CỬA THỨ NĂM: NGỘ TÁNH LUẬN
Phàm là đạo, phải
lấy sự tịch diệt làm thể, còn tu lấy sự lìa tướng làm tông.
Nên kinh nói: Tịch
diệt là Bồ đề.
Diệt hết hình tướng
đó:
Là Phật, nghĩa là
giác.
Người có giác tâm,
được đạo Bồ đề, nên gọi là Phật.
Kinh nói: lìa tất cả
mọi hình tướng tức gọi là chư Phật.
Nên biết tướng là có
tướng mà không tướng, không thể thấy bằng mắt, chỉ biết được bằng trí.
Ai nghe pháp ấy chợt
phát lòng tin, là người ấy đang nương pháp đại thừa siêu lên ba cõi.
Ba cõi ấy là tham,
sân, si vậy.
Chuyển ngược tham,
sân, si làm giới, định, huệ tức gọi siêu lên ba cõi. Tuy nhiên, tham, sân,
si chẳng có thực tính, chỉ bằng vào chúng sanh mà đặt tên. Nếu có thể soi
ngược trở lại thì sẽ thấy rõ:
Tánh của tham, sân,
si tức là tánh Phật.
Ngoài tham, sân, si
tuyệt nhiên không có tánh Phật nào khác.
Kinh nói: Từ vô thủy
đến nay, chư Phật luôn luôn cư xử ở nơi ba độc, nuôi lớn trong bạch pháp,
mà thành tựu ở quả Thế tôn.
Ba độc ấy là tham,
sân,si vậy.
Nói đại thừa tối
thượng thừa là nói chổ sở hành của hàng Bồ Tát.
Không gì là chẳng thừa, mà cũng không gì gọi được là thừa, suốt ngày thừa
mà chưa hề thừa, đó là Phật thừa.
Kinh nói: Lấy vô
thừa làm Phật thừa vậy.
Nếu người biết sáu
căn vốn không thực, năm uẩn chỉ giả danh, không thể dựa vào đâu cầu cạnh
gì được, người ấy quả thông suốt lời Phật.
Kinh nói: Hang ổ của
năm uẩn là tên gọi của thiền viện.
Chiếu sáng bên trong
mà mở thông suốt, tức là cửa đại thừa.
Chẳng nhớ tưởng một
pháp nào mới gọi là thiền định.
Ví hiểu rõ lời ấy
thì đứng, đi, nằm, ngồi thảy đều thiền định cả.
Biết tâm vốn không,
đó gọi là thấy Phật.
Tại sao vậy?
Vì mười phương chư
Phật đều nhân vì vô tâm chẳng thấy ở tâm, đó là thấy Phật.
Xả tâm không nuối
tiếc gọi là đại bố thí.
Lìa hết động và định
gọi là đại tọa thiền.
Tại sao vậy?
Kẻ phàm mỗi mỗi đều
hướng về động.
Hàng tiểu thừa mỗi
mỗi đều hướng về định.
Vượt lên cái lầm
hiếu động của phàm phu và hiếu định ngồi thiền của tiểu thừa mới gọi là
đại tọa thiền.
Nếu có được sức lãnh
hội ấy thì chẳng cần lìa mà tướng tướng tự cởi bỏ, chẳng cần trị mà bịnh
bịnh tự trừ, ấy đều là định lực của phép đại thiền.
Phàm đem
tâm cầu pháp, ấy là mê.
Chẳng
đem tâm cầu pháp, ấy là ngộ.
Chẳng
mắc vào chữ nghĩa gọi là giải thoát.
Chẳng
nhiễm sáu trần gọi là hộ pháp.
Xuất lìa
sanh tử gọi là xuất gia.
Chẳng
chịu hậu hữu gọi là được đạo.
Chẳng
nổi vọng tưởng gọi là Niết bàn.
Chẳng
đối xử với vô minh gọi là trí huệ lớn.
Chỗ
không phiền não gọi là Bát Niết bàn.
Chỗ
không tướng gọi là bờ bên kia.
Khi mê
thì có bờ bên này.
Khi ngộ
thì không bờ bên này.
Tại sao vậy?
