Phương pháp tu trì của Thiền tông
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
THIỀN THẤT KHAI THỊ LỤC
Tác giả:
Nguyệt Khê Thiền Sư
Dịch giả:
Thích Duy Lực
---o0o---
CHƯƠNG II
YẾU CHỈ THIỀN TÔNG
1.- Ý NGHĨA
“GIÁO NGOẠI BIỆT TRUYỀN, CHẲNG LẬP VĂN TỰ”.
Bích Nham Tập
có bài bình xướng rằng: “Đạt Ma từ xa quán đất này có căn khí Đại Thừa,
bèn vượt biển đến Trung Quốc, chuyên truyền Tâm ấn, khai thị cho kẻ mê,
chẳng lập văn tự, trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật”.
Nói “Chẳng
lập văn tự”, vì văn tự phải nương bộ não suy nghĩ, suy nghĩ thì nương nơi
nhất niệm vô minh; nhất niệm vô minh hư huyễn chẳng thật, nên suy nghĩ văn
tự cũng hư huyễn chẳng thật. Do hư huyễn chẳng thật gọi là tương đối,
tương đối thì có sanh có diệt, chẳng thể hiển bày tuyệt đối chẳng sanh
diệt của bản thể, vì văn tự chẳng thể hiển thị Phật tánh, nên nói chẳng
lập văn tự. Phật Thích Ca dùng lời nói văn tự để hoằng giáo pháp là do sự
bất đắc dĩ, nên thí dụ như ngón tay chỉ mặt trăng, vừa thuyết liền phá,
Kinh Niết Bàn nói: “Bắt đầu từ Lộc Uyển, cuối đến sông Bạt Đề, khoảng
giữa 50 năm, chưa từng thuyết một chữ” là vậy.
Kinh Kim
Cang: “Nếu nói Như Lai có thuyết pháp tức là phỉ báng Phật, người ấy chẳng
hiểu nghĩa sở thuyết của ta”. Ý cho rằng phàm thuộc về lời nói văn tự đều
chẳng có nghĩa thật, tương đối chẳng thể diễn tả tuyệt đối. Phật Thích Ca
vì từ bi độ chúng sanh, dù tạm mượn lời nói văn tự để thuyết pháp, chỉ gọi
là phương tiện, nên khi đang thuyết pháp, thường cảnh cáo đại chúng chớ
chấp lời nói là thật, để khỏi tự kẹt chẳng thông, đọa vào trong hầm sâu
tương đối mà chẳng thể tự cứu.
Phật đối với
lời nói và nghĩa thật phân ra rõ ràng, chẳng cho lẫn lộn, thật rất khổ
tâm.
Kinh Lăng Già
nói: “Đại Huệ! Những kẻ si mê nói rằng: “Nghĩa như ngôn thuyết, nghĩa với
thuyết chẳng khác”. Tại sao? Vì nghĩa tự chẳng thân (không bản thể), ngoài
ngôn thuyết chẳng còn nghĩa nào, nên nói nghĩa đúng như ngôn thuyết. Đại
Huệ! Họ nói vậy là trí huệ bị cháy khét, chẳng biết Tự tánh ngôn thuyết,
chẳng biết ngôn thuyết sanh diệt (pháp tương đối), nghĩa thì chẳng sanh
diệt (pháp tuyệt đối). Đại Huệ! Tất cả ngôn thuyết đều đọa nơi văn tự,
nghĩa thì chẳng đọa, lìa tánh và phi tánh, cũng chẳng thân chẳng thọ. Đại
Huệ! Như Lai chẳng thuyết những pháp đọa văn tự, vì văn tự có với không
đều bất khả đắc, nên nói chẳng đọa văn tự. Đại Huệ! Nếu nói Như Lai thuyết
những pháp đọa văn tự, ấy là hư vọng, vì pháp lìa văn tự, cho nên chư Phật
chúng ta và chư Bồ Tát chẳng thuyết một chữ, chẳng đáp một chữ. Tại sao?
Vì pháp lìa văn tự (bản thể tuyệt đối chẳng dính dáng với văn tự). Dù ngôn
thuyết là vọng tưởng của chúng sanh, nhưng cũng chẳng thể phế bỏ ngôn
thuyết, nếu chẳng thuyết tất cả pháp thì giáo pháp sẽ bị hoại, nếu giáo
pháp hoại thì chẳng còn chư Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, vậy ai
thuyết cho ai? Đại Huệ! Bồ Tát chớ nên chấp trước ngôn thuyết, chỉ dùng
phương tiện tùy nghi rộng thuyết kinh pháp, vì phiền não và hy vọng của
chúng sanh chẳng đồng, nên chư Phật vì sự hiểu biết mỗi mỗi khác nhau của
chúng sanh mà thuyết pháp, khiến lìa tâm (thức thứ tám), ý (thức thứ bảy),
và ý thức (thức thứ sáu), vì tâm, ý, ý thức chẳng thể đạt đến chỗ tự giác
Thánh trí vậy”.
Lời nói văn
tự đối với bản thể của Phật tánh dù chẳng có giá trị để nói, nhưng đối với
sự thuyết pháp độ sanh thì vẫn phải nhờ ngôn thuyết để làm công cụ chủ
yếu, đến khi hôi Linh Sơn Phật niêm hoa thị chúng, Ca Diếp tỏ ngộ, mới
tuyên bố có pháp môn “Giáo ngoại biệt truyền chẳng lập văn tự" để truyền
cho Ca Diếp, pháp môn này là trực tiếp hiển bày thể dụng của Phật tánh,
khiến chúng sanh chẳng nhờ văn tự mà trực tiếp ngộ nhập Bản thể của Chơn
như. Các đại đệ tử được Thế Tôn dạy dỗ và huân tập đã lâu, Thế Tôn biết họ
căn cơ đã thuần thục, nên đặc biệt truyền thị pháp môn vi diệu này, khiến
đốn ngộ pháp Vô sanh, thẳng siêu Phật địa.
Suy nghĩ, lời
nói, văn tự cùng xuất phát từ nhất niệm vô minh. Khi một niệm chưa động,
tịch nhiên trống rỗng, chẳng có tư tưởng cảm giác, dĩ nhiên cũng chẳng nói
lời nói văn tự, đây gọi là vô thỉ vô minh. Khi vô thỉ vô minh bị kích
thích, một niệm đã động, suy nghĩ liền sanh. Do suy nghĩ có lời nói, do
lời nói mà lập văn tự, suy nghĩ là lời nói chẳng có tiếng, lời nói là suy
nghĩ có tiếng, văn tự là lời nói có hình, lời nói là văn tự vô hình, cả ba
đều gom trong chữ “tên gọi”. Nhiếp Đại Thừa Luận nói: “Tên gọi” có hai
thứ, một là tên gọi ngôn thuyết, hai là tên gọi suy tư. Nhà triết học
Rousseau cũng nói “Tư tưởng là lời nói bên trong”, Lâm Tế Thiền Sư nói:
“Tên gọi chẳng tự là tên gọi, chỉ do trước mắt ngươi cho là cái linh
thiêng của kiến văn giác tri chiếu soi ấy gắn cho tất cả tên gọi”. Nhưng
cả ba đều khởi từ nhất niệm vô minh, nhất nhiệm vô minh có sanh có diệt,
biến đổi vô thường, tên gọi văn tự cũng theo đó biến đổi vô thường. Vô
thường thuộc tương đối, Phật tánh thuộc tuyệt đối, tương đối chẳng thể
hiển bày tuyệt đối, nên tuyệt đối của Phật tánh chỉ có thể tự tu chứng mới
có thể nhận biết được, chẳng thể dùng văn tự diễn tả, cũng chẳng thể dùng
bộ não suy lường. Kinh Lăng Già nói: “Đệ nhất nghĩa (Phật tánh tuyệt đối)
là sở đắc của Thánh trí tự giác, chẳng phải cảnh giới cảm giác của vọng
tưởng ngôn thuyết cho nên vọng tưởng chẳng thể hiển bày Đệ nhất nghĩa.
Ngôn thuyết sanh diệt lay động do nhân duyên tương sanh với nhau, vì do
nhân duyên tương sanh với nhau nên chẳng thể hiển bày Đệ nhất nghĩa”.
Kinh Giải
Thâm Mật nói: “Ta nói thắng nghĩa (Phật tánh) là sở chứng bên trong của
bậc Thánh, việc làm suy tư (suy nghĩ đo lường) là sở chứng của chúng
sanh". Lại nói: “Sở hành của thắng nghĩa vô tướng, suy tư là hành theo
cảnh giới có tướng. Thắng nghĩa chẳng thể ngôn thuyết, suy tư là hành theo
cảnh giới ngôn thuyết, thắng nghĩa vốn tuyệt biểu thị, suy tư là hành theo
cảnh giới biểu thị, thắng nghĩa tuyệt cả tranh luận, suy tư là hành theo
cảnh giới tranh luận”.
Theo các kinh
kể trên, nên biết suy nghĩ văn tự với Chơn như Phật tánh chẳng thể tiếp
xúc nhau. Người ta thường nói: “Chỉ có thể ý hội chẳng thể ngôn truyền”.
Kỳ thật tuyệt đối của Phật tánh dù muốn ý hội cũng chẳng thể được, huống
là ngôn truyền ư! Chẵng những Phật tánh như thế, cho đến một kỹ thuật tinh
xảo của thế gian chỗ huyền diệu của họ cũng chẳng thể ngôn truyền vậy. Như
Trang Tử nói: “Hoàn Công đọc sách ở nhà trên, người thợ mộc đẽo bánh xe ở
nhà dưới, buông chàng đục đi lên hỏi Hoàn Công rằng: “Xin hỏi sách Ngài
đọc đó là lời nói gì?”. Hoàn Công trả lời: “Lời nói của bậc Thánh”. “Bậc
Thánh đâu?”. “Chết rồi”. Người đẽo bánh xe liền nói: “Thế thì sách Ngài
đọc đó chỉ là cặn bã của bậc Thánh mà thôi!”. Hoàn Công nói: “Quả nhân đọc
sách , người thợ đẽo bánh xe sao được bàn luận? Nếu nói có lý thì tha tội,
nếu nói không được thì chém đầu”. Người đẽo bánh xe thưa: “Hạ thần đem
việc của hạ thần ra mà xem, nếu hạ thần đẽo bánh xe hơi lỏng một chút thì
xe chạy được nhưng không an toàn vì dễ sút ra, nếu đẽo hơi chặt thì bánh
xe khít mà quay không được, so sự tự ngộ của hạ thần, tâm khiến tay, tay
cầm búa đẽo vào bánh xe, chẳng lỏng chẳng chặt, dùng miệng chẳng thể nói,
nhưng có sự tự động ở trong đó. Dù con của hạ thần cũng là một thợ mộc
danh tiếng, nhưng hạ thần chẳng thể đem sự ngộ ấy để truyền dạy cho con.
Nay hạ thần còn sống, có bánh xe, có búa, có tay mà còn truyền thọ chẳng
được, huống là bậc Thánh đã chết, chỉ để lại lời nói không còn gì cả!”. Do
đó chứng tỏ lời nói văn tự là việc gián tiếp trong gián tiếp, sức diễn tả
rất hạn chế, huống là muốn truyền đạt bản thể của tuyệt đối ư! Nên Phật
nói: “Bất khả thuyết! Bất khả thuyết”, còn Văn Thù Bồ Tát tán thán Duy Ma
Cật rằng: “Cho đến chẳng có ngôn thuyết ấy là chơn nhập pháp môn bất nhị”.
Lão Tử nói: “Cho nên bậc Thánh ở nơi việc vô vi hành giáo pháp vô ngôn”.
Khổng Tử nói: “Ta muốn vô ngôn”. Tử Tư nói: “Văn chương qua Khổng Phu Tử
có thể nghe mà tánh với thiên đạo thì chẳng thể nghe”. Liệt Tử nói: “Vì
ngộ bản tánh nên chẳng thể bảo cho biết”. Các nhà Nho và Đạo giáo đều cùng
một ý kiến này.
Thế Tôn vì
cứu sự hạn chế hạn hòi của lời nói văn tự, nên ở ngoài ngôn giáo biệt
truyền phương pháp trực tiếp, tức là việc niêm hoa thị chúng vậy. Chẳng
những niêm hoa mà thôi, phàm nhướng mày nháy mắt, tằng hắng, ngó nhìn đều
là phương pháp tiếp dẫn hậu học, khiến cho ngộ nhập bản thể tuyệt đối.
Kinh Lăng Già
nói: “Đại Huệ! Chẳng phải tất cả thế giới đều có ngôn thuyết, ngôn thuyết
chỉ dùng để giả lập mà thôi. Hoặc có thế giới dùng ngó nhìn để thuyết
pháp, hoặc dùng hình tướng, hoặc dùng nhướng mày, nháy mắt, hoặc cười hoặc
ngáp, hoặc tằng hắng hoặc lay động, hoặc ghi nhớ cõi Phật. Đại Huệ! Những
tác dụng kể trên đều khiến chư Bồ Tát đắc Vô sanh Pháp nhẫn và Tam muội
thù thắng, cho nên chẳng phải ngôn thuyết gồm có tất cả tánh. Đại Huệ!
Giống như những ruồi, muỗi, con kiến, côn trùng trong thế giới này, đều
chẳng có ngôn thuyết mà mỗi mỗi làm xong việc hằng ngày”. Hét, gậy, chửi,
mắng, dựng phất trần, giơ ngón tay của Tổ Sư Trung Quốc đều từ đây mà ra,
chẳng phải khi không bày đặt, hoặc có người nói Thiền Tông là sáng lập từ
Trung Quốc, ấy là do người chưa hiểu thấu vậy.
Mặc dù sự
diễn tả của ngôn thuyết văn tự có nhiều hạn chế, nhưng chẳng thể phế bỏ.
Kinh Viên Giác nói: “Kinh Giáo liễu nghĩa như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu
thấy được mặt trăng, thì biết ngón tay chẳng phải mặt trăng, tất cả ngôn
thuyết của Như Lai khai thị cho Bồ Tát đều cũng như thế". Nên biết giáo
pháp văn tự của Như Lai đều từ biển tánh chảy ra, muốn khiến chúng sanh
theo đó tu hành để đạt đến bản thể tuyệt đối, lìa nhị biên Có và Không,
chẳng phải lời nói văn tự của thế gian có thể so bằng.
Kinh Giải
Thâm Mật nói: “Dù pháp tánh lìa ngôn, vì muốn khiến chúng sanh tự hiện
Đẳng Giác, nên giả lập danh tướng”. Còn nói: “Dù Tự tánh chẳng tánh, pháp
sở chứng lìa những văn tự, nhưng chẳng thể bỏ ngôn thuyết văn tự mà được
diễn thuyết”. Kinh nói: “Biết pháp chẳng do ngôn, người khéo diễn tả ở
nơi vô ngôn, mà hiển bày ngôn thuyết, như tiếng vang khắp nơi”. Kinh Hoa
Nghiêm nói: “Tất cả chư Phật ra diệu âm thanh, vì chúng sanh làm Phật sự;
tất cả chư Phật tịch lặng vô ngôn cũng vì chúng sanh làm Phật sự”. Nên
biết một nói, một nín, một động, một tịnh của Phật đều là dẫn dắt chúng
sanh đạt đến chỗ giải thoát, như thầy thuốc tùy bệnh cho thuốc, chỉ cần
hết bệnh tức là toa thuốc hay, đâu cần phân biệt là lộc nhung hay cứt bò!.
Xưa nay các
Tổ Sư Thiền Tông như Ngài Đạo Tín, Huệ Năng, Đạo Nhất, Bá Trượng, Đại
Châu, Lâm Tế, Tuyết Phong, Tuyết Đậu v.v... dù gắn cái bản hiệu ‘Chẳng lập
văn tự", nhưng đều có pháp ngữ và tác phẩm lưu hành trên đời, chẳng phải
hoàn toàn phế bỏ văn tự. Nên biết nói “Chẳng lập văn tự" là muốn chỉ rõ
tìm Phật tánh trong văn tự bất khả đắc, người tu hành chớ nên đọa vào vọng
tưởng văn tự mà bị văn tự trói buộc, nếu cứ chấp thật sự chẳng lập văn tự
thì nghịch với bản ý của Phật với Tổ vậy.
