Phần I. Bồ Tát
đạo
I. BỒ TÁT
ĐẠO
Định nghĩa Bồ Tát
Bồ Tát là nói tắt của Bồ Đề Tát Đỏa tức Bodhisattva (Sanscrit). Bodhi là giác, sattva là hữu
tình. Bodhisattva có nghĩa là người giác ngộ. Nói như vậy thì hơi mơ hồ, vì đức
Phật cũng là người giác ngộ, A-la-hán cũng là người giác ngộ, vậy Bồ Tát khác
Phật, khác A-la-hán chỗ nào? Có nhiều lối giải thích:
1. Trên phương diện độ sanh:
A-la-hán tự độ (độ mình), Bồ Tát độ tha (độ người), còn Phật là giác hạnh viên
mãn (độ mình và độ người đã xong).
2. Trên phương diện phát nguyện
thì:
- A-la-hán chỉ cầu thoát khỏi
sanh tử luân hồi.
- Bồ Tát là người phát tâm cầu
thành Phật để độ tất cả chúng sanh thoát khỏi sinh tử luân hồi. Trên quảng
đường từ lúc mới phát Bồ đề tâm (Bodhicitta)
cho đến lúc thành Phật thì gọi là Bồ Tát.
3. Trên phương diện chứng đắc
thì:
- A-la-hán đã phá được ngã chấp,
tức chứng được ‘ngã không’ (Sattvàsùnyatà),
không còn chấp vào một cái ta (Atman)
hiện hữu.
- Bồ Tát cũng chứng được ‘ngã
không’ nhưng chưa hoàn toàn được ‘pháp không’ (Dhrmasùnyatà).
- Phật thì đã phá hoàn toàn ngã
chấp và pháp chấp, tức là thấy được thực tướng của vạn pháp, thấy được các pháp
không sinh (anutpanna), không diệt (anirudha).
4. Trên phương diện tu trì:
- A-la-hán tu theo Tứ Đế, ba
mươi bảy phẩm trợ đạo.
- Bồ Tát hành Lục độ (Bố thí,
Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh Tấn, Thiền định, Trí huệ).
- Phật thì cũng giống như Bồ Tát
nhưng đã tới đích. Trên đây chỉ là khái lược sơ về sự khác biệt giữa Phật, Bồ
Tát và A-la-hán.
Chúng ta là hàng sơ phát tâm Bồ
Tát thì cần chú trọng nhiều về hai phương diện phát nguyện và tu trì. Phát
nguyện là phát Bồ đề tâm tức tâm nguyện thành Phật để cứu độ chúng sinh thoát
khỏi sinh tử luân hồi, còn tu trì là luôn luôn tìm mọi cách để thực hành Lục
độ.
II. Tầm quan trọng của phát nguyện và hồi hướng
Trong đạo Phật, ta thường nghe
nói về Tam Độc tức là lòng ham muốn, giận tức và si mê, chúng trói buộc ta
trong vòng sinh tử luân hồi. Và muốn giải thoát thì ta phải dẹp trừ chúng bằng
cách bớt ham muốn, mở rộng lòng từ bi, trau dồi giáo lý Phật pháp. Do hiểu như
vậy, nên nhiều người trong chúng ta không dám mong cầu gì cả, đến chùa tụng
Kinh cho vui vậy thôi chứ không thành tâm phát nguyện và hồi hướng (trong các
thời Kinh ở chùa đều có văn phát nguyện và hồi hướng, nhưng vì không chú tâm
hoặc không hiểu nên gọi là không thành tâm), khi bố thí thì bố thí vậy thôi chứ
không nghĩ gì hết. Rồi ta cho như vậy là đúng, vì trong Thiền Tông thường nói
giữ ‘Tâm Không’, nên ta không dám nghĩ, không dám mong cầu gì hết, chỉ giữ Tâm
Không thôi. Nếu ta cứ làm như vậy hoài thì kiếp sau ta sẽ đầu thai thành cục đá
bên lề đường, vì cục đá cũng có Tâm Không, vô tri vô giác, không nghĩ, không
biết gì cả. Cõi Ta Bà mà chúng ta đang ở đây thuộc về cõi Dục. Chúng sanh ở đây
luôn luôn ham muốn- ham muốn ngũ dục: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon,
ngủ ấm. Nhưng chúng ta quên mất một điều là tất cả chư Phật đều thị hiện thành
Phật ở cõi này, chứ không thành Phật ở hai cõi Sắc và Vô Sắc. Đức Phật dạy ta
lìa bỏ ngũ dục chứ đâu dạy ta lìa bỏ Niết Bàn dục (tức lòng ham muốn đạt được
Niết Bàn). Ở đời, khi làm một việc gì thì ta thường có lý do và mục đích. Lúc
nhỏ ta cắp sách đến trường, lý do là cha mẹ ta muốn cho ta nên người. Mục đích
của sự học là để được bằng tú tài. Có tú tài để được vào Đại Học. Vào Đại Học
mấy năm để có một văn bằng (diplôme).
Có văn bằng để đi ra làm việc. Làm việc để có tiền. Có tiền để nuôi thân hoặc
nuôi gia đình, … Tất cả những cái ‘để’ đó đều là mục đích của những hành động
và việc làm của ta. Khi có mục đích là có sự mong cầu. Sự mong cầu hay ham muốn
được xem là tốt hay xấu tùy theo mục đích của nó tức là đối tượng của sự mong
cầu. Nếu ta ham muốn ngũ dục thì đó là xấu vì kết quả là ta sẽ khổ đau, ngược
lại nếu ta ham muốn học đạo, tu đạo thì đó là một sự ham muốn tốt vì kết quả là
ta sẽ giải thoát, hưởng sự an vui của Niết Bàn. Khi ta ham muốn vừa vừa thì gọi
là mong cầu, khi ta hết lòng ham muốn và quyết chí đạt cho được mục đích thì
gọi là nguyện. Tất cà chư Phật và Bồ Tát đều là những người đã mong cầu, đã
phát nguyện năm xưa. Ta há không nhớ đức Phật Thích Ca đã phát nguyện gì dưới
gốc cây Bồ Đề? Ngài nguyện: ‘Dù máu khô, thịt nát, xương tan, nếu không Giác
ngộ (thành Phật) ta thề không rời khỏi nơi đây.’