- Vì kẻ phàm phu mỗi
mỗi đều xu hướng trụ ở bên này.
- Vì giác được phép
tối thượng thừa thì tâm chẳng trụ bên này cũng chẳng trụ bên kia, nên lìa
được cả hai bờ bên này và bên kia.
Nếu thấy bờ bên kia
khác với bờ này, người ấy tâm chưa có thiền định.
Phiền não gọi là
chúng sanh.
Tỏ ngộ gọi là Bồ đề.
Ðó chẳng phải giống
nhau mà cũng chẳng phải khác nhau, chỉ vì mê ngộ mà cách biệt nhau.
Khi mê thì thấy có
thế gian cần thoát ra.
Khi ngộ thì không có
thế gian nào để thoát ra cả.
Trong pháp bình đẳng
chẳng thấy phàm khác với thánh.
Kinh nói: Pháp bình
đẳng ấy phàm phu không thể vào, bậc thánh cũng không thể hành được.
Pháp bình đẳng ấy
chỉ có hàng Bồ tát lớn và chư Phật Như lai mới hành được.
Nếu thấy sống khác
với chết, động khác với tịnh, đó gọi là chẳng bình đẳng.
Chẳng thấy phiền não khác với Niết bàn, ấy gọi là bình đẳng.
Tại sao vậy?
Vì phiền não với
Niết bàn đều chung đồng một tánh không vậy.
Do đó, hàng tiểu
thừa vọng dứt phiền não, vọng vào Niết bàn, nên trệ ở Niết bàn.
Hàng Bồ tát, trái
lại biết rõ tánh không của phiền não, tức chẳng lìa bỏ cái không, nên lúc
nào cũng ở tại Niết bàn.
Phàm nói Niết bàn:
Niết là không sanh, bàn là không tử.
Lìa ngoài sanh tử
gọi là Bát Niết bàn.
Tâm không lại qua
tức vào Niết bàn.
Nên biết Niết bàn
tức là tâm không.
Chư Phật vào Niết
bàn, tức vào cõi không vọng tưởng.
Bồ tát vào đạo
tràng, tức vào cõi không phiền não.
Cõi vắng không ấy
tức cõi không tham, sân, si.
Tham là cõi dục.
Sân là cõi sắc.
Si là cõi vô sắc.
Nếu bỗng chốc thoắt
sanh tâm, tức đi vào ba cõi.
Bỗng chốc thoắt diệt
tâm, tức ra ngoài ba cõi. Mới hay ba cõi sanh diệt, muôn pháp có không đều
do một tâm.
Hễ nói một tâm tựa
hồ như phá vào thế giới vật chất vô tình của ngói cây gỗ đá.
Nếu biết tâm chỉ là
một tiếng gọi suông, không thực thể, tức biết tâm tự tịch ấy chẳng phải có
mà cũng chẳng phải không.
Tại sao vậy?
Vì phàm phu mỗi mỗi
đều có xu hướng sanh tâm nên gọi là "có".
Hàng tiểu thừa, mỗi
mỗi đều có xu hướng diệt tâm nên gọi là "không".
Hàng Bồ tát và Phật
chưa từng sanh tâm, chưa từng diệt tâm nên gọi là "chẳng phải có tâm,
chẳng phải không tâm".
Tâm chẳng có chẳng
không gọi là trung đạo.
Bởi vậy đem tâm học
pháp thì tâm pháp thảy đều mê.
Chẳng đem tâm học
pháp ắt tâm pháp thảy đều ngộ.
Phàm mê là mê ở ngộ.
Còn ngộ là ngộ ở mê.
Bậc chánh kiến hiểu
tâm vốn "không vô" tức vượt lên mê ngộ.
Không có mê ngộ mới
gọi là chánh giác chánh kiến.
Sắc không thể tự là
sắc, do tâm nên có sắc.
Tâm không thể tự là
tâm, do sắc nên có tâm.
Cho nên hai tướng
tâm và sắc đều có sanh diệt.
Nói "có" là do ở
"không".
Nói "không" là không
do ở "có".
Ðó mới là thấy chân
thực.
Phàm thấy thực thì
không gì chẳng thấy mà cũng không gì không chẳng thấy, thấy khắp mười
phương vẫn là chưa từng có thấy.