Kinh Pháp Bảo
Đàn nói: “Kẻ chấp Không lại báng kinh rằng, trực ngôn chẳng dùng văn tự;
đã nói chẳng dùng văn tự thì con người cũng chẳng nên ngôn ngữ, vì ngôn
ngữ tức là tướng của văn tự”. Lại nói: “Trực đạo chẳng lập văn tự, đâu dè
hai chữ CHẲNG LẬP cũng là văn tự, thấy người có lời nói, liền báng họ là
dính mắc văn tự. Các người nên biết, tự mê còn đỡ, lại báng kinh Phật, chớ
nên báng kinh, tội chướng vô số kể”.
Tổ Đình Sư
Uyển có nói: “Chư Tổ truyền Pháp, ban sơ tu hành gồm tam tạng giáo thừa,
sau Tổ Đạt Ma chuyên truyền Tâm ấn, phá chấp giáo để hiển Tông (Thiền),
gọi là giáo ngoại biệt truyền, chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy
tánh thành Phật, nhưng đối với sự chẳng lập văn tự, người hiểu lầm rất
nhiều, thường cho là bỏ cả văn tự, lấy im lặng tĩnh tọa làm Thiền, ấy thật
là con dê câm của Thiền môn. Vả lại muôn pháp lăng xăng, đâu chỉ là văn tự
chẳng lập thôi. Họ chẳng biết đạo tức phải thông, sao lại cố chấp nơi một
góc!”.
Nên người
thông thạo ngay nơi văn tự mà văn tự bất khả đắc, đối với văn tự như thế,
đối với các pháp khác cũng vậy, hễ kiến tánh thành Phật là xong, đâu đợi
bỏ văn tự mới xong!
Cho nên văn
tự dù thuộc về tương đối, nếu được nương ngón tay mà thấy mặt trăng thì
văn tự chưa từng chẳng có công dụng, nếu được minh tâm kiến tánh, chứng
nhập Nhất hạnh, Nhất tướng Tam muội thì ngay nơi văn tự tức là Thật tướng,
tương đối biến thành tuyệt đối; nếu chấp ngón tay là mặt trăng thì văn tự
chưa từng là chẳng hại.
Tam tạng mười
hai bộ kinh là do Phật Thích Ca giả lập, cũng do Phật phủ định; giả lập là
vì độ chúng sanh, phủ định là vì khỏi làm hại cho chúng sanh. Nếu giả lập
mà chẳng thể phủ định thì chẳng phải là Phật; nếu phủ định mà chẳng thể
giả lập cũng chẳng phải là Phật. Vì hay giả lập cũng hay phủ định. Cho nên
Phật Pháp mới được viên dung vô ngại, thuần túy trọn vẹn mà chẳng có chỗ
khuyết điểm.
Phật từng
thuyết “Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã” rồi ngay đó phủ định liền; Phật
từng thuyết “Tứ đế, Thập nhị nhân duyên” rồi cũng ngay đó phủ định liền;
Phật từng thuyết “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” rồi cũng ngay đó phủ
định liền, nói giả, chẳng thật, bất khả đắc. Phật thuyết Pháp như thế mới
chẳng bị kẹt nơi danh tướng, dẫn dắt vào nơi tuyệt đối mà chẳng có gì cả.
Hoặc có người muốn dựa theo kinh điển pháp môn để vấn nạn Phật, mà chẳng
biết những kinh điển những pháp môn đó Phật đã mỗi mỗi tự phủ định rồi!
Phật vừa nói liền phá, cho đến chẳng lưu lại một chữ, chẳng còn dấu tích
để tìm thì đâu còn gì để cho họ chỉ trích ư! Nên người vấn nạn Phật muốn
báng Phật, cũng như dùng nắm tay đánh hư không, như ngước mặt phun nước
miếng lên trời, mong chẳng tự làm nhơ cho mình cũng chẳng được. Được hiểu
như thế rồi mới có thể học Phật tham thiền.
2.- SỰ KHÁC
BIỆT CỦA TÔNG MÔN VÀ GIÁO MÔN.
Tông môn,
giáo môn phân ra riêng biệt bắt đầu từ Trung Quốc mà căn cứ nơi kinh Lăng
Già. Phật bảo: “Đại Huệ! Tất cả Thanh Văn, Duyên Giác Bồ Tát, có hai thứ
tướng thông: gọi là Tông thông với Thuyết thông, Nói Tông thông là do tự
mình chứng đắc tướng thắng tiến, xa lìa ngôn thuyết văn tự vọng tưởng, rồi
ngộ nhập Tự Tướng Tự Giác Địa nơi giới vô lậu, xa lìa tất cả giác tưởng
hư vọng, hàng phục tất cả bọn ma ngoại đạo, do tự giác phát huy ánh sáng,
ấy là tướng Tông thông. Thế nào là tướng Thuyết thông? Nói thuyết đủ thứ
giáo pháp nơi chín bộ Kinh, lìa các tướng đồng, dị, và có, không, dùng
phương tiện tinh xảo, để tùy thuận chúng sanh, ứng cơ thuyết pháp khiến
được độ thoát, ấy gọi là tướng Thuyết thông. Đại Huệ! Ngươi và các Bồ Tát
nên tu học.
Phật nói
‘Tông thông” là pháp Thiền thực tiễn do mình tự tham tự chứng; nói “Thuyết
thông” là pháp sư giảng giáo lý, thuyết pháp tự tại, chẳng lìa tự tánh,
chẳng đọa nhị biên. Một là trực tiếp, một là gián tiếp; do tâm hành, một
do khẩu thuyết, đức Phật hoằng pháp lợi sanh, đại khái chẳng ra ngoài hai
lối này. Hai thứ phương pháp dù chẳng đồng, nhưng mục đích cuối cùng chỉ
là một, nếu xét kỹ lại thì tông chẳng lìa giáo, giáo chẳng lìa tông, xưa
nay Tông môn dù nói chẳng lập văn tự, chẳng trọng Kinh điển, nhưng Thế Tôn
sau khi niêm hoa thị chúng rồi liền nói: “Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết
Bàn diệu tâm, Thật tướng vô tướng, Vi diệu pháp môn, Chẳng lập văn tự,
Giáo ngoại biệt truyền, Chỉ thẳng tâm người, Thấy tánh thành Phật”. Tám
câu này tức là ngôn ngữ, tức là giáo lý, cho đến Tổ Đạt Ma lấy Kinh Lăng
Già truyền cho Ngài Huệ Khả, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn lấy Kinh Kim Cang truyền
thọ Ngài Huệ Năng, Tứ Tổ có Pháp Ngữ, Lục Tổ có Pháp Bảo Đàn, ấy đều chứng
tỏ Tông chẳng lìa giáo vậy.
Lại như trong
giáo điển Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Viên Giác, Lăng Nghiêm, Kim Cang, Lăng Già
đều trực thị Tông chỉ thẳng lìa Pháp thân, ấy đều chứng tỏ Giáo chẳng lìa
Tông vậy. Nên Chứng Đạo Ca nói: “Tông cũng thông, Thuyết cũng thông, Định,
Huệ sáng tròn chẳng kẹt không", chúng sanh đời mạt pháp chẳng rõ ý chỉ
này, vì tiên nhập làm chủ, nên ít người thông suốt, lại mỗi mỗi tự lập cửa
ải, bài xích lẫn nhau, kẻ học Thiền thì chấp Tông mà đè giáo, kẻ học giáo
môn thì chấp giáo mà khinh tông. Thật ra Tông lìa Giáo thì đọa nơi rỗng
không, giáo lìa tông thì thành ra tạp loạn, Tông với Giáo như hai bánh của
xe, chẳng thể phế bỏ bánh xe nào.
Hành giả Tông
môn dụng công tham thiền, ngoài việc thân cận Thiện tri thức, hiểu rõ
phương pháp dụng đứng đắn, vẫn cần biết rõ cảnh giới chẳng đồng của bốn
thừa và sự khác nhau của phương pháp dụng công, mới chẳng lầm nhận cho
Tiểu Thừa là Đại Thừa, lạc vào lối tẻ, chẳng thể đạt đến minh tâm kiến
tánh.
Muốn rõ bốn
thừa cũng nên xem kinh điển giáo lý; người học giáo lý đã rõ bốn thừa rồi,
cần phải chơn tham thật chứng mới được minh tâm kiến tánh. Nếu chẳng minh
tâm kiến tánh, dù kinh điển văn tự chứa đầy bụng, biện tài như suối chảy,
ngòi bút viết ra muôn ngàn văn chương, với bản thể của Phật tánh đều chẳng
dính dáng, thậm chí hiểu lầm ý Phật, tự ý phát huy để di lại cho kẻ hậu
học.
3.- ĐẠI Ý CỦA
BỐN THỪA.
Chữ Phật còn
thuộc giả danh, huống là bốn Thừa ư! Nhưng đức Phật đại bi cứu thế, phương
tiện độ sanh, vì tùy căn cơ sâu cạn của chúng sanh nên giả thiết đủ thứ
ngôn giáo pháp môn dùng để tu tập, theo thời ứng cơ, tùy nghi lập giáo,
như lương y trị bệnh, tùy bệnh cho thuốc, nên có những thí dụ như xe dê,
xe trâu (tam thừa) và Hóa Thành (nửa đường), Bửu Sở (quả Phật) v.v... Khổ
tâm ấy thật là chiếu sáng muôn đời.
Tất cả pháp
có thể nói ra đều thuộc về tương đối; pháp tương đối phải tùy theo không
gian và thời gian mà biến đổi, vốn chẳng thật thể. Nên đức Phật thuyết
Pháp vừa thuyết liền phá, ban sơ Phật đã từng vì chúng sanh thuyết diệu lý
của Chơn như Pháp thân, ý chỉ huyền ảo vi diệu, chúng đều bỏ đi, rồi trở
lại thuyết Pháp môn Tiểu Thừa, người nghe mới tin được. Đến khi đồ chúng
tu Tiểu Thừa đã quen thuộc, ham thích Thiền vị, chỉ tự độ thân mình, Phật
lại quở rằng: “Đây chẳng phải cứu cánh, chưa lìa hẳn sanh tử, nên tu Trung
thừa”. Đồ chúng mới chuyển tu Trung thừa, đạt nơi ngã, pháp đều Không.
Phật lại quở rằng: “Đây vẫn chưa cứu cánh, tập khí từ vô thỉ chưa sạch,
cũng còn biến dịch sanh tử, nên tu Đại Thừa". Từ đó chúng mới chuyên tu
pháp Đại Thừa, đến khi căn cơ thuần thục, Phật mới trực thị pháp Tối
thượng thừa, kẻ tu hoát nhiên đại ngộ, thấu triệt bản tâm chẳng sanh chẳng
diệt, chẳng biến chẳng khác, sẵn sàng viên mãn, chẳng do tạo tác, mới biết
phi tâm, phi Phật, cuối cùng chẳng có pháp nào khác để đắc, nói ‘Pháp môn”
chỉ là nói suông, nói “bốn thừa” đều là hí luận, khi ấy mới tin Phật nói
“Chẳng thuyết một chữ, chẳng đáp một chữ” là chẳng phải cố ý bày đặt sự
huyền bí.
Nay lược
thuật cảnh giới bốn thừa như sau:
TIỂU THỪA:
Cũng gọi là Thanh Văn thừa, do nghe thanh giáo của Phật mà ngộ lý Tứ Đế,
đoạn dứt Kiến hoặc, Tư hoặc, chứng nhập Niết Bàn Tiểu thừa, ấy là lối tu
hạ căn trong đạo Phật. Kinh Thắng Man Bửu Quật rằng: “Hai chữ Thanh Văn là
kẻ hạ căn theo giáo lập tên, THANH tức là Giáo vậy.
Pháp môn Tứ
Đế của thừa Thanh Văn sở tu tức là KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO. KHỔ là cái quả thọ
báo, TẬP là cái nhân chiêu quả, DIỆT là đắc quả tịch diệt, ĐẠO là lối tu
để đoạn trừ cái nhân chiêu quả. Nói một cách khác, tu theo TỨ ĐẾ tức là
biết Khổ đoạn Tập, mộ Diệt tu Đạo, Đế là ý nghĩa xác thật. Cách tu của họ
là đoạn dứt công dụng của lục căn, lắng tâm tĩnh lự, cho đến chỉ còn một
chút niệm trong sạch, ấy là cảnh giới của Tiểu thừa đạt đến, quả cùng tột
gọi là A La Hán.
Động cơ của
người tu Tiểu thừa là nhàm chán sanh tử mà cầu thanh tịnh Tịch diệt, cho
rằng trong linh tánh vốn chẳng phiền não, tất cả khổ đều do lục căn chiêu
tập mới có, nên muốn được sự vui của thanh tịnh tịch diệt chỉ có tu đạo
làm cho công dụng của lục căn dừng lại, chẳng sanh tác dụng chiêu tập, mắt
chẳng thấy, tai chẳng nghe, mũi chẳng ngửi, lưỡi chẳng nếm, thân chẳng
xúc, ý chẳng tưởng, công dụng của lục căn đã dứt sạch, sáu cửa đã đóng
kín, trong linh tánh chỉ còn một niệm thanh tịnh, tịch tịnh an lạc, ấy là
đạo quả sở chứng của Tiểu thừa, nhưng lục căn dù tạm dứt, mà một niệm
thanh tịnh chưa được buông bỏ, ắt chẳng phải cứu cánh.
TRUNG THỪA:
Cũng gọi Duyên Giác thừa, do quán Nhân Duyên mà ngộ đạo. Xưa nay xưng Bích
Chi Phật, dịch nghĩa là Độc Giác. Pháp môn của Trung thừa là Thập Nhị nhân
duyên, tức VÔ MINH duyên HÀNH, HÀNH duyên THỨC, THỨC duyên DANH SẮC, DANH
SẮC duyên LỤC NHẬP, LỤC NHẬP duyên XÚC, XÚC duyên THỌ, THỌ duyên ÁI, ÁI
duyên THỦ, THỦ duyên HỮU, HỮU duyên SANH, SANH duyên LÃO TỬ. Thập nhị chi
(mười hai nhánh) này bao gồm quá khứ, hiện tại, vị lai, tam thế nhân quả
tuần hoàn chẳng dừng. Ở đây VÔ MINH là nhất niệm vô minh, cũng gọi là tánh
nhất niệm vọng động, chẳng phải vô thỉ vô minh, vì bất giác khởi niệm, bèn
sanh ra đủ thứ phiền não, tạo đủ thứ thiện ác nghiệp, gọi là HÀNH, hai chi
này là nhân đời trước. THỨC là nghiệp thức, như thân trung ấm bị nghiệp
lôi kéo mà đến đầu thai; DANH SẮC là lúc ở trong thai sắc thân chưa thành,
tứ ấm THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC chỉ có tên gọi, chưa có thật chất; LỤC NHẬP
là nói ở trong thai lục căn đã hoàn thành, là chỗ sở nhập của lục trần,
XÚC là sau khi sanh ra, lục căn tiếp xúc lục trần, THỌ là lãnh thọ các
cảnh giới thuận nghịch, năm chi này là quả đang thọ ở đời này. Ái là đối
với cảnh trần có sở ái, THỦ là chấp thủ việc mình ham muốn, HỮU là có
quyền sở hữu, cho mình được tùy ý chi phối, ba chi này là nhân sở đắc của
đời này, đời này tạo nghiệp nhân thì đời sau báo ứng nghiệp quả. SANH là
tùy theo sự gieo nghiệp nhân thành chủng tử để thọ sanh nơi kiếp sau. LÃO
TỬ là kiếp sau đã có sanh, ắt phải có lão tử, hai chi này là quả báo phải
thọ ở đời sau. Ấy là đại khái của Thập nhị nhân duyên.
Kẻ tu pháp
Trung thừa quán xét chúng sanh trong tam thế đều bị Thập nhị nhân duyên
chi phối, mà Thập nhị nhân duỳen thì nương nhất niệm vô minh sanh khởi,
cho rằng Tiểu thừa chưa thể phá nhất niệm này, nên chưa đạt cứu cánh, nếu
được đoạn dứt nhất niệm này, thì được vượt ra ngoài tam thế, liễu thoát
sanh tử.
Nên cách dụng
công của họ là muốn quét sạch nhất niệm vô minh, đạt đến cảnh giới mênh
mông trống rỗng chẳng có gì cả, tự cho đã chứng Niết Bàn, chẳng biết đã
lọt vào vô thỉ vô minh. Cái cảnh giới trống rỗng chẳng có chi cả, cũng gọi
là “Không chấp”, linh tánh ám muội, chẳng khác gì gỗ đá! Huống chi nhất
niệm dù tạm dừng, nếu bị kích thích vẫn có thể nổi lại, nên sở chứng của
Trung thừa cũng chưa cứu cánh.