Ngoài ra, đọc trong Túc Sanh
truyện (Jataka) kể về các tiền thân của đức Phật, ta sẽ thấy là mỗi khi làm một
hạnh gì, ngài đều phát nguyện và hồi hướng. Phát nguyện cầu thành Phật để cứu
độ chúng sanh và hồi hướng tất cả công đức cho quả vị Phật.
Hồi hướng là gì?
Là gom góp tất cả để đặt vào một
chỗ. Người làm phước nhiều mà không biết hồi hướng sẽ giống như người đi làm
cho có thật nhiều tiền đem về chất đầy nhà, rồi không biết làm gì với đống tiền
đó.
Hãy lấy một thí dụ:
1. Ta đến chùa làm một việc công
đức, mà trong tâm ta luôn luôn nghĩ đến sự giàu sang sung sướng, thì kiếp sau
ta sẽ được giàu sang sung sướng.
2. Cũng một việc công đức đó, mà
ta hồi hướng được giải thoát sinh tử luân hồi, thì trong những kiếp sau ta sẽ
được giải thoát sinh tử luân hồi.
3. Cũng một việc công đức đó, mà
ta hồi hướng cầu thành Phật thì chắc chắn một kiếp xa xôi nào đó ta sẽ thành
Phật.
Tại sao trong thí dụ (1) nói
kiếp sau, thí dụ (2) nói những kiếp sau, và thí dụ (3) nói một kiếp xa xôi, ý
nghĩa là sao?
Thí dụ (1) nói về sự giàu sang
sung sướng ví như một cái áo bành tô (manteau) trị giá 700 quan. Thí dụ (2) nói
về sự giải thoát sinh tử luân hồi ví như một chiếc xe hơi trị giá 70.000 quan.
Thí dụ (3) nói về sự cầu thành Phật ví như một căn nhà villa trị giá 700.000
quan.
Nếu ta đi làm lương một tháng là
5000 quan, và trong đầu ta không có một mục đích gì cả, thì khi đi đường, nếu
thấy một cái áo bành tô đẹp, vừa giá ta có thể mua được thì ta mua ngay không
chần chờ.
Cũng với số lương đó mà ta muốn
có một chiếc xe hơi thì ta phải dành dụm năm này qua năm nọ, không dám lấy tiền
lương xài vào việc khác như mua quần áo, thì khoảng vài năm thì ta có thể có
được một chiếc xe hơi
Cũng với số lương đó mà ta muốn
có một căn nhà villa ta phải dành dụm lâu hơn nữa vì lương của ta quá ít so với
tiền mua căn nhà. Do đó ta phải gom góp dành dụm tiền lương không dám xài hoang
phí vào việc khác, mà cốt chỉ để mua nhà. Vậy thì khoảng hai mươi năm hay hơn
nữa ta mới hoàn toàn làm chủ cái nhà (vì ở bên Pháp cho trả Crédit).
Sau ba thí dụ trên ta thấy rằng
cũng cùng một hành động (karman),
cùng một nhân (hetu) mà có quả báo khác nhau. Đó là do tâm hồi hướng mà ra. Nếu
ta tạo công đức nhiều mà không biết hồi hướng thì uổng lắm, vì sao? Dĩ nhiên là
khi tạo công đức thì chắc chắn ta sẽ gặp quả báo tốt, nhưng uổng vì đó là quả
báo hữu lậu của thế gian, sau một thời gian ta còn lại hai bàn tay trắng mà
thôi.
Nếu thấy tầm quan trọng của sự
phát nguyện và hồi hướng thì sau này: trước khi, trong khi và sau khi làm một
việc gì tốt ta nên phát nguyện và hồi hướng. Và hơn nữa khi ta gặp một việc
công đức nào ta sẽ vui mừng vì đó là một cơ hội cho ta tiến mau đến mục đích
(nếu là trường hợp ta thích xe hơi hoặc căn nhà mà không thích áo bành tô).
Vậy theo ta hiểu thì Bồ Tát là
phải nhớ đến Bồ đề tâm, nhớ phát nguyện và hồi hướng cầu thành Phật, nhưng
không hiểu tại sao khi ta đọc Tâm Kinh thì thấy trong đó có nói câu ‘vô trí
diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố’. Lúc đó ta nên khởi tâm nghĩ như vầy: Bồ Tát Quán
Tự Tại là bậc Diệu Giác Bồ Tát, còn ta đây là bào thai Bồ Tát (Bồ Tát còn nằm
trong bụng mẹ). Hơn nữa Quán Tự Tại Bồ Tát đã hiểu, đã thấy, đã chứng được tánh
Không, tức thực tướng của vạn pháp, còn ta đây không biết cái gì là phải cái gì
là trái, cái gì tốt cái gì xấu, cái gì là Từ Bi cái gì là độc ác, nói chi đến
tánh Không với tánh Có. Ta đừng làm giống như người đi trên sông, thấy người
khác đến bờ vứt bỏ con thuyền, mà ở đây ta cũng vội vàng lấy búa ra đập thủng
thuyền của mình. Ta phải luôn ý thức nhìn lại xem mình là ai? Em bé lên 3,
thanh niên 20 hay ông lão 70. Nếu là em bé lên 3 thì ta hãy vui vẻ tập đi,
không nên bắt chước lấy cây gậy của ông già bảy mươi mà chết sớm. Còn ngược lại
nếu thấy mình là ông lão 70 thì ta cứ việc ‘vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc
cố’ không ai cấm cản vì đạo Phât là đạo tự giác không có bắt buộc hay độc tài.
Sau khi hiểu được sự phát Bồ đề
tâm cũng như sự phát nguyện và hồi hướng của Bồ Tát, ta bước sang phần thực
hành của Bồ Tát tức Lục Độ.
À, hình như chúng ta quên mất
một điều là không biết tại sao Bồ tát lại phát Bồ đề tâm? Mục đích của Bồ đề
tâm là thành Phật cứu độ chúng sanh, nhưng lý do và căn nguyên của sự phát Bồ
đề tâm là gì? Bồ Tát phát Bồ đề tâm, lý do vì Bồ Tát thấy chúng sanh đau khổ
nên muốn cứu chúng sanh, muốn cứu khổ chúng sanh nên mới cầu thành Phật tức cầu
sự giác ngộ hoàn toàn.
