Phần II.
Bố thí và Sáu Ba la mật
BỐ THÍ VÀ SÁU BA LA MẬT
Trong sáu Ba La Mật (Bố thí, Trì
giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ) thì Bố thí đứng đầu, vì nó làm
nên nền tảng cho cả sáu Ba La Mật.
I. Bố thí làm nền tảng cho bố thí
Bố thí gồm có ba trình độ: hạ,
trung, thượng. Nghĩa là sao?
Khi mới bắt đầu bước chân vào Bồ
Tát đạo, Bồ Tát tập bố thí trong sạch, nhưng chỉ bố thí những đồ vật tầm thường
như: đồ ăn, thức uống, đèn, dầu, v.v… Đó gọi là bố thí hạ (avara).
Từ chỗ luôn thực hành bố thí hạ,
tâm Bồ Tát bắt đầu phát triển, Bồ Tát tập bố thí nhiều hơn như: quần áo, thuốc
men, nhà cửa, vàng, bạc, những món đồ quý giá, v.v… Đó gọi là bố thí trung (madhya).
Từ chỗ luôn thực hành bố thí
trung, hảo tâm của Bồ Tát phát triển tới mức cùng tột, tức là bố thí tất cả
những gì mình có (nội thí và ngoại thí) không ngần ngại hay hối tiếc như: đầu,
mắt, tay, chân, v.v… Đó gọi là bố thí hạ (agra).
II. Bố thí làm nền tảng cho trì giới
Bồ Tát biết rằng nếu ta tham
lam, bỏn xẻn, keo kiệt, không bao giờ biết làm phước bố thí cho ai, thì kiếp
sau ta sẽ chịu cảnh nghèo khổ. Vì nghèo khổ nên ta có những ý tưởng trộm cắp,
lường gạt. Và nếu đi trộm cắp hay cướp giật thì ta dễ phạm phải tội giết người.
Vì nghèo khổ nên ta khó có thể thỏa mãn dục lạc, dục lạc không được thỏa mãn
thì ta dễ phạm vào tà hạnh dâm dục. Vì nghèo khổ nên ta phải chịu làm những
việc hạ tiện, hạ cấp. Vì hạ tiện, hạ cấp nên ta luôn luôn sợ chủ và ta sẽ dễ
phạm phải tội nói dối, nịnh bợ, v.v… Như vậy, vì nghèo khổ, ta sẽ dễ phạm vào
mười điều ác của thân, miệng, ý.
Ngược lại, Bồ Tát nghĩ, nếu thực
hành bố thí ta sẽ tái sinh trong cảnh giàu sang, tiền của đầy đủ, nhờ đó sẽ dễ
giữ gìn giới luật.
* Chuyện con rắn, con ếch và con
rùa (Jàtaka)
Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), trong
một tiền kiếp xa xưa là một con rắn. Con rắn này sống trong một cái lạch cùng
làm bạn với một con ếch và một con rùa, và cả ba con đều làm bạn giao du với
nhau. Thế rồi một hôm hạn hán, nước ở trong lạch cạn dần và sắp hết, trong lạch
chả có gì để ăn. Mỗi con chia nhau ra đi kiếm ăn. Vì đói quá không tìm được gì
nên con rắn đã nghĩ chuyện tính ăn con ếch. Nó bèn nhờ con rùa đi tìm con ếch
lại nhà nó chơi. Đến khi rùa gặp được ếch thì ếch trả lời rằng:
Khi rơi vào cảnh nghèo đói, túng thiếu.
Người ta thường quên hết nghĩa ban đầu
Không kể gì đến đạo đức,
Chỉ biết làm sao
Cho hết đói mà thôi!
Hãy nhớ những gì ta vừa nói và
về bảo với rắn rằng: ‘Con ếch sẽ không bao giờ trở về gặp rắn nữa đâu!’
III. Bố thí làm nền tảng cho nhẫn nhục
1. Khi Bồ Tát thực hành hạnh bố
thí mà đối tượng (người nhận) từ chối, xua đuổi hay đòi hỏi hơn, hoặc xin không
đúng lúc, hoặc không cần xin mà cứ xin; lúc đó Bồ Tát sẽ nghĩ như vầy: ‘Nay ta
thực hành bố thí cốt để cầu giác ngộ thành Phật; không có ai bắt buộc ta phải
cho cả. Bố thí đây là làm cho chính ta, tại sao phải nổi giận?’ Suy tư như vậy,
Bồ Tát thực hành nhẫn nhục.
2. Khi Bồ Tát bố thí mà người
nhận không bằng lòng, nổi giận hay mắng chửi, thì Bồ Tát lại nghĩ như vầy: ‘Nay
ta cho tất cả những tài sản quý giá của ta. Ta tập xả bỏ những gì khó xả bỏ. Có
lý đâu ta lại không chịu được những lời mắng chửi vô lý này? Nếu ta không nhẫn
nhục thì sự bố thí của ta sẽ không trong sạch. Bố thí mà không kiên nhẫn cũng
giống như con voi trắng (bạch tượng), sau khi tắm ở dưới sông, vừa lên trên bờ
lại nằm ềnh ra đất dơ.’ Suy tư như vậy, Bồ Tát thực hành nhẫn nhục.
