niệm chú đại bi. Ngoài kia mọi người bắt đầu khiêu vũ, bên trong thì tôi niệm Phật.

   Một lát sau, có tổng cộng 15 sinh viên nữ, còn nam thì chỉ có chín người, mà trừ tôi ra thì còn có tám, kết quả là có những bạn nữ phải khiêu vũ một mình mà không có bạn cùng khiêu vũ. Thế là có một cô nữ sinh viên liền nói:
   - Ái chà! Người bạn đang ngồi trong kia sao không ra khiêu vũ?
   Anh bạn học của tôi liền nói với cô ta rằng:
   - Bạn không thấy anh ta đang lần hạt chuỗi hay sao? Như thế làm sao mà  khiêu vũ được?

   Từ đầu đến cuối buổi dạ vũ hôm đó, tôi cũng không khiêu vũ mà chỉ ngồi niệm Phật, và như thế mấy tiếng đồng hồ trôi qua, mọi người khiêu vũ thì tôi cũng được mấy tiếng đồng hồ niệm Phật.

   Vì thế nên nói, một người biết tu tập thì cho dù ở trong nhà hay ở nơi nào đi nữa cũng có thể tu tập được. Đi trên xe buýt cũng có thể niệm Phật, đi xe gắn máy cũng có thể niệm Phật, đi bộ cũng có thể niệm Phật. Vì thế, sự tu tập được hay không không phải do không có thời gian, mà chính là do chúng ta có đủ trí tuệ để vận dụng phương pháp tu tập cho mình hay không mà thôi.

   Thứ ba: Nghiệp lực (sức mạnh của nghiệp)
   Thứ ba, vì sao chúng ta bị luân hồi? Đó chính là chúng ta bị sự chi phối của nghiệp lực.

   Nghiệp và nghiệp lực có sự khác nhau hay không? Khi nói đến nghiệp, đó là chúng ta đứng trên phương diện “nhân” mà nói, còn khi nói nghiệp lực là chúng ta đứng trên phương diện quả để nói. Vì thế, chúng ta thường nói đến “tạo nghiệp”, chứ ít khi nói tạo “nghiệp lực”. Thực tế, chúng ta thường nói như thế cũng chưa hoàn toàn chính xác, vì khi chúng ta tạo nghiệp thì chính ngay lúc đó đã hình thành một sức mạnh mà chúng ta gọi là lực. Và, chính sức mạnh này chi phối sự luân hồi của chúng ta. Vì thế, nghiệp và nghiệp lực không phải là một, nhưng cũng chẳng phải hai.

   Nghiệp là gì? Nghiệp là từ của Trung Quốc, chư vị Tổ sư, Pháp sư khi dịch kinh Phật đã sử dụng chữ nghiệp này rất hay, phải nói là tuyệt hay. Chúng ta thấy những từ như công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp, y nghiệp… tất cả đều nói lên những ngành nghề trong xã hội phù hợp với tên gọi của ngành đó, và tất cả các từ đều có chữ nghiệp. Cũng giống như thế, khi làm việc thiện thì gọi là thiện nghiệp, làm việc ác thì gọi là ác nghiệp. Khi một người làm việc thiệân đã thành thói quen thì khi không làm được việc thiện, họ cảm thấy rất khó chịu. Ngược lại, một người thường hay làm những việc bất thiện, thì khi thấy người khác làm việc thiện họ lại sinh tâm tức giận? Vì sao vậy? Vì chính những người đó bị nghiệp lực chi phối. 

    Vậy, nghiệp là gì?
   “Nghiệp” là từ được dịch nghĩa từ chữ Karma của tiếng Phạn, có nghĩa là hành động có tác ý. Vậy, nghiệp là sự tạo tác, là hành động có tác ý.

   Vậy, hành động thiện, tức là những ý nghĩ, những lời nói và những tạo tác cụ thể bằng tay chân của chúng ta mà đem lại lợi ích cho bản thân, cho mọi người và không gây tổn hại cho bất kỳ ai về cả phương diện vật chất lẫn tinh thần, thì được gọi là nghiệp thiện.

   Ngược lại, những ý nghĩ, lời nói và việc làm chỉ đem lại lợi ích cho bản thân mà lại gây tổn hại cho người khác về cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần thì đó chính là nghiệp bất thiện, hay còn gọi là nghiệp ác.