ĐẠI THỪA:
Cũng gọi là Bồ Tát thừa, pháp sở tu là sáu Ba La Mật, cũng gọi là Lục độ.
Sáu Ba La Mật là: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền na, Bát
nhã. Người tu Đại thừa gọi là Bồ Đề Tát Đỏa, Bồ Đề dịch là Giác, Tát Đỏa
dịch là Hữu tình. Ý là giác ngộ chúng sanh hữu tình, gọi tắt là Bồ Tát,
tức là chúng sanh phát đại tâm Bồ Đề, lấy tâm Bồ Đề làm thể để tự độ; lấy
tâm Đại bi làm dụng để độ thành, tự tha kiêm lợi, nên xưng Đại thừa. Phẩm
THÍ DỤ trong kinh Pháp Hoa rằng: “Nếu có chúng sanh nơi Phật Thế Tôn nghe
pháp tín thọ, tinh tấn tu hành, cầu Nhất thiết trí, Phật trí, Tự nhiên
trí, Vô sư trí, Vô sở uý, dùng sức tri kiến của Như Lai thương xót vô
lượng chúng sanh, độ thoát tất cả trời, người đều được lợi ích an lạc, ấy
gọi là Đại Thừa.”.
Lục độ bao
gồm tam học Giới, Định, Huệ, mà lấy pháp Thiền na làm chủ yếu để dụng
công, người tu Đại thừa biết nhất niệm vô minh chẳng thể phá, nên lợi dụng
nhất nhiệm vô minh để phá tan vô thỉ vô minh mà được kiến tánh, ấy là
phương pháp dùng tướng cướp (nhất niệm vô minh) để bắt vua cướp (vô thỉ vô
minh) vậy.
TỐI THƯỢNG
THỪA: Cũng gọi là Phật thừa, khi đã minh tâm kiến tánh, hiển hiện Phật
tánh chơn như, phát huy diệu lý tuyệt đối, chỉ có kẻ chứng với kẻ chứng
mới biết nhau được. Nên THẾ TÔN niêm hoa, CA DIẾP mỉm cười; CA DIẾP giơ
tay; A NAN hiệp chưởng, dùng Tâm ấn Tâm, khế hợp ăn khớp, trình bày trước
mắt, chẳng nhờ ngôn thuyết, là pháp tối cao cùng tột, chẳng còn gì hơn
nữa, ấy là Tối thượng thừa Thiền.
Tiểu thừa
đoạn lục căn, Trung thừa đoạn nhất niệm vô minh, Đại thừa đoạn vô thỉ vô
minh, tối thượng thừa trực chỉ chơn như Phật tánh, đây là đại ý của bốn
thừa. Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Pháp chẳng bốn thừa, do tâm người tự có sai
biệt mà hình thành, thấy, nghe, đọc, tụng là Tiểu thừa, hiểu nghĩa ngộ
pháp là Trung thừa, y pháp tu hành là Đại thừa, vạn pháp đều thông, vạn
pháp sẵn sàng, tất cả chẳng nhiễm, lìa chư pháp tướng, trọn vô sở đắc, gọi
là Tối thượng thừa”. Thế thì đại ý của bốn thừa đã rõ ràng.
Triệu Châu
Hòa Thượng nói: “Ta chẳng thích nghe một chữ PHẬT”, còn nói: “Hễ lão Tăng
niệm PHẬT một tiếng thì phải súc miệng ba ngày”. Nếu thấu rõ lời này thì
chẳng bị bốn thừa trói buộc.
4.- MỤC ĐÍCH
CỦA THAM THIỀN.
Mục đích của
Tham thiền là gì? Là muốn minh tâm kiến tánh. Cái quả minh tâm kiến tánh
như thế nào? Là thâu triệt bổn nguyên, vượt ngoài tam giới, liễu thoát
sanh tử, chẳng thọ hậu hữu, độ mình độ người, phổ lợi chúng sanh. Ấy là
mục đích cuối cùng của loài người.
Nhưng muốn
minh tâm kiến tánh, trước tiên phải rõ thế nào là tâm tánh. Tâm tánh là
bổn nguyên tự tánh của chúng sanh, cũng gọi là Phật tánh, học gọi CHƠN
NHƯ, NHƯ LAI. Thiền Tông gọi là Bổn lai diện mục, Thanh tịnh Pháp thân;
Duy Thức Tông gọi là Tự thân tịnh độ, Thường tịch quang tịnh độ; Tam Luận
Tông gọi là Thật tướng Bát Nhã, Luật Tông gọi là Bổn nguyên tự tánh, Kim
Cang bửu giới. Thiên thai tông gọi là Tự tánh thật tướng, Hoa Nghiêm Tông
gọi là Nhất chơn pháp giới; Mật Tông gọi là Tịnh Bồ đề tâm ... danh hiệu
dù nhiều, bản thể chỉ một. Duy Thứ Luận nói: “Chơn là chơn thật, tỏ chẳng
hư vọng. Như là như thường, tỏ chẳng biến đổi. Nghĩa là cái chơn thật này,
nơi tất cả pháp thường như bản tánh, nên gọi Chơn Như”. Kinh Duy Ma Cật
nói “Như là chẳng hai chẳng khác”. Kinh Kim Cang nói “Như Lai là chẳng từ
đâu đến, chẳng đi về đâu”.
Theo những
kinh luận kể trên, nói “Tâm tánh” là chỉ ngay Chơn tâm tự tánh, chẳng phải
tâm tánh của người đời. Người đời nói “tâm” ấy là vọng tâm, tức là vô
minh, nay muốn minh tâm cái tâm chơn thật cùng tột, nên gọi là CHƠN NHƯ.
Kinh Hoa
Nghiêm phát huy cái lý của Chơn như Phật tánh rất tường tận, trong phẩm
Thập Hồi Hướng nói: “Siêng tu tất cả pháp xuất thế gian, đối với thế gian
vô thủ vô y, đối với diệu đạo chánh kiến kiên cố, thấu pháp chơn thật, lìa
chư vọng kiến, ví như chơn như, khắp tất cả nơi, chẳng có ngằn mé; ví như
chơn như, chơn thật làm tánh, ví như chơn như, thường giữ bản tánh, chẳng
có biến đổi, ví như chơn như, nơi tất cả pháp, vô tánh làm tánh ... (còn
rất nhiều, nay lược bỏ chẳng kể xiết).
Đây là cảnh
giới chơn như Phật tánh do Phật với Tổ đích thân chứng nhập, rồi dùng ngôn
ngữ phương tiện để khai thị cho chúng sanh, chúng sanh nghe rồi, hoặc ngơ
ngác chẳng hiểu nói gì, hoặc biết được đại ý nhưng chẳng thể cho là minh
tâm kiến tánh; nghe rồi được hiểu gọi là giải ngộ, cần phải tự tham tự
chứng, đích thân thấy rõ, mới có thể gọi là chứng ngộ, sở chứng với Phật
chẳng khác, nên gọi kiến tánh thành Phật.
Thường có kẻ
thông minh lanh lợi, xem nhiều kinh điển mà được giải ngộ, giảng giải cho
người khác nghe, biện tài như suối chảy mà thật thì chẳng biết chơn như
Phật tánh là vật gì. Cũng như người chưa từng đến thắng cảnh Tây Hồ, chỉ
xem du ký của người khác, lại diễn tả cho người khác nghe giống như đã
từng đi qua, thật thì chưa từng đích thân thấy thắng cảnh ấy, nếu gặp
người đã từng du lịch Tây Hồ, hỏi về chơn cảnh ấy thì ngơ ngác chẳng thể
trả lời, vì thế nên Thiền Tông chủ trương chỉ thẳng tâm người, chẳng lập
văn tự là vậy.
Nên biết,
muốn minh tâm kiến tánh toàn nhờ chơn thực tham chứng, người khác chẳng
thể thay thế được, chẳng quí đa văn, chỉ quí thấy ngay, từ ngoài cửa vào
chẳng phải gia bửu, lời nói của người khác nói chẳng dính dáng với mình.
Xưa kia Hương
Nghiêm Hòa Thượng ở trong hội Bá Trượng, thông minh lanh lợi, hỏi một đáp
mười, bị Qui Sơn hỏi: “Khi cha mẹ chưa sanh nói thử một câu xem!”, liền
ngơ ngác chẳng đáp được. Về liêu phòng tìm ra hết thảy văn tự xem qua,
muốn tìm một câu để trả lời trọn chẳng thể được, than rằng: “Bánh vẽ chẳng
thể cứu đói”, cứ xin Qui Sơn nói trắng ra, Qui Sơn nói: “Ta nói cho ngươi
thì ngươi về sau sẽ mắng ta; ta nói là việc của ta, chẳng dính đáng với
ngươi!”. Hương Nghiêm bèn lấy tất cả ngôn giáo đốt bỏ, thẳng qua Nam
Dương, nghỉ tại di tích của Huệ Trung Quốc Sư, tham cứu lâu ngày, một hôm
nhổ cỏ, ngẫu nhiên quăng miểng trúng nhằm cây tre phát ra tiếng, hoát
nhiên tỉnh ngộ, liền về tắm gội đốt nhang, hướng về phía Qui Sơn lễ bái
rằng: “Hòa Thượng đại từ, ân hơn cha mẹ, nếu lúc đó vì con nói trắng ra
thì đâu có việc kiến tánh hôm nay”.
Do đó mà xem,
Thiền Tông chẳng lập văn tự, chỉ chú trọng tham chứng, mà được tôn là
phương thuốc hay của minh tâm kiến tánh, pháp Thiền của Thiền Tông được
phổ biến khắc Trung Quốc, đâu phải việc ngẫu nhiên.
5.- CÁC LOẠI
THIỀN.
THIỀN là
phương pháp tu hành chủ yếu của nhà Phật, các Tông Đại, Tiểu thừa đều có
pháp Thiền chuyên môn, ngoại đạo tà sư cũng mỗi mỗi kiến lập pháp thiền
của họ, tà chánh lẫn lộn, tên gọi rất nhiều, cho nên người tu tập pháp
Thiền của Tông môn, trước tiên phải hiểu rõ pháp Thiền của các Tông và
phân biệt Tà, Chánh, Chơn, Ngụy, rồi mới chẳng bị lầm vào lối tẻ, chẳng
phân biệt được trắng đen. Người xưa vì đáp sai một chuyển ngữ, đọa thân
chồn năm trăm đời, hành giả nên cẩn thận! Phàm phá ngã chấp là chánh, chấp
ngã là tà, lối tu theo ngã chấp là ngoại đạo; tu đúng theo Tông chỉ là
chơn, không đúng Tông chỉ là ngụy, nay đại khái đưa ra các loại Thiền như
sau:
1).- TỐI
THƯỢNG THỪA THIỀN:
Hành giả sau
khi chứng ngộ, trong tâm thất thông bát đạt, tùy tiện đề ra một pháp đều
là Phật pháp, nói nghịch nói xuôi chẳng lìa chơn như, tất cả từ chơn tâm
mình chảy ra, che thiên ngập địa, từ Thế Tôn niêm hoa thị chúng, cho đến
Tổ Sư hét, gậy, chửi mắng, đều là trực chỉ chơn như, trọn mâm đem ra, kẻ
hoát nhiên kiến tánh thì chẳng cách tơ hào, nếu còn do dự bèn cách xa muôn
dặm, ấy là Tối thượng thừa Thiền.
2).- NHƯ LAI
THIỀN VỚI TỔ SƯ THIỀN:
Như Lai Thiền
là Thiền giáo môn, chứng nhập từng bực như: Thập tín, Thập trụ, cho đến
Thập địa, Đẳng giác, còn có thể giải thích: Tổ Sư Thiền thì không có thứ
bậc, thẳng vào bản thể Phật tánh chẳng thể giải thích. Người xưa có một
việc chứng tỏ:
Hương Nghiêm
Hòa Thượng sau khi chứng ngộ, thuyết bài kệ trình Ngài Qui Sơn rằng:
“Tiếng
trúc quên sở tri.
Chẳng cần nhờ tu trì.
Động dung hiển lối xưa.
Chẳng đọa nới vắng lặng.
Mỗi mỗi chẳng dấu tích.
Thanh sắc ngoài oai nghi.
Người đạt đạo bốn phương.
Đều xưng thượng thượng cơ”.
Qui Sơn nghe
rồi bảo Ngưỡng Sơn rằng:
“Ông này đã
triệt ngộ”. Sau Ngưỡng Sơn soát xét lại, Hương Nghiêm thuyết kệ rằng:
“Năm xưa nghèo chưa phải nghèo.
Năm nay nghèo mới thật nghèo.
Năm xưa nghèo còn có đất cắm dùi.
Năm nay
nghèo dùi cũng không".
Ngưỡng Sơn
nói: “Như Lai Thiền thì cho sư đệ ngộ, Tổ Sư Thiền thì chưa”.
Hương Nghiêm
lại nói bài kệ khác:
“Ta có một cơ.
Nháy mắt nhìn y.
Nếu còn chẳng ngộ.
Chớ gọi Sa di”.
Ngưỡng Sơn
bảo với Qui Sơn rằng: “Mừng cho Nhàn sư đệ đã ngộ Tổ Sư Thiền".
3).- THIỀN NA
VÀ BÁT NHÃ THIỀN:
Thiền Na
Thiền là pháp Thiền thứ năm trong sáu Ba La Mật, Bát Nhã Thiền là sau khi
đã minh tâm kiến tánh, phát huy đại dụng để độ người như việc niêm hoa thị
chúng.
4).- NHẤT VỊ
THIỀN VÀ NGŨ VỊ THIỀN:
Phá tan hầm
sâu vô minh, minh tâm kiến tánh, đốn siêu Phật địa, vào cảnh bất nhị, gọi
là Nhất Vị Thiền. Ngoại đạo thiền, phàm phu thiền, Tiểu thừa thiền, Đại
thừa thiền, Tối thượng thừa thiền gọi chung là Ngũ vị thiền.
5).- BA THỨ
TỊNH QUÁN THIỀN:
Tức Sa Ma
Tha, Tam Ma Bát Đề và Thiền Na, như kinh Viên Giác đã có giải thích kỹ
càng về ba thứ Thiền quán này.
6).- KHÔ MỘC
THIỀN (THIỀN CÂY KHÔ):
Những pháp
Thiền chấp ngồi suốt ngày đêm chẳng nhúc nhích như dựng cây khô, cho ngồi
lâu là cao, gọi là khô mộc Thiền.
7).- THAM
THIỀN LẦM DỤNG CÔNG RẤT DỄ PHẠM NHỮNG BỆNH SAU ĐÂY:
A.- CHỈ bệnh:
Đè nén tất cả tư tưởng miễn cưỡng dừng lại, như nước biển chẳng nổi sóng,
chẳng nổi một bọt nhỏ. Tiểu thừa đoạn dứt lục căn, đạo giáo thanh tịnh quả
dục, tuyệt Thánh bỏ trí đều thuộc bệnh này, Phật tánh thì chẳng hợp với
CHỈ.
B).- TÁC
bệnh: Bỏ vọng lấy chơn, lấy niệm xấu đổi niệm lành, nghịch trần hợp giác,
nghịch giác hợp trần; phá một phần vô minh, chứng một phần pháp thân, Lão
Tử: “Thường vô dục để quán diệu, thường hữu dục để quán sai”; Khổng Tử:
“Chánh tâm thành ý”, nhà Nho: “Trừ bỏ ích kỷ của dục vọng, tồn tại chánh
tâm của thiên lý” ấy đều thuộc về bệnh này, Phật tánh chẳng do TÁC mà đắc.
C).- NHẬM
bệnh: Tư tưởng khởi cũng mặc kệ, diệt cũng mặc kệ, chẳng dứt sanh tử,
chẳng cầu Niết Bàn, chẳng trụ, và chấp trước tất cả tướng, chiếu mà thường
tịch, tịch mà thường chiếu, đối cảnh vô tâm, nhà Nho: “Lạc thiên tri
mệnh”, Đạo giáo: “Trở về tự nhiên”, “Trở về hài nhi" đều thuộc bệnh này,
Phật tánh chẳng do Nhậm mà có.
D).- DIỆT
bệnh: Tất cả tư tưởng dứt sạch, mênh mông trống rỗng như gỗ đá, Trung thừa
phá nhất niệm vô minh, Trang Tử: “Tọa vong”, nhà Nho: “Ngã tâm vũ trụ" và
chơn lý của sáu thứ ngoại đạo ở Ấn Độ đều thuộc bệnh này, Phật tánh chẳng
do DIỆT mà có.