Tại sao vậy?
Vì không có gì để
thấy, vì thấy cái không thấy, vì thấy cái chẳng phải là thấy.
Cái thấy của kẻ phàm
đều là vọng tưởng.
Nếu tịch diệt không
có thấy mới là thấy thực.
Tâm và cảnh đối
nhau, thấy phát sanh từ thế đối đãi ấy.
Nếu trong chẳng khởi
tâm thì ngoài chẳng sanh cảnh.
Cho nên tâm và cảnh
có lắng hết cả hai thì mới gọi là chân kiến.
Và cái hiểu trong
lúc ấy mới gọi là chánh kiến.
Chẳng thấy một pháp
mới gọi là được đạo.
Chẳng hiểu một pháp
mới gọi là hiểu pháp.
Tại sao vậy?
Vì thấy cùng chẳng
thấy, đều chẳng thấy.
Hiểu cùng chẳng
hiểu, đều chẳng hiểu.
Thấy cái chẳng thấy,
mới là thấy thực.
Hiểu cái chẳng hiểu,
mói là hiểu thực.
... Phàm có cái hiểu
đều là chẳng hiểu.
Không có cái hiểu
mới là thực hiểu.
Hiểu cùng chẳng hiểu
đều chẳng phải hiểu.
Kinh nói: chẳng xả
trí huệ gọi là ngu si.
Lấy tâm làm không
thì hiểu cùng chẳng hiểu đều là chân cả.
Chấp tâm là có thì
hiểu cùng chẳng hiểu đều là vọng cả.
Khi hiểu rồi thì
pháp đuổi theo người.
Khi chưa hiểu thì
người đuổi theo pháp.
Nếu pháp đuổi theo
người, pháp hóa thành chẳng phải là pháp.
Nếu người đuổi theo
pháp, thì pháp pháp đều là vọng.
Nếu pháp đuổi theo
người thì pháp pháp đều là chân.
Cho nên bậc thánh:
- Cũng chẳng đem tâm
cầu pháp.
- Cũng chẳng đem
pháp cầu tâm.
- Cũng chẳng đem tâm
cầu tâm.
- Cũng chẳng đem
pháp cầu pháp.
Vì thế tâm chẳng
sanh pháp, pháp chẳng sanh tâm, tâm và pháp tịch cả hai nên lúc nào cũng ở
trong định.
Tâm của chúng sanh
sanh ắt pháp Phật diệt.
Tâm của chúng sanh
diệt ắt pháp Phật sanh.
Tâm sanh ắt chân
pháp diệt.
Tâm diệt ắt chơn
pháp sanh.
... Khi mê thì
(thấy) có tội.
Khi hiểu thì (thấy)
không có tội.
Tại sao vậy?
Vì tội tánh vốn
không.
Khi mê thì không tội
thấy có tội.
Nếu hiểu rồi thì đối
tội thấy không tội.
Tại sao vậy?
Kinh nói: Muôn pháp
đều không tự tánh, cứ dùng nó đừng ngờ, ngờ tức thành tội.
Tại sao vậy?
Vì tội do nghi ngờ
sanh ra.
Nếu thấu suốt được
lẽ ấy thì bao nhiêu tội nghiệp đời trước đều tiêu tan hết.
Khi mê thì sáu thức,
năm ấm đều là pháp phiền não sanh tử.
Khi ngộ thì sáu
thức, năm ấm đều là pháp Niết bàn không sanh tử.
Người dốc lòng tu
chớ cầu đạo ở bên ngoài.
Tại sao vậy?
Vì tâm tức là đạo.
Khi được tâm rồi,
mới hay không tâm nào có thể được.
Khi được đạo rồi,
mới hay không đạo nào có thể được.
Nếu nói đem tâm ra
cầu được đạo, đó gọi là tà kiến.
Khi mê thì Phật có
pháp.
Ngộ rồi thì không
Phật không pháp.
Tại sao vậy?
Vì ngộ tức là Phật
pháp.
... Khi mắt thấy sắc
chẳng nhiễm nơi sắc.
Khi tai nghe tiếng
chẳng nhiễm nơi tiếng đều là giải thoát.
