Phương pháp tu trì của Thiền tông
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
THIỀN THẤT KHAI THỊ LỤC
Tác giả:
Nguyệt Khê Thiền Sư
Dịch giả:
Thích Duy Lực
---o0o---
CHƯƠNG I
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
1.- NGUỒN
GỐC CỦA PHÁP THIỀN.
Loài người từ
nguyên thỉ ngu dại ngoan cố, Phật tánh Bát Nhã bị vô thỉ vô minh che khuất
nên thân tâm hoạt động đều bị ngũ uẩn, tam độc chi phối, sống trong cuộc
sống dã man, nhưng Phật tánh vốn sẵn viên mãn chẳng có thiếu sót, như ngọc
quí ẩn trong phiến đá chỉ đợi người khai thác ra mà thôi. Sau này trí thức
mở mang mới cảm thấy hiện tượng vũ trụ kỳ lạ, lại tôn sùng cho là thần
linh, kế đó phát tâm truy cứu cái bí mật của vũ trụ. Ban đầu thì muốn nhờ
não bộ lý giải để xác định qui tắc, sau này trở về tìm nội tâm muốn truy
cứu chỗ nguồn gốc biến hóa. Những người trí tuệ cao siêu thì muốn nhờ sức
Bát Nhã để cầu chứng nhập chỗ cùng tột của bản thể, vượt ra ngoài sanh tử
luân hồi, do đó pháp Thiền liền đáp ứng sự nhu cầu mà ra đời.
Cứu xét lịch
sử tiến hóa của loài người, các dân tộc phương Đông và phương Tây, tổ tiên
của họ đều có sự nhu cầu như thế, đồng thời mỗi mỗi đều có sự phát hiện
quí báu, chỉ vì hoàn cảnh trí huệ khác biệt, đường lối thực hành chẳng
đồng, nên được kết quả sai biệt cách xa như trời với đất. Các nhà tôn giáo
Tây phương thì chú trọng linh cảm, nhà Triết học thì tôn sùng khái niệm và
trực giác, các phái đạo gia của Trung Quốc thì tọa vong, nhà nho thì Duy
Tinh Duy Nhất, thảy đều có mùi vị Thiền.
Thiền pháp
của Bà La Môn Ấn Độ, sáng lập trước hơn các nước khác, nhưng tất cả đều
chưa lìa được tác dụng KIẾN, VĂN, GIÁC, TRI, nên chẳng có cách nào để
chứng nhập chỗ cùng tột của bản thể, từ xưa nay vẫn phải chịu sự luân hồi
trong tam giới. Chỉ có Phật Thích Ca mâu Ni phát minh được Thiền pháp Bát
Nhã và dùng nó để phá tan hầm sâu vô minh, triệt để chứng ngộ vào Vô Dư
Niết Bàn, nên gọi là kiến tánh thành Phật. Phật Thích Ca đặt tên pháp này
gọi là Pháp Bản Trụ, ý là tự nhiên bản trụ, chẳng do tạo tác mà có, và phủ
nhận chẳng do tự mình phát minh.
Kinh Lăng Già
nói: “Ví như người đang đi ngoài đồng, thấy có đường đi bằng phẳng liền
theo đó vào thành, thọ dụng sự an lạc như ý. Xưa kia tất cả Phật đều đi
đường này thì nay ta cũng đi theo mà thôi”. Do đó mà xét thì biết pháp
Thiền ra đời là do nhu cầu tự nhiên của loài người, trước khi chưa có loài
người, Phật tánh đã sẵn sàng và pháp Thiền cũng đã là bản trụ. Bao nhiêu
Cổ Phật trước đời Phật Thích Ca đều nương theo đường này mà đạt đến chỗ
chơn như rốt ráo, vô lượng chư Phật – sau đời Phật Thích Ca cũng sẽ nương
theo đường này để đạt đến giác ngộ cuối cùng. Ngoài pháp này ra chẳng có
pháp nào khác, nên đường lối này dù là sẵn có, nếu chẳng có Phật Thích Ca
chỉ thị thì chúng sanh ắt phải quanh quẩn trong ngã rẽ mà quên việc trở
nhà.
2.- PHÁP
THIỀN CỦA PHẬT THÍCH CA.
Trước đời
Phật Thích Ca, các Tông phái Bà La Môn Ấn Độ đều có pháp Thiền tu hành của
họ, pháp danh tiếng nhất như: Mười hai Tịnh Pháp Thiền, Phi Tưởng Phi Phi
Tưởng Thiền, đều là ngoại đạo dùng đó để tu được sanh cõi trời. Khi Phật
Thích Ca mới xuất gia, từng tham học các Thiện tri thức của Bà La Môn, đối
với pháp Thiền của họ đều chưa hài lòng, cho nên vào Tuyết Sơn tự tu. Ban
sơ vẫn dùng Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiền đoạn niệm dứt dục trải qua sáu
năm chẳng kết quả gì, biết Pháp Thiền của Bà La Môn là sai, nên tắm gội,
ăn uống lại rồi đến ngồi gốc cây Bồ đề, dùng pháp Thiền Bát Nhã Tam muội
phản quang quán chiếu soi, trải qua 49 ngày liền chứng quả Phật, than
rằng: “Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều sẵn đủ đức tướng trí huệ
của Như Lai, nhưng chỉ vì vọng tưởng chấp trước mà chẳng thể chứng đắc”.
Thích Ca sau khi thành Phật, muốn dùng sở chứng của Ngài khai thị cho
chúng sanh khiến ngộ, nhập Tri Kiến Phật, vì căn cơ chúng sanh muôn ngàn
sai biệt, nên pháp của Như Lai thuyết cũng muôn ngàn sai khác, nói đại
khác có thể chia làm bốn thừa: Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa và Tối
thượng thừa. Tiểu thừa tu Thiền Tứ Đế, gọi là Thanh Văn thừa, Trung thừa
tu Thiền Thập Nhị Nhân Duyên gọi là Duyên Giác thừa, Đại thừa tu Thiền Lục
Độ gọi là Bồ Tát thừa, Tối thượng thừa là trực tiếp chỉ thị Chơn như Phật
tánh, chỉ có người chứng nói với người chứng mới biết được, gọi là Nhất
Phật thừa, tức là pháp Thiền “Niêm hoa thị chúng”, cũng gọi là Giáo ngoại
biệt truyền vậy.
Kinh Hoa
Nghiêm nói: “Nếu có chúng sanh căn cơ thấp kém thì thuyết hạnh Thanh Văn
cho họ, nếu căn cơ lanh lợi, ham Độc Giác thì thuyết đạo Duyên Giác cho
họ, nếu có người từ bi, ham lợi ích chúng sanh thì thuyết hạnh Bồ Tát cho
họ, nếu có người tâm trí huệ thù thắng thì chỉ thị ngay pháp Vô thượng của
Như Lai”.
Phật Thích Ca
dù giả thiết đủ phương tiện để dẫn dắt chúng sanh, nhưng tông chỉ duy nhất
chẳng ngoài một việc kiến tánh thành Phật mà thôi, nói vì một nhân duyên
đại sự ra đời là vậy. Nên duy có pháp Thiền được khiến chúng sanh đạt đến
kiến tánh thành Phật, mới là sự phó chúc huệ mạng của chư Phật, chư Tổ.
Kinh Pháp Hoa
nói: “Trong mười phương quốc độ, duy có pháp Nhất Thừa, chẳng hai cũng
chẳng ba, ngoài Phật thuyết phương tiện, chỉ dùng giả danh văn tự, dẫn dắt
cho chúng sanh, nên nói trí huệ Phật, chỉ một sự thật này, ngoài ra đều
chẳng chơn”.
