CỬA
THỨ NHÌ: PHÁ TƯỚNG LUẬN
Hỏi: Nếu có người
dốc lòng cầu đạo, thì nên tu theo pháp nào mới thực là cực kỳ tỉnh yếu?
Ðáp: Chỉ nói pháp
quán tâm thâu nhiếp trọn các pháp mới thực là cực kỳ tỉnh yếu.
Hỏi: Sao một pháp
nhiếp trọn các pháp được?
Ðáp: Tâm là gốc của
muôn pháp. Tất cả các pháp, duy một tâm sanh. Nếu hiểu được tâm ắt muôn
pháp sẵn đủ trong đó, ví như cây lớn có đủ cành nhánh trái bông, nhưng tất
cả đều do một gốc sanh ra, nếu chặt gốc ắt cây chết. Nếu hiểu tâm tu đạo
ắt được tỉnh lực nên dễ thành. Không hiểu tâm tu đạo ắt nhọc công vô ích.
Mới biết tất cả việc lành dữ đều tự tâm. Cầu gì khác ở ngoài tâm, rốt
không đâu có được.
Hỏi: Sao bảo quán
tâm là xong hết?
Ðáp: Ðại Bồ tát khi
hành sau pháp Bát nhã Ba la mật đa thấy bốn đại năm ấm vốn không vô ngã;
thấy rõ do khởi dụng nên có hai tâm sai khác nhau.
Thế nào là hai?
Một là tịnh tâm: tâm
trong sạch.
Hai là nhiễm tâm:
tâm nhuốm bợn.
Hai tâm ấy, pháp
giới tự nhiên xưa nay vốn có, kết hợp bằng những giả duyên đối đải nương
vịn vào nhau.
Tâm tịnh hằng vui
nhân lành
Tâm nhiễm mảng lo
nghiệp dữ.
Nếu không bị nhiễm,
tức xưng là thánh, xa lìa được hết khổ đau, chứng cảnh vui Niết bàn.
Bằng cứ buông lung
theo tâm nhiễm tạo nghiệp, ắt bị khuất lấp, ràng buộc, tức gọi là phàm,
chìm nổi trong ba cõi, chịu mọi thứ khổ. Tại sao vậy? Vì tâm nhiễm ấy gây
chướng ngại cho bổn thể chơn như vậy.
Kinh Thập địa nói:
Trong thân chúng sanh có tánh Phật kim cương ví như vầng nhật tròn đầy,
rộng lớn sáng bao la, chỉ vì lớp lớp mây ngũ ấm che lấp nên không lộ được,
khác nào ánh đèn bị nhốt giữa bình đất không chiếu hiện được.
Kinh Niết Bàn lại
nói: Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật; chỉ vì vô minh che lấp nên không
được giải thoát.
"Tánh Phật" ấy, tức
"tánh giác" vậy.
Chỉ "tự giác giác
tha", tri giác sáng tỏ, tức gọi là giải thoát.
Nên biết mọi điều
lành đều lấy giác làm gốc. Nhân gốc giác ấy mới kết được đủ thứ trái Niết
bàn của cây công đức, đạo nhân đó mà thành.
Nói quán tâm tức
xong hết là vậy.
Hỏi: Trên nói tất cả
công đức của tánh chân như Phật đều lấy giác làm gốc, còn tâm vô minh,
chẳng hay lấy gí làm gốc?
Ðáp: Tâm vô minh có
tám vạn bốn ngàn phiền não, tình dục, với vô số điều dữ, đều do ba độc nên
lấy đó làm gốc.
Ba độc ấy tức tham,
sân si vậy.
Tâm ba độc ấy tự nó
có đủ tất cả giống ác, ví như cây lớn, gốc tuy chỉ có một mà lá sanh ra
thì vô lượng không cùng. Ở ba độc ấy từ mỗi gốc sanh ra các nghiệp dữ,
trăm ngàn vạn ức, gấp mấy cái trước, không thể ví với gì được. Từ trong
bổn thể của tâm ba độc ứng hiện ra sáu căn, cũng gọi là sáu tên giặc, tức
là sáu thức. Sáu thức vào ra sáu căn, nhân đó có tham trước muôn cảnh, tạo
thành nghiệp dữ, che khuất bổn thể chơn như, nên gọi là sáu tên giặc. Do
ba độc sáu giặc, chúng sanh bị mê hoặc và rối loạn thân tâm, chịu mọi nổi
khổ. Cũng như sông ngòi có tiếp nguồn thông mạch, dòng nước mới chảy mãi
không dứt và sóng mới muôn dặm cuộn giăng; nếu có ai bít mạch lấp nguồn
thì mọi dòng nước ắt đứt theo.