Bồ Tát là những người ý thức
được sự đau khổ của cuộc đời, thấy rõ được sự bất công, sự đàn áp, bóc lột, lợi
dụng, tàn hoại, ác độc của chính con người tạo cho con người. Nếu Bồ Tát ngồi
yên một chỗ, cần gì hô lên một tiếng, có người đem dâng đến cho, thì Bồ Tát khó
ý thức được sự khó khăn, đổ mồ hôi sôi nước mắt của người dâng cho mình. Nếu
không tự thân chứng nghiệm đau khổ, thì ít nhất Bồ Tát cũng tập ý thức sự có
mặt của đau khổ nơi mọi loài. Vì có đau khổ nên mới có đạo Phật, nếu không có
đau khổ thì không có đạo Phật. Bồ Tát ý thức được sự đau khổ không phải để sợ
hãi, mà là để nuôi dưỡng lòng từ bi của mình. Bồ đề tâm của Bồ Tát cũng ví như
ngọn lửa được đốt bằng dầu đau khổ. Nếu không có dầu đau khổ thì ngọn lửa Bồ đề
tâm sẽ tắt. Do đó đối với Tứ Diệu Đế, Bồ Tát đã thấu triệt hoàn toàn. Nếu chúng
ta muốn đi theo con đường của Bồ Tát thì chúng ta cần phải học cho thông suốt
Tứ Diệu Đế, nếu không được thì ít nhất chúng ta cũng cần phải hiểu được ‘Nhị
diệu đế’ tức là hai Diệu đế đầu: Khổ Đế và Tập Đế. Và sau khi đã hiểu rõ rồi
thì ta hãy tiến bước trên Bồ Tát đạo, nếu không như thế thì ta chỉ là ‘danh tự
Bồ Tát’, tức là ta đến chùa thọ Bồ Tát giới cho vui mà thôi.
Sau khi hiểu được nguyên nhân và
mục đích của Bồ Tát, ta bước sang con đường đi của Bồ Tát, tức Bồ Tát đạo (Bodhisattvamàrga).
- Bồ Tát đạo thường được biểu
hiện qua Lục độ, tức sáu hạnh, còn gọi là Lục Ba La Mật (Pàramità) gồm có: Bố thí (Dàna), Trì giới (Sila), Nhẫn nhục (Ksànti), Tinh Tấn (Vìrya), Thiền định (Dhỳana), Trí huệ (Prajna). Pàramità dịch âm là Ba La Mật
Đa, dịch chữ là Đáo Bỉ Ngạn có nghĩa là đến bờ bên kia. Lục Ba La Mật là sáu
phương tiện có khả năng đưa (độ) Bồ Tát sang đến bờ bên kia là bờ Đại Giác, tức
Phật.
I. Bố thí là gì?
Bố thí là hạnh đầu tiên trong
sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang
tiếng Hán Việt là Bố thí. Bố là khắp, thí là cho. Bố thí là cho khắp tất cả.
Nếu nói như vậy thì hơi đơn giản và mơ hồ. Vì cho khắp tất cả có nghĩa là cho
khắp tất cả những gì mình có, hay cho khắp tất cả chúng sinh?
Khi ta đi đường gặp một kẻ nghèo
khó đứng xin ăn, ta lấy năm đồng hay một cắc ra cho họ, thì ta gọi đó là bố thí
cho kẻ nghèo. Trong gia đình khi ta cho con cái vật gì thì ta chỉ gọi đó là
cho. Đối với những người có địa vị cao hơn ta, hay đối với hàng ông bà chú bác
thì ta không gọi là cho mà gọi là tặng hay biếu. Rồi khi vào chùa đối với Tam
Bảo ta lại có tiếng gọi khác là cúng dường. Cũng là một hành động cho mà lại có
nhiều tên gọi khác nhau vì đó là tùy ở nơi đối tượng của sự cho, tức là người
nhận. Mùa Xuân Tết đến, ta không thể đem một món quà đến gặp ông chủ của mình
mà nói rằng: ‘Tôi xin bố thí cho ông chủ món quà’ hoặc gặp một vị Thầy ta nói:
‘Con xin bố thí cho Thầy’ hoặc ta cũng không thể nói: ‘Ba cúng dường cho con
một hộp bánh’, v.v… Tiếng Việt của ta rắc rối lắm, không phải dễ dàng đâu! Nếu
không chú ý cẩn thận một chút là ta có thể gây phiền phức cho chính mình và cả
người khác nữa.
Như ta đã thấy Bố thí gồm có
nhiều nghĩa: cho, tặng, biếu, cúng dường, bố thí. Nhưng để giản tiện bớt cho
những trang sau, ta tạm gọi tất cả những cái đó là Bố thí.
II. Vì sao phải bố thí?
Vì Bố thí đem lại nhiều lợi ích
sau đây: Bố thí là một kho tàng phước đức luôn luôn đi theo người chủ (tức
người cho) đời này sang đời khác; bố thí xây dựng hạnh phúc và tiêu trừ đau
khổ; người biết bố thí thì ai cũng thương mến; bố thí làm cho tâm (người cho)
được an vui, khi gần chết tâm không sợ hãi; bố thí tiêu trừ lòng tham lam bỏn
xẻn; người biết bố thí thì chư Thiên ủng hộ; bố thí là con đường trong sạch mà
tất cả Thánh nhân đều đã đi qua; bố thí là một thiện nghiệp sẽ cho ra quả báo
tốt; bố thí là hành động của những người hùng; bố thí sẽ tiêu trừ sự nghèo và
đóng cửa tất cả thiện pháp; bố thí là nhà ở của tất cả những người cao quý, là
thú vui cuả những bậc Thánh (Arya) và Vĩ nhân; bố thí là một cái gương sáng để
cho những người thiếu phước đức và trí huệ noi theo.
* Người trí và người ngu trong
cuộc hỏa hoạn.
Khi có một cuộc hỏa hoạn, người
có trí khôn biết nhận xét xem lửa có thể lan đến nhà mình hay không? Nếu có thì
vội vàng thâu góp tài sản dời đi chỗ khác yên ổn trước khi lửa cháy tới. Đến
khi lửa lan tới và mặc dù căn nhà của mình bị cháy tiêu rụi, nhưng người ấy vẫn
còn nguyên những gì quý giá, và nhờ đó có thể xây cất lại những căn nhà khác.