Mắt không dính sắc
thì mắt là cửa thiền.
Tai không dính tiếng
thì tai là cửa thiền.
Nói gom lại hết,
thấy được tánh của sắc thì lúc nào cũng là giải thoát.
Thấy tướng của sắc
thì lúc nào cũng là trói buộc.
Không vì phiền não
mà trói buộc, tức gọi giải thoát, ngoài ra không có sự giải thoát nào
khác.
Khéo quán xét sắc
thì rõ ràng sắc chẳng sanh nơi tâm, tâm chẳng sanh nơi sắc, tức sắc và tâm
cả hai đều thanh tịnh.
Khi không vọng tưởng
thì một tâm là một cõi Phật.
Khi có vọng tưởng
thì một tâm là một địa ngục.
Chúng sanh xây dựng
vọng tưởng, đem tâm sanh tâm, nên lúc nào cũng ở trong địa ngục.
Nếu không đem tâm
sanh tâm thì tâm tâm quay về không, niệm niệm trở về tịnh, vào đủ nước
Phật, đến đủ nước Phật.
Nếu đem tâm sanh tâm
thì tâm tâm chẳng tịnh, niệm niệm hướng động, vào đủ địa ngục, qua đủ địa
ngục.
Nếu một thoáng tâm
dấy lên, ắt có thiện ác hai nghiệp, có thiên đường địa ngục.
Nếu một thoáng tâm
không dấy lên, ắt không thiện ác hai nghiệp, cũng không thiên đường địa
ngục.
... Thánh nhân vốn
không tâm, nên trong thì trống rỗng bao la, cùng với hư không chẳng khác.
Khi tâm được Niết
bàn tức thấy chẳng có Niết bàn.
Tại sao vậy?
Vì tâm là Niết bàn.
Nếu ngoài tâm thấy
có Niết bàn, đó là mắc phải tà kiến.
Tất cả phiền não là
hột giống Như lai, vì nhân có phiền não mới có được trí huệ.
Ta chỉ nên nói phiền
não "sanh" Như lai, không thể nói phiền não "là" Như lai.
Cho nên cần lấy thân
tâm làm ruộng rẫy, phiền não làm hột giống, trí huệ làm mầm mộng, còn Như
lai ví như lúa thóc.
Phật ở trong tâm như
(trầm) hương ở trong cây.
Phiền não nếu hết
thì Phật theo tâm ra.
Vỏ mục nếu hết thì
hương theo cây ra.
Mới biết ngoài cây
không có hương, ngoài tâm không có Phật.
Nếu ngoài cây có
hương, tức là hương ngoài của cây khác.
Nếu ngoài tâm có
Phật, tức là Phật ngoài của ai khác.
Trong tâm có ba độc,
đó gọi là quốc độ dơ xấu.
Trong tâm không có
ba độc, đó gọi là quốc độ thanh tịnh.
Kinh nói: Nếu khiến
cho quốc độ đục vẩn dơ xấu cứ dẫy đầy lên, rồi chư Phật Thế Tôn sẽ từ
trong đó xuất hiện, điều ấy không đâu có được.
Cái vẩn đục dơ xấu
tức là ba độc vô minh.
Chư Phật Thế Tôn tức
là tâm thanh tịnh giác ngộ.
Tất cả sự nói năng,
không gì chẳng là pháp Phật.
Nếu tự mình không có
lời nói thì nói suốt ngày vẫn là đạo.
Nếu tự mình có lời
nói thì im suốt ngày vẫn chẳng là đạo.
Cho nên Như lai lời
nói không nương theo im lặng, im lặng không nương theo lời nói, lời nói
không lìa im lặng, nói và im đều ở trong tam muội cả.
Nếu biết mà nói thì
lời nói cũng là giải thoát.
Nếu không biết mà im
lặng thì im lặng cũng trói buộc.
Cho nên nói mà lìa
tướng thì lời nói gọi là giải thoát.
Còn im lặng mà dính
tướng thì im lặng là trói buộc.
Lìa tâm không Phật.
Lìa Phật không tâm.
Cũng như lìa nước
không băng.
Cũng như lìa băng
không nước.