Người cầu giải thoát có thể chuyển ba độc thành ba giới tụ tịnh, chuyển
sáu giặc thành sáu ba la mật, tức tự nhiên vĩnh viễn lìa xa biển khổ.
Hỏi: Sáu đường ba
cõi rộng lớn bao la, nếu chỉ quán tâm thì sao thoát được những khổ đau
không cùng tận?
Ðáp: Nghiệp báo
trong ba cõi chỉ do một tâm sanh. Nếu từ gốc đã vô tâm thì ở trong ba cõi
mà như xa lìa ba cõi.
Ba cõi
ấy, tức là ba độc vậy.
Tham làm
ra cõi dục.
Sân làm
ra cõi sắc.
Si làm
ra cõi sắc.
Nên gọi
là ba cõi.
Do ba độc ấy gây
nghiệp nặng nhẹ, quả báo chẳng đồng, chia ra làm sáu xứ, nên gọi là sáu
nẻo.
Hỏi: Thế nào là nhẹ
nặng chia làm sáu nẻo?
Ðáp: Chúng sanh
chẳng rõ chánh nhân, mê tâm tu thiện, chưa thoát ba cõi, thác sanh ở ba
nẻo tội nhẹ.
Thế nào là ba nẻo
nhẹ?
- Ấy là mê tu mười
điều thiện, vọng cầu vui sướng, chưa thoát cõi tham, thì sanh nẻo trời.
- Mê giữ năm giới,
vọng lòng thương ghét, chưa thoát cõi sân, thì sanh nẻo người.
- Mê chấp hữu vi,
tin tà mong phước, chưa thoát cõi si, thì sanh nẻo A tu la.
Ðó là ba loại chúng sanh, gọi là ba nẻo nhẹ vậy.
Thế nào là ba nẻo
tội nặng?
Ấy là buông lung
theo tâm ba độc, toàn gây nghiệp dữ, rơi vào ba nẻo nặng.
- Nếu nghiệp tham
nặng, thì rơi vào nẻo quỷ đói.
- Nếu nghiệp sân
nặng, thì rơi vào nẻo địa ngục.
- Nếu nghiệp si
nặng, thì rơi vào nẻo súc sanh.
Vậy ba nẻo tội nặng
hiệp với ba nẻo tội nhẹ thành sáu nẻo luân hồi.
Mới biết tất cả nghiệp khổ đều do tâm mình sanh, nên cần nhiếp tâm, lìa
hết tà ác, là mọi nỗi khổ của ba cõi sáu đường luân hồi đều tự nhiên tiêu
mất, tức là được giải thoát.
Hỏi: Như lời Phật
dạy: "Ta đã trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp, chịu vô số khổ nhọc mới thành
được Phật đạo" sao nay nói chỉ quán tâm thì chế được ba độc là giải thoát?
Ðáp: Lời Phật nói ra
không hề hư dối. A tăng kỳ kiếp tức là tâm ba độc. Người Hồ (1) nói: "A
tăng kỳ" (2), người Hán nói "bất khả số", nghĩa là đếm không xuể.
Từ trong tâm ba độc
ấy, có đủ thứ niệm ác nhiều như cát sông Hằng. Ở mỗi mỗi niệm ấy là một
kiếp, vậy là có hằng ha số kiếp đếm không xuể, nên nói ba đại a tăng kỳ.
Tánh chân như bị ba
độc che khuất. Nếu chẳng vượt lên tâm đại hằng hà sa độc ác ấy thì làm sao
giải thoát được.Nếu nay chuyển được ba độc tham sân si làm ba món giải
thoát, đó gọi là vượt qua ba đại a tăng kỳ kiếp.
Chúng sanh ở thời
đại cùng mạt này, căn trí ngu si, cùn lụt, không nhận được ý sâu kín của
Như Lai trong câu nói "ba đại a tăng kỳ", nên nghĩ Như Lai phải qua vô số
kiếp như cát bụi mới thành Phật, điều ấy hà chỉ khiến người tu ngờ hão mà
lùi bước Bồ đề sao.
