BẠT: HUYỀN
THOẠI BỒ ÐỀ ÐẠT MA
"Thiếu Thất cửu niên vô nhất
ngữ"
Huệ Trung Trần Quốc Tảng
Tổ Ðạt Ma cỡi sóng qua Ðông Ðộ.
Tổ Ðạt Ma vào đất Ngụy, đường
đường như một kiếm khách chốn hải tần.
Tổ Ðạt Ma "đơn đao trực nhập"
triều đình Lương Võ Ðế, nói pháp như chuyển sóng.
Tổ Ðạt Ma chín năm trầm hùng
ngồi nhìn vách đá chùa Thiếu Lâm.
Tổ Ðạt Ma kỳ diệu ban pháp an
tâm.
Tổ Ðạt Ma cỡi bè lau về Thiên
Trúc.
Tổ Ðạt Ma xách một chiếc dép
phi hành trên ngọn Thông Lãnh.
Tổ Ðạt Ma... và Tổ Ðạt Ma...
Bao nhiêu câu chuyện truyền kỳ
kết hào quang đưa nhà sư mắt biếc đất Hồ (1) vào huyền sử.
Từ Tung Sơn, sừng sững bên vách
đá chùa Thiếu Lâm, bóng người ngả dài suốt lịch sử Ðông phương như một
tượng trưng thuần túy của Ðạo. Ngót mười lăm thế kỷ, lòng người còn nghe
đồng vọng tiếng Người nói; chốn già lam còn nghe vang dội bước Người đi.
Người đi qua không gian, hiển
hiện như chưa từng có.
Tổ Ðạt Ma đi qua không gian,
hiển hiện như chưa từng không.
Người đi thẳng vào sự thật, dẫm
nát dư luận.
Người đi thẳng vào lòng người,
không mặt nạ.
Ðối với Người, sự thật là sự
thật, không được trả giá. Trả giá với sự thật là ký kết với ma. Con người
đang đi xuống quá rồi, thế đạo đang nghiêng ngửa giữa sắc tướng, cần cấp
thời chận đứng đà tuột dốc; cần vươn mình mở lấy một con - đường - không -
con - đường, cần nhảy thẳng vào tâm điểm của cuộc sống, của giác ngộ. Căn
bệnh đã quá trầm trọng, cần bạo tay thọc thẳng mũi dao vào tròng ung thư.
Trong tinh thần vô úy ấy, Người đã thét giữa những con người bé nhỏ chúng
ta chơn lý tối hậu: quách nhiên vô thánh.
Sống là đạo, ngoài ra không có
đạo nào khác. Ðạo nào khác đều tìm thánh bỏ phàm, đều ham ngộ ghét mê, đều
bỏ đời cầu đạo, đều tự trói buộc mình:
"Bất dữ phàm thánh đồng triền,
Siêu nhiên danh chi viết Tổ"
(Chẳng cùng phàm thánh sánh
vai,
Vượt lên mới gọi là Tổ).
Cho nên bất cứ phương tiện nào
của cuộc sống cũng là đạo. Bắt nguồn tự vách núi Tung Sơn, đạo sống Thiền
thấm nhuần khắp giải đất Á Ðông, nung sanh lực cho mấy ngàn năm văn hóa.
Cho nên uống trà cũng là đạo,
trà đạo: trà thiền nhất vị
Võ thuật cũng là đạo, nhu đạo:
đạo lấy mềm thắng cứng.
Cắm hoa, viết chữ, bắn cung
cũng là đạo, đạo luyện phép vô tâm, để cho sự vật tự nó sắp xếp một cách
viên mãn nhứt.
Cho đến xách nước, bửa cũi cũng
là đạo:
Bửa củi là diệu dụng,
Xách nước ấy thần thông.
(Bàng Uẩn)
Im lặng cũng là đạo:
Ði cũng thiền, ngồi cũng thiền,
Nói, im, động tịnh thể an
nhiên.
