Thiền học
Mã Tổ Ngữ Lục
Mã Tổ Đại Sư
18/02/2555 12:22 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

MÃ TỔ NGỮ LỤC

(BÀI 1)

Tổ dạy chúng:

Các người hãy tin rằng tâm mình là Phật. Tâm này là Phật.

Đại sư Đạt Ma từ Nam Thiên Trúc đến Trung Hoa truyền pháp môn thượng thừa Nhất Tâm, khai ngộ cho các người. Sợ rằng các người vì thức tâm vọng niệm điên đảo mà không tin pháp Nhất Tâm vốn có sẵn nơi mình cho nên kinh Lăng Già nói “Phật dạy: Tâm là gốc, không cửa là cửa pháp”.

Thế mới biết cầu pháp thì phải đừng cầu chi cả. Ngoài tâm không còn Phật nào khác nữa, ngoài Phật không còn tâm nào khác nữa. Không thủ xả tốt, xấu, không thiên chấp sạch, dơ, đạt đến cái tính không của tội lỗi, niệm niệm đều bất khả đắc. Vì không có tự tính cho nên ba cõi đều do tâm, sum la vạn tượng cũng chỉ một pháp mà ấn chứng trọn hết vậy.

Phàm thấy sắc là thấy tâm. Tâm vốn chẳng tự nó là tâm, chính nhân sắc mà hiện. Các ông chỉ việc tùy thời mà ăn nói thì chính đó là lý, là sự, tuyệt chẳng có chi ngăn ngại. Đạo quả Bồ-Đề cũng chỉ như vậy mà thôi.

Cái sinh nơi tâm gọi là sắc. Tính của sắc vốn là không, nên sinh mà không sinh vậy. Nếu hiểu được lẽ đó thì có thể tùy thời mặc áo, ăn cơm, nuôi dưỡng thánh thai qua ngày qua buổi, chỉ thế là xong. Hãy thọ trì giáo pháp của ta. Nghe kệ ta đây:

Tâm địa tùy thời nói

Bồ-Đề chỉ vậy yên

Sự, lý đều vô ngại

Đang sinh chính chẳng sinh.

Có ông tăng hỏi

- Tu đạo là gì?

Sư đáp

- Đạo chẳng do tu hay không tu. Nếu nói tu mà đắc, tu mà thành thì cũng đồng với hàng Thanh Văn. Còn nếu nói không tu thì có khác gì phàm phu?

Lại hỏi

- Phải hiểu như thế nào mới đạt được đạo?

Sư nói

- Tự tính vốn đầy đủ. Chỉ cần không bị thiện, ác ràng buộc thì gọi là tu đạo. Lấy thiện bỏ ác, quán không nhập định đều là tạo tác. Còn nếu đeo đuổi mong cầu ở ngoại cảnh thì càng rời xa lẽ đạo. Chỉ cần suốt cái tâm lượng của ba cõi chứ hễ có một niệm vọng tâm thì đấy là căn cội sinh tử của ba cõi vậy. Chỉ cần dứt bặt mọi vọng niệm thì trừ được căn cội sinh tử, tức là được quả báo Vô Thượng Pháp Vương. Từ vô lượng kiếp đến nay, những vọng tưởng của phàm nhân như siểm nịnh, tà ngụy, ngạo mạn, tự cao v v…hợp thành một thể. Kinh dạy “Vì lẽ các pháp hợp thành thân này, cho nên khi khởi chỉ là pháp khởi, khi diệt chỉ là pháp diệt”. Khi pháp ấy khởi đừng cho rằng mình khởi. Khi pháp ấy diệt đừng cho rằng mình diệt. niệm trước, niệm sau, niệm giữa mọi niệm đừng để cho ràng buộc nhau. Khi mọi niệm đều tịch diệt thì gọi là Hải Ân Tam Muội.

Tam muội này thâu nhiếp hết thảy các pháp. Như trăm ngàn dòng sông khác nhau cùng chảy về biển thì đều gọi là nước biển. Và bấy giờ nếm một vị mà biết hết mọi vị. An trụ vào biển lớn tức hợp hết mọi dòng, như tắm trong biển lớn tức là dùng hết thảy mọi thứ nước.