Hỏi: Các đại Bồ tát
nhờ giữ ba giới tu tịnh thực hành sáu độ, mới thànhPhật đạo. Sao nay nói
người học chỉ cần quán tâm chẳng tu giới hạnh, thì thành Phật thế nào
được?
Ðáp:Ba giới tu tịnh
tức là tâm chế phục ba độc:
Chế phuc tâm ba độc
thành vô lượng thiện tụ.
Nói "tụ" là nói
"hội" vậy.
Pháp lành vô lượng
hội khắp ở tâm, nên gọi là ba giới tụ tịnh.
Nói sáu độ Ba la mật, tức nói tịnh sáu căn.
Người Hồ nói "ba la
mật" (3), người Hán nói "đạt bỉ ngạn", tức đến bờ bên kia. Sáu căn thanh
tịnh, chẳng nhuốm sáu trần, tức qua sông phiền não, đến bờ Bồ đề, nên gọi
là sáu ba la mật.
Hỏi: Như kinh nói,
ba giới tụ tịnh tức là "Nguyện thề đoạn tất cả điều dữ, thề tu tất cả điều
lành, thề độ tất cả chúng sanh", nay nói chỉ cần chế ngự tâm ba độc, há
chẳng trái với nghĩa văn sao?
Ðáp: Lời Phật nói
kinh là lời chân thực. Nhân đối với ba độc, chư Bồ tát tu hành trong thời
quá khứ phát ba thệ nguyện là:
- Nguyện đoạn tất cả
điều dữ, nên luôn giữ giới đối xử với tham độc.
- Nguyện tu tất cả
điều lành, nên luôn tập định đối xử với sân độc.
- Nguyện độ tất cả
chúng sanh, nên luôn tu huệ đối xử với si độc.
Do giữ ba tịnh pháp
giới, định, huệ nên vượt được lên ba độc mà thành Phật đạo.
- Diều dữ dứt mất,
đó gọi là "đoạn".
- Ðiều lành sẵn đủ,
đó gọi là "tu".
- Ðã đoạn dữ tu
lành, ắt muôn hạnh đều thành tựu; lợi ta lợi người, cứu khổ khắp muôn
sanh, đó gọi là "độ".
Mới biết phép tu
giới hạnh không thể lìa tâm. Nếu tâm thanh tịnh, ắt cả nước Phật đều thanh
tịnh. Nên kinh nói:
Tâm đục
ắt chúng sanh đục,
Tâm tịnh
ắt chúng sanh tịnh.
Muốn
được tịnh độ, trước cần tịnh tâm,
Tùy tâm
mình tịnh, xứ Phật tịnh theo,
Ba giới
tụ tịnh tự nhiên thành tựu.
Hỏi: Như kinh nói,
sáu ba la mật cũng gọi là sáu độ, tức là: bố thí, trì giới, nhẫn nhục,
tinh tấn, thiền định và trí huệ. Nay nói sáu căn thanh tịnh gọi là ba la
mật, thì hiểu sao cho xuôi? Còn phép sáu độ, nghĩa ấy thế nào?
Ðáp: Muốn tu sáu độ,
nên tịnh sáu căn hàng sáu tên giặc:
- Xả được tên giặc
mắt, lìa hết cảnh sắc, gọi là bố thí.
- Cấm được tên giặc
tai, không buông lỏng theo thanh trần, gọi là trì giới.
- Cầm được tên giặc
mũi, tự tại giữa hương thơm, gọi là nhẫn nhục.
- Ngăn được tên giặc
lưỡi, không ham mùi vị, ngâm vịnh giảng văn, gọi là tinh tấn.
- Hàng được tên giặc
thân, như nhiên chẳng xúc động, gọi là thiền định.
- Phục được tên giặc
ý, chẳng buông theo vô mình, thường tu giác huệ, gọi là trí huệ.
Nói "độ", đưa qua,
tức nói "vận", chuyển vần vậy. Thuyền bát nhã sáu ba la mật có khả năng
chuyển vần chúng sanh đến bờ bên kia, nên gọi là sáu độ.