Khi Phật
Thích Ca còn tại thế, các đệ tử đều lấy tu Thiền làm cơ bản, sau khi Phật
Thích Ca nhập diệt, do pháp Thiền cao thấp có bốn thừa, nhưng đồng thời
được các tông chú trọng. Thiền Tông độc lập thành một Tông phái là bắt đầu
từ Trung Quốc.
3.- THIỀN
TÔNG TRUYỀN TỪ SƠ TỔ CA DIẾP.
Các pháp môn
truyền dạy từ Phật Thích Ca đã có bốn thừa sai biệt, thì pháp Thiền của họ
tu bèn có trực tiếp và gián tiếp khác nhau như: Thế gian Thiền, Xuất thế
gian Thiền, Xuất thế gian Thượng thượng Thiền, cho đến Ngũ chủng Thiền,
Lục chủng đại Thiền v.v... danh hiệu rất nhiều, có cách tu được kiến tánh,
cũng có cách tu chỉ được sanh cõi Trời mà chẳng thể kiến tánh, nhưng đều
chẳng xuất phát từ Thiền Tông Trung Quốc.
Dù nói Thiền
Tông Trung Quốc, nhưng bắt đầu từ Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp, truyền đến Tổ thứ
28 là Bồ Đề Đạt Ma, truyền vào Trung Quốc làm Sơ Tổ, ấy là sự y cứ để kiến
lập Thiền Tông. Sự tích của chư Tổ từ đời, từ đời truyền xuống đều có ghi
rõ trong Truyền Đăng Lục, độc giả muốn biết rõ thì hãy tự xem lấy, ở đây
chẳng thể kể xiết.
4.- PHÁP
THIỀN TẠI TRUNG QUỐC, KHI TỔ ĐẠT MA CHƯA ĐẾN.
Trước khi Tổ
Đạt Ma chưa đến, các kinh Thiền đã truyền vào Trung Quốc rất nhiều. Hằng
Đế đời Hậu Hán có Sa Môn An Thế Cao thông suốt Kinh luận, lại giỏi về pháp
Thiền, đến thành phố Lạc Dương, dịch kinh hơn trăm bộ, trong đó có các
Kinh nói về pháp Thiền gồm: Đại An Ban Thủ Ý Kinh hai quyển, Thiền Hạnh
Pháp Tưởng Kinh một quyển, Đại Thập Nhị Môn Kinh một quyển, Tiểu Thập Nhị
Môn Kinh một quyển, Thiền Hạnh Ba Mươi Bảy Phẩm Kinh một quyển, Thiền Định
Phương Tiện thứ đệ Pháp Kinh một quyển, Thiền Pháp Kinh một quyển.
Cuối đời nhà
Hán, có Cư sĩ Chí Khiêm người nước Nhục Chi đến Lạc Dương, dịch Tu Hành
Phương Tiện Kinh hai quyển, Thiền Bí Yếu Kinh bốn quyển. Đời Tam Quốc có
Khương Tăng Hội đến Dương Đô, dịch Tọa Thiền Kinh một quyển: đời Tây Tấn
có Sa Môn Trúc Pháp Hộ dịch Hữu Pháp Quán Kinh một quyển, Tu Hành Đạo Địa
Kinh bảy quyển; đời Đông Tấn có Trúc Đàm Vô Lan dịch Hữu Trị Thiền Pháp
Kinh một quyển; lại có Phật Đà Bạt Đà đến Trường An chuyên hoằng pháp
Thiền, sau ứng lời mời của Huệ Viễn Pháp Sư ở Lư Sơn, dịch Đạt Ma Đa La
Thiền Kinh hai quyển, Ngài Cưu Ma La Thập có dịch Thiền Bí Yếu Pháp Kinh
ba quyển, Tọa Thiền Tam Muội Kinh hai quyển, Thiền Pháp Yếu Giải hai
quyển, Tư Duy Lược Yếu Pháp một quyển v.v... Ngoài ra còn nhiều lắm chẳng
thể kể xiết.
Các Kinh kể
trên phần nhiều thuộc pháp Thiền Tiểu thừa, Trung thừa, các sư như An Thế
Cao và Giác Hiền chuyên hoằng về pháp Thiền Tiểu thừa, Cưu Ma La Thập là
người Đại thừa mà dịch những Thiền Kinh chẳng giống Đại thừa, cho đến Đạt
Ma Đa La Thiền Kinh và Tọa Thiền Tam Muội Kinh xưa kia được xem là Đại
thừa Thiền, nhưng ở trong đó cũng xen vào Thiền Trung thừa và Tiểu thừa.
Đủ thứ pháp Thiền kể trên gọi là Thiền Số Chi Học, khác hẳn với pháp Thiền
“chẳng lập văn tự" của Thiền Tông.
Thiền Số Chi
Học là Thiền tu tập theo thứ lớp, từ nhân đến quả, mà pháp Thiền của Tổ
Đạt Ma là chỉ thẳng bản tâm, Đốn ngộ thành Phật, chẳng có giai cấp và thứ
lớp. Người ta thấy đệ tử Ngài La Thập là Đạo Sanh có cái thuyết “Đốn ngộ
thành Phật", bèn cho Thiền Tông xuất phát từ Cưu Ma La Thập, ấy là sai
lầm.
Cùng thời với
Tổ Đạt Ma có Bửu Chí Hòa Thượng, Bố Đại Sĩ, Hàn Sơn, Thập Đắc, Bố Đại Hòa
Thượng, đều là người minh tâm kiến tánh, nhưng thừa kế thầy nào thì chẳng
rõ, cơ duyên ngộ đạo cũng chẳng thể khảo sát.
5.- THIỀN
TÔNG TRUYỀN TỪ TỔ ĐẠT MA.
Trước khi Tổ
Đạt Ma chưa đến, Thiền pháp Trung Quốc phần nhiều thuộc Trung, Tiểu nhị
thừa, kẻ nghiên cứu giáo tướng về lối tu ngày càng phức tạp và chi ly, học
giả ít được chứng ngộ. Khi Tổ Đạt Ma đến, chuyên truyền pháp môn Tâm địa
của Như Lai, pháp ấy giản dị trực tiếp, thấu thoát ra ngoài cương yếu của
giáo môn, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Từ đó pháp Thiền
riêng mở một trạng thái mới lạ. Lúc ban sơ vì phương pháp cao siêu, ít
người được khế hội, nên ngồi im lặng chín năm để đợi người đặng truyền
thừa, về sau người tin ngày càng đông thêm, sự ảnh hưởng mà cho pháp Thiền
và giáo lý đã truyền từ xưa kia bị lay động, nên đã sáu lần bị đầu độc,
nhưng pháp môn trực chỉ của Thiền Tông đã thay thế cho địa vị của pháp
Thiền cũ mà thịnh hành khắp Trung Quốc.
Xem qua lời
vấn đáp của Tổ Đạt Ma đều là pháp trực tiếp chỉ thị Phật tánh, thẳng vào
cội nguồn Bản thể. Trong Truyền Đăng Lục có ghi: “Nhập Đạo Tứ Hạnh” của Tổ
dạy, cứu xét kỹ mới biết do người khác giả mạo, so với ý nghĩa lời nói của
Ngài hoàn toàn khác hẳn, như trong bài nói “Bỏ vọng về chơn”, “Im lặng ngó
hẳn vách tường”, “Dứt tưởng chẳng cầu, có cầu đều khổ, chẳng cầu mới vui”,
“Chẳng có bỏn xẻn đối với thân mạng tiền tài, theo hạnh xã bỏ bố thí, tâm
chẳng hối tiếc” v.v... Những lời này toàn là lời dạy của Trung, Tiểu nhị
thừa, so với lời “Quách nhiên vô thánh”, “Vô hữu công đức” của Tổ Đạt Ma
thì ý chỉ tuyệt nhiên xa cách, Trí thông với nghẽn đã phân biệt rõ ràng.