Cũng như thế, người trí biết được cái thân xác mình rất mong manh dễ tàn, và
của cải vật chất cũng vậy nay còn mai mất, người ấy trau dồi tích tụ công đức
bằng cách thực hành bố thí, cũng giống như người khôn biết thâu nhặt đồ vật quý
giá trước khi nhà cháy; và trong những kiếp sau người ấy (người bố thí) sẽ được
hưởng lại sự bố thí do phước báo đã tạo ra, giống như người khôn xây lại căn
nhà mới vậy.
Ngược lại, cũng trong một cuộc
hỏa hoạn, người ngu không biết làm gì, chỉ vì tham lam không muốn rời bỏ căn
nhà; đến khi lửa cháy tới nơi hoảng hốt lo chạy thoát thân môt mình không đem
theo đồ vật nào cả; người này không có trí khôn nhận xét được sự lan tràn nhanh
chóng của lửa (nhất là khi có gió to), để rồi dưới sức gió và ngọn lửa vô tình,
căn nhà của mình chỉ trong vài phút là cháy rụi ra tro. Tệ hơn nữa là chờ đến
giờ phút chót mới lo chạy thoát thân nên không đem theo được tài sản nào hết.
Do đó sau cuộc hỏa hoạn, người này phải chịu đói khát, chịu nóng lạnh và sống
cực khổ cho đến hết cuộc đời. Trường hợp của một người tham lam, bỏn xẻn, keo
kiệt cũng giống như người ngu vừa kể trên, tức là không biết rằng thân xác, của
cải và mạng sống rất mong manh, dễ tàn nay còn mai mất, không thể nào giữ mãi
được, chỉ trong một tíc tắc đồng hồ thôi là có thể tiêu tan mất hết. Vì không
biết được như vậy nên trong suốt cuộc đời, người ngu chỉ chúi đầu vào việc tích
tụ của cải, vơ vét tiền bạc, rồi bảo vệ, giữ gìn chúng một cách tham lam ích
kỷ. Nhưng rồi bất thình lình một ngày nào đó, ‘Thần chết’ đến gõ cửa nắm đầu
lôi đi (không thể từ chối được). Xác thân tứ đại này tan rã trở về đất rừng;
những của cải, tài sản khổ công tích tụ đều phải bỏ lại không đem theo được, và
kiếp sau tái sinh trong cảnh nghèo khổ, đói rét giống như người ngu hoảng hốt
trong cơn hỏa hoạn vậy.
Người trí rộng lượng biết được
rằng: khi bố thí cho người khác tức là làm lợi cho chính mình. Ngược lại người
ngu bần tiện, không biết được rằng: nếu không bố thí hay giúp đỡ người khác tức
là chả làm được lợi ích gì cho mình cả.
BỐ THÍ CÓ MẤY LOẠI?
Nếu ta là người học Phật lâu năm
ta sẽ nhanh nhẹn trả lời rằng có 3 loại:
1. Tài thí: tức bố thí tiền.
2. Pháp thí: tức bố thí pháp.
3. Vô úy thí: tức bố thí không
sợ hãi.
Trả lời như vậy xong, ta yên chí
cho là mình đã hiểu xong Bố thí Ba La Mật, rồi ta bỏ qua, đi lấy Kinh Hoa
Nghiêm ra đọc, hoặc lấy sách Tổ Sư Thiền ra coi. Nhưng than ôi! Ta đã lầm to,
Bố thí Ba La Mật đâu phải chỉ có bấy nhiêu thôi!
Khi nói đến sự bố thí, thì ta
nhận ra có ba yếu tố tạo ra nó, đó là: người cho (năng thí), món đồ (vật thí),
và người nhận (sở thí).
Ba món Bố thí mà ta vừa kể trên
(Tài, Pháp, Vô úy) thuộc về vật thí. Còn người cho và người nhận, ta đã sơ xuất
bỏ quên. Ba yếu tố cho ra sự Bố thí quan trọng lắm, nếu thiếu một trong ba cái
đó thì sẽ không có sự Bố thí.
Có người cầm trong tay một món
đồ muốn cho mà không có ai nhận thì không có sự bố thí. Có món đồ mà không có
người cho và người nhận thì cũng không có sự bố thí.
Nếu muốn phân loại thì ta phải
căn cứ trên ba yếu tố của sự bố thí mà phân loại:
- Trên phương diện người cho
(dayaka) thì có hai loại: Bố thí trong sạch (visuddhadàna) và không trong sạch
(avisudha).
- Trên phương diện vật thí (deya) thì có ba loại: Tài thí (Dravyadàna), Pháp thí (Dharmadàna) và Vô úy thí (Abhaydàna).
- Trên phương diện người nhận
(tức đối tượng của sự bố thí), còn được gọi là ruộng phước (phước điền) thì có
hai loại: ruộng phước nhỏ (karunàpunyaksetra)
và ruộng phước lớn (satkàrapunyaksetra).
Trên đây chỉ là tạm phân loại
tổng quát thôi, vì mỗi loại lại được phân ra làm các phần nhỏ nữa mà ta sẽ đi
sâu vào chi tiết sau.
I. Trên phương diện người thí
Có hai loại bố thí: Trong sạch
và không trong sạch.
1. Thế nào là bố thí không trong
sạch?
Đó là bố thí vì: tư lợi, bất
kính, chán ghét, yếu hèn, muốn dụ dỗ, sợ chết, muốn chọc tức, ghen tức, ganh
đua, kiêu ngạo, cầu danh, tránh né sự nguy hiểm, muốn mê hoặc lòng người, … Tóm
lại bố thí vì một cái tâm xấu xa, không nghĩ đến sự an vui hay lợi ích cho
người nhận.
2. Thế nào là bố thí trong sạch?
Nói một cách giản dị, đó là sự
bố thí có tánh cách ngược lại những gì đã tả ở phần trên. Còn có nghĩa là Bố
thí mà muốn đem lại lợi ích cho người nhận.
Vừa kể trên là sự bố thí trong
sạch cho tất cả mọi người. Riêng cho Phật tử thì Bố thí trong sach còn có nghĩa
là bồi đắp công đức cho sự giải thoát, tức Niết Bàn (Nirvàna).