Hỏi: Kinh nói: khi
còn là Bồ tát, Thích Ca Như Lai từng uống ba đấu sáu thăng nhũ mi (4) mới
thành Phật đạo. Vậy, trước nhờ uống sữa, sau chứng quả Phật, há phải nhờ
quán tâm mà được giải thoát ru?
Ðáp: Nên thành thực
nhận rằng, lời xưa nói "nhân vì uống sữa mới được thành Phật" chẳng hề
luống dối. Nói Phật uống sữa, cần phân biệt hai thứ sữa. Sữa Phật uống
chẳng phải là sữa vẩn đục của thế gian mà chính là sữa của pháp chân như
thanh tịnh.
Nói ba đấu, tức ba
giới tụ tịnh.
Nói sáu thăng, tức
sáu ba la mật.
Thành Phật là do
uống sữa của pháp thanh tịnh ấy, mới chứng được quả Phật. Nếu nói Như Lai
uống thứ sữa bò lềnh mỡ ươn hôi vẩn đục của thế gian, há chẳng chê bai một
cách lầm lẫn ru?
Tánh chân như tợ như
chất kim cương bất diệt; còn pháp thân thì không tỳ vết, vĩnh viễn lìa tất
cả đau khổ của thế gian, há dùng thứ sữa vẩn đục ấy đỡ đói khát được sao?
Theo lời kinh nói,
bò ấy chẳng ở vùng cao, chẳng ở vùng thấp, chẳng ăn lúa thóc tạp nhạp,
chẳng cùng bầy với bò khác.
... Nói bò ấy, tức
là Phật Tỳ Lô Giá Na vậy, đem lòng đại từ đại bi thương xót tất cả, nên từ
nơi pháp thể thanh tịnh ứng ra thứ sữa pháp vi diệu của ba giới tụ tịnh,
sáu ba la mật hầu nuôi nấng tất cả những người cầu đạo giải thoát. Như
vậy, loại bò chân tịnh ấy, loại sữa thanh tịnh ấy, không những riêng Như
Lai uống xong là thành đạo, mà tất cả chúng sanh ai uống được vẫn đắc quả
chánh đẳng chánh giác như thường.
Hỏi: Như kinh nói,
Phật khiến chúng sanh xây dựng già lam, đúc tạc hình tượng, đốt hương rắc
hoa, chong đèn sáng mãi, đêm ngày sáu cữ, nhiễu tháp hành đạo, lễ bái chay
lạt, đủ thứ công đức mới thành Phật đạo. Nếu chỉ lấy phép quán tâm thâu
nhiếp các hạnh, nói như vậy e có ngoa chăng?
Ðáp: Phật nói kinh
dùng vô số phương tiện, nhắm vào tất cả chúng sanh căn trí cùn lụt, ươn
hèn, không đủ sức lãnh hội nghĩa sâu, nên mượn pháp hữu vi làm tỉ dụ cho
pháp vô vi.
Nếu không tu nội
hạnh mà chỉ cầu ở ngoài, mong làm thánh, cầu được phước, không đâu có
được.
Nói "già lam" ấy là
người Tây Thiên Trúc nói, ở đây dịch là thanh tịnh địa, tức đất trong
sạch, chùa chiền vậy.
Nếu vĩnh viễn trừ ba
độc, tịnh sáu căn, thân tâm vắng không, trong ngoài ngưng lặng, đó gọi là
xây dựng già lam.
Nói "đúc tạc hình
tượng", tức đó là tất cả chúng sanh cầu Phật đạo, cần tu các giác hạnh,
phỏng theo chân dung diệu tướng của Như Lai, há phải đâu chỉ là việc đúc
vàng tạc đồng tầm thường! Bởi vậy, người cầu đạo giải thoát phải lấy thanh
mình làm lò, lấy pháp làm lửa, lấy trí huệ làm tay thợ khéo, lấy ba giới
tụ tịnh sáu ba la mật làm khuôn phép, nấu chảy và rèn đúc chất chân như
Phật tánh ở trong thân cho thấm nhập khắp tất cả hình thức giới luật, y
lời dạy vâng làm, mỗi mỗi không hở sót, thì tự nhiên thành tựu hình tướng
của chân dung. Hình tướng đó đích thực là pháp thân thường trụ vi diệu và
cùng tột, há phải đâu là pháp thân hữu vi hư đốn sao?