(Huyền Giác)
Sau khi Tổ viên tịch, vấn đề
giải thoát được nêu lên với tất cả tinh thành của hàng đệ tử. Người ta tự
hỏi nhau: "Tổ truyền gì cho Huệ Khả? Bí quyết của pháp Phật là gì? Huyết
mạch của đạo thiền là gì? Thực chất của giác ngộ là gì? v.v...". Bao nhiêu
câu hỏi nóng hổi đặt dài theo bước chân người cầu đạo suốt mười lăm thế
kỷ, và có thể đúc kết lại trong câu hỏi độc đáo sau đây của phép tu thiền:
"Như hà nhị Tổ sư lai ý". (Ý nghĩa tối yếu của việc Tổ sư qua Tàu là gì?).
Ðáp lại tấc lòng tinh thành ấy,
người ta nhận được những câu trả lời quái dị như sau:
Sư Hương Lâm nói: ngồi lâu thấm
mệt.
Sư Cửu Phong nói: một tấc lông
rùa nặng chín cân.
Sư Triệu Châu nói: Cây bách ở
trước sân v.v...
Lối nói ngược ngạo đó gọi là
công án. Trong số 1.700 công án thiền, riêng về câu hỏi trên chiếm đến
trên trăm câu, đủ biết tổ Ðạt Ma luôn luôn có mặt ở khắp nẻo thiền. Nên
một ông sư Phù Tang nói:
"Người nào lấy hư không làm
giấy, lấy sóng trùng dương làm mực, lấy núi Tu Di làm bút, viết được năm
chữ: Tổ Sư tây lai ý, thì sãi tôi xin trải tấm tọa cụ ra đảnh lễ dưới
chân."
Sở dĩ người nào hiểu được,
chẳng hạn câu nói "bách ở trước sân" (đình tiền bách thọ tử) của Triệu
Châu là cùng lúc hiểu được tất cả câu nói khác, tất cả đạo thiền, tất cả
pháp Phật. Một công án là một hột bồ đề xâu chung với vô số hột khác thành
một chuỗi bồ đề vô tận; cho nên đập bể một hột bồ đề là toàn xâu chuỗi
bung ra; nắm được một công án là nắm trọn, là thông suốt tâm Phật ý Tổ.
Tuy nhiên, muốn hiểu được "ý
nghĩa của Tổ sư qua Tàu" không phải suy luận mà được, cần phải sống chết
với nó, mang nó trong thịt da như Tôn Hành Giả mang cái niệt kim cô quanh
đầu. Khi Tôn về tròn xong công quả thì cái niệt đau khổ kia bỗng chốc hóa
thành không; cũng vậy, khi người tìm đạo "quán" được một công án, thì công
án ấy cũng như vô số công án khác, bỗng hóa thành vô nghĩa, thừa thải, như
một trò đùa rẻ tiền.
Dù vậy, suốt thời gian chưa
quán được thì công án là một mũi tên oan nghiệt bắn thẳng vào mạng sống,
nhổ không ra, muốn chết quách cũng không chết được. Ðó là tâm trạng cùng
quẩn, thai nghén cho biến cố ngộ đạo. Tâm trạng ấy được ví như tâm trạng
của người:
"Leo lên cây, miệng cắn vào một
cành cây, hai tay buông thỏng giữa hư không, hai chân không bám vào đâu
được. Tình cờ dưới gốc cây có người hỏi vọng lên: "Ý của Tổ sư qua Tàu là
gì?". Người trên cây không trả lời thì không được, mà trả lời thì rơi
xuống hốt xương". (Theo Vô môn quan).
Người kể câu chuyện cổ quái
trên đặt câu hỏi: Trong hoàn cảnh ấy, chính người đó phải làm sao?
"Phải làm sao?"
Ðó là bí thuật của Thiền Ðông
độ, mà Ðạt Ma là Sơ Tổ: một huyền thoại của muôn đời.
GHI CHÚ:
(1) Bích nhãn Hồ Tăng.
PHỤ LỤC TIỂU SỬ SƯ BỒ ÐỀ ÐẠT MA
Tổ thứ 28 Bồ Ðề Ðạt Ma
(Bodhidharma) là người nước Quốc Hương, thuộc Nam Thiên Trúc (Dekhan), tức
Ấn Ðộ, con thứ ba của vua Chí Vương, dòng Sát đế lỵ, tên tục là Bồ Ðề Ða
La (Bodhitara).