   Như thế, nghiệp thiện hay nghiệp ác chính là do bản thân chúng ta tự tạo, chứ không phải do một đấng tối cao nào có quyền ban phát hay bắt buộc. Bởi vì chính bản thân chúng ta là chủ nhân của nghiệp, tức là chủ nhân của những việc làm của chúng ta, và chúng ta phải chịu trách nhiệm đối với những việc mà chúng ta đã làm.

   Nghiệp – hành động có ý thức của chúng ta, thực hiện trong một quá trình lâu dài thì sẽ tạo thành một sức mạnh gọi là nghiệp lực. Ví dụ như một người hút thuốc lá lâu ngày sẽ thành thói quen, đến khi gặp thuốc lá người ấy sẽ hút liền, dầu cho bác sĩ hay người thân khuyên can hút thuốc có hại cho sức khỏe, người ấy cũng không nghe mặc dù họ vẫn biết những lời khuyên trên là đúng. Cho đến uống rượi, nói dối, lừa gạt, hay làm những việc bất thiện v.v… tất cả những việc đó cũng giống như vậy.

   Ngược lại, những người chuyên giúp đỡ người khác, luôn luôn sống vì mọi người, luôn luôn siêng năng làm việc thiện, thì bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, bất cứ hoàn cảnh nào, họ cũng sẵn sàng làm việc lợi ích cho người mà không có bất kỳ một điều kiện nào. Qua đó, chúng ta cũng thấy được năng lực của nghiệp là rất lớn.

   Như vậy, nghiệp lực, hay còn gọi là sức mạnh của nghiệp, có khả năng dẫn dắt chúng ta đi đầu thai. Vì vậy, chúng ta sẽ được sinh vào cảnh giới vui sướng hay bị đọa vào cảnh giới khổ đau, chính là do những việc làm của chúng ta quyết định.

    Những hành động của chúng ta trải qua thời gian sẽ tạo thành nghiệp lực dẫn dắt chúng ta. Nghiệp lực này còn chuẩn xác hơn cả máy vi tính, cho nên chúng ta không thể trốn chạy được những kết quả của những hành động do bản thân mình đã làm. Thế nên trong cuộc sống, chúng tôi khuyên quý vị hãy biết sống cho trọn vẹn một kiếp làm người, đó là: hiếu thuận đối với cha mẹ, hòa thuận với anh em, cung kính với người trên, nghĩa khí, tin tưởng với bạn bè, giúp đỡ người già yếu, neo đơn, thiếu may mắn... nghĩa là quý vị cần phải áp dụng lời Phật dạy vào trong cuộc sống hằng ngày.

    Thứ tư: Nguyện lực
   Cuối cùng, điều quyết định sự luân hồi của chúng ta chính là “nguyện lực”.

   Nếu chúng ta là một người tu tập, thực hành theo lời Phật dạy thì trong quá trình tu tập, mỗi người sẽ có những sự phát nguyện khác nhau. Có người thì phát nguyện sinh về thế giới Cực Lạc, có người thì nguyện sinh về cung trời Đâu Suất hoặc các quốc độ khác, cho đến phát nguyện sinh trở lại cuộc đời này để cứu độ, hướng dẫn chúng sinh tu tập… Chỉ cần chúng ta tu tập có đầy đủ năng lực, nguyện lực kiên cường thì tùy theo nguyện lực mà tự thân chúng ta sẽ đạt được.

   Ví dụ, hiện tại chúng ta đang tu hành pháp môn Tịnh độ, xưng niệm danh hiệu của đức Phật A-di-đà, thì chỉ cần chúng ta có đầy đủ tín tâm, nguyện lực và sự thực hành, nhất định chúng ta sẽ sinh về thế giới Cực Lạc mà không phải hoài nghi gì cả. Phần trước chúng ta có nói đến nguyên nhân của sự luân hồi là do sức mạnh của ý niệm, tập khí và thói quen. Ba thứ đó do vì chúng ta đều không làm chủ được chúng nên bị luân hồi. Ngược lại, đối với nguyện lực thì chúng ta luân hồi đó là tùy theo quyết định của bản thân mỗi chúng ta, và luân hồi ở đây là do hạnh nguyện, là xuất phát từ lòng từ bi chứ không phải là bị chìm đắm. Điều này chỉ có những người có sự tu tập thâm sâu mới có khả năng làm được.