IV. Bố thí làm nền tảng cho tinh tấn
Trong lúc thực hành bố thí, Bồ
Tát cũng thực hành luôn cả tinh tấn (Vìrya).
Khi mới bắt đầu thực hành hạnh bố thí, phước đức quả báo cuả Bồ Tát rất ít nên
Bồ Tát không thể thực hiện nhiều sự bố thí. Nhưng vì muốn bố thí nhiều, cho tất
cả mọi loài, nên Bồ Tát phải tinh tấn thực hành bố thí. Nhờ tinh tấn bố thí nên
phước đức (Tài, Pháp) của Bồ Tát càng tăng trưởng khiến Bồ Tát lại càng say mê
bố thí nhiều hơn, và cho nhiều người. Cứ thế Bố thí và Tinh tấn vừa làm nhân
vừa làm duyên cho nhau.
V. Bố thí làm nền tảng cho thiền định
Người tu thiền định, ban đầu luôn
luôn gặp năm chướng ngại (ngũ cái): tham lam, tức giận, hôn trầm, trạo cử và
nghi hối. Nếu không diệt trừ được năm chướng ngại này thì không thể tiến xa
trong Thiền định.
Thực hành Bố thí trong sạch tức
là đang diệt trừ năm chướng ngại. Vì sao?
- Bố thí là diệt trừ tham lam,
bỏn xẻn.
- Bố thí trong sạch tức có nhẫn
nhục, có nhẫn nhục thì tiêu trừ được giận tức.
- Khi bố thí để cầu quả vị Phật,
Bồ Tát cần nhiều Tài và Pháp để có thể bố thí rộng rãi cho tất cả mọi loài. Vì
cần nhiều Tài và Pháp nên Bồ Tát phá trừ được lười biếng, giải đãi là nguyên
nhân đưa đến hôn trầm.
- Khi bố thí Bồ Tát khởi tâm
trong sạch, tâm kính trọng người nhận, chú ý đến hành động của mình không dám
suy nghĩ bậy bạ, nên luôn luôn tỉnh thức không chạy theo vọng tưởng, do đó diệt
trừ trạo cử.
- Khi thực hành bố thí, Bồ Tát
biết chắc là sẽ gặt được phước đức quả báo vô lượng, vì thế nên Bồ Tát luôn
luôn tìm cơ hội để bố thí. Nhờ bố thí nên được nhiều phước báo và từ đó lại
càng tin nơi sự bố thí. Nhờ lòng tin vững chắc này Bồ Tát phá trừ nghi hối.
VI. Bố thí làm nền tảng cho trí huệ
1. Nhờ bố thí từ đời này qua đời
khác, Bồ Tát gặt được nhiều phước đức, do đó Bồ Tát tin nơi Tam Bảo, nhờ tin
nơi Tam Bảo, Bồ Tát phát tâm học chánh pháp, nhờ học chánh pháp, Bồ Tát phá trừ
tà kiến và vô minh, nhờ phá trừ vô minh mà trí huệ tăng trưởng.
2. Hơn nữa, khi thực hành Bố thí
Ba La Mật, Bồ Tát luôn luôn suy tư về thực tướng của ba yếu tố (người cho, vật
cho, người nhận). Nhờ luôn luôn suy tư như vậy, Bồ Tát hiểu được thực tướng của
Bố thí. Hiểu được thực tướng tức là trí huệ bát nhã.
3. Tất cả mười phương chư Phật
đều bắt đầu con đường giác ngộ bằng một hạnh đầu tiên là bố thí. Cũng vậy, một
ngàn vị Phật quá khứ của hiền tiếp, mỗi vị trong lúc phát Bồ đề tâm (tức tâm
cầu thành Phật) lần đầu tiên, đều là đang bố thí cúng dường cho một đức Phật
nào đó: có vị thì cúng dường một hoa sen, có vị cúng dường một cái áo, có vị
cúng dường một cái tăm xỉa răng, v.v… và trong lúc cúng dường như vậy, các ngài
đều phát Bồ đề tâm (bodhicitta).
Do đó Bố thí là nền tảng của Phật đạo.
NHỮNG ĐIỀU LẦM LẪN VỀ BỐ THÍ
Qua những phần trước, ta đã có
một ý niệm về thế nào là bố thí trong sạch hay không trong sạch, đúng đắn hay
không đúng đắn. Nhưng đó là trên phương diện giáo lý tổng quát. Sợ có nhiều
người tâm tính thành thật, chất phác không hiểu rõ, nên trong phần này, ta hãy
tạm lấy những thí dụ cụ thể xảy ra thường xuyên trong đời sống sinh hoạt của
chùa chiền, để mọi người hiểu rõ hơn.