Nhân đến Quốc Hương thọ lễ cúng
dường của nhà vua, Tổ thứ 27, Bát Nhã Ða La (Prajnâtara) gặp Bồ Ðề Ða La,
nhận thức ở vị hoàng tử này nhiều nét đặc biệt, mới thử bảo cùng hai anh
biện luận về chữ Tâm. Thấy Bồ Ðề Ða La phát minh được yếu điểm của tâm, Tổ
mới kêu đến và nói: "Hoàng tử đối với chư pháp đã được thông lượng, mà Ðạt
Ma có nghĩa là thông đạt rộng lớn, vậy hoàng tử nên lấy tên là Bồ Ðề Ðạt
Ma". Hoàng tử nhận và bái tổ thứ 27 làm thầy.
Nhớ lời Tổ dặn phải xuất dương
mới thành đạo nghiệp vĩ đại, Bồ Ðề Ðạt Ma vào độ gần tám mươi tuổi xuống
thuyền ra khơi Nam Hải. Triều nhà Lương bên Trung Quốc, năm Phổ thông thứ
8, nhằm mồng một tháng mười năm Ðinh Mùi (520) sau T.C.), thuyền đến Quảng
Châu, thứ sử tỉnh nầy lấy lễ nghinh tiếp và dâng biểu về triều báo tin.
Lương Võ Ðế sai sứ đi thỉnh về thành đô là Kim Lăng. Ðế hỏi:
- Trẫm từ lên ngôi đến nay, xây
chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì
không?
Sư Ðạt Ma đáp:
- Ðều không có công đức.
- Tại sao không công đức.
- Bởi vì những việc vua làm là
nhân "hữu lậu", chỉ có những quả nhỏ trong vòng nhân thiên, như ảnh tùy
hình, tuy có nhưng không phải thật.
- Vậy công đức chân thật là gì?
- Trí phải được thanh tịnh hoàn
toàn. Thể phải được trống không vắng lặng, như vậy mới là công đức, và
công đức này không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, chép kinh, độ
tăng) mà cầu được.
Vua lại hỏi:
- Nghĩa tột của thánh đế là gì?
- Một khi tỉnh rõ, thông suốt
rồi thì không có gì là thánh.
- Ai đang đối diện với trẫm
đây?
- Tôi không biết.
Sau câu chuyện đối đáp này, Sư
biết tâm vua không khế hợp được với pháp mình, vì vậy đến ngày 19 tháng 10
năm ấy, Sư về Giang Bắc, rồi tới 22 tháng 11 lại sang Lạc Dương. Ðến đời
Hậu Ngụy, vua Hiếu Dương, năm Thái Hòa thứ 10, Sư lên Tung Sơn vào chùa
Thiếu Lâm, ngồi ngó vào vách, trọn ngày làm thinh. Người đời không hiểu gì
cả, gọi Sư là "Bích quán Bà la môn", nghĩa là ông Bà la môn ngó vách.
Lúc bấy giờ có một vị Tăng, tên
là Thần Quang, học rộng hiểu nhiều. Nghe danh Sư, Thần Quang đến Thiếu Lâm
tự và đứng ngoài sân chùa chờ dịp yết kiến. Nhằm tiết đông thiên (mồng 9
tháng chạp), đến đêm tuyết xuống như mưa, cao quá đầu gối, Thần Quang vẫn
trì chí đứng yên một chỗ. Sư thương tình, kêu hỏi:
- Ông đứng trong tuyết lâu như
thế, ý muốn cầu gì?
Thần Quang khóc, bạch:
- Cúi xin Hòa thượng từ bi mở
cửa cam lộ, rộng độ quần sanh.
- Diệu đạo của chư Phật phải
nhiều kiếp tinh tấn, cần mẫn làm cho được những việc khó làm, nhẫn cho
được những điều khó nhẫn, hàng đức nhỏ, trí nông, lòng đầy khinh khi, kiêu
ngạo, há chịu nổi nhọc nhằn khổ cực sao mà muốn học phép chân thừa.