Thiền Tông
sau khi ngộ đạo chẳng nhờ tu tập, nếu còn có tu thì chẳng phải triệt ngộ,
Tổ Đạt Ma là bậc thánh đã ngộ, đầu cần hướng vách tu thiền! Lại từ xưa nay
chư Tổ của Thiền Tông đều phản đối sự lắng tâm tĩnh tọa, Lục Tổ nói: “Kẻ
mê lắng tâm tĩnh tọa, trăm điều chẳng nghĩ, tự xưng là đại, bọn này chẳng
thể dạy bảo, vì tà kiến đã sẵn”. Lại nói: “Trụ tâm quán tịnh là bệnh chẳng
phải Thiền, ngồi lâu trói chân, có ích lợi gì!”.
Pháp Thiền
của Tổ Đạt Ma phế bỏ hư văn, chỉ ngay thực tế, khiến người đốn ngộ cội
nguồn, thẳng chứng quả Phật, nên được quét sạch những tệ đoan phức tạp và
chi ly, khiến Thiền học từ suy sụp trở thành thịnh vượng, thành một Tông
phái lớn. Ngài truyền Kinh Lăng Già để ấn tâm, và chư Tổ đời sau dùng hét,
dùng gậy, dùng phẫn nộ chửi mắng, cho đến dùng nhướng mày chớp mắt để tiếp
dẫn hậu học, với Tông chỉ Lăng Già, niêm hoa thị chúng đều chẳng khác
biệt.
Tổ Đạt Ma
được tôn làm Sơ Tổ của Thiền Tông, truyền cho Nhị Tổ Huệ Khả, Tam Tổ Tăng
Xán, Tứ Tổ Đạo Tín, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, đến Lục Tổ Huệ Năng, môn đồ của Lục
Tổ ngộ đạo rất nhiều, Thiền phong đại thịnh Tứ Tổ có chi nhánh là Pháp
Dung Thiền Sư ở núi Ngưu Đầu, cũng rất thịnh vượng, người đời xưng là Ngưu
Đầu Thiền, Hành trạng và lời khai thị của chư Tổ đều có ghi trong Truyền
Đăng Lục.
6.- LỤC TỔ
HUỆ NĂNG VỚI KINH PHÁP BẢO ĐÀN.
Tổ Đạt Ma
truyền pháp Thiền trực chỉ của Phật Thích Ca, đến Lục Tổ Huệ Năng được
phát huy cùng tột, từ đó Thiền Tông được đại thành tựu. Lục Tổ vốn là một
Sa Môn không biết chữ, nhưng trí huệ tuyệt đỉnh, phàm sở phát huy đều xuất
phát từ biển giác của Như Lai, trực tiếp rốt ráo, cắt đứt tất cả dây dưa,
trừ bỏ tất cả sai lầm, rất là thân thiết, rất là thấu triệt.
Trước kia
trong Phật Giáo đối với lý đốn tiệm của Pháp thân tự tánh, phần nhiều kẹt
nơi văn tự. Lục Tổ trực tiếp chỉ ra, như thổi tan mây mù mà bỗng hiện
trong sáng, chẳng còn một hạt bụi để ngăn cách, do đó Thiền Tông truyền bá
rất rộng, người được lợi ích rất nhiều, cho đến kẻ cu ly hạ tiện, bà già
tay bưng vai gánh rêu rao mua bán ngoài đường đều biết Tham Thiền, đều đều
được ngộ đạo. Từ lúc ấy, người minh tâm kiến tánh chẳng thể kể xiết, thật
là việc hưng thịnh từ xưa nay chưa từng có.
Bản sắc
“chẳng lập văn tự” của Thiền Tông, từ Sơ Tổ cho đến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn,
những lời dạy bảo truyền thừa rất ít, đến Lục Tổ Huệ Năng mới có Kinh Pháp
Bảo Đàn ra đời, pháp Thiền của Tổ Đạt Ma tới đây mới được trọn vẹn hiển
bày. Lý đạo phát huy trong Kinh Pháp Bảo Đàn hoàn toàn xuất phát từ tự
tánh, mỗi lời mỗi chữ đều chẳng lìa tự tánh, bởi vì sau khi chứng ngộ thì
trong tâm thất thông bát đạt, tùy tiện đem ra đều là tự tánh.
Pháp của Lục
Tổ nói là: Trì tự tánh giới, phát Tự tánh nguyện, nhờ tự tánh lực, độ tự
tánh chúng sanh, quy y tự tánh Phật. Lục Tổ nói: “Thiện tri thức, nơi niệm
niệm tự thấy bản tánh trong sạch, tự tu, tự hành, tự thành Phật đạo”. Lại
nói: “Pháp sở thuyết của ta chẳng lìa tự tánh, nếu lìa bản thể thuyết pháp
gọi là tướng thuyết, làm cho tự tánh thường mê. Phải biết tất cả vạn pháp
đều tự tánh khởi dụng, ấy là Giới, Định, Huệ chơn thật”.
Thiền Tông
lấy Niết Bàn diệu tâm làm bản thể. Niết Bàn diệu tâm tức là Lục Tổ nói:
“Bản nguyên Tự tánh”, vậy Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Nếu khởi quán chiếu chơn
chánh Bát Nhã, trong một sát na vọng niệm đều diệt, nếu biết tự tánh, hễ
ngộ liền đến địa vị Phật. Thiện tri thức, trí huệ quán chiếu, trong ngoài
sáng tỏ, nhận tự bản tâm, nếu nhận được bản tâm, tức vốn giải thoát; nếu
được giải thoát tức là Bát Nhã tam muội”.
Thế nào là
Bát Nhã tam muội? Người tham thiền cần phải biết rõ, nay đặc biệt giảng rõ
như sau:
Bát Nhã có 3
thứ:
1/ Thật tướng
Bát Nhã (thể);
2/ Quán chiếu
Bát Nhã (trí);
3/ Phương
tiện Bát Nhã (dụng).
Nói một cách
khác: Thật tướng Bát Nhã tức là Phật tánh, quán chiếu Bát Nhã tức là kiến,
văn, giác, tri, phương tiện Bát Nhã tức là lục căn. Lúc đang tu hành, dùng
quán chiếu Bát Nhã làm chủ, sai khiến phương tiện Bát Nhã để đập tan vô
thỉ vô minh thì chứng Thực tướng Bát Nhã. Sau khi chứng ngộ, Thật tướng
tức là Bản thể Phật tánh, quán chiếu phương tiện là diệu dụng Phật tánh.
Thật tướng là Định, quán chiếu phương tiện là Huệ; thật tướng (Phật tánh)
là Pháp thân, quán chiếu (kiến văn giác tri) là Báo thân, phương tiện (lục
căn) là Ứng thân, ba tức một, một tức ba, gọi là Nhất thể tam thân, thể
dụng như một, Định, Huệ bình đẳng, diệu dụng hằng sa.
Kinh Pháp Bảo
Đàn nói: “Tâm lượng rộng lớn, cùng khắc pháp giới, dụng tức liễu liễu rõ
ràng, ứng dụng liền biết tất cả. Tất cả là một, một là tất cả, khứ lai tự
do, tâm thể vô ngại, tức là Bát Nhã". Lại nói: “Tất cả Trí Bát Nhã đều từ
tánh mà ra, chẳng từ ngoài vào, chớ nhận lầm tự tâm, gọi là Chơn tánh tự
dụng”.