* Về Pháp thí
Thường đi song song với pháp thí
là sự khinh người. Nếu ta là một vị thầy, thì ta không thể thực hành tài thí
được mà chỉ có thể bố thí Pháp thôi.
Bố thí Pháp là một việc rất tốt,
nhưng nếu không khéo thì song song với việc bố thí ta sẽ nhiễm cái tánh khinh
người. Tánh này là một tánh xấu, không những đạo Phật mà tất cả các đạo khác
đều khuyên ta phải trừ bỏ nó. Trong một Hội Đoàn Phật Giáo, Tăng già khinh Tăng
trẻ, Tăng trẻ khinh Phật tử già, Phật tử già khinh Phật tử trẻ thì hậu quả của
nó ra sao? Hậu quả sẽ là Phật tử trẻ sẽ bất kính Phật tử già, Tăng trẻ bất kính
Tăng già. Và trong một Hội Đoàn mà từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên có một
sự khinh thường và bất kính như vậy thì chắc là Hội viên sẽ sớm rút lui. Đạo
Phật không dạy ta khinh người, mà ngược lại dạy ta tánh bình đẳng, có nghĩa là
kính trọng tất cả mọi người như nhau. Xưa kia đức Phật đâu có khinh ai, ngay cả
đối với một em bé cũng vậy (Xem tích chuyện Asoka). Chúng ta hãy noi theo hạnh
của Thường Bất Khinh Bồ Tát trong Kinh Pháp Hoa, gặp ai ngài cũng lễ lạy và
nói: “Tôi chẳng dám khinh quý vị, vì quý vị đều sẽ làm Phật.”
Nếu ta có cơ duyên học nhiều,
hiểu rộng thì khi có người đến hỏi đạo, ta nên vui lòng chỉ dẫn. Trong trường
hợp ta bận tu trì, tụng niệm hay nghiên cứu thì ta có thể dời lại khi khác, chứ
ta không nên khinh người đến hỏi ta, cho họ là chúng ngu tối không biết gì.
Chính vì không biết nên họ mới đến hỏi, chứ nếu biết rồi họ đâu có đến, mà nếu
họ không đến thì làm sao ta có cơ hội bố thí Pháp? Vì vậy ta cần phải cảm ơn
họ. Trước khi, trong khi và sau khi bố thí Pháp, ta cũng nên phát nguyện và hồi
hướng. Nguyện cho người hỏi đạo trước mặt ta mau có được trí huệ sáng suốt và
hồi hướng công đức pháp thí này cho sự giải thoát luân hồi, hoặc quả vị Phật
(nếu ta là Bồ Tát).
Hoặc giả ta tu lâu năm, có chùa
to mà khinh người mới tu có chùa nhỏ, thì ta coi chừng sẽ có một ngày đức Phật
hiện ra mà trách mắng ta đó! Nhưng chỉ sợ lúc đó ta lại không nhận ra đức Phật,
hoặc nếu có nhận ra đi nữa ta cũng làm bộ nhắm mắt bịt tai không muốn nghe. Nếu
vậy thì đức Phật cũng lắc đầu chịu thua.
Và nếu ta để ý một chút thì ta
sẽ thấy danh từ ‘Tu’ rất nguy hiểm, vì nó gây ra nhiều hiểu lầm và tai hại.
Đối với một người tánh tình chất
phác, khi họ nghe nói ta tu lâu rồi, họ sẽ nể và kính trọng ta lắm, vì họ nghĩ
rằng ta đã chứng được gì rồi, không chứng được A La Hán thì chắc cũng chứng
được Thượng Tọa hay Đại Đức. Trong tâm họ, cho ‘Tu’ là được cái gì, giống như
đi lính vậy. Vì đi lính lâu năm thì được chức quan ba, quan năm, có quyền ra
oai với lính binh nhì, binh nhất hay sĩ quan dự bị. Nhưng sự thật thì không
phải vậy, Tu có nghĩa là sửa. Thí dụ ta có một chiếc xe hơi mới mua mà bị hư,
thì ta phải sửa nó. Nếu ta là một người thợ giỏi thì chỉ trong một ngày là ta
sửa xong. Nhược bằng sửa năm ngày rồi mà chưa xong, thì ta quả là một người thợ
dở. Trong trường hợp này ta sẽ không dám chạy cùng làng khắp xóm mà la lên
rằng: ‘Tôi sửa (xe) lâu rồi, tôi sửa lâu rồi.’ Cũng như thế, khi ta nói với mọi
người rằng ta Tu lâu năm rồi, đó có nghĩa là ta sửa lâu lâu năm rồi. Sửa cái
gì? Sửa những tánh hư, tật xấu, nhất là cái tánh ngã mạn của ta. Sửa xong chưa?