Nói "lìa tâm không
Phật" chẳng phải xa lìa tâm, mà khiến đừng chấp vào hình tướng của tâm.
Kinh nói: "Không
thấy tướng gọi là thấy Phật", tức là lìa hình tướng của tâm. "Lìa Phật
không tâm" là nói Phật từ tâm ra.Tâm có thể sanh Phật, nên Phật theo tâm
sanh, nhưng Phật chưa hề sanh ra tâm bao giờ.
Cũng như cá sanh ở
nước, nhưng nước không thể sanh ở cá.
Cho nên muốn xem cá,
cá chưa thấy mà trước hết đã thấy nước.
Cũng vậy, muốn xem
Phật, Phật chưa thấy mà trước hết đã thấy tâm.
Mới biết cá thấy rồi
cần quên nước.
Phật thấy rồi cần
quên tâm.
Nếu không quên được
tâm thì sẽ vì tâm mà lầm nữa.
Nếu không quên được
nước thì sẽ vì nước mà mê nữa.
Chúng sanh với Bồ đề
cũng như nước với băng.
Vì ba độc nung đốt
nên gọi là chúng sanh.
Vì ba giải thoát gội
sạch nên gọi là Bồ đề.
Vì đóng lạnh trong
tiết đông nên gọi là băng.
Vì tan chảy trong
lửa hè nên gọi là nước.
Nếu bỏ băng, thì
không có nước nào khác.
Nếu bỏ chúng sanh,
thì không có Bồ đề nào khác.
Ðủ rõ tánh của băng
tức là tánh của nước.
Tánh của nước tức là
tánh của băng.
Cũng vậy, tánh của
chúng sanh tức là tánh của Bồ đề.
Chúng sanh với Bồ đề
đều chung nhau một tánh.
Cũng như hai vị
thuốc ô đầu và phụ tử đều chung một gốc, chỉ vì thời tiết mà khác nhau.
Cũng vậy, mê ngộ hai cảnh khác nhau nên có hai tên gọi chúng sanh và Bồ
đề.
Rắn hóa thành rồng
vẫn không đổi vảy.
Phàm biến thành
thánh vẫn không thay mặt.
Mới hay tâm ấy,
trong trí huệ chiếu; thân ấy, ngoài giới luật vững.
Chúng sanh độ Phật.
Phật độ chúng sanh.
Vậy gọi là bình
đẳng.
Chúng sanh độ Phật:
phiền não nẩy sanh tỏ ngộ.
Phật độ chúng sanh:
tỏ ngộ phá trừ phiền não.
... Khi mê thì Phật
độ chúng sanh.
Khi ngộ thì chúng
sanh độ Phật.
Tại sao vậy?
Vì Phật không thể tự
thành, đều do chúng sanh độ nên vậy.
Chư Phật lấy vô minh
làm cha, lấy tham ái làm mẹ.
Vô mình và tham ái
đều là tên gọi khác của chúng sanh.
Chúng sanh với vô
minh cũng như tay trái với tay mặt, rốt cùng chẳng khác nhau.
Khi mê thì ở bờ bên
này.
Khi ngộ thì ở bờ bên
kia.
Vì biết tâm vốn là
không thì chẳng thấy tướng, ắt lìa cả mê và ngộ.
Mê ngộ đã lìa, ắt
không bờ bên kia.
Như lai không ở bờ
bên này, cũng không ở bờ bên kia, không ở giữa dòng.
Ở giữa dòng: tiểu
thừa.
Ở bờ bên này: phàm
phu.
Ở bờ bên kia: Bồ
tát.
Phật có ba thân: hóa
thân, báo thân và pháp thân.
Nếu chúng sanh luôn
luôn làm theo các căn lành: tức hóa thân hiện.
Tu trí huệ: tức báo
thân hiện.
Giác vô vi: tức pháp
thân hiện.
Bay lướt mười
phương, tùy nghi cứu độ: Phật hoá thân.
Dứt mê hoặc, tu
thiện pháp, thành đạo trên núi Tuyết: Phật báo thân.
Không lời không nói,
vắng lặng thường trụ: Phật pháp thân.
Luận cho cùng lẽ thì
một Phật còn chẳng có huống là ba.