Tham thiền
lầm dụng công phu nếu phạm bốn bệnh kể trên thì sẽ lầm nhận Tứ tướng, nay
lược giải như sau:
i)- NGÃ
TƯỚNG: Tức ngã chấp; Tiểu thừa khi dã dứt lục căn, tiểu ngã đã diệt, lại
vào cảnh giới đại ngã, tiểu ngã dã diệt, lại vào cảnh giới đại ngã, lúc ấy
tâm lượng rộng lớn, thanh tịnh tịch diệt, hình như đầy khắp vũ trụ. Nhà
triết học Hy Lạp nói “Đại ngã”, “Thượng đế”, Lão Tử: “Nhấp nhoáng trong đó
có tượng, nhấp nhoáng trong đó có vật; sâu xa mịt mù, trong đó có tinh”
đều thuộc cảnh giới NGÃ TƯỚNG.
ii)- NHƠN
TƯỚNG: Tức pháp chấp, khởi niệm sau để phá niệm trước, ví như niệm trước
có ngã, niệm sau chẳng nhận ngã, rồi lại khởi một niệm nữa để phá cái niệm
“chẳng nhận là ngã”, nối liền như thế cho đến vô ngã, nhưng kiến giải
“phá” vẫn còn, ấy là nhơn tướng. Trang Tử nói: “Ta nay mất ngã” tức là
NHƠN TƯỚNG.
iii)- CHÚNG
SANH TƯỚNG: Cũng là pháp chấp, cảnh giới này ngã tướng, nhơn tướng chẳng
thể đến, tức là chúng sanh tướng. Nhà nho nói: “Mừng, giận, buồn, vui khi
chưa phát gọi là Trung”. Thư Kinh nói: “Duy tinh duy nhất, nên chấp nơi
Trung, chữ TRUNG này tức chúng sanh tướng.
iv)- THỌ GIẢ
TƯỚNG: Tức Không chấp, tất cả tư tưởng đều đã ngưng nghỉ, tất cả thị phi
thiện, ác đều đã quên mất, trong đó trống rỗng chẳng có chi cả, đồng như
mạng căn. Lục Tổ gọi là Vô ký không, Nhị thừa nhận lầm cho là cảnh giới
Niết Bàn, kỳ thật chính là vô thỉ vô minh, Thiền Tông gọi là hầm sâu vô
minh, “hầm sâu đen tối mịt mù”, đạo Giáo nói; “Vô cực” tức là cảnh giới
này.
Bốn tướng kể
trên đều thuộc pháp hữu vi, đều chẳng cứu cánh, nên Kinh Viên Giác nói:
“Chúng sanh đời mạt pháp chẳng rõ bốn tướng, dù khổ hạnh tu tập trải qua
nhiều kiếp, chỉ gọi là hữu vi, rốt cuộc chẳng thể thành tựu tất cả Thánh
quả. Kinh Kim Cang nói: “Có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ
giả tướng ắt chẳng phải Bồ Tát" là chỉ rõ bốn thứ cảnh giới này đều chẳng
phải chánh pháp. Người trí kém thường nói: “Tam giáo cùng nguồn”, nếu được
rõ tính nghĩa bốn tướng này thì biết tam giáo cách nhau như trời với đất.
Vì phạm
bốn bệnh bèn lầm nhận Kiến, Văn, Giác, Tri là Phật tánh:
Huệ Trung
Quốc Sư hỏi một Thiền giả từ đâu đến. Đáp: từ miền Nam đến. Sư hỏi: “Miền
Nam có Thiện tri thức nào?”. Đáp: “Trí thức rất nhiều". Sư hỏi: “Làm sao
dạy người?”. Đáp: “Trí thức miền Nam khai thị người học: Tức Tâm là Phật,
nghĩa Phật là Giác, nay ngươi sẵn đủ tánh kiến, văn, giác, tri, tánh này
nhướng mày nháy mắt, vận dụng khứ lai khắp trong cơ thể, búng đầu đầu
biết, búng chân chân biết, nên gọi Chánh biến tri, ngoài ra chẳng có Phật
khác; thân này có sanh diệt, tâm tánh từ vô thỉ đến nay chưa từng sanh
diệt, thân sanh diệt như con rắn lột da, người ra nhà cũ, thân là vô
thường, tánh thì thường. Sở thuyết của miền Nam đại khái như thế". Sư nói:
“Nếu vậy thì chẳng khác với bọn ngoại đạo tiên ni; họ nói: “Trong thân này
có một thần tánh, tánh này hay biết đau ngứa, khi thân hoại thì thần ra
đi, như nhà bị cháy chủ nhà ra đi, nhà là vô thưòng, chủ nhà là thường”.
Nếu nói như thế thì chẳng phân biệt được tà chánh, lấy gì là đúng! Trước
kia ta đi du phương gặp nhiều bọn này, tụ chúng năm ba trăm, mắt ngó mây
trời, nói là Tông chỉ miền Nam, tự sửa đổi Kinh Pháp Bảo Đàn, lược bỏ
Thánh ý, thêm vào lời tục để mê hoặc cho hậu học, đâu còn ngôn giáo! Khổ
thay! Mất cả Tông ta! nếu cho kiến, văn, giác, tri là Phật tánh thì Duy Ma
Cật chẳng nên nói: “Pháp lìa kiến, văn, giác, tri, nếu hành kiến, văn,
giác, tri, ấy là kiến, văn, giác, tri, chẳng phải cầu pháp vậy”.
Huỳnh Bá
truyền tâm pháp yếu nói: “Cái tâm bổn nguyên thanh tịnh này thường tự sáng
tròn chiếu khắp, người đời chẳng ngộ, chỉ nhận kiến, văn, giác, tri là
tâm, bị kiến, văn, giác, tri che khuất nên chẳng thấy bản thể tinh minh.
Hể ngay đó vô tâm thì bản thể tự hiện như mặt trời trên hư không, chiếu
khắp mười phương chẳng có chướng ngại. Người học đạo nên ở nơi kiến, văn,
giác, tri nhận bản tâm, nhưng bản tâm chẳng thuộc kiến, văn, giác, tri
cũng chẳng lìa kiến, văn, giác, tri chớ nên ở nơi kiến, văn, giác, tri
sanh khởi kiến giải, chớ nên ở nơi kiến, văn, giác, tri động niệm, cũng
chớ lìa kiến, văn, giác, tri tìm tâm, cũng chớ bỏ kiến, văn, giác, tri cầu
pháp, chẳng tức chẳng lìa, chẳng trụ, chẳng chấp, tung hoành tự tại, nơi
nào chẳng phải đạo tràng!”.
8.- LỤC TỔ
VỚI THẦN TÚ.
Thần Tú nói:
“Thân là cây bồ đề, Tâm như đài gương sáng, luôn luôn siêng lau chùi, chớ
cho dính bụi trần”. Kiến, văn, giác, tri, dụ cho gương sáng, vọng niệm như
bụi dính gương, siêng lau chùi, dụ cho dứt sạch vọng việm, chớ cho dính
bụi là dụ chẳng cho vọng niệm sanh khởi.
Thật ra kiến,
văn, giác, tri vốn hay khởi vọng niệm, là chẳng thể dứt sạch được, ví như
nguồn suối ngày đêm chảy nước ra, dứt rồi lại chảy nữa vĩnh viễn dứt không
được. Cho nên người nhận kiến, văn, giác, tri là Phật tánh vốn là sai lầm,
tu hành vô ích.
Lục Tổ nói:
“Bồ đề chẳng cây, gương sáng cũng chẳng đài, vốn là chẳng một vật, nơi nào
dính bụi trần”. Lục Tổ đã minh tâm kiến tánh, nên kệ này hiển thị Phật
tánh chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thọ huân nhiễm, bổn
lai thành Phật, là đứng trên quả vị Chơn Như mà nói: “Vốn chẳng một vật”
là chỉ thẳng Phật tánh vốn chẳng khởi vọng niệm, nên biết vọng niệm là
kiến, văn, giác, tri chẳng khởi vọng niệm là Phật tánh. Nếu Phật tánh với
kiến, văn, giác, tri chẳng phân biệt rõ ràng thì dụng công học phắt phải
sai lầm.
Thần Tú cho
kiến, văn, giác, tri là Phật tánh, nhưng sai lầm ấy chẳng phải chỉ một
mình Thần Tú, sai lầm ấy truyền nhau từ đời Lục triều, là chịu sự ảnh
hưởng của học thuyết Lão Tử nói: “Đạo sanh một, một sanh hai, hai sanh ba,
ba sanh vạn vật, vạn vật cõng âm mà ôm dương, từ âm dương của vạn vật trở
về ba, hai, một rồi tới đạo”. Bên ngoài thì nói danh từ của Phật pháp, bên
trong là lý đạo của Lão Tử truyền nhau đến đời này, chẳng biết lầm hại cho
bao nhiêu nhà học Phật với những cao Tăng thông minh, thật đáng thương
xót!.
Phàm dụng
công tu hành, cần nhất là phá vô thỉ vô minh, Kinh Hoa Nghiêm nói: “Phá vô
minh đen tối”. Kinh Viên Giác nói: “Vô thỉ huyễn vô minh". Kinh Thắng Mạn
nói: “Đoạn vô thỉ vô minh". Kinh Lăng Nghiêm nói: “Pháp trần u nhàn”, Tổ
Sư Thiền Tông gọi là Vô ký không, hầm sâu vô minh, đáy thùng sơn đen, đầu
sào trăm thước, hang quỉ núi đen, giáo môn gọi là nguyên phẩm vô minh, căn
bản vô minh, bạch tịnh thức ... Các Kinh Lăng Già, Niết Bàn và lịch sử
Thiền Tông như Chỉ Nguyệt Lục, Truyền Đăng Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyên, trong
đó nói về dụng công phá vô thỉ vô minh rất nhiều, chưa thể kể hết.
9.- THAM
THIỀN LẦM NHẬN HẦM SÂU VÔ MINH LÀ PHẬT TÁNH NHƯ THÁI CỰC ĐỒ THUYẾT CỦA
CHÂU LIÊM KHÊ.
Châu Liêm Khê
là Tổ sáng lập lý học của nhà Nho đời Tống, sọn Thái Cực Đồ thuyết, cho
Đạo là trước vô hậu hữu làm căn bản, phối hợp với lý âm dương ngũ hành để
thuyết minh thế hệ của vũ trụ vạn vật trở đi trở lại, tuần hoàn hóa sanh
mãi mãi. Cái nghĩa “Vô cực thái cực” với học thuyết “Vô danh là bắt đầu
của thiên địa, hữu danh là mẹ của vạn vật” và “Vô vi mà vô bất vi” của Lão
Tử đồng một ý chỉ. Nhà Nho vốn chỉ nói Thái cực, hai chữ “Vô cực” là học
thuyết của đạo Giáo, Lão Tử Tri Hùng Chương nói: “Trở về vô cực”, Trang Tử
Đại Tông Sư Thiên nói: “Yểu đào vô cực”, Khắc Ý Thiên: “Đạm nhiên vô cực”,
Tại Hựu Thiên: “Dạo nơi đồng vô cực”, trong Đạo Tạng có Thái Cực Tiên
Thiên Đồ, tác giả là Trần Đồ Nam, người đạo Giáo, ấy là một sản phẩm hỗn
hợp với Nho và Đạo. Châu Liem Khê từng theo học với Thích Thọ Nhai ở Hạc
Lâm Tự, được bản Thái Cực Tiên Thiên Đồ, rồi sửa lại theo ý mình để kiến
lập thế hệ Lý học.
Theo quan
điểm của nhà Phật, vô cực tức là vô thỉ vô minh, thái cực tức là nhất niệm
vô minh. Tại sao ? Vô cực vốn vô mà sanh ra hữu, nhất niệm đã sanh tức là
thái cực, niệm có động tịnh thì phân thành âm dương, âm dương phân thì
lưỡng nghi lập, biến hợp mà sanh ngũ hành. Tinh diệu của lưỡng nghi hợp
nhau mà có Càn nam, Khôn nữ, nhị khí (âm dương), ngũ hành hóa sanh vạn
vật, rồi vạn vật trở về nơi ngũ hành, ngũ hành trở về âm dưong, âm dương
trở về nơi thái cực, một lên một xuống, trở đi trở lại tức là pháp luân
hồi sanh diệt, bắt đầu khởi từ vô minh, cuối cùng cũng trở lại nhập nơi vô
minh, giống như Thập nhị nhân duyên của thừa Duyên Giác. Theo Thập nhị
nhân duyên chỉ nói về tác dụng luân hồi của vô thỉ vô minh, với nhất niệm
vô minh, nói cách khác tức là tác dụng của bộ não suy nghĩ, chẳng thể
thuyết minh tác dụng của Phật, tánh, Phật tánh siêu việt luân hồi sanh
diệt, vô nhân vô duyên, chẳng động chẳng tịnh, bổn lai vô sanh nên vô
diệt, bổn lai chẳng hữu nên chẳng vô, sự hữu vô sanh diệt là do tác dụng
tương đối của bộ não, chẳng dính đáng với bản thể chơn như.
Thái Cực Đồ
Thuyết nói vô cực sanh thái cực, thái cực lại sanh âm dương vạn vật, vì có
sanh nên có diệt, có sanh diệt tức là luân hồi, có luân hồi thì chẳng phải
tuyệt đối. Nên biết lý vô cực, thái cực là do kiến, văn, giác, tri quán
xét hiện tượng biến hóa của vũ trụ mà kiến lập giả thiết, phàm chỗ quán
xét có thể đến là quyết định chẳng phải bản thể tuyệt đối. Bản thể chơn
như tuyệt đối là “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”, chẳng thể dùng suy
nghĩ đo lường, cũng chẳng thể dùng ngôn ngữ tỏ bày, chỉ có người trực tiếp
chứng nhập mới biết được. Kẻ được chứng nhập thì chẳng còn sanh tử luân
hồi, nên gọi kiến tánh thành Phật, sau khi thành Phật thì chẳng biến lại
chúng sanh, chẳng chịu lại luân hồi, mà thái cực thì luân hồi chẳng dừng.
10.- THAM
THIỀN NHẬN LẦM HỌC THUYẾT CỦA VƯƠNG DƯƠNG MINH LÀ THIỀN TÔNG.
Có người cho
học thuyết Dương Minh là Phật pháp, thật là lỗi lầm lớn. Học thuyết Dương
Minh có bốn lời để làm cương yếu, tức ‘không thiện không ác là thể của
tâm, có thiện có ác là động của ý, biết thiện biết ác là lương tri, làm
thiện bỏ ác là cách vật (đủ tư cách làm người)”. Bốn lời này tức là vô thỉ
vô minh với tác dụng của nhất niệm vô minh, so với thể dụng của Phật tánh
còn xa lắm. Học thuyết Dương Minh chưa thể vượt ra phạm vi vô minh, vẫn
còn ở trong luân hồi, cái bệnh ấy là do dùng bộ não suy xét đo lường, bộ
não vốn huyễn hóa chẳng thật, chẳng phải thể dụng chơn thật cùng tột.
Chơn như Phật
tánh chẳng phải suy nghĩ đo lường có thể đến, chẳng thọ huân nhiễm, chẳng
có biến đổi, chỉ có kẻ chứng với kẻ chứng mới biết nhau được. Nhà Phật lấy
chơn như Phật tánh làm cội nguồn, mà nhà Nho thì lấy vô thỉ vô minh làm
cội nguồn, vì cội nguồn chẳng đồng nên chẳng thể đến với nhau. Nhiều người
chưa rõ sự khác biệt giữa Phật tánh với vô thỉ vô minh, lại lầm nhận vô
thỉ vô minh là Phật tánh, nói Nho, Phật cùng nguồn, ấy là một sự lỗi lầm
rất lớn. Hoặc cho “chẳng thiện chẳng ác thể của tâm” tức chơn như Phật
tánh của nhà Phật, “có thiện có ác động của ý” tức vô minh phiền não của
nhà Phật, ấy là sai. “Chẳng thiện chẳng ác thể của tâm” tức (vô thỉ vô
minh), “có thiện có ác động của ý” tức nhất niệm vô minh, “biết thiện biết
ác là lương tri” tức kiến, văn, giác, tri, “làm thiện bỏ ác là cách vật”
tức là “Tác bệnh” trong bốn thứ Thiền bệnh, đều là linh tánh của bộ não,
chẳng dính dánh với Phật tánh.