Ở đây có hai giả thuyết. Nếu
xong rồi thì ai lại đi nói rằng tôi sửa (tu) lâu! Nếu nói rằng tôi sửa (tu) lâu
tức là chưa xong. Nếu sửa chưa xong thì ta phải biết mắc cở chứ! Ta tu theo đạo
Phật cốt để trừ bỏ cái tánh ngã mạn và khinh người của ta, nhưng không khéo ta
lại để cho chính chữ ‘Tu’ nó đánh lừa ta, làm cho lòng ngã mạn khinh người của
ta lại tăng thêm. Nếu ý thức được sự tai hại tạo nên do chữ ‘Tu’ thì ta đừng
ngần ngại thưa và đề nghị với quý Thầy từ nay trở đi không dùng chữ ‘Tu’ nữa mà
thay thế bằng chữ ‘sửa’. Hơn nữa, chữ ‘Tu’ là một danh từ Hán Việt, còn chữ
‘Sửa’ là Tiếng Việt, nó chính xác, rõ ràng, dễ hiểu hơn và nó lại có công năng
rất lớn, khiến cho ta ý thức được luôn luôn là mình có những tánh hư tật xấu
cần phải sửa cho xong, và cũng diệt được cái tánh ngã mạn, khinh người của ta
nữa.
Chỉ có người dạy dột mới hay
khinh người. Vì sao? Vì khinh người tức là khinh mình vậy! Nếu ta khinh người
thì ta sẽ khinh lại ta, đó tức là ta khinh ta. Nhân quả là thế! Nếu ta hay
khinh người mà lại thích người kính trọng ta thì không thể có được. Trừ ra
trường hợp ta làm quan lớn dùng thế lực hay quyền hành bắt người khác phải kính
phục ta thì có. Ngoài mặt thì họ kính phục ta, nhưng ta đâu có biết trong tâm
họ chửi rủa ta. Và nếu ta không biết điều đó thì ta vẫn là kẻ ngu mà thôi!
Trên đây là nói về Pháp thí
khinh người, đó thuộc vào loại Pháp thí không trong sạch (avisuddha dana). Trong trường hợp ta
học nhiều, hiểu rộng mà lại có tài ăn nói nữa, thì rất là may mắn cho đạo Pháp.
Nhưng nếu ta ưa thuyết pháp với mục đích cho mọi người nể ta, kính trọng ta thì
đó là pháp thí cầu danh, cũng thuộc vào loại Pháp thí không trong sạch.
Trong sự Pháp thí không trong
sạch này, hiệu quả của nó cũng có hai loại: lợi và hại. Trước hết là xét về
giáo lý mà ta bố thí, xem đúng hay sai với chánh pháp. Đúng, là khi người nhận
nghe theo đó hành trì, tu tâm sửa tánh, tạo thiện nghiệp (kusalakarma), trong trường hợp này thì
người nhận được lợi, còn ta chả được gì cả vì lửa ngã mạn đã đốt hết rừng công
đức Pháp thí của ta. Trong trường hợp giáo lý sai với chánh pháp thì cả hai bên
đều bị hại cả.
* Về Tài thí:
Là Phật tử tại gia tức Ưu bà tắc
(Upàsaka), Ưu bà di (Upàsika), ta có bổn phận phải hộ trì
Tam Bảo, có nghĩa là giúp đỡ và giữ gìn cho Phật giáo được dài lâu. Tại sao dài
lâu? Vì ta biết rõ Phật giáo dạy ta con đường giải thoát, có lợi ích cho tất cả
mọi người nên ta muốn nó dài lâu. Tùy theo khả năng cá nhân, ta có thể giúp đỡ,
bố thí tiền của hay sức lực.
Như ta đã đọc qua các phần
trước, bố thí là một việc rất tốt đem lại nhiều phước báu cho ta, và bố thí là
một hạnh đầu tiên của Bồ Tát. Nhưng bố thí mà không biết cách bố thí thì không
đem lại lợi ích gì cả! Ta hãy tự nhìn lại mình xem, sau bao năm bố thí, bây giờ
ta thế nào? Ta bỏ chùa, ở nhà tu rị (tức là tu một mình), ta sợ đến chùa vì đến
đó có người ra quyên tiền ta, rồi ta bất mãn rao lên rằng chùa này làm tiền,
chùa kia làm tiền. Tất cả những cái đó là do tại ta, vì trước kia ta không học
cách bố thí. Gặp Thầy nào bố thí Thầy đó, nhất là hay bố thí các Thầy tu lâu để
được phước hay để lấy danh. Rồi Thầy muốn cái gì là ta dâng cái ấy. Dâng riết
đến lúc hết dâng được thì ta chạy trốn, không dám gặp Thầy nữa.
Khi đến chùa, gặp một việc kêu
gọi bố thí hay cúng dường thì ít nhất ta phải suy tư một chút, xem việc đó nếu
có lợi cho Thầy, cho ta, cho mọi người thì ta hãy vui lòng bố thí. Nếu việc đó
không có lợi cho Thầy hoặc cho ta mà có lợi cho tất cả mọi người thì ta cũng
sẵn lòng bố thí (trong trường hợp ta là Bồ Tát).