Phải bồi đắp bằng cách nào? Bằng
cách bố thí với tâm trong sạch, không cầu phước báo của Trời (Deva), người (Manusya), không cầu sự sung sướng trong
đời này và đời sau, chỉ cầu giải thoát Niết Bàn, bố thí với tấm lòng cung kính
(satkàra) hoặc từ bi (maitrìkarùna). Trong lúc chưa chứng
được hoàn toàn quả Niết Bàn, ta vẫn tái sinh ở cảnh an vui của Trời, người (mặc
dù không cố ý cầu), đó là do nghiệp báo tốt của sự bố thí trong sạch. Đức Phật
có nói rằng: ‘Trên đời này có hai hạng người rất hiếm có: 1. Một vị Tỳ Khưu đã
hoàn toàn giải thoát trong số các tu sĩ lang thang (pravajita); 2. Một người biết bố thí trong sạch trong số
các cư sĩ tại gia (Anguttara
I).
II. Trên phương diện vật thí
Có ba loại: Tài thí, Pháp thí và
Vô úy thí. Trong mỗi loại trên lại chia ra: chân chính và không chân chính.
1. Tài thí
Tài thí lại chia ra hai loại: Ngoại
thí và Nội thí.
a) Ngoại thí (bàahyaadàna): là
bố thí những đồ vật bên ngoài như: vàng, bạc, của cải, quần áo, đồ ăn thức
uống…
b) Nội thí (àdhỳatmika): Nội thí là bố thí những gì
trong thân thể con người chúng ta; như xưa kia đức Phật còn làm Bồ Tát đã bố
thí đầu, mắt, tay, chân… Ngày nay ta không làm nổi như vậy thì ta có thể ra
công giúp sức như làm công quả cho chùa, kéo xe cho người già, v.v… hoặc tiếp
máu cho bệnh nhân ở nhà thương, hoặc ký giấy cho những bộ phận trong thân thể
mình nếu bị chết bất đắc kỳ tử.
c) Tài thí chân chính: là những
đồ vật được bố thí không phải do từ trộm cắp hay cướp giật. Nếu ngược lại là
Tài thí không chân chính.
Ngoài ra nếu ta bố thí trong
những trường hợp sau đây thì phước báo sẽ tăng lên gấp bội:
1) Bố thí đúng lúc. Có nghĩa là
bố thí cho những người đi xa, người từ xa mới đến, người bịnh, người trông coi
kẻ bịnh trong mùa lạnh giá.
2) Bố thí luôn luôn mà không
thấy mệt mỏi hay chán nản.
3) Bố thí tùy theo sở thích của
người xin.
4) Bố thí những vật quý giá.
5) Bố thí cho những người làm
việc cho chùa, làm vườn, đào mương…
6) Bố thí cho chư Tăng.
7) Bố thí mà kính trọng người
nhận.
8) Bố thí cho những người có đức
hạnh.
9) Bố thí tất cả những gì mình
có.
* Sự bố thí toàn vẹn của Họa sĩ
Karna (Sùtralamkaara).
Thuở đó, ở làng Puskaravàvati có
một người hoạ sĩ tên là Karna. Vì làm ăn không khá nên anh ta đã giả từ giả
đình vợ con, lên đường một mình sang nước lân cận là Taksasila. Nơi đây anh ta
tận tụy làm việc, kết quả là sau mười hai năm, anh ta đã dành dụm được ba chục
đồng tiền vàng. Hớn hở, anh ta trở về quê cũ, trên đường về làng nghe thấy một
hồi chuông trống báo hiệu sắp có một cuộc hội họp quan trọng của chư Tăng, thế
1à anh ta lần mò đến. Với một đức tin trong sạch, anh đi gặp vị Tăng Tri sự
(tức vị tăng phân phối chỉ huy buổi họp) mà hỏi rằng: ‘Thưa ngài, buổi họp như
vậy nếu kéo dài một ngày thì phải cần chi phí bao nhiêu để có thể cúng dường
(vật thực) đầy đủ cho chư Tăng?’ Vị Tăng Tri sự trả lời: ‘Khoảng ba mươi đồng
vàng thì đủ cho một ngày.’ Nghe vậy xong anh liền móc túi lấy ra ba mươi đồng
vàng đưa hết cho vị Tri sự mà thưa rằng: ‘Con xin thành tâm dâng cúng vật thực
một ngày cho chư Tăng. Sau đó, anh ta trở về với hai bàn tay trắng.
Về đến nhà, vợ anh mừng rỡ chạy
ra đón và hỏi: ‘Trong suốt mười hai năm anh đã làm được bao nhiêu tiền?’ Anh ta
trả lời: ‘Được ba mươi đồng vàng’. Vợ anh hỏi tiếp: ‘Thế ba mươi đồng vàng đâu
anh hãy cho xem?’ Anh ta nói: ‘Tôi đã gieo tất cả vào ruộng phước (punyasetra)
rồi’. Vợ anh hỏi ruộng phước nào thì anh trả lời: ‘Tôi đã cúng dường hết cho
Giáo đoàn Tăng Già (Sangha)’.
Vừa nghe như vậy xong, vợ liền la hét mắng chửi và đánh đập anh, rồi lôi kéo
anh ra tòa nhờ quan trên xét xử và trừng phạt anh. Ra đến tòa, quan hỏi có
chuyện gì thì vợ anh thưa rằng: ‘Chồng tôi là một tên khùng nặng! Trong suốt
mười hai năm đi làm ở nước ngoài, dành dụm được ba mươi đồng vàng. Nhưng về đến
đây không biết nghĩ và thương hại đến vợ con nên chồng tôi đã phung phí cho
người ta hết không còn đồng nào. Chiếu theo pháp luật, tôi lôi anh ta đến đây xin
quan trên xét xư.’ Quan tòa hỏi người chồng: ‘Tại sao anh lại đưa cho người ta
hết thay vì đem về đưa cho vợ con?’ Anh trả lời: ‘Trong những kiếp sống trước
của tôi, tôi đã không biết làm các hạnh lành, vì thế nên trong kiếp này tôi
phải chịu cảnh nghèo và cực khổ. Nhưng cũng trong kiếp này, tôi có duyên may
gặp được một ruộng phước, và nếu tôi không nắm lấy cơ hội gieo vào đó những hạt
giống lành, thì chắc chắn trong những kiếp vị lai tôi sẽ phải chịu mãi mãi cảnh
nghèo khổ không biết đến bao giờ mới hết. Vì muốn thoát khỏi cảnh nghèo khổ nên
ngày hôm nay tôi đã cúng dường hết số vàng của tôi cho đoàn Tăng Già.’