Vô thỉ vô
minh bổn lai ám muội chẳng sáng, vô tri vô giác nên chẳng phân thiện ác,
khi bị kích thích sanh khởi nhất niệm vô minh, mới có kiến, văn, giác,
tri, phân biệt thiện, ác, tốt, xấu, người có ý thức đều biết thiện biết
ác, “Lương tri” của Dương Minh là tác dụng của bộ não, tác dụng của bộ não
đều lấy vô minh làm chủ, chẳng phải Phật tánh. Nhất niệm vô minh có hai
mặt: tịnh và nhiễm. Thiện là tịnh duyên, ác là nhiễm duyên, chẳng thể cho
tịnh duyên là Phật tánh, nhiễm duyên là chúng sanh vậy.
11.- THAM
THIỀN NHẬN LẦM PHỤC TÁNH THƯ CỦA LÝ CAO LÀ THIỀN TÔNG.
Người đề
xướng đạo học nhà Nho Hàn Dũ, Lý Cao đời Đường là nổi bật nhất, Phục Tánh
Thư của Lý Cao đối với học giả nhà Nho ảnh hưởng lớn hơn. Lý Cao cho “Tánh
vốn trong sáng, vì bị thất tình mê hoặc mà trở thành hôn trược”, nên chủ
trương ức chế tình cảm để khôi phục bản tánh.
Phục Tánh Thư
nói: “Con người sở dĩ làm bậc Thánh là do tánh, tánh con người sở dĩ bị mê
hoặc là do tình mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham, bảy thứ đều do tình
làm ra, tình đã hôn muội thì tánh bị chìm đắm, ấy chẳng phải lỗi của tánh.
Thất tình thay phiên tuần hoàn thì tánh chẳng toàn vẹn, như nước có cặn bả
thì chẳng trong, lửa có khói đen thì sáng chẳng tỏ, ấy chẳng phải lỗi của
nước và lửa không trong sáng, cặn bả chẳng có thì nước trong, khói đen
chẳng tỏa thì ánh sáng tỏ, thất tình chẳng làm thì tánh toàn vẹn vậy”. Lại
nói: “Tánh với tình chẳng lìa nhau, nếu chẳng có tánh thì tình chẳng thể
sanh, vậy tình do tánh mà sanh, tình chẳng tự là tình, bởi tánh mà tình,
tánh chẳng tự là tánh, do tình mà tánh”.
Lý Cao từng
tham học với Dược Sơn Thiền Sư, rất tin Phật pháp, kỳ thật Lý Cao bị lầm
hại là do kinh Phật ngụy bởi câu “Bản tâm viên giác trong sạch sáng tỏ
(Phật tánh) hay sanh khởi phiền não", cái thuyết “Chơn như duyên khởi”
xuất xứ từ Đại Thừa Khởi Tín Luận. Thật ra tác giả của Đại Thừa Khởi Tín
Luận là ngoại đạo, mạo tên Ngài Mã Minh để truyền bá, ấy là pháp sanh
diệt, chẳng phải Phật pháp. Tại sao nói vậy? Vì chơn như Phật tánh chẳng
thọ huân nhiễm, thường giữ bản tánh, chẳng có biến đổi. Phẩm Hồi Hướng
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Vô minh vốn chẳng thể thánh, như hoa đốm trên không
chẳng từ chơn như sanh khởi”, nếu nói vô minh nương chơn như sanh khởi,
trừ bỏ vô minh trở về chơn như Phật tánh tức là kiến tánh thành Phật, nói
vậy thì ban sơ có thể sanh khởi, tương lai cũng có thể tái khởi, lúc vô
minh tái khởi lại trở thành chúng sanh, lúc thì thành Phật, lúc lại thành
chúng sanh, thế thì Phật cũng có luân hồi sanh diệt, thành Phật đâu có giá
trị gì?
Thuyết của Lý
Cao tình với tánh thông nhau, khi tình chẳng sanh là tánh, là bậc Thánh,
đến khi tình sanh, lại là phàm phu, vậy một hồi bậc Thánh một hồi phàm
phu, tức là luân hồi sanh diệt. Bởi “Tánh” của Lý Cao nói là vô thỉ vô
minh, “Tình” là nhất niệm vô minh, chỉ là tác dụng của bộ não. Bộ não khi
tịnh là vô thỉ vô minh, bộ não khi động là nhất niệm vô minh, cùng trong
một phạm vi, “ức chế tình, khôi phục tánh” là muốn khiến nhất niệm vô minh
trở về vô thỉ vô minh, vô thỉ vô minh chính là nguồn gốc của sanh tử, là
bản thể của vọng tâm. Nếu vô thỉ vô minh chưa phá tan thì chẳng thể kiến
thành Phật, như thế học thuyết của Lý Cao đâu thể cho là Thiền Tông!
12.- THAM
THIỀN NHẬN LÝ “SÂU XA MỊT MÙ, TRONG ĐÓ CÓ TINH” CỦA LÃO TỬ LÀ THIỀN TÔNG.
Nhiều người
cho rằng chơn không diệu hữu, diệu hữu chơn không, tĩnh tĩnh tịch tịch,
tịch tịch tĩnh tĩnh, chẳng chấp hữu chẳng chấp vô, cũng chẳng chấp phi
hữu, cũng chẳng chấp phi vô, chẳng khởi niệm cũng chẳng dứt niệm, tựa như
hữu mà phi hữu, tựa như vô mà phi vô, khởi niệm động niệm chẳng bị ngoại
duyên xoay chuyển, cho đó là đạo lý của Thiền Tông. Kỳ thật là đạo lý của
Lão Tử nói: “Thể của Đạo mập mờ nhấp nhoáng, trong đó có tượng, mập mờ
nhấp nhoáng, trong đó có vật, sâu xa mịt mù, trong đó có tinh”, còn “chẳng
chấp hữu, chẳng chấp vô, chẳng chấp phi hữu, chẳng chấp phi vô”, là đạo
lý của Bà La Môn, hoàn toàn là tác dụng của bộ não, có sanh diệt luân hồi,
chẳng phải phương pháp tham thiền.
13.- THAM
THIỀN NHẬN LẦM BA THỨ PHÁP MÔN DỤNG CÔNG CỦA GIÁO MÔN LÀ THIỀN TÔNG.
Ba thứ pháp
môn của giáo môn tức là Thiền quán Sa Ma Tha, Tam Ma Bát Đề và Thiền Na.
Sa Ma Tha dịch là tịch tịnh, Tam Ma Bát Đề dịch là nhiếp niệm, Thiền Na
dịch là tịnh lự. Ba thứ thiền quán này ở trong Kinh Viên Giác, Phật đã có
giải thích rất kỹ càng, dù trong Kinh Viên Giác có nói: “Ba pháp môn này
mười phương Như Lai do đó thành Phật, mười phương Bồ Tát đủ thứ phương
tiện, tất cả đồng dị, đều nương theo ba thứ sự nghiệp này, nếu được viên
chứng tức thành viên giác”, ấy chỉ là nói cách tu trong phạm vi giáo môn,
nên chính trong kinh này có nói: “Chỉ trừ người đốn ngộ, và Xiển đề chẳng
tin”, nói chỉ trừ người đốn ngộ tức là chỉ trừ Thiền Tông đốn ngộ, chẳng
phải giáo môn, nên xưng giáo ngoại biệt truyền.
Phương pháp
dụng công của Đại thừa tên gọi rất nhiều mà ý nghĩa chẳng khác, nhưng đều
chẳng phải Thiền Tông. Thiền Tông tham thoại đầu, công án, cần nhất là
NGHI TÌNH. (Tức là dùng cái tâm không biết để chấm dứt tất cả biết), cho
đến hoát nhiên đốn ngộ, dứt hẳn nghi căn, kiến tánh thành Phật. Khi đã
minh tâm kiến tánh, nếu có Thiện tri thức mắt sáng thì tìm đến cầu Thiện
tri thức ấy ấn chứng, nếu chẳng có người mắt sáng thì lấy Truyền Đăng Lục,
Ngũ Đăng Hội Nguyên, Chỉ Nguyệt Lục hoặc các Kinh như Lăng Già, Hoa
Nghiêm, Duy Ma Cật v.v... xem kỹ để làm ấn chứng cũng được.
14.- DỤNG
CÔNG LẦM NHẬN TAM CHỈ TAM QUÁN LÀ THIỀN TÔNG.
Vân Cốc Thiền
Sư Truyện trong Mộng Du Tập của Ngài Hàm Sơn có nói: “Vân Cốc Thiền Sư 19
tuổi bỗng quyết chí đi tham học bốn phương, nghe nói pháp môn Tiểu chỉ
quán của Thiên Thai, bèn chuyên tâm tu tập, khi gặp Pháp Châu Tế Thiền Sư
đang nhập thất tại Thiên Ninh, Sư bèn đi tham vấn, trình sở tu của mình.
Châu nói: “Pháp yếu của Chỉ quan chẳng nương thân tâm hơi thở, trong ngoài
đều bặt cách tu của người là lạc nơi hạ thừa, chẳng đúng ý của Tổ Đạt Ma,
người học đạo nên lấy tâm ngộ làm chủ”. Vân Cốc kích động chảy nước mắt,
lại xin chỉ giáo, Châu dạy tham thoại đầu chơn thật, bảo ngay bây giờ hạ
thủ công phu phát khởi nghi tình. Vân Cốc vâng lời ngày đêm tham cứu, cho
đến ăn ngủ đều quên, một hôm dùng cơm, cơm hết cũng chẳng tự biết, chén
bỗng rơi xuống đất, hoát nhiên đốn ngộ như trong mộng được thức tỉnh, lại
thưa với Pháp Châu, được Ngài ấn khả “Xem qua nhân duyên ngộ đạo của Vân
Cốc Thiền Sư, có thể làm mô phạm cho chúng ta dụng công tham thiền”.
Có Tăng hỏi
Tử Hồ Thiền Sư thế nào là nhất tâm tam quán? Sư nói: “Ta còn chẳng thấy có
nhất tâm, ngươi gọi cái gì là tam quán?”.
Xưa kia có
một Pháp sư chỉ quán hỏi Huệ Hải Thiền Sư nhất niệm tam quán là nghĩa thế
nào. Sư đáp: “Tâm quá khứ đã qua, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại chẳng
trụ, trong đó lại dùng tâm nào để khởi quán?” Pháp Sư đáp: “Thiền Sư chẳng
hiểu chỉ quán”. Sư nói: “Tọa chủ hiểu chăng?”. Pháp Sư nói: “hiểu”. Sư
nói: “Như Trí Giả Đại Sư nói chỉ phá chỉ, nói quán phá quán, trụ chỉ thì
chìm nơi sanh tử, trụ quán thì tâm rối loạn. Vậy nên lấy tâm chỉ tâm hay
là khởi tâm để quán quán? Nếu có tâm quán là pháp thường kiến, nếu chẳng
tâm quán là pháp đoạn kiến, nếu cũng có cũng không thì thành pháp nhị
kiến, xin Tọa chủ nói kỹ xem!”. Pháp Sư nói: “Nếu hỏi như thế thì đều nói
chẳng được". Sư nói: “Vậy đâu từng chỉ quán!”.
15.- CHẤP
THẬT “PHÂN BIỆT LÀ THỨC CHẲNG PHÂN BIỆT LÀ TRÍ” THÀNH BỆNH:
Hám Sơn Đại
Sư nói: “Phân biệt là thức, chẳng phân biệt là trí”, hai câu này hình như
mơ hồ, vì thức với trí một là bộ não, một là Phật tánh, lúc chưa chuyển
thức thành trí, thì phân biệt tất nhiên là thức, chẳng phân biệt cũng là
thức, khi đã chuyển thức thành trí thì chẳng phân biệt là trí, phân biệt
cũng là trí. Phân biệt với chẳng phân biệt không thể dùng để phán đoán
Thánh hay phàm.
16.- CHẤP
THẬT “NHIỄM VỚI TỊNH” THÀNH BỆNH.
Nhiễm với
tịnh là pháp tương đối, vì có nhiễm mới có tịnh, Kinh Lăng Già nói: “Đại
Huệ! Sanh diệt là thức, chẳng sanh diệt là trí, lại nữa đọa tướng, vô
tướng và hữu vô mỗi mỗi làm nhân với nhau là thức, siêu việt tướng hữu vô
là trí. Lại nữa, tướng vô ngại là trí, đủ thứ cảnh giới do tướng ngại trí
là thức. Lại nữa, ba việc căn, trần thức hòa hợp sanh tướng phương tiện là
thức, chẳng có việc phương tiện của tướng tự tánh là trí. Lại nữa, đắc
tướng là thức, chẳng đắc tướng là trí”.
Theo lời kinh
kể trên thì được rõ, vừa nói có tịnh thì phải có nhiễm, đồng như sự sanh
diệt, vì có sanh mới nói có diệt, nhiễm tịnh sanh diệt, đều là tác dụng
của kiến, văn, giác, tri. Có một số người cho “chẳng khởi niệm là tịnh,
tức là Phật tánh, khởi niệm là nhiễm, tức là vọng tưởng” thế là sai lầm.
Chẳng khởi niệm là tịnh duyên của vô thỉ vô minh, chẳng phải Phật tánh,
Phật tánh bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, ấy là tuyệt đối, chẳng dính
dáng với nhiễm tịnh. Hám Sơn Đại Sư nói “Nhiễm là thức, tịnh là trí” ấy là
lầm nhận. Kinh Pháp Bảo Đàn nói: ‘Tịnh chẳng hình tướng mà lại lập tướng
tịnh, nói là công phu, có kiến giải này tự chướng bản tánh, lại bị tịnh
trói”.
Tăng hỏi Huệ
Trung Quốc Sư “Tọa Thiền khán tịnh là thế nào?”. Sư nói: “Bất cấu bất tịnh
đâu cần khởi tâm mà khán tướng tịnh!”.
17.- CHẤP
THẬT “NHƯ NHƯ BẤT ĐỘNG LÀ PHẬT TÁNH” THÀNH BỆNH.
Nói “Như như
bất động” là hình dung từ để diễn tả chơn như Phật tánh. Ý nói chơn như
Phật tánh vốn sẵn sàng, chẳng có thêm bớt, cũng chẳng động tịnh, thêm bớt
động tịnh là tác dụng của bộ não, chẳng dính dáng với bản thể chơn như.
Có một số
người tu hành, suốt ngày ngồi không như cây khô, miễn cưỡng đè nén suy
nghĩ cho dừng lại, giống như nước biển sóng lặng, cho làm như thế tức là
như như bất động của Phật tánh, ấy là sai lầm lớn. Sự suy nghĩ của con
người chẳng thể dừng nghĩ mãi mãi, muốn vĩnh viễn dừng nghĩ chỉ có người
chết mới làm được. Nếu người sống miễn cưỡng đè nén suy nghĩ, chỉ có thể
dừng lại trong vòng mấy mươi phút hoặc mấy tiếng, nhiều nữa là mấy ngày,
cuối cùng sẽ có một hôm tái khởi. Nếu cùng trong một ngày khi suy nghĩ
dừng là Phật, qua một hồi suy nghĩ khởi dậy lại thành chúng sanh, vậy
trong một ngày bỗng thành Phật bỗng thành chúng sanh, mỗi ngày đều ở trong
luân hồi, như thế làm Phật có ích lợi gì? Nếu người thật đã minh tâm kiến
tánh thì dẫu cho cầm dao ra trận vẫn là như như bất động.
18.- CHẤP
THẬT “NGŨ UẨN GIAI KHÔNG” THÀNH BỆNH.
“Ngũ uẩn giai
không" là nói sau khi kiến tánh, ngũ uẩn đều biến thành Phật tánh, đầy
khắp hư không, vạn tượng sum la đều là Phật tánh, nên Kinh nói “SẮC chẳng
khác với KHÔNG, KHÔNG chẳng khác với SẮC; SẮC tức là KHÔNG, KHÔNG tức là
SẮC, THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC, đều cũng như thế".
Một số người
tu hành cho là chẳng chấp trước tất cả tướng, chẳng trụ tất cả tướng, đối
cảnh vô tâm, tất cả vô ngại gọi là ngũ uẩn giai không, ấy là sai lầm lớn.