Ngoài ra đúng theo luật xưa đức
Phật để lại thì bổn phận của cận sự nam (Upàsaka) và cận sư nữ (Upàsika) là bố thí cúng dường bốn việc
cho chư Tăng: nơi ở, quần áo, thức ăn và thuốc men. Nơi ở thì có chùa, ta có
thể đóng góp hàng tháng cho Hội, rồi Hội chi phí cho chùa. Quần áo thì ở xứ
phương Tây này, quý Thầy, người nào cũng rất là đầy đủ. Thức ăn thì ta xem
chừng, lâu lâu mua gạo, hay mua rau cải đến tiếp tế, hoặc nếu không có thời giờ
thì ta có thể đưa tiền cho vị Tri khố lo giùm. Còn về thuốc men thì ta cần lưu
ý, vì ở bên Pháp này quý Thầy không đi làm chính thức nên không có ‘bảo hiểm xã
hội’(Sécurité sociale), tức
là khi có bệnh tật thì quý Thầy ráng chịu. Vì lý do đó, ta không nên bắt quý
Thầy tụng đám, cầu an, cầu siêu nhiều quá, rủi quý Thầy cảm cúm, ho lao… hay
mệnh hệ nào thì ta không có đủ tiền mua thuốc men, lúc đó ta sẽ ân hận lắm đấy!
Đa số quý Thầy ngày nay thường
hay kêu gọi ta đóng góp để làm chùa to. Có nhiều người không hiểu, cho rằng
thầy tu gì mà còn ham lợi. Sau đó đi rao là chùa làm tiền hoặc chùa giàu, v.v… Là
Phật tử chúng ta nên hiểu rằng quý Thầy do lòng từ bi muốn độ nhiều chúng sinh,
đền đáp ơn Tam Bảo, hoằng truyền chánh pháp mà bất đắc dĩ phải làm như thế. Nếu
quý Thầy ích kỷ chỉ lo ngồi yên trong một cái cốc nhỏ tự tu tự độ thì đỡ khổ
cho quý Thầy biết mấy. Kêu gọi như vậy vừa nhọc mệt lại thêm mang tiếng, đâu có
vui thú gì!
* Khi ta bố thí cho chùa, ta phải tập
ý thức việc làm của ta, có nghĩa là ta biết lý do và mục đích của sự bố thí,
còn có nghĩa là ta phải biết phát nguyện và hồi hướng công đức bố thí của mình.
Được như vậy thì ta sẽ không ân hận, hay hối tiếc, mà ngược lại sẽ cảm thấy vui
vẻ và an tâm. Đây gọi là Ý thức bố thí.
* Khi bố thí (cúng dường) cho quý Thầy
cũng vậy, ta phải tập ý thức việc bố thí của mình. Quý Thầy là đối tượng của sự
bố thí, còn gọi là ruộng phước (punyaksetra). Vì sao? Vì chính nơi quý Thầy là
chỗ để ta gieo hạt giống phước nên gọi là ruộng phước.
- Khi ta thương hại hay tội
nghiệp một vị Thầy nào đó, tu hành khổ cực mà ta bố thí, thì vị Thầy đó trở
thành ruộng phước nhỏ, vì được gieo bởi những hạt giống thương hại (karunà),
nên sẽ cho ta cây lúa nhỏ.
- Nếu ta vừa kính trọng vừa
thương hại mà bố thí thì ta sẽ gặt được cả hai loại lúa lớn có nhỏ có.
Trước khi cúng dường cho quý
Thầy ta biết được vì thương hại hay kính trọng, và khi đang cúng dường ta cũng
biết được là ta đang cúng dường, cúng dường xong ta biết hồi hướng công đức mà
ta vừa tạo cho sự giải thoát sinh tử của mình, hay cho quả vị Phật (nếu ta là
Bồ Tát). Đó gọi là Bố thí trong sạch và ý thức. Ta đừng lầm lẫn ‘ý thức’ với
‘chấp trước’. ‘Ý thức’ ở đây có nghĩa là chánh niệm, biết ta đang làm gì, phải
làm gì, sẽ làm gì.
Còn bố thí chấp trước không nằm
trong bố thí trong sạch, vì khi bố thí cho rằng ta đây là người cho, đây là vật
bố thí, còn kia là người nhận, rồi khởi tâm ngã mạn khinh người, hoặc trước khi
bố thí đã có cái tâm cầu danh hay ngã mạn rồi, nên khi vừa tác động thì sự bố
thí đã là bố thí chấp trước rồi.
- Khi gặp một vị Thầy nào, ta
lấy tài của ra gọi là cúng dường hoặc có nhiều khi ta đưa cho vị Thầy ấy mà chả
nói chả rằng gì cả, thì đó là bố thí vô tâm và vô ý thức. Bố thí vô ý thức ta
đã thấy ở trên rồi. Còn vô tâm là sao? Vô tâm ở đây cũng có nghĩa là vô ý thức
nhưng thêm vào vô ký và vô tư. Ta học trong Kinh Kim Cang thấy nói rằng bố thí
mà không bố thí mới thực là bố thí, hoặc bố thí mà không thấy có ta là người bố
thí, đây là vật bố thí và kia là người được bố thí. Học như vậy xong nên khi bố
thí ta không dám nghĩ gì cả, vì sợ suy nghĩ thì rơi vào chấp trước, hoặc có bố
thí thì làm sao cho nhanh để khỏi kịp ý thức được việc làm của mình, hoặc trong
lúc bố thí thì miệng nói, mắt nhìn chỗ khác. Đó gọi là bố thí vô tâm. Bố thí vô
tâm cũng xuất phát từ một tấm lòng tốt, nhưng vì không hiểu đạo nên phước báo
của nó thuộc loại hữu lậu.