Thần Quang nghe Sư quở, bèn lấy
dao bén, tự đọan cánh tay trái, để chứng minh lòng thành khẩn cầu đạo của
mình. Sư biết gặp được "pháp khí" (nghĩa là một khí dụng tốt để truyền bá
chánh pháp).
Bèn nói:
- Chư Phật, lúc phát tâm cầu
đạo, dám vì pháp bỏ thân, nay ông chặt tay trước mặt tội, vậy ông muốn cầu
gì?
Nói xong Sư bèn đổi tên Thần
Quang ra Huệ Khả.
Thần Quang bạch:
- Có thể nghe pháp ấn của chư
Phật chăng?
- Pháp ấn của chư Phật, không
phải tùng người mà được.
- Nhưng tâm tôi chưa được an
bình thì làm thế nào? Xin Sư cho tâm tôi được an bình.
- Thì ông đưa tâm đây. Sư đáp,
ta sẽ cho.
- Tôi tìm tâm mãi mà chưa được.
- Thế là ta đã an tâm cho ngươi
rồi.
Vua Hậu Ngụy Hiếu Minh nghe Sư
có nhiều sự lạ lùng, sai sứ đến triệu trước sau ba lần, Sư đều từ không
chịu xuống núi. Nhà vua càng đem lòng kính trọng và sai người đem đến ban
cho Sư hai áo cà sa và một bình bát bằng vàng. Sư cũng từ ba phen, nhưng
sau thấy nhà vua kiên tâm dâng cúng Sư mới nhận.
Chín năm trôi qua, từ khi Sư
đến Trung Quốc, Sư có ý muốn hồi hương, cho nên kêu các đệ tử nói: "Giờ ta
ra đi sắp tới, vậy mỗi đệ tử hãy nói cho ta nghe sở đắc của mình".
Ðạo Phó bạch:
- Theo chỗ thấy của tôi, muốn
thấy đạo phải chẳng chấp văn tự, mà cũng chẳng lìa văn tự.
Sư đáp:
- Ông được lớp da của tôi rồi.
Tổng trì Ni nói:
- Chỗ giải của tôi như cái mừng
vui thấy nước Phật (tâm) bất động, thấy được một lần, sau không thấy lại
nữa.
Sư nói:
- Bà được phần thịt của tôi
rồi.
Ðạo Dục, một đệ tử khác, bạch:
- Bốn đại vốn không, năm uẩn
chẳng phải thật có, vậy chỗ thấy của tôi là không một pháp nào khả được.
Sư đáp:
- Ông được bộ xương của tôi
rồi.
Rốt hết, tới phiên Huệ Khả. Huệ
Khả lễ bái Sư rồi đứng ngay một chỗ, không bạch không nói gì cả. Sư bảo:
- Ông được lớp mỡ trong ống
xương tôi rồi.
Rồi ngó Huệ Khả, Sư nói tiếp:
- Xưa Như Lai trao "Chánh pháp
nhãn tạng" cho Bồ tát Ca Diếp, từ Ca Diếp chánh pháp được liên tục truyền
đến ta. Ta nay trao lại cho ngươi; nhà ngươi khá nắm giữ, luôn với áo cà
sa để làm vật tin. Mỗi thứ tiêu biểu cho một việc, ngươi nên khá biết.
Huệ Khả bạch:
- Thỉnh Sư chỉ bảo cho.
Sư nói:
Trong, truyền pháp ấn để khế
chứng tâm; ngoài, trao cà sa để định tông chỉ. Ðời sau, trong cảnh cạnh
tranh, nếu có người hỏi ngươi con cái nhà ai, bằng vào đâu mà nói đắc
pháp, lấy gì chứng minh, thì ngươi đưa bài kệ của ta và áo cà sa ra làm
bằng. Hai trăm năm sau khi ta diệt rồi, việc truyền y dừng lại. Chừng ấy,
đâu đâu người hiểu đạo và nói lý rất nhiều, còn người hành đạo và thông lý
rất ít, vậy ngươi nên cố xiển dương đạo pháp, đừng khinh nhờn những người
chưa ngộ. Bây giờ hãy nghe bài kệ của ta;
Ngô bổn lai tư thổ,
Truyền pháp cứu mê
tình.