Chẳng chấp chấp trước tất cả tướng, chẳng trụ tất cả tướng, đối cảnh vô
tâm, tất cả vô ngại là mặc kệ cho ngũ uẩn khởi hay diệt, chẳng màng đến
nó, nhưng ngũ uẩn vẫn là ngũ uẩn, chưa biến thành Phật tánh, nó vẫn hay
làm việc xấu. Nếu ông suốt ngày phải giữ cái niệm “chẳng màng đến nó”
không buông, há chẳng tự làm cho tâm mình lao nhọc, đâu thể vô tâm vô ngại
mà được ngũ uẩn giai không ư!
19.- CHẤP
THẬT “CHƠN NHƯ DUYÊN KHỞI” THÀNH BỆNH.
Một số người
nói: “Chơn như vốn, chẳng động, vì chẳng giữ bản tánh, nên nhất niệm bất
giác bèn khởi vọng niệm, tạo tội làm phước, luân hồi sanh tử, nếu nhất
niệm giác ngộ chơn tâm, trở lại thường giữ gìn chẳng biến đổi thì chẳng bị
luân hồi, gọi là thành Phật. Ấy là kiến giải của ngoại đạo.
Bản thể chơn
như vốn viên mãn sẵn sàng, chẳng biến đổi. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Ví như
chơn như, thường giữ bản tánh, chẳng có biến đổi”, nếu chơn như mà có biến
đổi tức là pháp sanh diệt. Đại Thừa Khởi Tín Luận nói “Chơn như duyên
khởi”, chỉ bốn chữ này có thể phán đoán rằng luận này là do ngoại đạo ngụy
tác, gán tên Ngài Mã Minh để truyền bá. Tại sao? Vì chơn như chẳng có
duyên khởi, chẳng bị huân nhiễm, nếu có duyên khởi thì phải có sanh diệt,
pháp sanh diệt nhất định chẳng phải Phật pháp vậy.
20.- CHẤP
THẬT “TÁNH LÀ KHÔNG, TÂM LÀ VỌNG” THÀNH BỆNH.
“Tánh là
không, tâm là vọng” là nói Phật tánh đầy khắp hư không, chẳng thể dùng bộ
não để nhận biết, những gì có thể nhận biết đều là vọng tưởng, Một số
người hiểu lầm ý này, cho có tư tưởng đều là vọng tâm, đem vọng tâm dứt
sạch thành không, tức là kiến tánh thành Phật. Nếu dạy người như thế này
là lọt vào đoạn kiến của ngoại đạo, tội lỗi chẳng phải nhỏ.
21.- CHẤP
THẬT “ĐÃ SANH LÀ VỌNG, CHƯA SANH LÀ TÂM” THÀNH BỆNH.
Có người
truyền khẩu quyết Thiền rằng: “Đã sanh là vọng, chưa sanh là tâm”, cho rõ
được hai này thì được ngộ đạo thành Phật, ấy là lời yêu quái, quyết chẳng
thể tin. “Đã sanh” là nhất niệm vô minh, tất nhiên là vọng, “chưa sanh” là
vô thỉ vô minh, cũng chưa lìa vọng, đều chẳng phải chơn Tâm.
22.- CHẤP
THẬT “CHUYỂN THỨC THÀNH TRÍ” THÀNH BỆNH.
Người tu Pháp
môn Duy Thức, điều cần nhất là tìm ra chủng tử vô thỉ vô minh đã tiềm ẩn
nơi A Lại Da thức (tức Bạch tịnh thức) đập cho tan nát thì Bát thức được
Bát giải thoát, Tam tánh biến thành Tam vô tánh, Bát thức biến thành tứ
trí, sau khi chuyển thức thành trí, chẳng trở lại làm thức.
Khi chưa
chuyển thức thành trí thì bị A Lại Da làm chủ, khi đã chuyển thức thành
trí thì chơn như Phật tánh làm chủ, chơn như Phật tánh chẳng biến đổi nên
thành Phật rồi chẳng trở lại thành chúng sanh, chẳng bị luân hồi. Một số
người tu hành lầm nhận cho một niệm mê là thức, một niệm ngộ là trí,
chuyển thức thành trí là đem cái niệm mê chuyển thành cái niệm ngộ, ấy là
sai lầm lớn, cái tâm niệm biến đổi chẳng định, nếu suốt ngày bỗng mê bỗng
ngộ, bỗng trí bỗng thức, có lúc là Phật, có lúc lại là chúng sanh, vậy
thành Phật có giá trị gì?
23.- CHẤP
THẬT “TỰA HỮU PHI HỮU, TỰA KHÔNG PHI KHÔNG” THÀNH BỆNH.
Có một số
người tu hành buông bỏ vạn duyên tĩnh tọa quán tâm, quán đến cảnh giới
“tựa hữu phi hữu, tựa không phi không", như thế cho là chẳng lọt nhị biên,
chẳng trụ hữu vô, là cảnh giới Phật tánh, ấy là sai lầm lớn. “Tựa hữu phi
hữu, tựa không phi không" là tác dụng của bộ não, chẳng phải Phật tánh,
bản thể Phật tánh dùng bộ não suy lường thì chẳng thể đến. Lục Tổ nói:
“Dẫu cho tận sức đo lường, lại càng xa xôi”, người tu hành chớ nên dùng bộ
não để đo lường Phật tánh, chỉ có thể dùng bộ não tìm ra vô thỉ vô minh
rồi một búa đập nát, thì Phật tánh tự nhiên hiển hiện.
24.- CHẤP
THẬT “CHẲNG CẦU CHƠN, CHẲNG DỨT VỌNG” THÀNH BỆNH.
Chứng Đạo Ca
nói: “Chẳng cầu chơn, chẳng dứt vọng, liễu tri hai pháp vốn chẳng tướng”.
Một số người tu hành cho là chẳng cầu chơn tâm, cũng chẳng dứt vọng niệm,
chơn vọng mặc nó tức là công phu đến mức, ấy là sai lầm lớn. “Chẳng cầu
chơn” là nói Phật tánh chẳng thể cưỡng cầu, chơn với vọng là tương đối, vì
có vọng mới nói có chơn, bản thể Phật tánh vốn chẳng chơn vọng, nên chơn
chẳng thể cầu, vọng cũng chẳng cần dứt, hai tướng chơn vọng vốn không. Nếu
cho chơn niệm, vọng niệm đều chẳng màng đến, ấy là lọt vào bệnh nhậm (bệnh
mặc kệ), càng mặc kệ thì càng mơ hồ, dụng công như thế này giống như nấu
cát làm cơm, đâu thể thành tựu!.
25.- CHẤP
THẬT “TRUNG ĐẠO” THÀNH BỆNH.
Một số người
cho “niệm trước đã diệt, niệm sau chưa khởi, giữa niệm trước với niệm sau
tức là trung đạo”, lại nói “Chẳng lập nhị biên, chẳng chấp hữu vô tức là
Trung đạo” ấy là sai lầm lớn. Niệm trước đã diệt, niệm sau chưa khởi, giữa
niệm trước niệm sau là Vô ký không, chẳng lọt nhị biên, chẳng chấp hữu vô
là bệnh mặc kệ, đều là tác dụng của bộ não, chẳng phải Trung đạo. Trung
đạo là Chơn như Phật tánh. Kinh Niết Bàn nói: “Trung đạo gọi là Phật tánh,
do nghĩa này Phật tánh luôn luôn chẳng có biến đổi, nếu chẳng đắc Đệ nhất
nghĩa không, thì chẳng hành Trung đạo”. Lục Tổ nói: “Hai chữ Phật tánh là
ở nơi phàm phu mà chẳng bớt, ở nơi Thánh Hiền mà chẳng thêm, trụ nơi phiền
não mà chẳng loạn, ngay nơi Thiền định mà chẳng tịch, chẳng đoạn, chẳng
thường, chẳng khứ, chẳng lai, chẳng ở khoảng giữa và bên trong bên ngoài,
chẳng sanh, chẳng diệt, tánh tướng như như thường trụ chẳng dời, ấy gọi là
Đạo”.
26.- CHẤP
THẬT LỜI THÍ DỤ “NƯỚC VỚI SÓNG” THÀNH BỆNH.
Đại Thừa Khởi
Tín Luận lấy nước dụ cho chơn như, lấy sóng dụ cho sanh diệt, ấy là sai
lầm. Chơn như là bản thể của Phật tánh, sanh diệt là tác dụng vọng tưởng
của bộ não, hai thứ chẳng dính dáng với nhau, chơn như là như như bất
động, chẳng có biến đổi, chẳng khởi vọng niệm, nếu chơn như hay khởi vọng
niệm sanh diệt như nước nổi làn sóng thì chơn như cũng có sanh diệt luân
hồi, chẳng phải bản thể cùng tột của Phật tánh. Kinh Lăng Già dùng nước
biển dụ cho thức thứ tám, làn sóng dụ cho thức thứ bảy mới đúng với chánh
lý, nên nói Đại Thừa Khởi Tín Luận là tác phẩm của ngoại đạo.
Ngài Khuê
Phong lấy băng nước dụ cho vọng tâm với Phật tánh là xuất phát từ Khởi Tín
Luận cũng là sai lầm. Nói vọng niệm khởi như nước đóng thành băng, vọng
niệm diệt như tan băng thành nước, ấy là sai lầm, trong Phật tánh vốn
chẳng vọng niệm, cũng chẳng khởi vọng niệm, nói nước đóng thành băng, băng
tan thành nước, đóng tan bất thường là pháp sanh diệt, chơn như Phật tánh
thì chẳng sanh chẳng diệt, nên chữ NƯỚC chỉ có thể dụ cho linh tánh của
kiến, văn, giác, tri, chứ chẳng thể dụ cho Phật tánh.
27.- CHẤP
THẬT “TÂM VỚI PHÁP ĐỀU QUÊN LÀ PHÁ NGÃ CHẤP VÀ PHÁP CHẤP” THÀNH BỆNH.
Một số người
cho “Tâm với pháp đều quên thì Ngã chấp, pháp chấp đã bị phá tức là Phật
tánh” ấy là sai lầm. Tâm cùng Pháp đều quên là Vô ký không; Ngã chấp, pháp
chấp đã phá là lọt vào Không chấp, tức là hầm sâu vô minh, đáy thùng sơn
đen, chẳng phải Phật tánh, phải phá luôn Không chấp rồi mới thấy được Phật
tánh. Phật tánh là Chơn tri giác (Bản tri bản giác), tâm pháp đều quên là
cảnh giới say sưa của bộ não, hai thứ khác nhau.
28.- CHẤP
THẬT “HUNG TRUNG BẤT LƯU NGUYÊN TỰ CƯỚC” THÀNH BỆNH.
Người xưa nói
“Hung trung bất lưu nguyên tự cước” (ở trong lòng chẳng còn bước chân đầu
tiên) tức ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt, ý nói một chữ chẳng còn, kỳ
thật chơn như Phật tánh chẳng phải suy nghĩ văn tự có thể đến, phàm còn
suy nghĩ văn tự đều là kiến, văn, giác, tri, chẳng thể kiến tánh.
Người ta
thường hiểu lầm “Hung trung bất lưu nguyên tự cước” là khán một niệm đầu
tiên từ đâu sanh khởi, diệt một niệm này chẳng còn dấu tích tức gọi là
“Hung trung bất lưu nguyên tự cước”, ấy là hiểu lầm. Kỳ thật “một niệm
chẳng còn” là lạc nơi vô thỉ vô minh, vì niệm khởi niệm diệt đều là tác
dụng của bộ não chẳng dính dáng với Phật tánh, nếu quả thật ngộ đạo, đã
minh tâm kiến tánh thì niệm khởi niệm diệt đều là Phật tánh, nên gọi “Niệm
đồng vô niệm”, đâu cần dứt nó mà nói một niệm chẳng còn!
29.- CHẤP
THẬT “LÌA VỌNG DUYÊN TỨC NHƯ NHƯ PHẬT” THÀNH BỆNH.
Ngài Bá
Trượng nói: “Hễ lìa vọng duyên, tức như như Phật", ý nói bản thể chơn như
chẳng thọ huân nhiễm, chẳng chỗ phan duyên, tự tánh như như, chẳng có chơn
vọng, nên vọng duyên chẳng lìa mà tự lìa. Nay người ta hiểu lầm cho là hễ
lìa vọng duyên tức là ngộ đạo, lý này chẳng đúng, vọng duyên, chơn duyên
đều là tác dụng của bộ não, nếu còn bộ não thì vọng duyên chẳng thể lìa.
Thật ra vọng duyên của bộ não với Chơn như Phật tánh vốn chẳng dính dáng,
người ngộ thì chẳng lìa tự lìa, kẻ chưa ngộ dù lìa cũng chẳng thể lìa,
biết như thế thì mới có thể xem Ngữ lục của Tổ Sư.
30.- LẦM NHẬN
“CHỨNG VÔ SANH PHÁP NHẪN” THÀNH BỆNH.
Có người nói
“Chứng Vô sanh nhẫn chẳng phải kiến tánh, còn phải tu nữa mới được thành
Phật", ấy là sai lầm. Kỳ thật chứng Vô sanh nhẫn tức là thấy Phật tánh,
chứng là chứng ngộ, Vô sanh là chẳng sanh chẳng diệt, nhẫn là muôn đức
viên mãn, nói cách khác tức là chứng ngộ Phật tánh chẳng sanh chẳng diệt,
là cảnh giới viên mãn. Kinh Lăng Già nói “Chứng Vô sanh nhẫn rồi thì được
ý sanh thân” có thể làm chứng vậy.
31.- LẦM NHẬN
“VÔ TỰ GIÁP Ý” THÀNH BỆNH.
Tổ Sư ngày
xưa thường khuyên người chớ trụ nơi “vô tự giáp lý” (trống rỗng chẳng có
vật gì), “vô tự giáp” tức biệt danh của hầm sâu vô minh, đáy thùng sơn
đen, là cảnh giới vô thỉ vô minh, trống rỗng chẳng có gì cả. Cảnh này rất
kiên cố khó phá, nên gọi là vô tự giáp (giáp nghĩa là thiết giáp của chữ
vô). Ngưòi tu hành đến cảnh giới vô thỉ vô minh, chớ nên sợ khó mà lui
sụt, cần phải nổ lực xung phong, xung phá vô tự giáp, liền được kiến tánh
thành Phật.
32.- CHẤP
THẬT “VẠN PHÁP DUY TÂM, NGOÀI TÂM CHẲNG PHÁP” THÀNH BỆNH.
Phật với Pháp
chẳng đồng, Phật là tuyệt đối, chơn như; pháp là tương đối, vọng tưởng,
phàm tất cả pháp đều là vô minh vọng tâm sở tạo, nên nói vạn pháp duy tâm,
ngoài tâm chẳng pháp. Nói duy tâm là một vọng tâm tạo ra, nên điều thứ sáu
trong mươi tám pháp Bất cộng nói “Chẳng có sự đã biết mà không bỏ”, vạn
pháp đã biết phải bỏ liền, vì đó là vọng tâm, vọng tâm biến đổi vô thường,
nên pháp cũng vô thường, gọi là nhân duyên, cũng gọi là phương tiện.
Phật thuyết
pháp dụ như chiếc bè qua sông, đến bờ thì phải bỏ bè, vì pháp ấy là vọng,
biết pháp vọng mà vẫn còn thuyết là muốn dùng vọng trừ vọng, dùng huyễn
phá huyễn, chẳng thuyết thì chẳng thể độ chúng sanh, chẳng bỏ thì phải bị
pháp trói, chẳng thể thành Phật. Nên nói “Chẳng có một chút pháp để đắc
được", lại nói “Ta thuyết pháp 49 năm chưa từng thuyết một chữ”, vì lời
nói văn tự với bản thể chơn như vốn chẳng dính dáng, bản thể chơn như vốn
chẳng tên gọi mà gượng gán tên là Phật, chữ Phật nên bỏ, vì đó là giả
danh, bản tánh của Phật chẳng bỏ, vì đó là chơn thể, đã được cái chơn thì
chữ Phật là dư, nên Ngài Triệu Châu nói: “Một chữ Phật ta chẳng muốn nghe,
lão Tăng niệm Phật một tiếng súc miệng ba ngày”. Mã Tổ nói: “Phi tâm, phi
Phật, chữ Phật còn nên bỏ, huống chi là pháp!”.
Phật và pháp
đều phá, tương đối đã tẩy sạch thì nhất chơn nhất thiết chơn, Phật cũng
chơn, pháp cũng chơn, tất cả đều là Phật tánh, đều là chơn tâm, lúc bấy
giờ nói “Vạn pháp duy tâm, ngoài tâm chẳng pháp” thì đúng. Đồng một chữ
TÂM, xưa vọng nay chơn; cùng một lời nói, trước sai sau đúng, chữ thì mỗi
mỗi đồng nhau mà ý nghĩa thì hoàn toàn khác hẳn, nên Phật pháp rất khó
hiểu là vậy, xin người học hãy cẩn thận.