Ta không nên lầm lẫn vô tâm bố
thí với Tánh Không bố thí. Vô tâm bố thí là tâm không nghĩ và không ý thức được
sự bố thí trong lúc đang bố thí. Tánh Không bố thí chính là Bố thí Ba La Mật (dànaparamità), nghĩa là thấy cả ba yếu
tố tạo ra sự Bố thí đều không có tự tánh. Trước khi thực hành Tánh Không bố
thí, ta cần phải thực hành quán chiếu nhiều về lý nhân duyên, tức thấy được sự
tương duyên tương sinh của mọi vật, thấy rằng các pháp phải nương vào nhau mà
hiện hữu, nên không có một tự thể riêng biệt. Khi ta quán chiếu thuần thục về
tánh Không của các pháp rồi, ta đem sự quán chiếu đó áp dụng vào việc Bố thí,
đó gọi là Tánh Không bố thí.
Khi thực hành bố thí, ta hãy nên
thành thực với chính ta, xem lại ta còn chấp trước hay không chấp trước, có lầm
Tánh Không với Có tâm không? Nếu có thì ta sửa lại, vì đó là việc nội tâm của
mình, bên ngoài không ai hay cả, cũng không có ai chấm điểm hay thưởng phạt ta
cả, chỉ có chính hành động của ta thưởng phạt ta mà thôi.
Cũng cần nói thêm về Tánh Không
(Sùnyta). Tánh Không là con
dao hai lưỡi. Nếu ta hiểu được nó thì nó giúp ta sớm chặt đứt các dây vô minh
trói buộc ta. Còn ngược lại, nếu ta hiểu lầm thì nó sẽ khiến ta tạo những hành
động vô phước. Vì thế Cổ nhơn có câu: ‘Thà chấp có như núi Tu Di còn hơn chấp
không như hạt cải.’ Nếu ta chưa hiểu được Tánh Không thì ta cứ thực hành hữu
tướng bố thí, tức là phát nguyện, ý thức và hồi hướng, trước khi, trong khi và
sau khi bố thí. Đó gọi là biết cách bố thí.
Trên đây là nói qua trường hợp
bố thí vì thương hại hay vì kính trọng một vị Thầy mà ta bố thí. Còn trong
trường hợp đối với một vị Thầy từ xa mới đến mà ta chưa quen biết thì sao? Thì
đó lại là một việc dễ xử đối với ta, vì ta không biết quá khứ riêng tư của Thầy
đó, nên ta dễ khởi tâm kính trọng mà bố thí. Và trong lúc bố thí ta có thể
nguyện như vầy: ‘Con thành tâm cúng dường Thầy, cầu cho Thầy mau đắc đạo để cứu
khổ chúng sinh.’ Ta có thể niệm thầm hoặc nói thẳng ra ngoài càng tốt. Đây là
một sự bố thí trong sạch và quả báo của nó sẽ vô lượng. Vì sao? Vì người cho
thành tâm và người nhận được kính trọng. Người nhận được kính trọng hay không
là tùy ở nơi tâm người cho. Nếu ta khôn khéo biết được phước báo do sự bố thí
của mình sẽ vô lượng hay hữu lượng tùy ở nơi tâm người cho thì ta sẽ luôn luôn
khởi tâm kính trọng người nhận. Đó là biết cách bố thí vậy.
-Bây giờ nếu có trường hợp ta
không thương hại, không kính trọng, mà cũng không ưa một vị Thầy nữa thì ta
phải làm gì? Có phải bố thí không?
Ở đây lại là một vấn đề khác. Ta
cần tự xét lại mình trước. Tại sao không ưa? Không ưa chỗ nào? Sau khi xét lại
nội tâm xong ta có thể xin đến gặp vị Thầy đó để giải tỏa những điều thắc mắc
đã tạo ra những sự bất hòa (khi có một sự bất hòa thì cả hai bên đều có lỗi
cả). Trong trường hợp Thầy và trò đều có chí cầu tiến và phục thiện thì tốt
quá. Nhưng nếu cả thầy lẫn trò đều nhận thấy mình đúng và người kia sai thì lúc
đó đường ai nấy đi, ta được quyền rút lui nhưng phải có trật tự, nghĩa là không
được tạo khẩu nghiệp. Sau khi rút lui xong, ta nên tìm một vị Thầy khác để
nương cậy. Vì sao? Vì ta là một cận sự nam hay cận sự nữ. Cận sự có nghĩa là ở
gần để giúp đỡ và học hỏi.