Người cầu đạo không
hiểu nghĩa việc đúc tạc chân dung như vậy thì bằng vào đâu mở miệng nói
công đức?
Việc đốt hương, nào
phải hương hình tướng của thế gian, mà chính là hương của pháp vô vi, xông
lên các thứ dơ xấu khiến cho nghiệp dữ vô mình thảy đều tiêu mất.
Hương chánh pháp ấy
kể năm thứ:
- Một là hương giới:
gọi thế vì nó có thể dứt mọi điều dữ, tu mọi điều lành.
- Hai là hương định:
gọi thế vì nó tin sâu pháp đại thừa, lòng không chùn nản.
- Ba là hương huệ:
gọi thế vì lúc nào ở bên trong tâm cũng tự xét.
- Bốn là hương giải
thoát: gọi thế vì nó có thể dứt tất cả mê mờ trói buộc.
- Năm là hương giải
thoát tri kiến: gọi thế là vì lúc nào nó cũng quán chiếu sáng soi, suốt
thông không ngại.
Ðó là năm thứ hương,
gọi là hương tối thượng, thế gian không gì sánh được.
Khi còn tại thế, Phật khiến các đệ tử lấy lửa trí huệ đốt thứ hương báu
không giá ấy để dâng cúng chư Phật mười phương. Chúng sanh ngày nay không
rõ nghĩa chân thật của Như lai, đem lửa ngoài đốt gỗ trầm của thế tục,
xông thứ hương vật chất lên mong phước cầu thánh, thì sao được ru?
Việc rắc hoa nghĩa
cũng như vậy, ấy là diễn nói pháp chánh. Hoa công đức ấy gây lợi ích nhiều
cho giống hữu tình, gieo rắc thấm nhuần tất cả, tự nơi chánh chân như bố
thí khắp cùng khiến cho tất cả trang nghiêm. Thứ hoa công đức Phật xưng
tán ấy không bao giờ héo rụng, rốt ráo thường trụ.
Ai rắc thứ hoa ấy
được phước không cùng. Bằng nói Như lai bảo chúng sanh chặt cành bứt nhánh
lấy hoa cúng Phật, làm thương tổn đến cây cỏ,điều ấy không đâu có vậy. Vì
lẽ sao?
Vì đã giữ tịnh giới
thì muôn tượng um tùm trong trời đất đều chẳng nên đụng chạm đến. Nếu lầm
chạm phải, đã mắc tội nặng rồi, huống nữa nay còn cố ý hủy phá tịnh giới,
gây hại cho muôn vật để cầu phước báu, muốn được thêm cho mình lại hóa
thành mất bớt đi, há có thể như vậy được sao?
Nói xông đèn sáng
mãi,đó là tâm chánh giác vậy.
Sức sáng tỏ của tánh
giác dụ như ngọn đèn. Cho nên người cầu đạo giải thoát phải lấy thân mình
làm thân đèn, lấy tâm mình làm tim đèn, thêm vào giới hạnh làm dầu đốt
đèn.
Trí huệ sáng tỏ dụ
như ngọn đèn thường cháy. Ðó là đèn chánh giác, chiếu phá tất cả mờ tối mê
si, có thể dùng pháp luân ấy truyền trao mở sáng cho nhau. Tức một ngọn
đèn mồi qua trăm ngàn đèn, đèn đèn không cùng tận, nên gọi là chong đèn
sáng mãi.
Trong quá khứ có
Phật tên Nhiên Ðăng cũng theo nghĩa đốt đèn ấy vậy.
Chúng sanh ngu si không hiểu lời nói phương tiện của Như lai, chuyên làm
điều luống dối, mê chấp hữu vi, đốt lên ngọn đèn dầu của thế gian đem soi
vào căn nhà trống, lại xưng là y theo lời Phật dạy, há chẳng quấy lắm ru?
Bởi cớ sao vậy?
Phật phóng một đạo
hào quang giữa đôi mi chiếu suốt tám vạn bốn ngàn thế giới, huống là đèn
dầu hư giả được lợi ích như vậy sao? Xét kỹ lẽ ấy, tự nhiên không thể được
như vậy!