33.- NHẬN LẦM
“NGỒI NHẬP ĐỊNH NHƯ CÂY KHÔ” THÀNH BỆNH.
Nói “nhập
định” là pháp dụng công của người Tiểu thừa, ngồi lâu như cây khô để đoạn
dứt suy nghĩ của lục căn, dụng công của người Đại thừa chẳng trụ tâm,
chẳng khán tịnh, chẳng trầm không, chẳng nhập định. Nay thường có một số
người xuất gia hoặc tại gia, ngồi không như cây khô, mười hôm, tám hôm
chẳng ăn cơm, giống như ông Địa, gọi là nhập định, cho dụng công như thế
thì được thành Phật, ấy là sai lầm lớn.
Xưa kia Trí
Hoàng Thiền Sư ngồi mãi trong am 20 năm, Huyền Sách Thiền Sư đến Am hỏi:
“Ông ở đây làm gì?”. Hoàng nói: “Nhập định”. Sách nói: “Ông nói nhập định
là có tâm nhập hay vô tâm nhập? Nếu vô tâm nhập thì tất cả vô tình, cây
cối, ngói đá đều được đắc định; nếu có tâm nhập thì tất cả chúng sanh hữu
tình cũng phải đắc định”. Hoàng nói: “Khi tôi đang nhập định chẳng thấy có
tâm hữu hay vô”. Sách nói: “Chẳng thấy có tâm hữu hay vô tức là thường
định, đâu có xuất nhập? Nếu có xuất nhập thì chẳng phải đại định”. Hoàng
chẳng thể trả lời, giây lâu nói: “Sư nối pháp ai?”. Sách nói: “Thầy tôi”.
Lục Tổ nói: “Diệu trạm viện tịch, thể dụng như như, ngũ uẩn vốn không, lục
trần phi hữu, chẳng xuất chẳng nhập, chẳng định, chẳng loạn, tánh thiền vô
trụ, lìa trụ nơi thiền định, tánh thiền vô sanh, lìa sanh có thiền tưởng.
Tâm như hư không, cũng chẳng có số lượng của hư không". Bởi sau khi kiến
tánh, tự tánh như như bất động, đi, đứng, nằm, ngồi, mặc áo, ăn cơm, tất
cả đều ở trong định mới là Đại định.
Hoài Nhượng
Thiền Sư truyện ghi trong Truyền Đăng Lục rằng: Có Sa Môn Đạo Nhất ở Viện
Truyền Pháp suốt ngày tọa thiền, Sư đến hỏi: “Đại Đức tọa thiền muốn làm
gì?”. Nhất nói: “Muốn làm Phật". Sư lấy cục gạch mài trước cửa Am. Nhất
hỏi: “Mài gạch làm gì?”. Sư nói: “Mài làm gương”. Nhất nói: “Mài gạch đâu
thể thành gương!”. Sư nói: “Mài gạch chẳng thể thành gương thì tọa thiền
đâu thể thành Phật!”. Nhất nói: “Vậy phải làm thế nào?”. Sư nói: “Như bò
kéo xe chẳng chịu đi, đánh xe phải hay đánh bò phải?”. Nhất không đáp
được. Sư nói: “Ông học ngồi thiền hay là học làm Phật? Nếu học ngồi thiền
thì Thiền chẳng phải ngồi nằm; nếu học làm Phật thì Phật chẳng có tướng
nhất định, nơi pháp vô trụ, chẳng nên thủ xã. Ông nếu ngồi Phật tức là
giết Phật, nếu chấp tướng ngồi thì chẳng đạt lý đạo”. Nhất nghe Sư dạy bảo
như uống đề hồ.
Ngài Lâm Tế
nói: “Ta nói bên ngoài chẳng có pháp, người học chẳng lãnh hội, lại hiểu
lầm cho là bên trong, liền hướng vách ngồi không, lưỡi để hàm trên, tuyệt
nhiên chẳng động, cho đó là Phật pháp của chư Tổ, rất là sai lầm.
Một số người
nhận lầm tham thiền phải lúc tĩnh tọa mới tham, ấy là sai lầm.Tham thiền
chẳng phân biệt đi, đứng, nằm, ngồi. Mã Tổ nói: “Tham thiền chẳng chấp
ngồi, chấp ngồi tức bị dính mắc”. Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Kẻ mê kẹt nơi
pháp tướng, chấp Nhất hạnh Tam muội, cứ nói thường ngồi chẳng động, vọng
tâm chẳng khởi tức là Nhất hạnh Tam muội, hiểu như thế này tức đồng như vô
tình, lại thành nhân duyên chướng đạo”.
34.- CHẤP
“BẤT ĐẢO ĐƠN” THÀNH BỆNH.
Trong Tùng
lâm có một số hành giả ngồi mãi chẳng nằm, gọi là bất đảo đơn. Dù nói bất
đảo đơn, lại ngồi đó ngủ gục, cho đó là công phu nổi bật, sai lầm biết
bao.
Theo giới
luật của Phật, Tỳ Kheo tu hành bốn việc đầy đủ là: quần áo, ăn uống, ngọa
cụ, y dược, vậy chứng tỏ Phật chẳng dạy người bất đảo đơn. Nếu ngồi không
ngủ gục, sao chẳng nằm xuống ngủ một giấc ngon, cho tinh thần đầy đủ rồi
công phu lại! Có người chê cười kẻ bất đảo đơn là nhập định bí đao, chưa
nhập định đã biến thành bí đao, dù thành Phật có ích lợi gì!
Ngài Lâm Tế
nói: “Dẫu cho ở cô độc trên đỉnh núi, ngày ăn một bữa, ngồi mãi chẳng nằm,
suốt ngày hành đạo, đều là người tạo nghiệp, cho đến đem đầu, mắt, tủy,
não, gia tài, vợ con, voi, ngựa, thất bửu thảy đều bố thí, có kiến giải
như thế đều là tự làm khổ cho thân tâm, lại tự chiêu cảm quả khổ, chẳng
bằng người vô sự chẳng làm việc gì, thuần nhất chẳng nhiễm, như Thập Địa
Mãn Tâm Bồ Tát đều cầu đạo này, tìm dấu tích trọn bất khả đắc, cho nên chư
Thiên hoan hỷ, địa Thần ôm chân, mười phương chư Phật cùng nhau tán thán.
Tại sao như thế? Vì đạo nhơn này chỗ dùng chẳng dấu tích”.
Phật Nhãn
Thiền Sư nói: “gần đây có người chỉ ham ngồi, ban sơ thì tỉnh bơ, ngồi lâu
thì ngủ gục, mười người có chín người ngồi ngủ gục, luôn luôn chẳng chịu
hạ thủ công phu tham cứu, đạo này đâu thể trong ngồi ngủ mà ngộ được!
Những người như thế làm sao hội được. Đơn Hà dựng phất trần, Bàng cư sĩ
giơ cây búa, Đơn Hà quăng phất trần, cư sĩ buông cây búa xuống! Lại nói:
“Công án hôm qua như thế nào? Đơn Hà nằm xuống, cư sĩ liền ra đi, việc này
nếu chẳng phải người người tri âm chơn thật, đâu thể cho ông chú giải bậy
bạ được!”.
Lại Ngài Nham
Đầu nói: “Bậc Sa Môn tất cả đều nên mỗi mỗi từ trong lòng mình lưu xuất,
che Thiên ngập Địa mới được, đâu thể do tĩnh tọa suy nghĩ mà được đâu!”.
Tiên Sư (Pháp Diễn Thiền Sư) nói: “Lúc ngủ lúc ngủ tham cứu, lúc ăn cơm
lúc ăn cơm tham cứu”. Lại người xưa nói: “Lúc ngồi có đạo lý lúc ngồi, lúc
đứng có đạo lý lúc đứng”, há chẳng thấy Đầu Tử hỏi Thúy Vi rằng: “Mật chỉ
từ Ấn đến, có thể cho nghe chăng?”. Thúy Vi đứng đó ngó nhìn, Đầu Tử nói:
“Đêm mai nói nữa, xin Sư tái chỉ”. Thúy Vi nói: “Còn muốn thêm gáo nước
độc thứ hai chi nữa!”. Đầu Tử liền ngộ. Thế thì các ngươi chẳng được thọ
dụng là tại ngày đêm ngồi không, bỏ qua việc tốt biết bao!
35.- THAM
THIỀN LẦM NHẬN “CHĂN TRÂU” LÀ DỤNG CÔNG.
“Chăn trâu”
là sau khi đã kiến tánh dùng để tẩy trừ tập khí, điều chỉnh tánh tình,
chẳng phải là tu hành. Bởi khi đã kiến tánh, nhất ngộ vĩnh ngộ, chẳng cần
tu nữa, nhưng vẫn còn tập khí từ vô thỉ chưa dứt sạch, nên cần phải điều
chỉnh lại. Qui Sơn Hòa Thượng nói: “Các người nếu đã hoát nhiên thông suốt
thì tu với chẳng tu là lời hai đầu, chỉ cần trừ bỏ tập khí gọi là tu”.
Xưa kia trong
hội Qui Sơn có Đại An Thiền Sư nói: “Ta ở Qui Sơn 30 năm, ăn cơm Qui Sơn,
ỉa cứt Qui Sơn mà chẳng học Thiền Qui Sơn, chỉ chăn một con trâu, nếu lạc
đường vào đám cỏ liền kéo ra, nếu phạm lúa mạ của người, liền lấy roi điều
phục, như thế lâu ngày, nay biến thành con lộ địa bạch ngưu (Chơn như Phật
tánh), thường ở trước mắt, suốt ngày luôn luôn hiển lộ rõ ràng (Phật tánh
hiện hành), đuổi cũng chẳng đi”. Phổ Minh Thiền Sư Mục Ngưu Đồ, lấy vọng
niệm dụ cho con trâu, Phật tánh dụ cho người chăn, vọng niệm khởi như con
trâu chạy bậy, đem vọng niệm sửa lại thành chánh niệm như cỡi trâu về nhà,
nói trở về bản nguyên, ấy là sai lầm. Con trâu dụ cho vọng niệm thì không
sai, người chăn dụ cho Phật tánh thì sai, người chăn nên dụ cho kiến, văn,
giác, tri, chẳng phải Phật tánh, Phật tánh chẳng khởi vọng niệm.
36.- THAM
THIỀN NHẬN TỆ ĐOAN CỦA THIỀN LÀ DỤNG CÔNG.
Cổ Đức có
luận về tệ đoan của Thiền rằng: “Từ đời Tống đến nay, tệ đoan của Thiền
đặc biệt nhiều, nay thử đề ra có loại gọi là xướng họa tọa thiền, công án
tọa thiền, niệm Phật tọa thiền, ông địa tọa thiền, điều phục tọa thiền,
v.v...”.
Nói xướng họa
tọa thiền là: người thầy lấy một câu thoại đầu truyền thọ cho người học,
người học vừa ngồi vừa xướng, ví như truyền cho một chữ VÔ của Triệu Châu,
thì tất cả chúng người học cũng xướng lên “Vô, vô, vô, vô ...”, giống như
con tú hú kêu mưa vậy. Nếu truyền cho câu NÚI TU DI của Vân Môn thì bọn
chúng cùng nhau xướng lên “Núi Tu Di, Núi Tu Di ...” giống như con ve kêu.
Nếu như thế được khai ngộ thì con tu hú với con ve cũng được khai ngộ.
Còn công án
tọa thiền thì người thầy truyền cho một công án, bảo người học làm công
phu, làm rồi đến trình thầy, thuật lại cảnh giới của mình thấy, nếu hợp
với ý thầy thì được ấn khả chứng minh, rồi truyền cho một công án khác. Từ
công án này qua công án kia, gọi là “Thấu công án”, ngoài ra còn bày đặt
việc kỳ dị, dùng lời nói tỏ vẻ quái lạ, như trong mộng nói mơ, chẳng biết
hổ thẹn, cũng như con khỉ vượn chụp trăng trong nước. Nếu làm như thế mà
đắc dạo thì con khỉ vượn cũng phải đắc đạo.
Còn niệm Phật
tọa thiền thì người thầy xưa nay thật chẳng tham thiền, lại chưa hiểu Phật
pháp, nhờ có phước si được làm trụ trì; hoặc người thầy có theo qui tắc
ngồi thiền mà chưa dạy bảo người học một việc gì, chỉ thỉnh Di Đà, Quan
Âm, Văn Thù, Di Lặc, chư Phật, chư Bồ Tát để làm bản tôn, ngồi im niệm
danh hiệu hoặc niệm chú nói nhờ thành lực, kiếp này ngộ đạo, kiếp sau sanh
Tịnh độ, tự lầm và dạy người, chùm đầu mà ngồi, giống như con sứa nhờ mắt
tôm để tìm món ăn. Nếu làm như thế mà đắc dạo thì con sứa cũng phải đắc
đạo.
Còn nói ông
địa tọa thiền là ngồi im lặng như cây khô, chẳng làm việc gì, chẳng nói
chẳng nhìn, cũng chẳng xướng thoại đầu, như ông địa làm bằng đất sình ở
trong làng. Chẳng biết theo lý quán xét, chỉ giữ lời dạy của thầy nói “Phi
suy lường, chẳng phân biệt, ngồi kiết già mãi, đợi khi thời tiết đến thì
thân tâm tự nhiên giải thoát, hoát nhiên đại ngộ”. Nếu làm như thế mà được
ngộ, thì người đá, người gỗ, ông địa cũng phải đại ngộ.
Còn nói điều
phục tọa thiền, ví như ngựa rừng gắn yên; rắn rừng vào ống tre, chỉ biết
giữ theo lời dạy của thầy, dùng công phu tọa thiền để hàng phục phiền não
vọng tưỏng. Nếu làm như thế mà khai ngộ thì ngựa rừng, rắn rừng cũng phải
khai ngộ.
Những tệ đoan
của loại thiền này vẫn còn giữ trong tùng lâm, như niệm thoại dầu, đả ngạ
thất (ngồi luôn bảy ngày đêm nhịn đói), bất đảo đơn v.v... Thậm chí có
người đặt ra thần thoại, nói là mười ngày, tám ngày chẳng ăn, thì được
nhìn thấu qua vách tường mà thấy sự vật bên ngoài thấy thần thấy ma v.v...
Sự bày đặt ma quái ngày càng tăng thêm để làm hại cho người học.
37.- LẦM NHẬN
“MỘT ĐƯỜNG HƯỚNG THƯỢNG, NGÀN THÁNH CHẲNG TRUYỀN” LÀ PHÁP MÔN ĐỂ DỤNG
CÔNG.
Người xưa
nói: ‘Một đường hướng thượng, ngàn Thánh chẳng truyền”, ý là phàm nói
được, truyền được thì chẳng phải chơn như, chơn như Phật tánh phải tự
chứng lấy, chẳng thể nói cho người. Nay người ta hiểu lầm rằng pháp tham
thiền chẳng thể truyền thọ, chỉ có thể tự mình đi tìm tòi, ấy là sai lầm
lớn. Phật tánh dù chẳng thể ngôn truyền, nhưng pháp dụng công tham thiền
thì do ngàn Thánh sở truyền, Phật Phật tự tay thân thọ nhau. Thế Tôn
thuyết pháp 49 năm, hoặc quyền hoặc thật, hoặc đốn hoặc tiệm, đời đời kế
thừa nhau, Thánh Thánh nối tiếp nhau, Tổ Sư hét, gậy, chửi mắng, dựng phất
trần, giơ cây chỉa đều là thân thiết bảo nhau cho người, nhưng phải xem
người ấy có thể thừa đương hay không, chớ đâu phải chẳng truyền!
38.- LẦM NHẬN
“DẪU CHO BIỂN XANH BIẾN THÀNH RUỘNG DÂU CŨNG CHẲNG VÌ ÔNG NÓI TRẮNG RA” LÀ
PHÁP MÔN DỤNG CÔNG.
Người xưa
nói: “Dẫu cho biển xanh biến thành ruộng dâu cũng chẳng vì ông nói trắng
ra”, ý nói Phật tánh chơn như chỉ có thể tự chứng tự ngô, chẳng thể dùng
ngôn ngữ nói cho người biết.