Về việc phá
tan vô thỉ vô minh, kinh Pháp Bảo Đàn nói: “nên dùng đại trí huệ (quán
chiếu Bát Nhã) phá tan ngũ uẩn phiền não trần lao (vô thỉ vô minh), tu
hành như thế nhất định thành Phật". Lúc dụng công phu tham thiền, dùng Trí
huệ Bát Nhã hướng ngay chỗ hầm sâu vô minh chiếu soi, chiếu đến khi sơn
cùng thủy tận, cơ duyên thuần thục, “Ồ” lên một tiếng thì hầm sâu vô minh
bị phá tan, trong một sát na Phật tánh được hiện tiền, Kinh Duy Ma Cật
nói: “ngay đó hoát nhiên, liền đắc bản tâm” là vậy. lúc ấy Tam thân, Tứ
trí, Ngũ nhãn, Lục thông, viên mãn cụ túc, chẳng thiếu chẳng dư, gọi là
Bát Nhã Tam Muội, cũng gọi là minh tâm kiến tánh.
7.- HÀ
TRẠCH THẦN HỘI ĐỊNH TÔNG CHỈ NAM TÔNG.
Lục Tổ Huệ
Năng và Thần Tú Đại Sư đều là đệ tử của Ngũ Tổ, Thần Tú chủ trương, Tiệm
tu, chưa minh tâm kiến tánh, nên bài kệ ‘Thân như cây Bồ đề" là phát huy
nơi Nhân địa. Lục Tổ đã minh tâm kiến tánh nên bài kệ “Bồ đề vốn chẳng
cây” là phát huy nơi Quả điạ, ngay đó đem Niết Bàn Diệu Tâm trọn vẹn trình
ra được Ngũ Tổ ấn khả, truyền cho y pháp.
Lúc Lục Tổ
đang hoằng tông chỉ Đạt Ma ở Tào Khê, Thần Tú Đại Sư thì đề xướng pháp
Thiền tiệm tu ở Nam Kinh, gọi là Bắc Tông. Sau khi Lục Tổ viên tịch, pháp
tiệm tu của Bắc Tông ngày càng hưng thịnh, môn đồ của Thần Tú có ba vị
Quốc Sư, trong đó Phổ Tịch Thiền Sư danh giá cao nhất, từng làm Quốc Sư
trải qua ba đời vua Tắc Thiên, Trung Tông và Duệ Tông. Phổ Tịch tôn Thần
Tú làm Lục Tổ, tự xưng là Thất Tổ, tông chỉ của Tào Khê ngày càng chìm
lặng, do đó đệ tử Lục Tổ là Thần Hội Thiền Sư, phấn chấn đứng ra chỉ trích
môn tiệm tu của Bắc Tông chẳng phải chánh thống của Tổ Đạt Ma, chỉ có Tông
chỉ Tào Khê mới là đích truyền. Ngày 15 tháng Giêng năm thứ 20 niên hiệu
Khai Nguyên, Ngài ở Hoạt Đài (hiện là Hoạt Huyện tỉnh Hà Nam) Đại Vân Tự
thiết lập vô giá đại hội, xác định pháp thống Thiền Tông do Tổ Đạt Ma
truyền. Năm thứ 8 niên hiệu Thiên Hữu, một lần nữa xác định Tông chỉ Nam
Tông tại Lạc Dương, từ đó chánh thống Thiền Tông là Lục Tổ Tào Khê mới
được xác định.
Ngài Thần Hội
xác định Tông chỉ, là công thần của Thiền Tông mà lịch sử ít ghi chuyện
này, nơi thạch động Đôn Hoàng có ghi bài “Bồ Đề Đạt Ma Nam Tông Thị Phi
Luận do Độc Cô phái soạn” hiện nay lưu tại viện bảo tàng Ba Lê, trong bài
này là ghi việc định Tông chỉ của Ngài Thần Hội ở Đại Vân Tự Hoạt Đài.
Thần Hội còn
có bài Hiển Tông Ký để hiển bày Tông chỉ của Tào Khê, ngoài ra tác phẩm
Chứng Đạo Ca cũng làm cùng lúc xác định Tông chỉ. Nay Chứng Đạo Ca đổi tên
là Vĩnh Gia Chứng Đạo Ca, nhưng tôi đã từng thấy một bản đời nhà Tống ghi
rõ tác giả là Thần Hội, nay trích ra mấy đoạn trong Chứng Đạo Ca để chứng
tỏ:
Dựng pháp tràng, lập tông chỉ,
Rõ ràng Tào Khê là kế thừa,
Bắt đầu truyền đăng từ Ca Diếp,
Hai mươi tám đời truyền từ Ấn.
Pháp lưu Đông, vào đất này,
Bồ Đề Đạt Ma làm Sơ Tổ,
Sáu đời truyền y thiên hạ hay,
Đời sau đắc đạo vô số kể.
Khi xác định
Tông chỉ giành chánh thống ở Hoạt Đài, bằng chứng hiệu lực nhất là việc
truyền y pháp, trong Hiển Tông Ký có nói: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, hai
mươi tám vị Tổ ở Ấn Độ cùng nhau truyền tâm vô trụ, đồng thuyết tri kiến
của Như Lai, cho tới Tổ Đạt Ma đến Trung Quốc làm Sơ Tổ, truyền Y để làm
tin cho Pháp, Pháp là chỗ nương của Y, Thiền Tông lấy Y, Pháp tương
truyền, ngoài ra chẳng có pháp khác. Trong truyền Tâm ấn để ấn chứng Bản
tâm, ngoài truyền Cà Sa để đại biểu Tông chỉ”.
Trong Nam
Tông xác định Thị Phi Luận có nói: “Nay Thần Hội thiết lập vô giá đại hội
và trang nghiêm đạo tràng, chẳng vì công đức, chỉ muốn xác định Tông chỉ
cho người học đạo khắp thiên hạ, vì tất cả người học đạo phân rõ thị phi”.
- Than mạt pháp, thời ác thế,
Chúng sanh phưóc kém khó dạy dỗ,
Cách xa bậc Thánh tà kiến sâu,
Ma mạnh pháp yếu nhiều oán ghét.
Vừa nghe đốn giáo của Như Lai,
Liền muốn diệt cho tan rã hết.
- Pháp viên đốn, chẳng nhơn tình,
Nghi chẳng giải quyết cần phải giành,
Chẳng phải Sơn Tăng chấp nhơn ngã,
Tu hành sợ đọa hầm đoạn thường.
Theo việc
tranh luận của Ngài Thần Hội là muốn phá cửa Tiệm tu của Thanh tịnh Thiền
mà kiến lập cửa Đốn ngộ của tổ Sư Thiền vậy.
- Mặc người phỉ, mặc người báng,
Lấy lửa đốt trời tự lao nhọc,
Ta nghe đồng như uống cam lồ.
Tiêu tan bỗng vào bất tư nghì.
Quán ác ngôn, là công đức,
Phỉ báng ta là Thiện tri thức,
Chẳng vì phỉ báng nói yêu ghét,
Sao tỏ vô sanh từ nhẫn lực.
Khi Ngài Thần
Hội định Tông chỉ, bị người Bắc Tông vu khống mà bị vua đày, nên mới có
lời nói trên. Trong Nam Tông Định Thị Phi Luận nói: “Nay ta hoằng dương
Đại thừa, kiến lập Chánh pháp, khiến tất cả chúng sanh đều hay biết, đâu
tiếc thân mạng!”.