Không phải vì không ưa một Thầy
mà ta ghét tất cả các Thầy khác. Không phải vì không ưa một chùa mà ta xa lánh
tất cả các chùa khác. Nếu làm như vậy thì gọi là ‘Vơ đũa cả nắm’. Thái độ này
không tốt vì nó làm cho ta không mở mang kiến thức, không thực hiện được các
hạnh tốt, cùng lúc đó thì cái gọi là ‘ngã kiến’ của ta sẽ tăng trưởng. Và nếu
ta cứ giữ mãi thái độ ‘Vơ đũa cả nắm’ thì ta sẽ biến thành ‘con ếch ngồi đáy
giếng’.
* Lầm lẫn bố thí với trả công
Bố thí là một hành động phát ra
từ tấm lòng thành, muốn cho người nhận được an vui hạnh phúc.
Còn trả công là một hành động vô
tình, tức là không có tình nghĩa gì cả, nó dựa trên một sự đổi chác.
Khi ta đi ra ngoài đường gặp một
người xin ăn, ta lấy năm cắc ra cho họ. Ta cho vì ta thương hại, chứ không phải
người đó làm gì cho ta. Ta cho mà không cần được trả lại, ta chỉ cần người đó
nhận cho là ta vui rồi. Đó gọi là bố thí.
Còn trả công thì khác, nó là kết
quả của một sự đổi chác. Thí dụ như ta là ông chủ một hãng. Đến cuối tháng ta
phát tiền cho nhân viên. Hành động phát tiền của ta không được gọi là bố thí mà
phải gọi là trả công. Vì sao? Vì suốt một tháng vừa qua nhân viên đã làm việc
cho ta, nên bây giờ ta phải trả lương cho họ. Và khi ta đưa tiền cho họ, trong
tâm của họ đâu có mang ơn ta, vì họ biết đó là tiền của họ phải được. Trong tâm
ta cũng vậy, tuy nhân viên làm việc cực nhọc suốt tháng vừa qua cho sự sản xuất
của hãng ta, nhưng ta cũng đâu có mang ơn họ, vì ta trả tiền cho họ rồi mà!
Giữa hai bên không có tình nghĩ gì hết, cũng không ai mang ơn ai cả. Ta đưa
tiền vì người kia đưa công, người kia đưa công vì ta đưa tiền.
Sau khi hiểu rõ thấy được sự bố
thí và trả công rồi, ta hãy đưa mắt nhìn về chùa mình xem sao? Xem mình có phạm
cái lỗi lầm đó không?
Ngày thường ta chả bao giờ đến
chùa hay tự nhiên đến bố thí cúng dường các Thầy. Đến khi trong gia đình có cha
mẹ chết, lúc đó ta mới đến chùa thưa thỉnh lễ phép rước Thầy về nhà tụng Kinh
cầu siêu cho cha mẹ ta. Rồi sau khi đám sám xong, ta rút vài tờ giấy bạc bỏ vào
phong bì cúng dường cho Thầy. Làm xong việc như vậy, ta ra về thở phào nhẹ
nhõm, trong tâm nghĩ rằng đã làm xong bổn phận đối với cha mẹ, đã làm xong bổn
phận đối với ông Thầy, và cùng lúc lại làm phước nữa chứ! Thử hỏi hành động của
ta được gọi là gì? Tuy nhiên trong cuộc thì cũng có người được chút ít. Đó là
người được thí, tức ông Thầy: ông Thầy có được vài trăm bỏ túi đi xe lửa. Vì
lầm lẫn như thế nên ta cứ tiếp tục bố thí cái kiểu trả công. Riết rồi ban đầu
Thầy đi xe lửa, sau đến xe hơi rồi đến tàu bay. Tới lúc đó thì ta la lên rằng
chùa giàu! Chùa giàu hay nghèo đều do ta cả. Ta phải tự hỏi ta chứ! Chùa giàu
để làm gì? Nghèo để làm gì? Nếu ta ý thức rằng sự phát triển của chùa có lợi
cho chúng ta nên phải cần tài chánh thì ta làm cho chùa giàu. Còn nếu thấy cần
nghèo thì ta làm cho chùa nghèo. Giàu không phải là một cái tội, nghèo cũng
không phải là một cái phước.
Tiền dùng đúng tiền hiền như Phật,
Bạc xài lầm bạc ác hơn ma.
Phật, ma cũng tại người ta
Chớ tiền bạc nó vốn là vô tri.
(Thanh Sĩ)
Ngoài ra ta phải thông cảm cho
quý thầy chứ! Ban đầu vì lòng từ bi mà Thầy đi cầu siêu. Cầu siêu xong ta lại
bố thí cái kiểu trả công cho Thầy. Vì sự si mê của ta, ta đã biến lòng từ bi
của Thầy, ban đầu vô giá, dần dần xuống giá còn khoảng hai, ba trăm bạc. Rồi
tội nghiệp quý Thầy, cứ phải è cổ ra nhận tiền của người chết. Ta đã biến quý
Thầy thành giống như các nhà Hòm (pompes
de funèbre) tức là sống nhờ người chết. Thật đáng buồn cho đạo
Phật! Sao ta có thể nhẫn tâm được như vậy?