Nhất hoa khai ngũ
diệp,
Kết quả tự nhiên
thành.
Dịch:
Ta đến đây với
nguyện,
Truyền pháp cứu
người mê.
Một hoa nở năm
cánh,
Nụ trái trổ ê hề.
Sư lại nói thêm: "Ta có bộ kinh
Lăng Già bốn cuốn, nay cũng giao luôn cho ngươi, đó là đường vào tâm giới,
giúp chúng sanh mở được cửa kho tri kiến của Phật. Ta từ Nam Ấn sang đến
phương Ðông này, thấy Xích Huyện Thần Châu có đại thừa khí tượng, cho nên
vượt qua nhiều nơi, vì pháp tìm người. Nhưng bao nhiêu cuộc gặp gỡ không
làm ta mất lòng, bất đắc dĩ phải ừ hử vậy thôi. Nay được ngươi để truyền
thọ y pháp, ý ta đã toại! Nói xong, Sư cùng đệ tử đến chùa Thiên Thánh lưu
lại ba hôm.
Có người tên là Thành Thái, tự
Dương Huyễn, sớm mộ phương tu thành Phật, đến hỏi:
- Nghe Sư bên Tây Thiên, thừa
tiếp pháp ấn làm Tổ, vậy xin dạy cho con biết con đường đưa đến vị Tổ như
thế nào?
Sư đáp:
- Sáng rõ Phật là tâm, nói làm
cho phù hợp, đó gọi là Tổ.
- Ngoài ra còn gì không?
- Nên sáng tâm người, biết rành
kim cổ, chẳng chán có không, đối pháp chẳng nắm, chẳng hiền chẳng ngu,
không mê không ngộ. Giải được như thế, đáng xưng là Tổ.
Thành Thái lại hỏi:
- Ðệ tử lấy tâm quy y Tam bảo
đã mấy năm rồi, nhưng trí huệ còn mù mờ, chân lý chưa rõ. Nay nghe được
một ít lời Sư, biết rằng đệ tử đã lầm lớn, cúi xin Sư từ bi khai mở đường
tu cho.
Sư biết lòng Thành Thái đã đúng
mức, liền nói bài kệ như sau:
Diệc bất đổ ác nhi
sanh hiềm,
Diệc bất quán thiện
nhi cần thố.
Diệc bất xả trí nhi
cận ngu,
Diệc bất phao mê
nhi tựu ngộ.
Ðạt đại đạo hề quá
lượng,
Thông đạt tâm hề
xuất độ,
Bất dử thánh phàm
đồng triền,
Siêu nhiên danh chi
viết Tổ.
Dịch:
Cũng đừng thấy dữ
mà sanh chê,
Cũng đừng thấy lành
mà ái mộ.
Cững đừng bỏ trí mà
gần ngu,
Cũng đừng buông mê
mà cầu ngộ.
Ðược vậy thì:
Ðến đại đạo rộng vô
lượng,
Thông Phật tâm muôn
cứu độ.
Chẳng ước thánh
phàm sánh vai,
Vượt trên đối đải
gọi là Tổ.
Thành Thái nghe kệ nửa vui nửa
xót, bạch:
- Xin Sư ở lâu thế gian để hóa
đạo quần chúng hữu tình.
- Ta sắp đi đây, không thể ở
lâu; người đời căn tánh muôn sai, ta đã gặp nhiều hoạn nạn rồi.
- Ai làm hại Sư, xin cho biết,
đệ tử nguyện trừ.
- Ai đã đem bí mật của Phật ra
truyền để lợi ích quần mê, nay hại người để mình an, làm sao có lý ấy
đặng?!
- Sư chẳng nói, lấy gì tiêu
biểu cho sức thông biết khắp cùng của Sư?