Cho nên Thanh Văn tuy ngộ mà thật là mê, phàm phu tuy mê mà có thể ngộ. Thanh văn không biết rằng thánh tâm vốn không dính dáng gì đến những vọng tưởng đo lường về địa vị, nhân quả, giai cấp. Họ chỉ lo tu nhân, chứng quả an trụ vào cái không định. Trải qua ngàn vạn kiếp như vậy, tuy gọi là đã ngộ, nhưng ngộ rồi chính đó lại là mê. Hàng Bồ-Tát quán sát thực tại, thấy rằng địa ngục là khổ, nhưng đắm chìm vào không tịch thì cũng không thấy được Phật tính. Nếu là hàng chúng sinh thượng căn, gặp được bậc Thiện Tri Thức chỉ bảo cho mà lãnh hội được liền thì chẳng cần phải trải qua giai cấp, địa vị, cũng có thể ngộ ngay được bản tâm mình, cho nên kinh dạy “Phàm phu có tâm quay về mà Thanh Văn thì không có”.

Đối với mê thì nói là có ngộ. Nay vốn đã không mê thì làm chi có chuyện ngộ? Hết thảy chúng sinh từ vô lượng kiếp chưa hề rời khỏi tam muộI pháp tính. Ở trong tam muội mà mặc áo, ăn cơm, nói năng, đối đáp. Sáu căn vận dụng, hết thẩy mọi hành động đều là pháp tính.

Không biết quay về nguồn, cứ đeo danh, đuổi tướng thì mê tình vọng khởi gây nên mọi thứ khổ nghiệp. Chỉ cần một niệm phản chiếu lại toàn thể bản tâm là xong. Các người ai nấy cứ lo chứng đạt được bản tâm của chính mình, khỏi phải ghi nhớ lời ta.

Dù có nói ra hằng hà sa số lý lẽ, tâm ấy cũng không thêm. Dù không nói được chi cả tâm ấy cũng không giảm. Nói ra được cũng là cái tâm của các người, nói không được cũng là cái tâm của các người. Cho nên trăm ngàn thứ thần thông quảng đại, phân thân, phóng hào quang, mười tám phép biến gì gì cũng không bằng giải quyết cho xong cái đống tro tàn của bản thân trước đã. Không thấm qua được đống tro tàn ấy là nói về sự tu nhân chứng quả sai lầm của hàng thanh văn. Còn thấm qua được đống tro tàn ấy là nói về cái đạo nghiệp thuần thục, tự tại của hàng Bồ-Tát.

Nếu nói ba tạng quyền giáo của Như-Lai thì suốt hằng hà sa kiếp cũng không hết. lại càng như chồng chất thêm khóa móc ràng buộc không bao giờ đoạn tuyệt được. Còn như nếu ngộ được thánh tâm thì không còn chuyện gì phải lo nữa.

Các người đứng đã lâu, xin trân trọng.

BÀI GIẢNG 2

Mã Tổ sư dạy chúng:

Đạo khỏi phải tu, chỉ cần đừng ô nhiễm. Sao gọi là ô nhiễm? Mọi tâm niệm sinh tử, xu hướng tạo tác đều là ô nhiễm.            Nếu muốn hiểu ngay đạo ấy là cái gì, thì cứ cái tâm bình thường là đạo. Thế nào là tâm bình thường? Là tâm không tạo tác, không buông bắt, không đoạn diệt, không thường hằng,không phàm không thánh vậy. Kinh dạy “Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, đó là hạnh Bồ-Tát ”. Cứ những cái đi, đứng, nằm, ngồi, ứng cơ tiếp vật ngay đây đều là đạo cả.

Đạo tức là pháp giới. cho đến hằng sa diệu dụng cũng không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phải vậy sao gọi là pháp môn tâm địa? sao gọi là ngọn đèn vô tận?

Hết thảy các pháp đều là pháp của tâm. Hết thẩy mọi danh đều là danh của tâm. Vạn pháp đều do tâm mà sinh. Tâm là căn cội của vạn pháp. Kinh dạy “Cái tâm đạt đến nguồn gốc nên gọi là Sa môn”. (Dịch từ chữ Sramanah có nghĩa là dứt bặt tâm niệm, là tĩnh lặng ý chí, là đơn giản, là tạo tác v v… là người xuất gia)

Danh và nghĩa bình đẳng. Hết thẩy mọi pháp đều bình đẳng, thuần nhất, không hỗn tạp. Trong giáo môn mà được tùy thời tự tại thì nếu lập pháp giới, thẩy đều là pháp giới. Nếu lập chân như, thẩy đều là chân như. Nếu lập lý thì tất cả đều là lý. Nếu lập sư, tất cả đều là sự. Nêu một mà nghìn theo. Lý sự không khác, thảy đều là diệu dụng Không còn lẽ nào khác nữa. Tất cả đều là sự vận dụng của tâm.