Xưa kia khi
Hương Nghiêm chưa ngộ, cứ xin Qui Sơn nói trắng ra, Qui Sơn nói: “Ta nói
là của ta, chẳng dính dáng với ngươi”, sau ở Nam Dương đang cuốc đất quăng
miếng ngói trúng nhằm cây tre phát ra tiếng, mới phát minh Tâm địa. Còn
Thái Nguyên Phù Thượng Tọa giảng kinh Niết Bàn, tỏ bày diệu lý của Pháp
thân, có thiền khách nghe xong nói: “Ông dù giảng hay, nhưng thật thì
chẳng biết”. Bèn ngưng giảng tham cứu, nửa đêm nghe tiếng trống mới ngộ
Pháp thân. Người đời nay hiểu lầm ý chỉ rằng “Dẫu cho biển xanh biến thành
ruộng dâu, cũng chẳng vì ông nói trắng ra” là sự bí mật truyền thọ của
Tông môn, chẳng thể dạy người, ấy là sai lầm lớn. Há chẳng nghe Lục Tổ
nói: “Ngươi nếu phản chiếu, mật ở bên ngươi “ sao!
39.- HIỂU LẦM
“TÂM TỊNH THÌ ĐỘ TỰ TỊNH” THÀNH BỆNH.
“Tâm tịnh thì
độ tự tịnh” là nói sau khi minh tâm kiến tánh, tất cả đều biến thành Phật
tánh, trong Phật tánh chẳng cấu chẳng tịnh, nên uế độ tức là Tịnh độ,
Người đời nay hiểu ý này, nói đem ác niệm sửa lại thành thiện niệm, đem
nhiễm duyên biến thành tịnh duyên, trong tâm trong sạch tự nhiên thế giới
trong sạch gọi là tâm tịnh thì độ tự tịnh, ấy là sai lầm lớn.
Tâm niệm biến
đổi vô thường, hởi diệt chẳng định, nếu trong tâm trong sạch một hồi thì
là Tịnh độ, vọng niệm sanh khởi một hồi lại biến thành uế độ, như thế sáng
tịnh, chiều uế, ngày thiện đêm ác, thay phiên tuần hoàn khi nào mới hết?
Kỳ thật tâm tịnh tâm nhiễm là tác dụng của bộ não, chẳng liên quan với
Tịnh độ, nếu là Tịnh độ chơn chánh thì chẳng biến chẳng đổi, chẳng cấu
chẳng tịnh, tức Thường Tịch Quang Tịnh Độ, cũng là Pháp thân của chư Phật.
Nếu được đốn ngộ chơn như ngay đó liền sanh Thường Tịch Quang Tịnh Độ, với
chư Phật cùng một Pháp thân thì vĩnh viễn siêu thoát sanh tử luân hồi, khi
ấy tìm tâm tìm độ trọn bất khả đắc, còn gì để nói tịnh hay uế ư!
40.- NHẬN LẦM
“CHẲNG SỢ VỌNG KHỞI, CHỈ E GIÁC CHẬM” LÀ PHÁP DỤNG CÔNG.
Có người
thường cho “Chẳng sợ vọng khởi, chỉ e giác chậm” là phương pháp tu hành,
ấy là sai lầm. Nếu khởi giác niệm để phá vọng niệm thì giác đồng như vọng,
cũng là nhất niệm vô minh. Huỳnh Bá Thiền Sư nói: “Nay khi ngươi giác biết
vọng khởi, giác chính là Phật, nếu vốn chẳng vọng niệm thì Phật cũng chẳng
có. Tại sao? Vì ngươi khởi tâm chấp Phật mới nói có Phật để thành, chấp
chúng sanh mới nói có chúng sanh để độ, phàm khởi tâm động niệm đều là chỗ
kiến chấp của ngươi, nếu không có tất cả kiến chấp thì Phật đâu có xứ sở!
Cũng như Văn Thù vừa khởi kiến chấp có Phật liền bị đày nơi núi Nhị Thiết
Vi, cho nên nói: “Chẳng sợ vọng khởi, chỉ e giác chậm!”. Bổn lai chẳng
vọng, nói chi là giác? Nếu lấy giác bỏ vọng, giác cũng thành vọng.
Kinh Viên
Giác nói: “Tất cả thế giới thủy, chung, sanh, diệt, trước, sau, có, không,
tụ tán, khởi, dừng, niệm niệm tương tục, tuần hoàn xoay chuyển, đủ thứ thủ
xã đều là luân hồi, nếu chưa ra khỏi luân hồi mà phân biệt viên giác, thì
tánh viên giác kia cũng đồng như luân hồi, vậy muốn khỏi bị luân hồi thì
chẳng có chỗ đúng”.
41.- LẦM NHẬN
“GÓT CHÂN CHẤM ĐẤT” LÀ PHÁP DỤNG CÔNG.
“Gót chân
chấm đất” là lời nói sau khi đã ngộ, người đã minh tâm kiến tánh, siêu
xuất sanh tử luân hồi, đạt đến bản thể tuyệt đối thì việc lớn đã xong, gọi
là gót chân chấm đát. Nay có người hiểu lầm ý này, cho là làm một ông Tăng
chơn thật, siêng năng tu hành, bước chân vững vàng tức gót chân chấm đất,
ấy là sai.
42.- DỤNG
CÔNG LẦM NHẬN “VÔ TÂM LÀ ĐẠO”.
Huỳnh Bá
Thiền Sư nói: “Tức tâm là Phật, vô tâm là đạo”, Tổ Sư nói: “Phật thuyết
tất cả pháp, vì trừ tất cả tâm, Ta chẳng tất cả tâm, đâu cần tất cả pháp”,
đây là lời sau khi đã ngộ, ý nói Phật phương tiện thuyết pháp độ người tam
thừa, người thượng thượng căn tự minh tâm địa, tự thấy bản tánh thì đâu
cần tất cả pháp. Ý chỉ đồng với Kinh Kim Cang, nói: “Biết ta thuyết pháp
ví như chiếc bè qua sông, đến bờ thì phải bỏ bè, vậy pháp còn bỏ huống là
phi pháp!”, với Kinh Viên Giác nói: “Tất cả chúng sanh, tu tập tâm này nếu
được thành tựu, mới biết ngay đó chẳng tu cũng chẳng thành tựu”. Ngay nơi
chứng ngộ chẳng năng chẳng sở, rốt cuộc chẳng chứng, cũng chẳng kẻ chứng”
chính là đồng nhau. Mà người đời sau hiểu lầm ý này, cho là đem vọng tâm
đừng nghỉ tư tưởng dứt sạch tức là vô tâm, tức là ngộ đạo, ấy là sai lầm
lớn. Vọng tâm là nhất niệm vô minh, nhất niệm vô minh dừng nghỉ tức là
cảnh giới đen tối của vô thỉ vô minh, cảnh giới này chưa phá tan thì chưa
thể thấy Phật tánh, chẳng phải ngộ đạo. Nên người xưa nói: “Chớ cho vô tâm
tức là đạo, vô tâm còn cách núi muôn trùng”, chính là chỉ ngay thứ hiểu
lầm này.
43.- DỤNG
CÔNG LẦM NHẬN ‘BÌNH THƯỜNG TÂM LÀ ĐẠO”.
Triệu Châu
hỏi Nam Tuyền thế nào là đạo, Tuyền nói: “bình thường Tâm là đạo”. Châu
nói: “Có chỗ xu hướng chăng?”. Tuyền nói: “Tính hướng thì sai”. Châu nói:
“Chẳng tính sao biết là đạo?”. Tuyền nói: “Đạo chẳng thuộc biết, chẳng
thuộc không biết; biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu chơn đạt đến
cái đạo “chẳng tính” thì giống như hư không, mênh mông trống rỗng, đâu có
thể cưỡng cho là đúng sai ư!”. Châu ngay đó đại ngộ.
Lời “bình
thường tâm là đạo” của Nam Tuyền, ý nói sau khi kiến tánh, khởi niệm động
niệm đều là Phật tánh, đi, đứng, nằm, ngồi, mặc áo ăn cơm, cuộc sống hằng
ngày đều là chơn như, ấy là cảnh giới sau khi chứng ngộ. Nay người ta hiểu
lầm câu “Bình thường tâm là đạo” tức là bình bình thường thường để qua
ngày, bình bình thường làm một người tốt, chẳng làm thiện, chẳng tạo ác,
mặc kệ tùy duyên uổng qua một đời tức là ngộ đạo, như vậy khác chì người
lười biếng, ăn no suốt ngày chẳng làm việc gì! Thật đáng thương xót!
44.- DỤNG
CÔNG LẦM NHẬN “TRỰC TÂM LÀ ĐẠO TRÀNG”.
Kinh Duy Ma
Cật nói: “Trực tâm là đạo tràng”, ý nói sau khi kiến tánh, khởi tâm động
niệm đều là Phật tánh hiện hành, chỉ một tâm ngay thẳng, chẳng biến chẳng
đổi. Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Nếu trong tất cả nơi, đi, đứng, nằm, ngồi,
chỉ một tâm ngay thẳng, là đạo tràng chẳng động, là Tịnh độ chơn thật, gọi
là Nhất hạnh tam muội”. Người đời sau hiểu lầm cho con người chỉ cần ngay
thẳng tức là ngộ đạo, ấy là sai.
45.- DỤNG
CÔNG LẦM NHẬN “ĐẦU SÀO TRĂM THƯỚC”.
Trường Sa Sầm
Thiền Sư dẫn dụ lời Cổ Đức rằng: “Người trụ nơi đầu sào trăm thước, mặc dù
đắc nhập chưa phải chơn, đầu sào trăm thước cần tiến tới, mười phương thế
giới hiện toàn thân”. Đây là lời khẩn yếu của sự dụng công để khuyên bảo
người hậu học, đầu sào trăm thước là dụ cho quá trình dụng công của người
tu hành, được leo tới đầu sào trăm thước công phu đã khá rồi, hễ lên nữa
tức là hư không, là việc rất khó tiến lên, nếu được tiến thêm một bước thì
ngay đó kiến tánh thành Phật mà chứng đắc Pháp thân, nên nói “Đầu sào trăm
thước cần tiến tới, mười phương thế giới hiện toàn thân”.
Chỗ đầu sào
này là dụ cho cảnh giới vô thỉ vô minh, người dụng công đến nơi cảnh giới
trống rỗng đen tối chẳng có gì cả, tức là đầu sào trăm thước, cũng là vô
thỉ vô minh, chớ nên lầm nhận cho cảnh giới này là Chơn như Phật tánh, đến
đây cần phải tiến lên để phá tan vô thỉ vô minh mới được kiến tánh thành
Phật. Nay có người hiểu lầm cho dứt trừ vọng niệm là đến đầu sào trăm
thước, rồi luôn cả cái niệm dứt trừ cũng tiêu sạch tức là “Đầu sào trăm
thước cần tiến tới” ấy là sai.
46.- HIỂU LẦM
“BẤT NHỊ PHÁP MÔN” THÀNH BỆNH.
“Pháp môn bất
nhị” là nói Phật tánh tuyệt đối, chẳng có năng sở đối đãi là Bất nhị, xưa
kia trong hội Tỳ Da, Văn Thù Bồ Tát để ý chỉ bất nhị, khi ấy sở thuyết của
ba mươi hai vị Hiền triết đều sai, chỉ có Duy Ma Cật im lặng chẳng nói,
Văn Thù Bồ Tát khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Đến chỗ chẳng có văn tự
lới nói mới thật là nhập pháp môn bất nhị”. Nên biết tuyệt đối của Phật
tánh chẳng phải văn tự lời nói có thể đến, nên nói ngôn ngữ đạo đoạn, tâm
hành xứ diệt. Hiện nay các chùa chiền, trên cửa thường đề bốn chữ “Bất Nhị
Pháp Môn”, bắt chước nhau từ lâu, Kinh nói: “Vô môn là pháp môn”, thì cửa
chùa làm sao so bằng được!
47.- LẦM NHẬN
“TỌA VONG” (NGỒI QUÊN) TRONG ĐẠI TÔNG SƯ THIÊN CỦA TRANG TỬ LÀ PHẬT
PHÁP.
Nhan Hồi nói:
“Hồi được ích rồi!”.
Khổng Tử hỏi:
“Là thế nào?”.
Hồi nói: “Hồi
đã quên nhân nghĩa rồi”.
Khổng Tử nói:
“Được, nhưng còn chưa”. Hôm khác Hồi lại trình: “Hồi được ích rồi”.
Khổng Tử hỏi:
“Là thế nào?”.
Hồi nói: “Hồi
đã quên lễ nhạc rồi”.
Khổng Tử nói:
“Được rồi, nhưng còn chưa”. Hôm khác lại trình rằng: “Hồi được ích rồi”.
Khổng Tử hỏi:
“Là thế nào?”.
Hồi nói: “Hồi
tọa vong rồi!”.
Khổng Tử hỏi:
“Thế nào là tọa vong?”.
Hồi nói: “Đọa
cơ thể, bặt thông minh, lìa hình bỏ trí, dụng nơi đại đạo gọi là tọa
vong”.
Khổng Tử nói:
“Đồng thì chẳng hai, hóa thì vô thường, Hồi quả thật là bậc Hiền, ta xin
theo sau”.
Như thế lý
đạo của tọa vong, tức là cảnh giới vô thỉ vô minh của nhà Phật vậy.
48.- DỤNG
CÔNG LẦM NHẬN “ĐẠI THỦ ẤN”.
Đại Thủ ấn
tức là thể tánh bản tâm của tất cả chúng sanh với chư Phật bình đẳng chẳng
khác bản tâm bình đẳng vốn trong sạch thường trụ, dù bị vô minh che khuất
nhưng thể tánh chơn tâm vẫn tự sáng tỏ trong sạch, dẫu ở nơi lục đạo luân
hồi vẫn chẳng thêm chẳng bớt. Cái bản thể vi diệu này, có khi gọi là Bản
Giác Như lai, Phổ Hiền Như Lai, Bổn Kiến thanh tịnh v.v... tên khác thể
đồng, tức một tâm này là căn bản của Đại Thủ Ấn.
Phái cũ của
Mật Tông có nói: “Phổ Hiền Như Lai này là Phật nguyên thỉ chẳng cần dùng
sức tẩy trừ nghiệp chướng, ví như nước biển bị gió khơi động mà sanh khởi
làn sóng, nếu còn khuấy động (dùng sức tẩy trừ) thì làn sóng không khi nào
được dừng lại mà thành trong lặng. Cũng như mây mù dù trôi nổi trên không,
khi mây mù tan rã thì trong sạch của hư không tự hiện; lúc mây mù che
khuất hư không, tánh không vẫn là tánh không, chưa hề giảm bớt chút nào.
Nếu tâm của con người vốn chẳng có thể tánh sáng tỏ trong sạch thì bất cứ
dùng phương tiện nào cũng chẳng thể tẩy sạch, vì bản tâm vốn sẵn trong
sạch diệu minh mới có thể dùng phương tiện tẩy trừ vọng niệm cho đến thành
Phật".
“Bản tâm vốn
trong sạch” là Phật tánh, Phật tánh chẳng thể sanh khởi vô minh, sanh khởi
vô minh là do linh tánh của kiến, văn, giác, tri, linh tánh chẳng phải
Phật tánh, như nước biển kia vì bị gió khơi động mà sanh làn sóng, nước
biển là dụ cho linh tánh của kiến, văn, giác, tri, nếu nhận lầm cho là
Phật tánh thì tu cũng vô ích.
49.- DỤNG
CÔNG LẦM NHẬN “MINH ĐẾ” CỦA BÀ LA MÔN.
Các nhà Phật
học Trung Quốc xưa nay rất nhiều Đại Đức cao Tăng lầm nhận “Minh Đế” cho
là Phật tánh, Minh Đế phi không phi hữu, là Bản tánh của thế gian, vì Minh
Đế khởi một niệm sanh giác, do giác sanh hai mươi lăm đế, từ hai mươi lăm
đế trở về bản thể Minh Đế, tức là vô thỉ vô minh, cũng là chỗ nhận lầm của
một số cao Tăng Trung Quốc nói từ Phật tánh sanh khởi vô minh, đoạn dứt vô
minh trở về Phật tánh, ấy là sai lầm từ căn bản, tu hành vô ích.
Kỳ thật Minh
Đế của Bà La Môn tức là vô thỉ vô minh, sanh giác tức là kiến, văn, giác,
tri, sanh khởi một niệm, do một niệm này sanh ra tám mươi bốn ngàn niệm,
cũng gọi là tám mươi bốn ngàn trần lao phiền não vậy.