Sư không đáp, đọc một bài kệ
sau đây có tính cách như một bài sấm:
Giang tra phân ngọc
lãng,
Quản cự khai kim
tỏa.
Ngũ khẩu tương cộng
hành,
Cửu thập vô bỉ ngã.
Dịch:
Thuyền lướt, chia
sóng ngọc,
Ðuốc nêu, mở khóa
vàng.
Năm miệng đồng cùng
khứ
Chín, mười hết ta,
chàng.
Thành Thái không hiểu gì cả,
chỉ gắng ghi vào lòng rồi từ tạ lui gót.
Bài sấm của Sư, đương thời
không ai độ được, nhưng về sau đã phù nghiệm, như chúng ta sẽ thấy.
Dưới thời nhà Ngụy, kẻ anh tài
chống lại với Thiền môn rất nhiều, nào Quang Thống luật sư, nào Lưu Chi
Tam Tạng... đều là bậc loan phụng trong hàng Tăng chúng. Thấy Sư luôn luôn
lấy tâm làm trọng, các vị đã cùng Sư luận nghị mấy phen, nhiệt liệt ồn ào
như ong vỡ tổ. Trong khi ấy, xa gần Sư đều cho nổi lên một ngọn huyền
phong và đổ xuống một trận mưa pháp, chan rải khắp nơi, kết quả không sao
lường được. Sự thành công vẽ vang này càng kích thích kẻ ác gia tâm dùng
thuốc độc hại Sư.
Trên thực tế, Sư đã bị thuốc
năm lần. Ðến lần thứ sáu, thấy sứ mệnh hoằng pháp đã hoàn thành, công việc
truyền pháp đã tìm ra người, Sư không tự cứu nữa, ngồi an nhiên tịch diệt.
Lúc ấy là năm Thái Hòa thứ 19 đời Hiếu Minh Hậu Ngụy, nhằm ngày mồng 9
tháng 10 năm Bính Thìn, tức năm Ðại Thông thứ 2 triều nhà Lương. Ðến ngày
18 tháng chạp cùng năm, nhục thể của Sư được nhập tháp tại chùa Ðịnh Lâm,
núi Hùng Nhĩ. Thật là đúng như lời sấm của Sư, câu "ngũ khẩu tương cộng
hành" có nghĩa là "ngô tương hành", vì ghép chử NGŨ trên chữ KHẨU thì
thành chữ NGÔ, và câu này có nghĩa là "Ta sẽ đi". Còn câu chót "cửu thập
vô bỉ ngã" quả là Sư đã nói trước ngày viên tịch: mồng chín (cửu) tháng
mười (thập).
Ba năm sau, Tống Vân quan nhà
Ngụy, đi sứ Tây Vực về, gặp Sư Ðạt Ma tại ngọn Thông Lãnh. Thấy Sư tay cầm
một chiếc dép, một mình đi mau như bay, Tống Vân hỏi:
- Sư đi đâu đó?
Sư đáp:
- Ta về Tây phương.
Rồi Sư lại nói thêm: "Chủ của
Ông đã chán đời rồi".
Ngẩn ngơ, Tống Vân từ giả Sư và
hấp tấp về phục mạng, thì ra vua Minh Ðế đã thăng hà. Tống Vân tâu việc
gặp Sư lên vua Hiếu Trang mới tức vị. Vua ra lệnh quật mồ. Trong quan tài
không có gì cả, ngoài một chiếc dép da. Các quan lãnh lịnh khám nghiệm hết
sức kinh ngạc và thán phục. Vua sắc đưa chiếc dép của Sư lưu lại về chùa
Thiếu Lâm thờ. Ðến đời Khai Nguyên năm thứ 15 nhà Ðường, nhằm năm Ðinh Mão
hàng thiện tín lại dời báu vật về chùa Hoa Nghiêm, đến nay không biết còn
mất và ở đâu.
Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma được nhà vua
phong là Viên Giác Thiền Sư, còn ngọn tháp của Tổ gọi là Không Quán. Thiền
tông Trung Hoa tôn Tổ làm Sơ Tổ.
CHÁNH TÍN (Viết
theo sách Truyền Ðăng Lục)