Ví như bóng trăng, càng có được bao nhiêu trăng thật thì càng không có bấy nhiêu dòng nước. Càng có bao nhiêu tính nước thì càng không có bấy nhiêu sum la vạn tượng. Càng có bao nhiêu hư không thì càng không có bấy nhiêu ngôn thuyết đạo lý, càng có được bao nhiêu trí tuệ vô ngại thì càng không có bấy nhiêu các thứ được thành lập.

Tất cả đều do một tâm mà ra vậy. Tạo dựng lên cũng được, quét sạch đi cũng được. Tất cả đều là Sa môn, đều là mình cả. chẳng rời cái chân thực mà có chỗ tạo lập. Chỗ tạo lập chính là cái chân thực, đều là chính mình cả, nếu không thì là ai?

Hết thẩy mọi pháp đều là Phật pháp. Các pháp tức là giải thoát.Giải thoát tức là chân như. Các pháp không ngoài chân như. Đi, Đứng, nằm, ngồi đều là cái dụng bất tư nghị, không đợi thời tiết. Kinh dạy: “Nơi nơi, chốn chốn đều có Phật”. Phật là bậc năng nhân trí tuệ viên mãn, thông suốt mọi cơ tính, phá tan mọi lưới nghi hoặc của chúng sinh, thoát khỏi mọi trói buộc hữu, vô. Phàm lẫn thánh đều dứt sạch, nhân, pháp đều không. Chuyển pháp luân vô đẳng vượt ngoài số lượng, hành động vô ngại, sự, lý đều thông. Như trời nổi mây, chợt có rồi không đâu còn dấu vết, chẳng khác gì vẽ hình trên nước.

Không sinh diệt là đại tịch diệt. Còn trong cảnh ràng buộc thì gọi là Như Lai tạng, đã ra ngoài cảnh ràng buộc thì gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân.Pháp thân vô cùng, thể không tăng giảm, lớn được, nhỏ được, vuông được, tròn được ứng vật hiện hình như trăng trong nước, vận dụng thao thao. Không lập gốc gác, không cùng hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là đồ dùng hàng ngày của vô vi. Không an trụ nơi nương tựa nên nói như hư không không nơi nương tựa.

Nghĩa sinh diệt và nghĩa chân như của tâm là như thế này:

Tâm chân như ví như gương sáng chiếu ảnh. Gương ví như tâm, ảnh ví như pháp. Chấp trước vào pháp thì dính mắc vào nhân duyên bên ngoài, đó là nghĩa sinh diệt. Không chấp trước vào các pháp, đó là nghĩa chân như.

Hàng thanh văn chỉ nghe thấy Phật tính. Hàng Bồ-Tát thì nhìn thấy Phật tính, đạt đến cái không hai, gọi là tính bình đẳng.

Tính tuy chẳng khác, dụng lại không đồng. Khi mê gọi đó là thức, khi ngộ gọi đó là trí. Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê chỉ là mê cái bổn tâm của tự mình và ngộ chính là ngộ cái bổn tính của tự mình mà thôi. Ngộ một lần là mãi mãi chẳng còn mê. Như khi mặt trời mọc lên thì không cùng lẫn vớI bóng tối nữa. Mặt trời trí tuệ mọc lên thì không cùng lẫn với bóng tối phiền não vậy.

Hiểu rõ tâm cùng cảnh thì vọng tưởng tức không sinh. Vọng tưởng không sinh tức là pháp nhẫn vô sinh.

Lẽ đó vốn sẵn vậy, không vì tu đạo, ngồi thiền mà có. Không tu, không ngồi, đó là thiền thanh tịnh của Như-Lai. Nay đã thấy rõ lẽ ấy, chỉ cần chân chính không tạo nghiệp, tùy phận qua ngày, một y một nạp, đứng ngồi theo đó mà xông ướp giới hạnh, chứa góp Tịnh-Nghiệp. Được như vậy lo gì chẳng thông?

Các người đứng đã lâu, xin trân trọng.