Vị quan tòa này lại là một Ưu bà
tắc (Upàsaka), có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, nên sau khi nghe anh họa sĩ
trả lời như thế, liền hết lòng tán thán: ‘Việc làm của anh quả thật là cao
thượng, anh đã biết bố thí toàn vẹn cho Giáo đoàn số tiền dành dụm được sau bao
năm dành dụm cực khổ. Thật là cao quý, tôi đây thiệt không bằng.’ Thế rồi vị
quan tòa liền tháo cái vòng ngọc đang đeo ở cổ đưa tặng anh ta, cùng lúc cho
anh ta con ngựa của mình đang cưỡi và một làng nhỏ. Cuối cùng, quan tòa lại nói
thêm: ‘Anh mới vừa hiến tặng cho Giáo đoàn, thì tôi đây cũng xin hiến tặng lại
anh, nhưng đó chỉ gọi là một chút quả báo hiện tại, chắc chắn trong những kiếp
tới phước đức quả báo của anh sẽ vô lượng.’
* Sự
cúngdường của Ma Ha Ca Diếp (Maha Kasyapa)
Ca Diếp có nghĩa là Ẩm Quang, vì
thân hình của ngài lúc nào cũng tỏa ra ánh sáng rực rỡ và trang nghiêm. Do nhân
duyên nào mà được như thế? Trong một tiền kiếp quá khứ xa xưa vào thời đức Phật
Tỳ Bà Thi (Vipasyin), lúc đó tôn giả Ca Diếp tiền thân là một thợ bạc chuyên
đúc tượng. Một ngày nọ, có một thiếu nữ nghèo vào tiệm trên tay mang theo một
thoi vàng, nhờ ông đúc một pho tượng Phật. Người thợ bạc thấy thế liền hỏi:
“Vàng ở đâu mà cô có?” Thiếu nữ trả lời: “Trên đường đi lễ Phật về nhặt được.”
Người thợ bạc lấy làm ngạc nhiên
hỏi: “Tôi thấy cô nghèo khổ quá, không đủ cơm ăn, áo mặc, sao cô không đem vàng
này bán đi để chi dụng cho cuộc sống mà lại đem đúc tượng Phật?”
Thiếu nữ nói: “Vì tôi có phát
lời nguyện tại chùa là nếu có đủ thuận duyên thì tôi sẽ đúc một pho tượng Phật
bằng vàng để cho chúng sinh chiêm ngưỡng lễ bái. Và hôm nay làm được như vậy là
tôi mãn nguyện lắm rồi, không còn mong cầu chi khác hơn.”
Cảm động trươc sự phát tâm bố
thí cúng dường quá rộng lớn của thiếu nữ ấy, người thợ bạc phát tâm: “Được, tôi
sẽ đúc cho cô pho tượng này và tôi cũng xin nguyện cúng dường không lấy tiền
công.”
Do nơi công đức bố thí và cúng
dường này mà chín mươi mốt kiếp sau, hai người sinh ra lúc nào thân hình cũng
trong sáng và trang nghiêm, gặp được nhiều thiện hữu tri thức, cho đến kiếp sau
cùng sinh vào nước Ấn Độ gặp Phật Thích Ca xuất gia học đạo đồng chứng quả A La
Hán.
2. Pháp thí
Thế nào là pháp thí?
Được xem là pháp thí gồm có:
1) Tất cả những lời nói chân
thật, hữu ích có thể đem lại an lạc cho người nghe.
2) Giảng dạy chánh pháp của đức
Phật (Buddhadharma)
3) Giảng dạy ba Tạng pháp: Kinh
(Sùtra), Luật (Vinaya) và Luận (Abhidharma).
4) Giảng dạy cho người biết hai
pháp: Thanh Văn (Sravaka) và Bồ Tát (Bodhisattva).
Nghi vấn: Tại sao Đề Bà Đạt Đa
(Devadatta) cũng giảng dạy ba Tạng pháp, pháp Thanh Văn và Bồ Tát mà lại bị đọa
xuống địa ngục? Lý do tại sao?
Ai cũng biết Đề Bà Đạt Đa là
người chuyên môn ganh đua tìm cách hại đức Phật, lại còn hay chia rẽ phá rối sự
hòa hợp của Tăng đoàn. Ngoài hai trọng tội này ra, Đề Bà Đạt Đa lại còn tạo rất
nhiều tội về tà kiến. Sự giảng dạy thuyết pháp của Đề Bà Đạt Đa không phải là
một sự bố thí Pháp trong sạch, nhằm cầu sự giải thoát, mà là cầu danh, cầu lợi,
cầu sự kính trọng… Chính vì sự Pháp thí không trong sạch này nên Đề Bà Đạt Đa
chẳng gặt hái được công đức nào, và vẫn bị xuống địa ngục như thường.
* Pháp thí không chân chính là
giảng dạy những giáo pháp của ngoại đạo, không đưa con người đến sự giải thoát
sinh tử luân hồi (như dạy xuất hồn, dạy làm bùa phép, v.v…)
* Pháp thí chân chính là giảng
dạy những giáo pháp đưa con người đến giải thoát rốt ráo của Niết Bàn (Nirvàna).
3. Vô úy thí
Vô úy thí có nghĩa là bố thí sự không
sợ hãi, tức là làm cho người khác được an tâm yên chí, không sợ gì cả.
Theo nguồn gốc Kinh tạng nguyên
thủy (Anguttara, Itivuttaka)
thì chỉ có hai loại Bố thí, đó là Tài thí và Pháp thí. Nhưng theo giáo lý Đại
thừa (Mahayàna) có thêm vào một loại bố thí thứ ba nữa là Vô úy thí.
Theo ý kiến cá nhân, thì tôi
thấy Vô úy thí nằm trong Tài thí hoặc Pháp thí. Vì sao? Vì khi bố thí, tức là
cho thì có hai cách: một là cho bằng hành động, hai là cho bằng lời nói. Nếu
bằng hành động thì đó thuộc Tài thí, còn nếu bằng lời nói thí đó thuộc Pháp
thí.
Thí dụ:
* Nếu có một người đi đường ban
đêm sợ cướp giật, thấy thế ta liền đi theo và bảo vệ cho người đó hết sợ. Ta
gọi đó là Vô úy thí. Nhưng hành động đi theo của ta chính là thân thí (có nghĩa
là vác cái thân của ta đi theo người đó), vậy tức là thuộc tài thí rồi.