    66. KHÔNG ĐƯỢC TỰ SÁT
 
   Chúng ta nói chuyện về sự tu tập. Tất cả giáo lý Phật giáo đều có nói đến vấn đề sinh tử và giải quyết vấn đề sinh tử. Con người chúng ta từ khi được sinh ra cho đến khi chết đi, trong khoảng thời gian đó có biết bao nhiêu sự việc xảy ra mà chúng ta phải đối mặt với nó. Cho nên, nói đến vấn đề sinh tử cũng chính là nói đến nhân sinh. Trong thế cuộc nhân sinh, con người được sinh ra phần lớn đều giống nhau, cho dù là trong gia đình quyền quý, giàu sang hay gia đình nghèo khó. Thế nhưng, cái chết của con người thì lại có muôn sai vạn biệt. Và, một điều đặc biệt nữa, là không hẳn người giàu sang là ai ai cũng có được cái chết yên ổn và bình thường. Có người thì bị tai nạn xe cộ mà chết, có người thì bị giết vì cướp của, có người thì bị đầu độc, có người thì nhảy lầu tự sát, có người thì bị tai nạn máy bay... Nói chung, cái chết của con người có rất nhiều loại. Nhưng có một điều chúng ta cần phải biết, đó là cách chết cũng là một loại nghiệp lực, và trong đó, tội tự sát là nặng nhất. Nếu như đời nay chúng ta tự sát, thì trong tạng thức của chúng ta sẽ hình thành hạt giống của sự tự sát.

   Vì thế, chúng tôi thiết tha khuyên quý vị dù trong cuộc sống có gặp những trở ngại, những khổ đau, những điều bất như ý đến thế nào đi nữa, quý vị cũng không nên tự sát.

   Lỗi lầm của sự tự sát: thứ nhất, đó là phạm vào giới sát sinh, giới đầu tiên trong năm giới của người tại gia. Thứ hai, hạt giống tự sát được hình thành trong tạng thức và năng lực phát khởi của hạt giống này rất mạnh, nó sẽ dẫn dắt chúng ta đời này đời khác đều bị chết về nghiệp tự sát. Vì thế, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, quý vị cũng không nên tự sát. Trong cuộc sống, những lúc chúng ta gặp hoàn cảnh khó khăn, trở ngại, những điều trái ý nghịch lòng, chúng ta hãy cố gắng vận dụng mọi khả năng của bản thân để vượt qua, vì không có khó khăn nào mà chúng ta không thể vượt qua được, nếu có thì đó chỉ là do chúng ta thiếu sự tu tập, thiếu khả năng chịu đựng và quán sát nguyên nhân, kết quả của sự việc. Là một người học Phật pháp, chúng ta phải biết quán chiếu về nhân quả, nghiệp báo, phải biết chấp nhận những sự thật xảy đến với chúng ta trong cuộc sống mà không nên than thân, trách phận, đổ lỗi cho người… và nhất là không được có thái độ trốn tránh bằng cách tự sát. Đối với những vấn đề bất như ý trong cuộc sống, chúng ta phải biết cách tiếp nhận và chuyển hóa. Muốn được như thế, mỗi chúng ta phải có sự học tập và thực hành lời đức Phật dạy trong cuộc sống của chúng ta. Đó chính là chúng ta đã đưa Phật pháp vào cuộc sống và phục vụ cuộc sống.

    67. CHẾT MỘT CÁCH AN NHIÊN
 
   Người đời ai rồi cũng phải chết. Có người chết một cách đau khổ nhưng cũng có người chết một cách an nhiên, tự tại. Đó là những người tu tập pháp môn Tịnh độ – trì niệm danh hiệu của đức Phật A-di-đà, cầu sinh thế giới Cực Lạc. Những người tu tập pháp môn niệm Phật, đến lúc lâm chung sẽ được đức Phật A-di-đà đến tiếp dẫn về cảnh giới Tây Phương Cực Lạc, lại còn thấy Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí.