Sáu giờ hành đạo là
nói nơi sáu căn, bất cứ lúc nào cũng đi con đường Phật, cũng tu các giới
hạnh, cũng ngăn phòng sáu căn, không lúc nào buông, đó gọi là sáu giới
hành đạo.
Phàm nói nhiễu tháp
hành đạo thì "tháp" tức là "thân" vậy, cần tu giác hạnh xét quán thân tâm,
niệm niệm chẳng dừng, đó gọi là "nhiễu tháp" tức đi quanh tháp vậy.
Thánh nhân thuở
trước đều đi theo đường ấy cho tới Niết bàn. Người đời nay chẳng rõ lẽ ấy,
trong chẳng tự hành, ngoài lại chấp cầu, đem thân vật chất ra nhiễu tháp
thế gian, đêm ngày loanh quanh, chuốc nỗi nhọc nhằn vô lối, không ích gì
cho chân tánh cả.
Còn trì trai ấy cần
hiểu rõ, nếu không thông đạt ắt uổng công tu.
Nói "trai" là chay, tức nói "tề" là sắp xếp vậy: sắp xếp thân tâm cho
thẳng (tề chánh), đừng cho cong vạy.
Nói "trì" là giữ,
tức nói "hộ" là giúp: ở nơi giới hạnh cứ theo pháp mà hộ trì, ngoài cấm
sáu tình, trong ngăn ba độc, siêng năng tỉnh xét, thân tâm thanh tịnh. Có
hiểu như vậy mới là chay lạt.
Còn ăn cũng có năm
thứ ăn:
- Một là ăn thức vui
của pháp - pháp hỷ thực - đó tức là y giữ chánh pháp, vui mừng vâng làm.
- Hai là ăn thức
ngon của thiền - thiền duyệt thực - đó tức là trong ngoài lọc sạch, thân
và tâm vui đẹp.
- Ba là ăn thức ăn
của niệm - niệm thực - đó tức là thường niệm chư Phật, tâm và miệng hợp
nhau.
- Bốn là ăn thức ăn
của nguyện - nguyện thực - đó tức là trong lúc đứng, đi, nằm, ngồi luôn
phát nguyện lành.
- Năm là ăn thức ăn
của giải thoát - giải thoát thực - đó tức là tâm thường thanh tịnh, chẳng
nhuốm bụi tục. Ăn năm món ăn ấy gọi là giữ giới chay lạt.
Người nào không ăn
năm món ăn thanh tịnh như trên, mà cứ rêu rao là trai giới, thì không đâu
có được... Ðó chỉ là phá chay. Mà đã phá thì sao rằng phước được?
Kẻ mê trong đời
không ngộ được lẽ ấy, thả lỏng thân tâm, làm đủ việc dữ, ham muốn bốn tình
chẳng chút thẹn thùng. Chỉ dứt có ăn ngoài mà tự coi là chay lạt, thật
không đâu có được.
Việc lễ bái thì nên
biết pháp, như thế này: trong là lý phải sáng tỏ; ngoài là sự biết quyền
nghi. Có hiểu được như vậy mới gọi là y pháp.
Phàm nói "lễ" tức
nói "kính" nghĩa là coi trọng.
Phàm nói "bái" tức
nói "phục" nghĩa là cúi xuống.
Sở dĩ thế vì có cung
kính chân tánh, khuất phục vô minh, mới gọi là lễ bái.
Nếu dứt hẳn được ác tình, hằng gìn thiện niệm, tuy chẳng xứng tướng, ấy
gọi là lễ bái.
Tướng ấy, tức là
pháp tướng.
Thế Tôn muốn khiến
cho thế tục tỏ lòng nhún thấp mới dạy lễ bái, tức là ngoài thì thân sụp
xuống, trong thì lòng kính thêm, giác ngoài sáng trong, tánh tướng cùng
hợp.
Nếu không làm theo
lý pháp ấy mà chỉ chấp trước cầu ngoài, trong ắt buông lung theo tham si,
mãi gây nghiệp dữ, ngoài ắt nhọc nhằn thân tướng mà chẳng ích gì, đội lốt
uy nghi, không thẹn với thánh, dối gạt với phàm, chẳng khỏi luân hồi, há
thành công đức được sao?
Hỏi: Như lời kinh
nói: "Dốc lòng niệm Phật, chắc được vãng sanh qua cõi Cực Lạc phương Tây,
chỉ cần theo một cửa ấy tức được thành Phật", sao còn nói quán tâm để cầu
giải thoát là gì?