- Mặt trời lạnh, mặt trăng nóng,
Bọn ma chẳng thể hoại chánh thống.
Xe voi trên đường đang tiến tới,
Bọ ngựa đâu thể chận lại được!
Voi lớn chẳng dạo đường con thỏ,
Đại ngộ chẳng kẹt nơi việc nhỏ,
Chớ nhìn ống hẹp bóng hư không,
Nay ta vì ông giải quyết xong.
Ngoài ra như:
“Gọi người gỗ máy lên để hỏi,
Dụng công cầu Phật lúc nào thành”.
Và
“Yêu quái trăm năm uổng mở miệng”,
v.v... đều là
lời chỉ trích môn tiệm tu Thanh tịnh Thiền. Xét kỹ toàn bộ Chứng Đạo Ca
đều là Ngài Thần Hội vì xác định Tông chỉ mà nói ra, so với ý chỉ trong
Vĩnh Gia Tập hiển nhiên chẳng đồng. Ngài Vĩnh Gia trước học Thiên Thai,
lời nói trong tập còn nhiều giọng nói giống Tông Thiên Thai, nên biết
Chứng Đạo Ca là tác phẩm của Ngài Thần Hội, có thể vì người đời sau muốn
tránh sự ác cảm của Bắc Tông, nên gán tên cho Ngài Vĩnh Gia mà thôi. Thiền
Tông ở ngày nay gai góc khắp đường, lý Đốn, Tiệm hỗn độn chẳng thể phân
biệt, có ai kế tiếp theo Ngài Thần Hội, phấn chấn khởi lên tái định Tông
chỉ của Tào Khê chăng?
8.- GIA
PHONG CỦA NĂM PHÁI THIỀN.
Dưới cửa Lục
Tổ có bốn mươi ba người đắc pháp, mỗi mỗi hóa độ một phương đều là chánh
thống, trong đó Nam Nhạc Hoài nhượng, Thanh Nguyên Hành Tư và Hà Trạch
Thần Hội nổi bật nhất. Phái Nam Nhạc sau này sanh ra Lâm Tế và Qui Ngưỡng
hai Tông, phái Thanh Nguyên sau này sanh ra Vân Môn, Pháp Nhãn, Tào Động
ba Tông. mỗi Tông đều có phương pháp riêng để tiếp dẫn hậu học, gọi chung
là Ngũ gia gia phong. Phái Hà Trạch truyền đến Khuê Phong Tông Mật, vốn là
người Tông Hoa Nghiêm, thuộc về giáo môn, chưa thể gánh vác Tông chỉ Tào
Khê mà mong điều hòa Thiền Tông với các Tông giáo môn, lọt vào ngôn thuyết
kiến giải, làm cho phái Hà Trạch Thần Hội tuyệt truyền, chỉ còn phái Nam
Nhạc Thanh Nguyên được người đời sau công nhận là phái Đích truyền của Tào
Khê.
Nam Nhạc có
Mã Tổ cũng như Thanh Nguyên có Thạch Đầu, Mã Tổ được sự thọ ký “Dưới chân
chà đạp khắp người thiên hạ”, còn Thạch Đầu thì có tiếng tăm “Thạch Đầu
đường trơn”. Mã Tổ chủ hóa Giang Tây, Thạch Đầu chủ hóa Hồ Nam, người tham
học từ bốn phương đều tìm đến cửa hai phái, rất là thịnh vượng. Dưới cửa
Mã Tổ có đệ tử một trăm ba mươi chín người ngộ đạo, trong đó Bá Trượng
Hoài Hải nổi bật nhất, Ngài Bá Trượng là người bắt đầu sáng lập Thiền
Viện, soạn Thanh qui của Tòng lâm, đệ tử bậc thượng thủ là Huỳnh Bá Hy
Vận, Qui Sơn Linh Hựu. Dưới Huỳnh Bá có Lâm Tế Nghĩa Huyền, là Tổ của Lâm
Tế Tông.
Qui Sơn của
Qui Ngưỡng Tông, dưới Qui Sơn có Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, do thầy trò Qui Sơn
Ngưỡng Sơn xướng họa với nhau cùng phát dương mà thành gia phong của bản
Tông.
Dưới Thạch
Đầu người đắc đạo cũng nhiều, trong đó Thiên Hoàng Đạo Ngộ, Dược Sơn Duy
Nghiễm hai nhánh là chủ lưu, dưới Đạo Ngộ truyền qua Long Đàm Sùng Tín,
Đức Sơn Tuyên Giám, đến Tuyết Phong Nghĩa Tồn, Thiền phong chấn hưng, Tứ
chúng nhiễu quanh thường hơn một ngàn năm trăm người, đệ tử nối pháp có
Vân Môn Văn Yểm, Huyền Sa Sư Bị tất cả năm mươi sáu người, Văn Yểm là Tổ
của Vân Môn Tông.
Dưới Huyền Sa
truyền qua La Hán Quế Sâm, đến Pháp Nhãn Văn Ích là Tổ của Pháp Nhãn Tông.
Dưới Dược Sơn
Duy Nghiễm truyền qua Vân Nham Đàm Thạnh, đến Động Sơn Lương Giới với đệ
tử Tào Sơn Bổn Tịch cùng nhau sáng lập Tào Động Tông. Ấy là cội nguồn
thành lập của năm phái Thiền.
Nói gia phong
là tác phong riêng biệt của mỗi Tổ dùng để phát dương Tông chỉ biệt truyền
của Thiền Tông. Chư Tổ minh tâm kiến tánh dù đồng nhau, nhưng cá tánh mỗi
mỗi chẳng đồng, nên phương pháp tiếp dẫn hậu học mới có sự khoan hồng, oai
mãnh, ôn hòa, gấp bách mỗi mỗi khác nhau. Nói tóm lại, gia phong của các
phái trong Thiền Tông đều lấy “Niêm hoa thị chúng” của Phật Thích Ca làm
mô phạm.
Phương pháp
phổ biến nhất của chư tổ Trung Quốc là dùng gậy, dùng hét để tiếp dẫn hậu
học. “Gậy” bắt đầu từ Lục Tổ đánh Thần Hội, “hét” bắt đầu từ Mã Tổ tiếp Bá
Trượng, tác dụng với niêm hoa chẳng khác. Cho đến Ca Diếp giơ tay, A Nan
hiệp chưởng, Nhị Tổ Huệ Khả lễ bái xong về đứng chỗ cũ, Mã Tổ dựng phất
trần, quăng phất trần, Bí Ma giơ chỉa, Hoa Sơn đánh trống, Thạch Củng
giương cung, Tuyết phong đá cầu, Quốc Sư để chén nước, Qui Tông kéo đá, La
Hán vẽ chữ, Đại Tùy hầm khoai, Đức Sơn vào cửa liền đập, Lâm Tế vào cửa
liền hét, “Là cái gì?” của Bá Trượng, “Chớ vọng tưởng” của Vô Nghiệp,
Triệu Châu uống trà, Vân Môn ăn bánh, tất cả đều chẳng khác với sự niêm
hoa thị chúng của Phật Thích Ca. Ấy đều là chư Tổ tùy cơ phát huy dùng để
tiếp dẫn hậu học, vốn chẳng qui tắc nhất định. Như Lâm Tế Nghĩa Huyền
thiết lập các quan ải Tam Huyền Tam Yếu và Tứ Liệu Giản để khám xét đồ
chúng, tiếp dẫn hậu học, con cháu truyền thừa nhau tỏ ra thành gia phong.