* Nếu có người sợ chết, sợ xuống
địa ngục, ta liền đem giáo lý an ủi họ, chỉ cho họ làm lành hoặc biết niệm Phật
thì sau khi chết sẽ về Cực Lạc. Nhờ đó họ không còn sợ chết nữa. Ta gọi đó là
Vô úy thí. Nhưng những lời lẽ mà ta an ủi họ, đó chính là Pháp thí.
Ta không thể nào tự nhiên làm
cho người khác hết sợ hãi được. Ta phải làm một cái gì đó (một lời nói, một sự
hiện diện, một sự an ủi, một sự giúp sức…) cho người ấy thì người ấy mới hết sợ
(vô úy) được. Sự hết sợ chính là kết quả của tài thí hoặc Pháp thí. Vì vậy Vô
úy thí không thể được xem là một loại bố thí riêng biệt không tùy thuộc gì nơi
hai sự bố thí kia cả (Tài và Pháp thí).
* Thế nào là vô
úy thí chân chính?
Vô úy thí chân chính hay không
chân chính đó là tùy thuộc ở Tài thí và Pháp thí có chân chính hay không.
Thí dụ:
- Có một người sợ chết. Ta bảo
họ đừng sợ, cứ lo niệm Phật, ăn chay, làm phước, đến khi chết sẽ về Cực Lạc.
Thế rồi họ nghe theo và hết sợ chết. Đó là Vô úy thí chân chính.
- Cũng cùng một người, nếu ta
bảo họ đừng sợ chết, vì chết là hết không gì phải lo cả, không có địa ngục,
không có thiên đàng. Nếu họ tin ta mà không sợ chết nữa thì đó là Vô úy thí
không chân chính (vì ta dạy họ chấp đoạn).
4. So sánh ba loại Bố thí
Vì thấy Vô úy thí nằm trong Tài
thí hoặc Pháp thí nên ở đây tôi chỉ so sánh Tài thí với Pháp thí thôi.
Đa số chúng ta ai cũng biết
trước là Pháp thí quý hơn Tài thí. Chính đức Phật đã nói: ‘Trong hai loại bố
thí này thì Pháp thí là trên’ (Anguttara
I). Vì sao? Vì nhiều lý do:
- Phước báu của Tài thí vẫn
thuộc cõi Dục giới (Kàmadhatu)
còn phước báu của Pháp thí có thể nằm trong ba cõi (Traidhàtuka) hoặc ngoài ba cõi.
- Sự Bố thí tài (tiền của, đồ
vật) có giới hạn, còn sự Bố thí Pháp không có giới hạn (apraamàna), vì tiền cho lâu rồi cũng
hết, còn giáo pháp cho hoài không bao giờ hết.
- Quả báo của tài thí thuộc về
hữu lậu, trong khi quả báo Pháp thí thuộc vô lậu.
- Bố thí Tài cần đòi hỏi nhiều
sức lực, ra công trong khi bố thí Pháp chỉ cần sự thông minh và trí tuệ.
- Chỉ có bố thí Pháp mới có thể
gặt hái được những phước báo giống như các hàng Thanh Văn (Sravaka), Bích Chi Phật (Pratyekabuddha) hay Bồ Tát (Bodhistta).
- Chí có bố thí Pháp mới có thể
dẫn người khác đến con đường giác ngộ (Bodhmàrga).
- Ta có thể thực hành Tài thí
trong bất cứ thời đại (Kalpa) nào, dù có Phật hay không có Phật ở đời. Ngược
lại, chỉ trong thời đại có một đức Phật ra đời ta mới có thể thực hiện Pháp thí
được. Vì thế Pháp thí hiếm hơn Tài thí.
Ta có thể nêu ra nhiều lý
do nữa, nhưng tóm lại bố thí Pháp sẽ gặt hái được nhiều công đức hơn bố thí
Tài.
III. Trên phương diện người nhận hay ruộng phước
Tại sao lại gọi người nhận (pratigràhaka) ruộng phước (punyaksetra)? Tại vì chính ở nơi họ mà
ta gieo hạt giống phước đức nên gọi là ruộng phước. Nhờ có họ mà ta mới thực
hiện được sự bố thí.
Có hai loại ruộng phước:
1) Ruộng phước nhỏ (Karunàpunyaksetra): Vì lòng thương hại (krunà) người nhận nên ta phát tâm bố
thí. Những hạt giống thương hại sẽ cho ra những cây lúa nhỏ, nên gọi là ruộng
phước nhỏ.
2) Ruộng phước lớn (Sakàrapunyaksetra): Vì có tâm kính
trọng (satkàra) nên ta phát
tâm bố thí. Những hạt giống kính trọng sẽ cho ra những cây lúa lớn, nên gọi là
ruộng phước lớn.
* Sự Bố thí của vua A Dục (Asoka)
Một hôm đức Phật đi tản bộ cùng
với Ngài A-nan trên thành Vương Xá (Ràjagrha). Đến một quãng đường có hai trẻ
nhỏ Jaya và Vijaya đang vui đùa lấy đất sét nắn thành những cái nhà nhỏ. Khi
thấy đức Phật đến gần, chúng rất vui mừng hớn hở. Jaya lấy đất sét nắn thành
một cái bánh, thành kính cúi đầu cúng dâng cho đức Phật; còn Vijaya lúc đó cũng
chắp hai tay lại cúi lạy theo bạn. Jaya trong lúc cùng dường cái bánh đất, phát
nguyện rằng sau này sẽ làm vua an trụ cả thế giới, rồi em tụng lên một bài kệ
cúng dường đức Phật. Đức Phật hoan hỷ đưa tay nhận cái bánh đất của em và mỉm
cười. Thấy đức Phật mỉm cười, ngài A-nan lấy làm lạ nên hỏi lý do và đức Phật
trả lời rằng: ‘Một trăm năm sau, khi ta nhập Niết Bàn đứa bé này sẽ là một vị
Chuyển luân Thánh vương (Cakravartin)
trông coi một trong bốn châu thiên hạ, và trong thành phố Kusumpura (Pataliputrà), nó sẽ là một vị minh
vương tên là A Dục (Asoka).
Sau khi chia phát những xá lợi của ta xong, nó sẽ xây cất 84.000 bảo tháp để
làm lợi ích cho muôn loài.’