   Nói đến Bồ-tát Quán Thế Âm, tất cả hàng Phật tử của chúng ta ai cũng thành tâm kính lễ Ngài, ai cũng cảm thấy Ngài rất gần gũi và luôn có cảm nhận là Ngài đang theo hộ trì, giúp đỡ chúng ta. Thật sự đúng như thế. Vì trong cuộc sống của mỗi chúng ta, Bồ-tát Quán Thế Âm luôn hiện hữu quanh ta, và chính mỗi chúng ta cũng là một Bồ-tát Quán Thế Âm đối với mọi người xung quanh, nếu chúng ta biết tu tập theo hạnh nguyện của Ngài.

   Đối với người Phật tử thì trong mỗi gia đình, nhất định đều phải có thờ Phật. Và có lẽ phổ thông nhất chính là thờ hình tượng của Bồ-tát Quán Thế Âm. Mỗi người đều có niềm tin vào vị Bồ-tát này. Ở đây, chúng tôi chỉ nói với quý vị một điều, là chúng ta thờ Phật, thờ Bồ-tát không phải chỉ thuần là vấn đề thuộc tín ngưỡng mà trong đó, cần phải có sự thực tập, nghĩa là chúng ta thực tập theo một trong những công hạnh của đức Phật hay của một vị Bồ-tát mà chúng ta đang tôn thờ trong nhà của mình. Có như thế, sự thờ Phật hay Bồ-tát của chúng ta mới có đầy đủ ý nghĩa, chúng ta mới thấy được sự lợi ích của việc thờ Phật, Bồ-tát trong cuộc sống của chúng ta.

   Trong cuộc sống gia đình, quan hệ xã hội… cho dù vô tình hay cố ý, ít hay nhiều thì mỗi chúng ta cũng đã từng gây khổ đau cho người khác. Có khi vì tức giận, có khi vì vụng về trong ứng xử và thậm chí, có khi vì thương yêu người mà chúng ta đã gây ra khổ đau cho người. Vì thế, nguyên nhân gây ra đau khổ cho người khác có lẽ là rất nhiều, nhưng trong đó có một nguyên nhân cơ bản nhất, đó là chúng ta không biết lắng nghe tiếng nói của người khác, không biết lắng nghe những khó khăn, những khổ đau, những tâm sự của người khác. Cho nên, chúng ta tôn thờ hình tượng của Bồ-tát Quán Thế Âm thì chúng ta phải biết học theo hạnh nguyện của Ngài, đó là hạnh lắng nghe. Bởi vì Quán Thế Âm có nghĩa là lắng nghe tiếng nói, âm thanh của cuộc đời, và lắng nghe không phải chỉ thuần bằng tai mà còn lắng nghe bằng cả con tim nữa.

   Thưa quý vị! Mỗi khi quý vị đứng trước hình tượng của Bồ-tát Quán Thế Âm để lễ lạy hay chiêm ngưỡng, quý vị hãy thực tập theo hạnh nguyện của Ngài, đó là thực tập hạnh lắng nghe:
   “Kính lạy đức Bồ-Tát Quán Thế Âm, chúng con xin học theo hạnh nguyện của Ngài, biết lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ. Ngài là hiện thân của trái tim biết nghe và biết hiểu”.

   “Chúng con xin tập lắng nghe với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập lắng nghe với tâm không thành kiến. Chúng con xin tập lắng nghe mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con nguyện tập lắng nghe một cách chăm chú để có thể hiểu được những điều đang nghe và cả những điều không nói”.

   “Chúng con biết rằng, có lắng nghe, chúng con mới có cơ hội để thông cảm, hiểu biết và thương yêu đối với những người mà chúng con có duyên gặp gỡ”.

    “Chúng con biết rằng, có những lúc chỉ cần lắng nghe thôi là chúng con cũng đã làm vơi bớt những khổ đau của người khác rồi”.
“Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát”.

    Đây chính là một pháp tu, tức là một phương pháp thực hành mà mỗi người chúng ta cần phải thực tập hằng ngày trong cuộc sống nếu chúng muốn có hạnh phúc. Vì thế, chúng tôi mới nói: thờ Phật, thờ Bồ-tát chính là một pháp tu trong cuộc sống của chúng ta.