Nói ba thân là dựa
theo căn trí của con người có thượng, trung, hạ.
Người hạ trí bôn
chôn vọng cầu phước, vọng thấy hóa thân Phật.
Người trung trí vọng
dứt phiền não,vọng thấy báo thân Phật.
Người thượng trí
vọng chứng Bồ đề, vọng thấy pháp thân Phật.Người thượng trí vắng lặng tròn
đầy soi chiếu bên trong, sáng tâm tức Phật, chẳng đợi tâm mà được Phật.
Thế mới biết ba thân
cùng muôn pháp đều không giữ được, không nói được, đó tức là tâm tự nhiên
giải thoát, thành tựu đạo lớn.
Kinh nói: "Phật
chẳng nói pháp, chẳng độ chúng sanh, chẳng chứng Bồ đề" là như vậy.
Chúng sanh tạo
nghiệp.
Nghiệp tạo chúng
sanh.
Ðời nay tạo nghiệp.
Ðời sau chịu quả
báo, thuở nào thoát khỏi.
Bậc chí nhân ở trong
thân này, không tạo các nghiệp, nên chẳng chịu báo.
Kinh nói: "Các
nghiệp chẳng tạo, tự nhiên được đạo" hà lời nói suông ru!
Người tạo ra nghiệp.
Nghiệp không thể tạo
ra người.
Người nếu tạo nghiệp
thì nghiệp với người cùng sanh.
Người nếu không tạo
nghiệp thì nghiệp với người cùng diệt.
Mới biết nghiệp do
người tạo, người do nghiệp sanh.
Nếu người không tạo
nghiệp, tức nghiệp chẳng do người sanh.
Cũng như người có
thể nâng đạo, đạo không thể nâng người.
Kẻ phàm phu ngày nay
luôn luôn tạo nghiệp, lại nói bừa là không có quả báo, há chẳng khó nghe
sao?
Luận cho cùng lẽ:
tâm trước tạo, tâm sau báo, đời nào thoát được?
Nếu tâm trước không
tạo, tức tâm sau không báo, vậy còn vọng thấy nghiệp báo được sao?
Kinh nói: Tuy tin cả
Phật, lại nói Phật khổ hạnh, đó là tà kiến.
Tuy tin cả Phật, lại nói Phật bị quả báo đói ăn lúa ngựa, gươm vàng đâm
chân, đó gọi là lòng tin chưa trọn đủ, là nhất xiển đề.
Người hiểu pháp
thánh gọi là thánh nhơn.
Người hiểu pháp phàm
gọi là phàm phu.
Chỉ cần xả pháp phàm
thành pháp thánh, tức phàm phu thành thánh nhơn.
Kẻ ngu trong đời chỉ
mong cầu thánh viễn vong, chẳng tin rằng chính tâm huệ giải là thánh nhơn.
Kinh nói: Ðối với
người vô trí đừng nói kinh này.
Kinh này là tâm, là
pháp vậy.
Người vô trí không
tin chính tâm sáng tỏ được pháp này làm thành bậc thánh. Họ chỉ mảng cầu
xa, học ngoài, mến chuộng hình tượng Phật ngoài trời, cùng ánh sáng hương
sắc đủ thứ, toàn là việc làm đọa tà kiến, mất tâm, cùn trí.
Kinh nói: Nếu thấy
các tướng chẳng phải tướng, tức thấy Như lai.
Tám vạn bốn ngàn
pháp môn thảy do một tâm mà mống dậy.
Nếu trong lắng hết
tâm tướng, giống như hư không, tức tự trong thân tâm xa lìa hết tám vạn
bốn ngàn căn bịnh phiền não.
Phàm phu đang sống
sợ chết, vừa no lo đói, thật quá đổi mê hoặc. Cho nên bậc chí nhân chẳng
tính việc đã qua, chẳng lo việc chưa đến, không xáo động việc bây giờ,
niệm niệm trở về đạo.
Kệ đêm ngồi tịnh
rằng:
NHẤT CANH đoan tọa
kiết già phu,
Di thần tịch chiếu
hung đồng hư.