Truyện Lâm Tế
trong Truyền Đăng Lục rằng: Tăng hỏi thế nào là câu thứ nhất?
Sư nói: “Ấn
khai tam yếu điểm son hẹp, chưa cho suy nghĩ chủ khách phân”.
Hỏi thế nào
là câu thứ nhì?
Sư nói: “Diệu
giải chẳng cho vấn vô trước (chấp trước), phương tiện đâu phụ (cô phụ)
triệt lưu cơ”. Hỏi thế nào là câu thứ ba?
Sư nói: “Hãy
xem trên đài hát múa rối, kéo dây đều do người bên trong”.
Lại nói: “Một
cú ngữ phải đủ tam huyền môn, một huyền môn phải đủ tam yếu, có quyền có
thực, các ngươi làm sao lãnh hội!”.
Thủ Sơn Tĩnh
Niệm Thiền Sư (đời thứ năm phái Lâm Tế) trong Cổ Tôn Túc Ngữ Lục rằng:
“Ngộ được câu thứ nhất làm thầy của Tổ và Phật, ngộ được câu thứ nhì làm
thầy của người và trời, ngộ được câu thứ ba tự cứu chẳng xong!”.
Còn Từ Minh
Sở Viên Thiền Sư (đời thứ bảy phái Lâm Tế) vì Tăng hỏi Tam huyền tam yếu
mà thuyết tụng rằng:
Đệ nhất huyền:
Tam thế chư Phật tính nói chi?
Dạy bảo trong mộng sanh khinh rẻ,
Ngồi không lại thành đọa đoạn kiến.
Đệ nhị huyền:
Lanh lợi nạp Tăng mắt chưa sáng,
Lửa đá điện chớp là chậm trễ,
Nhướng mày nháy mắt càng cách xa.
Đệ tam huyền:
Vạn tượng sum la vũ trụ rộng.
Mây tan hang trống núi non lặng,
Nước chảy đất bằng đầy sông ngòi.
Đệ nhất yếu:
Thánh phàm nói chi diệu,
Suy nghĩ đường càng xa,
Mở mắt điên đảo nhiều.
Đệ nhị yếu:
Đánh kiểng gọi đỉnh núi,
Thần thông đến tự tại.
Đa văn kêu ngoài cửa.
Đệ tam yếu:
Ngồi nằm khiến người chê.
Bàn tay nắm thiên địa.
Chiếu soi đủ ngàn sai.
Về Tứ Liệu
Giản, trong Lâm Tế Lục ghi rằng: “Như kiến giải Thiền Tông, tử hoạt dĩ
nhiên, người tham học cần nên chú ý, cũng như chủ khách gặp nhau thì có
ngôn luận qua lại, hoặc tùy vật hiện hình, hoặc toàn thể tác dụng, hoặc
nắm cơ tùy phương tiện mà vui giận, hoặc hiện bán thân, hoặc cỡi sư tử,
hoặc cỡi tượng vương. Như tiếng hét của người học chơn chánh là đưa ra cái
thau bằng keo, Thiện tri thức chẳng biết là cảnh, bèn dính mắc cảnh họ mà
làm dáng làm điệu, liền bị người học hét thêm thêm tiếng nữa, Thiện tri
thức chẳng chịu buông xuống, ấy là bệnh tuyệt vọng, chẳng thể trị, gọi là
“khách nhìn chủ”.
Hoặc là Thiện
tri thức chẳng đưa ra vật gì, tùy chỗ hỏi của người học liền đoạt, người
học bị đoạt thà chết chẳng chịu buông, ấy gọi là “chủ nhìn khách”.
Hoặc có người
học tỏ một cái trong sạch ra trước mắt Thiện tri thức, Thiện tri thức biết
là cảnh, liền quăng vào hầm sâu, người học nói: “Tốt lắm Thiện tri thức”.
Thiện tri thức liền nói: “Ngốc thay chẳng biết tốt xấu”. Người học liền lễ
bái, đây gọi là “Chủ nhìn chủ”.
Hoặc có người
học còng tay còng cổ ra trước mắt Thiện tri thức, Thiện tri thức lại cho
còng thêm một lớp, người học hoan hỷ, hai bên đều chẳng biết, ấy gọi là
“Khách nhìn khách”.
Các Đại đức!
Sơn Tăng kể chuyện như thế đều là phân biệt ma quái để biết rõ chánh tà
vậy.
Lại nói:
“Có khi đoạt
nhơn chẳng đoạt cảnh,
Có khi đoạt
cảnh chẳng đoạt nhơn,
Có khi nhơn
cảnh đều đoạt,
Có khi nhơn
cảnh đều chẳng đoạt”.
Tăng hỏi thế
nào là đoạt nhơn chẳng đoạt cảnh?
Sư đáp: “Mặt
trời phát sinh lụa trải khắp, hài nhiều tóc dài trắng như tơ”.
Hỏi thế nào
là đoạt cảnh chẳng đoạt nhơn?
Sư đáp: “Lệnh
vua đã ban khắp thiên hạ, tướng quân biên thùy chẳng thấy nghe”.
Hỏi thế nào
là cả nhơn cảnh đều đoạt?
Sư đáp: “Biên
giới cách tuyệt tin tức, tự cô độc ở một nơi”.
Hỏi thế nào
là nhơn cảnh đều chẳng đoạt?
Sư đáp: “Vua
lên ngôi bửu điện, lão ẩn dật ca ngợi”.
Lại nói:
“Người học từ
bốn phương đến, Sơn Tăng ở đây phân làm ba thứ căn cơ: Như người trung hạ
căn đến thì ta đoạt cảnh mà họ mà chẳng trừ pháp họ; như người trung
thượng căn đến thì ta cảnh pháp đều đoạt; như người thượng thượng căn đến
thì ta cảnh pháp, nhơn đều chẳng đoạt; như có kẻ kiến giải xuất cách (siêu
việt ba thứ căn cơ) đến thì Sơn Tăng ở đây bèn toàn thể tác dụng, chẳng
tùy căn cơ”.
Ngài Lâm Tế
ứng cơ thường hay dùng hét, người ta gọi là “Vào cửa liền hét”. Bởi trong
một tiếng hét sẵn đủ tam huyền tam yếu và tác dụng chủ khách. Sư từng nói:
“Có khi một tiếng hét như bửu kiếm Kim Cang Vương, có khi một tiếng hét
như Kim Ma sư tử cự địa (thế sắp chụp người), có khi một tiếng hét như cây
trúc dọ thám hình bóng trong đám cỏ, có khi một tiếng hét chẳng cho là tác
dụng một tiếng hét, các người làm sao lãnh hội!”.
Lúc bấy giờ,
môn đồ tham học trong hội cũng bắt chước Sư hét, Sư nói: “Các người cứ bắt
chước Ta hét, nay Ta hỏi các ngươi: Có một người từ bên Đông ra, một người
từ bên Tây ra, hai người cùng hét một lượt, ở đây phân được chủ khách
chăng? Mà các ngươi làm sao phân? Nếu phân chẳng được, về sau chẳng nên
bắt chước lão Tăng hét?”.