Sự tích trên cho ta thấy ý nghĩa
phước báo của một sự bố thí với lòng kính trọng người nhận, tức ruộng phước
lớn.
* Sau khi phân tích tỉ mỉ, đi sâu vào chi tiết từng
loại bố thí, ta có thể tóm tắt lại như sau:
Một sự bố thí được xem là trong
sạch và đem lại phước đức quả báo vô lượng vô biên cần phải có ba yếu tố sau:
1. Người bố thí cần phải có tâm
trong sạch.
2. Vật được thí phải chân chính.
3. Người nhận phải được kính
trọng tối đa.
BỐ THÍ BA LA MẬT
Thế nào là Bố thí Ba La Mật?
Về Bố thí (Dàna) thì chúng ta đã trình bày trong
các phần trước rồi. Bây giờ chúng ta tìm hiểu chữ Ba La Mật (parmità).
Parmità dịch âm là Ba La Mật Đa.
Nhưng ở đây chúng ta nói tắt là Ba La Mật (parami).
‘Para’ có nghĩa là bờ bên kia; ‘mi’ có nghĩa
là đi đến. Bố thí Ba La Mật có nghĩa là băng qua con sông Bố thí (dànanadi) và đến được bờ bên kia. Chữ
‘đến được bờ bên kia’ quan trọng lắm. Vì sao? Vì có nhiều khi ta bắt đầu qua
sông, nhưng đến nửa đường ta lại quay về, đó không gọi là Ba La Mật.
1. Ngoài ra ‘bờ bên này’ còn có
nghĩa là bờ tham lam, bỏn xẻn, con sông là sự Bố thí; ‘bờ bên kia’ là bờ đại bi
(mahakarunà).
2. ‘Bờ bên này’ là bờ tà kiến
chấp trước (mithyàdrsti), ‘bờ bên kia’ là bờ Trí huệ (prjnà).
3. ‘Bờ bên này’ là bờ sanh tử
luân hồi (Sasàra), ‘bờ bên
kia’ là bờ Niết Bàn giải thoát (Nirvàna).
1. Ngoài ra, Bồ Tát khi bố thí
thấy rằng sự bố thí không sanh, không diệt, không có thiệt, tức là không thấy
có người cho, vật cho, và người nhận, đó gọi là Bố thí Ba La Mật.
Ở chỗ này ta nên dừng lại, phân
tách một chút, vì đa số chúng ta đều lầm lẫn cho rằng mình Bố thí Ba La Mật
nhưng thật sự thì không phải vậy. Ta thường được nghe giảng trong Kinh Kim Cang
nói rằng bố thí mà không phải bố thí mới thực là bố thí, hoặc bố thí mà không
chấp nhân, ngã, chúng sinh, thọ giả mới thực là bố thí, hoặc bố thí mà không
thấy ta là người cho, và kia là người nhận mới là bố thí, v.v…
Chữ Bố thí mà ‘không thấy’ ở đây
không có nghĩa là bố thí mà nhắm mắt lại để khỏi thấy, hoặc bố thí mà tâm không
dám nghĩ gì hết. ‘Không thấy’ ở đây là kết quả của một sự quán chiếu nhân duyên
thấy được các pháp không có tự tánh. Vì thấy các pháp không có tự tánh nên thấy
sự bố thí không có tự tánh. Như ta đã xem qua ở phần trước, bố thí không thể là
một cái gì tự nhiên có được, phải có đầy đủ ba yếu tố (người cho, vật cho,
người nhận) hợp lại mới có nó. Nếu thiếu một trong ba thì không có sự bố thí.
Do đó bố thí không có thiệt, nó chỉ là giả danh của một hợp thể (yếu tố). Xa
hơn nữa, ba yếu tố vừa kể trên, chúng cũng lại là giả danh của một hợp thể nào
đó. Như người cho và người nhận là giả danh của hợp thể ngũ uẩn (sắc, thọ, tuởng,
hành, thức), đồ vật được coi là giả danh của một hợp thể vô số chất liệu. Và cứ
thế ta quán chiếu để thấy không có thực tướng, nó hiện hữu vì vô số các yếu tố
khác hiện hữu. Thấy được như vậy gọi là thấy ‘Không’ (sùnya). Đem áp dụng cái thấy ‘Không’ vào
sự bố thí ta sẽ thấy không có cái gì thực sự là bố thí cả, mà chỉ có một sự
chuyển biến, diễn tiến, sinh diệt của vô số nhân duyên, đây gọi là Bố thí Ba La
Mật.
Chúng ta nên cẩn thận, đừng vội
vã hấp tấp thực hành ‘Bố thí Không’, nếu ta chưa thực sự hiểu được ‘tánh Không’
(Sùnyatà), hay thấy được sự duyên khởi của các pháp. Tốt hơn hết là ta nên thực
hành sự Bố thí trong sạch như đã nói ở phần trước. Còn nếu ta cố chấp cứ muốn
bố thí theo kiểu (hiểu lầm) Kim Cang, tức là nhắm mắt để khỏi thấy ta, thấy vật,
thấy người, hoặc bố thí mà tâm không nghĩ gì cả thì đó chẳng khác gì một người
máy ‘Rô bô’ cầm hộp bánh bố thí cho một em bé. Đó gọi là Bố thí Rô bô máy, chứ
không phải là Bố thí Ba La Mật! Dĩ nhiên là Rô bô chả được phước báo gì hết!
* Bồ Tát thực hiện Bố thí Ba La Mật ra sao?
- Bồ Tát thực hiện tất cả các
loại bố thí trong sạch, Tài thí, Nội thí, Ngoại thí, Pháp thí không bao giờ hối
tiếc.
- Bồ Tát bố thí một cách bình
đẳng với tất cả mọi loài, không bao giờ nghĩ rằng:
- Phải bố thí cho người lớn chứ không
cho trẻ em.
- Phải bố thí cho người tu hành
chứ không cho người thường.
- Phải bố thí cho người chứ
không cho vật.
- Phải bố thí cho Hòa Thượng chứ
không cho chú tiểu.
- Bồ Tát bố thí không cầu phước
báo.
- Bồ Tát bố thí không kể ngày
hay đêm, mùa đông hay mùa hè, trời tốt hay trời xấu.
- Bồ Tát bố thí là để thực hiện
tướng (bhùtalaksana) của sự
bố thí.