Khoáng kiếp do lai
bất sanh diệt,
Hà tu sanh diệt diệt
sanh cừ?
Nhất thiết chư pháp
giai như huyễn,
Bổn tánh tự không na
dụng trừ!
Nhược thức tâm tánh
phi hình tượng,
Trạm nhiên bất động
tự như như.
Ðoan trang CANH MỘT
tịnh ngồi tu,
Tịch chiếu tinh thần
tợ thái hư.
Muôn kiếp vốn không
sanh với diệt,
Học đòi sanh diệt
diệt gì ư?
Gẫm xem các pháp trò
ma ảo,
Tánh vốn là không
uổng sức trừ!
Ví biết tâm mình
không tướng mạo,
Lặng im chẳng động
tự như như.
NHỊ CANH ngưng thần
chuyển minh tịnh,
Bất khởi ức tưởng
chân như tính.
Sum la vạn tượng
tịnh qui không,
Cánh chấp hữu không
toàn thị bịnh.
Chư pháp bổn tự phi
không hữu,
Phàm phu vọng tưởng
luận tà chánh.
Nhược năng bất nhị
kỳ cư hoài,
Thủy đạo tức phàm
phi thị thánh,
CANH HAI ngưng thần
chuyển minh tịnh,
Chẳng tưởng chẳng
nhớ nhân như tính.
Um tùm muôn tượng
trở về không,
Chấp có chấp không
lại vẫn bệnh.
Các pháp như nhiên
chẳng có không,
Phàm phu tưởng quấy
bàn tà chánh.
Ví biết gìn lòng lẽ
"chẳng hai".
Ai nói tức phàm
chẳng phải thánh.
TAM CANH tâm tịnh
đẳng hư không,
Biến mãn thập phương
vô bất thông.
Sơn hà thạch bích vô
năng chướng,
Hà sa thế giới tại
kỳ trung.
Thế giới bổn tánh
chân như tánh,
Diệc vô bổn tánh tức
hàm dung.
Phi đản chư Phật
năng như thử,
Hữu tình chi loại
phổ giai đồng.
CANH BA tâm tịnh
sáng hư không,
Rộng khắp mười
phương đâu chẳng thông.
Tường vách núi sông
không ngăn ngại,
Bao la vũ trụ tự nơi
trong.
Tánh của càn không
là Phật tánh,
Cũng không bổn tánh
tức hàm dung.
Nào phải riêng đâu
chư Phật được,
Hữu tình muôn loại
vẫn chung đồng.
TỨ CANH vô diệt diệc
vô sinh,
Lượng dữ hư không
pháp giới bình.
Vô lai vô khứ vô
khởi diệt,
Phi hữu phi vô phi
ám minh.
Vô khởi chư kiến Như
lai kiến,
Vô danh khả danh chư
Phật danh.
Duy hữu ngộ giả ưng
năng thức,
Vị hội chúng sanh do
nhược manh.
CANH TƯ không diệt
cũng không sanh,
Rộng ví hư không
pháp giới bình.
Không qua không lại
không còn mất,
Chẳng có chẳng không
chẳng ám minh.
Không vọng thấy gì:
Như lai thấy,
Không gọi danh gì:
chân Phật danh.
Ai có ngộ qua rồi
mới hiểu,
Chúng sanh chưa rõ
bởi thong manh.
NGŨ CANH bát nhã
chiếu vô biên,
Bất khởi nhất niệm
lịch tam thiên.
Dục kiến chân như
bình đẳng tánh,
Thậm vật sanh tâm
tức mục tiền.
Diệu lý huyền ảo phi
tâm trắc,
Bất dụng trầm trục
linh bì cực.
Nhược năng vô niệm
tức chân cầu,
Cánh nhược hữu cầu
hoàn bất thức.
CANH NĂM bát nhã
chiếu vô biên,
Chẳng khởi một niệm
suốt tam thiên.
Muốn thấy chơn như
bình đẳng tánh,
Khéo chớ sanh tâm
trước mắt tiền.
Lẽ ấy diệu huyền
không lượng được,
Dụng công đuổi bắt
thêm nhọc sức.
Nếu không một niệm
tức chân cầu,
Còn có tâm cầu chưa tỉnh thức.