Đối với gia
phong Lâm Tế, Thủ Sơn Tĩnh Niệm Thiền Sư từng nói: “Các Thượng Tọa! Chẳng
nên hét mù hét bậy, ở đây bình thường nói với các ông, khách thì rốt cuộc
là khách, chủ thì rốt cuộc là chủ; khách chẳng hai khách, chủ chẳng hai
chủ. Nếu có hai khách, hai chủ tức là hai thằng mù, cho nên nếu ta đứng
thì ngươi phải ngồi, nếu Ta ngồi thì ngươi phải đứng. Ngồi thì cùng ngươi
ngồi , đứng thì cùng ngươi đứng, mặc dù như thế, đến đây con mắt phải nhìn
nhanh cho rõ mới được, nếu con mắt do dự thì cách xa muôn ngàn dặm. Tại
sao như thế? Giống như cách cửa sổ xem cỡi ngựa, suy nghĩ tức chẳng dính
dáng. Các Thượng Tọa đã lưu tâm việc này, cần phải chú y, tốt nhất đừng
bám vào chỗ giả dối, hôm nọ ngày sau ngươi sẽ bị gạt”.
Đây là gia
phong đại khái của Lâm Tế Tông.
Qui Ngưỡng
Tông cho chín mươi sáu tướng tròn, gia phong tương đối ôn hòa, chẳng giống
sự mãnh liệt của Lâm Tế Tông. Trong Nhơn Thiên Nhãn Mục nói về gia phong
Qui Ngưỡng Tông là “Cha từ con hiếu, lệnh trên thì dưới tùng, ngươi muốn
ăn cơm ta liền bưng canh; ngươi muốn qua sông ta liền chèo thuyền, cách
núi thấy khói liền biết là lửa; cách tường thấy sừng liền biết là trâu”.
Còn Pháp Nhãn
Thiền Sư Thập Qui Luận rằng: “Qui Ngưỡng thì vuông tròn mặc khế, như tiếng
dội trong hang, như phù hợp luật lệ thông qua quan ải”.
Truyền Đăng
Lục Qui Sơn truyện rằng:
Phổ thỉnh hái
trà, Sư (Qui Sơn) nói với Ngưỡng Sơn rằng: “Suốt ngày hái trà, chỉ nghe
tiếng ngươi, chẳng thấy hình ngươi, xin hiện bổn hình ra xem!”.
Ngưỡng Sơn
lắc cây trà, Sư nói: “Ngươi chỉ được cái dụng, chẳng được cái thể”.
Ngưỡng Sơn
nói: “Chưa rõ Hòa Thượng thế nào?”.
Sư im lặng
giây lâu, Ngưỡng Sơn nói: “Hòa Thượng chỉ được cái thể, chẳng được cái
dụng”.
Sư nói: “Cho
ngươi hai mươi gậy”.
Ngưỡng Sơn
nói:”Gậy Hòa Thượng con ăn, gậy con bảo ai ăn?”.
Sư nói: “Cho
ngươi ba mươi gậy”.
Ngữ Lục của
Chơn Tịnh Thiền Sư khi trụ trì Đông Sơn có ghi: “Thượng đường kể: Thuở xưa
Diêm Quan thường dạy Tăng về pháp môn kiến tánh nghe nói Qui Sơn cũng vậy,
liền sai hai vị Tăng đi dọ thám, đến nơi tọa hạ, nghe trăm điều đề xướng
đều chăng hiểu, lại sanh tâm khinh mạn. Một hôm gặp Tiểu Thích Ca (Ngưỡng
Sơn) nói: “Ngươi chớ tâm thô”. Tiểu Thích Ca bèn làm một tướng tròn, hai
tay đưa ra, hai Tăng cũng chẳng hiểu, Tiểu Thích Ca nói: “Ngươi chớ tâm
thô” liền bỏ đi.
Sư Chơn Tịnh
nói: “Tiểu Thích Ca tam muội, hai vị Tăng chẳng biết, dưới cửa Động Sơn có
kẻ nào biết ta chăng? Là tam muội gì?”. Giây lâu Ngài nói tiếp: “Làm mì
cần xứ trồng lúa mạch, ca nhạc nên tôn người Đế Hương” (Nhạc thần của Đế
Thích).
Vân Môn Tông
người sáng lập là Tổ Văn Yểm, ban sơ tham vấn Ngài Mục Châu phát minh Tâm
địa sau tham Ngài Tuyết Phong. Gia Phong của Tuyết Phong thấu được áo chỉ,
bèn nối pháp Tuyết Phong thì ôn hòa, huyền ảo Văn Yểm kế thừa sở trường
của hai nhà, phát huy chỉ vi diệu đặc biệt, trụ núi Vân Môn Thiều Châu, đồ
chúng thường hơn ngàn người, kẻ nối pháp sáu mươi mốt người.
Gia Phong của
Vân Môn thẳng tắt, thường dùng ba chữ Cố (nhìn), Giám (xem), Ỷ (chê) để
khám xét người học; còn có Vân Môn Bát Yểu: một Huyền, hai Tùng, ba Chơn
Yếu, bốn Đoạt, năm Hoặc, sáu Quá, bảy Tán, tám Xuất, Pháp Nhãn Thiền Sư
Thập Qui Luận xưng Ngài Vân Môn là “Hàm cái triệt lưu”, nói gia phong nhà
họ giống như nước sông đang chảy gấp mà đột nhiên dừng lại.
Văn Yểm có tự
làm bài kệ rằng:
Vân Môn chót vót trên đám mây,
Cá chẳng dám trụ nước chảy bay,
Vào cửa đã biết ôm kiến giải
Đâu phiền kể lại sình bánh xe.
Đệ tử Ngài
Vân Môn là Viên Minh Thiền Sư có bài tụng ba câu của Vân Môn rằng:
1/ Hàm cái
càn khôn:
Càn khôn và vạn tượng,
Địa ngục với thiên đường,
Vật vật đều trực hiện,
Mỗi mỗi chẳng đúng sai.
2/ Triệt
đoạn chúng lưu:
Đầy núi đầy biển lại,
Mỗi mỗi đều trần ai,
Lại muốn lập huyền diệu,
Ngói bể băng tiêu ngay.
3/ Tùy ba
trục lãng:
Cách hỏi đủ biện tài,
Cao thấp đáp chẳng sai,
Cũng như thuốc đúng bệnh.
Chẩn hỏi lúc lâm thời.
Riêng
hỏi ngoài ba câu:
Đương nhơn nếu đề xướng,
Ba câu đâu thể gồm,
Có hỏi việc thế nào,
Nam Nhạc và Thiên Thai.
Ngài Trí Môn
làm bài tụng “Rút chữ Cố” rằng:
Vân Môn rút cố cười hi hi,
Suy nghĩ bị nó cố giám ỷ,
Dầu cho Trương Lương nhiều kế sách,
Cuối cùng ở đây cũng khó thi (hành).
Người sáng
lập là Thanh Lương Văn Ích Thiền Sư, Trụ trì Kim Lăng Thanh Lương Tự, học
giả bốn phương tấp nập tìm đến tham học, hình thành một Tông phái trong
Thiền Tông.
Gia phong của
Pháp Nhãn Tông có Lục tướng và Tứ Liệu Giản dùng để tiếp dẫn hậu học. Tứ
Liệu Giản tức là Văn văn (phóng), Văn bất văn (thu), Bất văn văn (minh),
Bất văn bất văn (ám).
Tào Động Tông
đúng ra phải xưng là Động Tào Tông, do Động Sơn Lương Giới Thiền Sư với đệ
tử là Tào Sơn Bổn Tịch Thiền Sư sáng lập. Ngai Lương Giới thọ tâm yếu nơi
Vân Nham Thiền Sư, sau trụ trì Động Sơn Phổ Lợi Viện ở Dự Chương, đề xướng
Ngũ Vị để tiếp dẫn học giả. Ngũ vị là: Chánh trung thiên, Thiên trung
chánh, Chánh trung lai, Thiên trung chí, Kiêm trung đáo. Còn có bài Bửu
Cảnh Tam Muội ca.