Ðáp: Phàm nói niệm
Phật, cốt cần niệm chánh. Rõ nghĩa là chánh, không rõ nghĩa là tà. Niệm
chánh chắc được vãng sanh, niệm tà sao qua đó được?
Nói "Phật" là nói "giác", tức tỉnh biết, tỉnh biết để thấy rõ chân tâm,
đừng khiến niệm dữ lừng lên.
Nói "niệm" là nói
"ức", tức gìn nhớ: gìn nhớ giữ giới hạnh, chẳng quên tinh tấn. Có hiểu như
vậy mói gọi là niệm. Cho nên niệm cốt ở tâm, chẳng ở lời nói.
Mượn nơm
đơm cá, được cá cần quên nơm.
Mượn lời
cầu ý, được ý cần quên lời.
Ðã xưng niệm Phật
trên danh từ, nên biết niệm Phật trong đạo lý.
Nếu tâm không thực, thì miệng niệm tụng tiếng suông, ba độc chất chồng,
nhân ngã chèn lấp.
Ðem tâm vô minh
hướng ngoài cầu Phật, nhọc sức ích gì.
Vả, tụng với niệm,
nghĩa lý còn khác nhau xa.
Tại miệng, gọi là
tụng.
Tại tâm, gọi là
niệm.
Thế mới biết:
Niệm theo tâm khởi,
đó là giác hạnh - cửa huyền.
Tịnh theo miệng ra,
đó là âm thanh - tướng dối.
Nên biết chư thánh
ngày xưa tu niệm Phật, phải đâu nói ngoài miệng, chính là tìm xét trong
tâm.
Tâm là
nguồn của mọi pháp lành.
Tâm là
chủ của muôn công đức.
Niết bàn
thường vui do tâm mà ra.
Ba cõi
lăn lóc cũng theo tâm dậy.
Tâm là
cửa, là ngỏ của đạo xuất thế.
Tâm là
bến, là ải của đạo giải thoát.
Cửa ngỏ
đã biết, há lo khó vào?
Bến ải
đã rõ, há ngại chẳng thông?
Cho nên nhiếp tâm
được thì trong chiếu soi; giác quán được thì ngoài tỏ sáng.
Dứt ba
độc khiến ngàn thuở tiêu tan.
Nhốt sáu
giặc khiến bặt đường phá rối.
Tự nhiên
hằng sa công đức, thảy thảy trang nghiêm.
Vô số
pháp môn mỗi mỗi thành tựu.
Vượt lên
phàm, chứng vào thánh, mắt chẳng động xao.
Ngộ tại
chốc liền, đợi gì lâu lắc.
Cửa chân sâu kín,
thuật đủ được sao, đây chỉ trình bày sơ phép quán tâm đôi phần vậy.
Và kệ nói rằng:
1.- Ngã
bổn cầu tâm tâm tự trì,
Cầu tâm
bất đắc đãi tâm tri.
Phật
tánh bất tòng tâm ngoại đắc,
Tâm sanh
tiện thị tội sanh thì.
Ta vốn
cầu tâm tâm tự trì,
Cầu tâm
chớ khá đợi tâm tri.
Tánh
Phật ngoài tâm không chứng được,
Tâm sanh
thì tội phát liền khi.
2.- Ngã
bổn cầu tâm bất cầu Phật,
Liễu tri
tam giới không vô vật.
Nhược
dục cầu Phật đản cầu tâm,
Chỉ giá
tâm tâm tâm thị Phật.
Ta vốn
cầu tâm chẳng cầu Phật,
Rõ ra ba
cõi không một vật.
Ví muốn
cầu Phật thà cầu tâm,
Chỉ tâm
tâm tâm ấy tức Phật.
GHI CHÚ:
(1) Người Tàu ngày
xưa gọi lầm chung một số sắc dân xung quanh nước Tàu là Hồ, rợ Hồ (Perse),
như tiếng Ấn gọi là Hồ ngữ, sư Ấn gọi là Hồ tăng.
(2) Assamkhya.
(3) Paramita.
(4) Nhũ mi: chất
tinh túy nhất rút ra từ chất sữa bò, dê, thường gọi là đề hồ (crème).