Nói như vậy không có nghĩa là từ
nay về sau ta không cầu an, cầu siêu cho cha mẹ ta, hoặc cầu siêu xong ta không
trả công cho quý Thầy nữa. Ta vẫn tiếp tục làm nhưng phải biết cách, lâu lâu ta
phải tới chùa xem trong chùa có cần gì giúp đỡ không thì ta phát tâm bố thí
cúng dường, không phải chờ đến có ai chết hay đau mới tới. Còn trong trường hợp
rước Thầy đi tụng đám xong mà ta muốn cúng dường thì ta phải tập suy nghĩ như
vầy: ‘Thầy đã vì lòng từ bi tụng niệm cho cha mẹ ta, công ơn thật vô cùng, ta
chỉ biết thành tâm phát nguyện tu học Phật để mau thoát sinh tử luân hồi và hồi
hướng công đức (bố thí, phát nguyện) này cầu cho cha mẹ ta được siêu sanh Cực
Lạc.’ Từ lúc trước khi, trong khi và sau khi cúng dường, ta phải lặp đi lặp lại
như vậy. Ta thành tâm, phát nguyện và hồi hướng, cùng lúc đó ta xem vị Thầy
trước mắt tượng trưng cho Từ bi (chứ không phải thợ tụng) và ta hết lòng kính
trọng. Nếu làm được như vậy thì ta đã biến sự trả công thành sự bố thí trong
sạch.
* Không phải chỉ có chùa chiền
mới là nơi cho ta thực hiện hạnh Bố thí.
Ta có thể thực hiện bố thí ở
khắp nơi với tất cả mọi loài: như cho con chó một khúc xương, con chim một mẩu
bánh mì, con kiến một hạt đường, v.v… Cụ thể nhất là khi ta đi ngoài đường bố
thí cho người xin ăn. Tuy nhiên, khi bố thí ta cũng tập bố thí cho đàng hoàng
không được khinh người. Bố thí đàng hoàng hay trong sạch là ta biết phát
nguyện, ý thức và hồi hướng trước khi, trong khi và sau khi bố thí. Thí dụ như
ta gặp một bà lão ở trong góc Metro đứng xin tiền. Ta lại gần lấy tiền ra,
nhưng không đưa liền, đứng ngay lại sửa soạn phát nguyện. Có hai trường hợp:
1) Ta xem đối tượng tức bà lão
là một vị Bồ Tát hóa thân làm bà già để ta thực hiện bố thí. Như vậy ta sẽ phát
nguyện thành Phật để cứu độ chúng sinh và hồi hướng công đức này cho quả vị
Phật.
2) Nếu ta không thể xem bà lão
là một hóa thân Bồ Tát được thì ta nguyện như vầy: ‘Nguyện cho bà mau thoát
khỏi cảnh khổ của sinh, gìa, bệnh, chết và ta hồi hướng công đức bố thí này cho
quả vị Phật’ (nếu ta là Bồ Tát).
Có một điều lầm lẫn mà ta hay
phạm phải, đó là khi ta không ưa một vị Thầy nào rồi thì ta ngưng luôn việc bố
thí! Một vị Thầy không phải là đối tượng duy nhất của sự Bố thí. Ta có thể về
nhà bố thí cho con cháu, cho gia đình họ hàng hay xa hơn nữa là bố thí cho các
Hội Từ Thiện (Croix Rouge, Unicef,
Médicins du Monde, Médicins sans frontières, …) hoặc cho những loài
khác như chim, gà, kiến, … Đối tượng của sự bố thí rất rộng rãi và bao la, quan
trọng ở chỗ là ta có muốn bố thí hay không? Nếu muốn thì ta luôn luôn tìm thấy
đối tượng, còn không thì ta sẽ chả thấy ai là người đáng cho ta bố thí cả.
*Ta nên bố thí trực tiếp
Lâu lâu nhớ đến Phật, ta mua hoa
quả đem vào chùa cúng dường cho Phật. Nhưng khi vào chùa ta không nên đưa hết
cho vị Hương đăng mà nói rằng: ‘Này, cô hay chú cúng hộ tôi cho Phật.’ Làm như
vậy mất tất cả tình nghĩa của ta đối với Phật. Và hơn nữa là ta sẽ không có cơ
hội phát nguyện và hồi hướng công đức của sự bố thí. Như thế thì dù ta có mua
mấy xe hoa đem vào chùa cúng Phật, cũng chả được phước đức gì cả, nhiều lắm là
làm cho chùa thêm vui mắt mà thôi. Ở ngoài đời người ta còn biết ‘của ít lòng
nhiều’, huống chi ta là con Phật mà lại bố thí ‘của nhiều lòng ít’ hay sao?