Động Sơn gia
phong miên mật, trong số đệ tử thượng thủ, Ngài Tào Sơn Bổn Tịch đắc tâm
truyền, Trụ trì Tào Sơn Sùng Thọ Viện ở Võ Châu, xướng dương yếu khuyết
Ngũ Vị, người học đến tấp nập, người đời xưng là Tào Động Tông.
Pháp Nhãn
Thiền Sư Thập Qui Tụng rằng: “Tào Động là xướng họa làm dụng”, bởi gia
phong một vấn một đáp, qua lại miên mật, so với cơ phong thẳng tắp của Lâm
Tế ý thú khác xa. Nên người xưa có lời nói “Lâm Tế tướng quân, Tào Động
nông dân”. Vì gia phong Lâm Tế như tướng chỉ huy binh lính trăm vạn, mà
gia phong Tào Động thì như kẻ nông phu canh tác ruộng đất rất chu đáo vậy.
Có Tăng hỏi
Phần Dương Thiệu Chiêu Thiền Sư thế nào là Chánh trung lai?
Đáp: “Bông
sen nở đầy trên đất khô”.
Hỏi: “Sau khi
sen nở thế nào?”.
Đáp: “Nhụy
bông Kim Liên hứng sương ngọc, cao Tăng chẳng tọa đài Phượng Hoàng”.
Hỏi: “Thế nào
là Chánh trung thiên?”.
Đáp: “Mặt
trăng chiếu sáng đầu đêm rồi, gà gáy phải báo trước canh năm”.
Hỏi thế nào
là Thiên trung chánh?
Đáp: “Mầm nhỏ
thành cây to, giọt nước làm sông ngòi”.
Hỏi thế nào
là Thiên trung chí?
Đáp: “Ý khí
chẳng đắc từ thiên địa, anh hùng đâu nương thời thế thành”.
Hỏi thế nào
là Kiêm trung đáo?
Đáp: “Ngọc nữ
dệt vải thuyền ọt ẹt, người đá đánh trống tiếng đùng đùng”.
Sư vì Tăng
xin hỏi Ngũ vị, bèn tụng ra từng vị rằng:
Chánh trung lai:
Bửu kiếm Kim Cang vạch trời ra,
Một tia thần quang khắp thế giới.
Phẩm tánh sáng tỏ tuyệt trần ai.
Chánh trung thiên:
Cơ phong sấm sét nháy mắt nhìn,
Lửa đá điện chớp chậm trễ thay!
Suy nghĩ đo lường xa ngàn dặm.
Thiên trung chánh:
Hãy xem Luân Vương ban chánh lệnh,
Bảy ngàn Thái Tử đều theo hầu,
Giữa đường một mình tìm gương vàng.
Thiên trung chí:
Sư tử tuổi oai thế sẵn,
Thiên tà bá quái ló đầu ra,
Rống lên một tiếng đều hàng phục.
Kiêm trung đáo:
Hiển bày vô công chớ tạo tác,
Trâu gỗ bước đi trong lửa hồng,
Thật là Pháp Vương diệu trung diệu.
Còn Ngũ Vị
của Từ Minh Sở Viên Thiền Sư rằng:
Chánh trung thiên:
Gà đen nửa đêm gáy trong phòng,
Đáy biến đốt đèn thế giới sáng.
Tảng đá trồng bông mọc cây linh.
Thiên trung chánh:
Mặt trời lặn xuống hiện bóng lạ,
Ảnh tượng rõ ràng hiển Tông thừa,
Lông mày chớ nhìn trăng trong giếng.
Chánh trung lai:
Ngựa gỗ sanh con khắp thiên hạ,
Mặc tình dẫn dắt đi đường chim,
Há chẳng người nương ổ chim ở.
Chánh trung lai:
Mỗi mỗi trượng phu có ý khí,
Mâu thuẫn chống nhau chẳng vết thương,
Tung hoành khai triển chẳng lìa nhau.
Kiêm trung đáo:
Trắng đen chưa rõ chớ tạo tác,
Phải biết trụ cột chưa sanh con.
Chớ nhận lời cuồng ngưng nửa đường.
Trên đây là
gia phong đại khái của Tào Động Tông.
Người xưa có
bình luận Ngũ gia gia phong rằng:
Tào Động đinh
ninh, Lâm Tế thế thắng, Vân Môn thẳng tắt, Pháp Nhãn linh xảo, Qui Ngưỡng
trao nhau.
Còn Bạch Vân
Pháp Diễn Thiền Sư trong Ngữ Lục có luận về Ngũ gia gia phong rằng:
Tăng hỏi thế
nào là việc Lâm Tế?
Đáp: “Ngũ
nghịch nghe sấm sét”.
Hỏi thế nào
là việc Vân Môn?
Đáp: “Cờ đỏ
lấp lánh”.
Hỏi thế nào
là việc Tào Động?
Đáp: “Gởi thơ
chẳng đến nhà”.
Hỏi thế nào
là việc Qui Ngưỡng?
Đáp: “Bia gãy
nằm đường xưa”.
Tăng lễ bái.
Sư nói: “Sao
chẳng hỏi việc Pháp Nhãn?”
Tăng nói: “Để
giành cho Hòa Thượng”.
Sư nói:
“Người tuần phạm luật giới nghiêm”.
Sư nói tiếp:
“Ngộ thì việc đồng một nhà, chẳng ngộ thì muôn ngàn sai biệt, một nửa ăn
bùn ăn đất, một nửa ăn mạch ăn mè, hoặc là hàng long phục hổ, hoặc là lượm
sò với tôm. Hòa Sơn chỉ biết đánh trống, Bí Ma luôn luôn giơ chỉa. Nói
chung một tuồng hát cười, đều do mỉm cười niêm hoa, đồ bỏ trong đám Bạch
Vân, gió xuôi xả đất, xả cát, nếu chẳng tâm can thế này, sao được áo gấm
vinh qui! Vậy một tiếng “Vinh qui” nên nói thế nào? Vinh hoa hôm nay người
chẳng biết mười năm trước là một thư sinh”.
Còn thượng
đườngnói: “Đạt Ma từ bên Tây đến, việc lâu nhiều biến đổi, con cháu đời
sau gia phong vô hạn, nhiễu loạn thân tâm, một đống chỉ mành. Bạch Vân hôm
nay thảy đều cắt đứt.
Đại chúng!
Một trăm lẻ năm ngày thanh minh, Thượng nguyên nhất định là rằm tháng
giêng.
Nên biết, nói
gia phong chỉ là phương tiện tùy nghi của chư Tổ dùng để tiếp dẫn hậu học.
Gia phong dù theo người mà khác, nhưng Phật tánh thì ngàn xưa chẳng đổi,
kẻ ngộ thì thấu qua như một, chẳng ngộ thì lại thêm rắm rối.
Pháp Nhãn
Tông truyền sang Cao Ly, Vân Môn Tông thất truyền đã lâu, nay chỉ còn ba
Tông là Qui Ngưỡng, Tào Động, Lâm Tế, nhưng con cháu của các Tông, chỉ lấy
cội nguồn gia phổ để truyền thừa với nhau, ghi tên trên pháp quyển là
Thiền Sư đời thứ mấy mà thôi, nếu hỏi về gia phong Tông chỉ thì ngơ ngác
chẳng thể trả lời. Nên khuyên người học đời nay, hễ được minh tâm kiến
tánh liền được liễu thoát sanh tữ, nối tiếp Huệ mạng của chư Phật chư Tổ
với chư Phật chư Tổ nắm tay cùng đi, đâu cần phân chia Tông phái chi nữa!