Thế rồi bạn tu thiền thật êm xuôi.
Thân thì hoàn toàn bất động và tâm của bạn rất tĩnh mịch. Bạn cứ lướt nhẹ theo
dòng chảy của hơi thở, ra, vào, ra, vào … êm ả, bình thản và tập trung. Mọi thứ
thật trọn vẹn. Nhưng rồi bất thình lình, cái gì ấy hoàn toàn xa lạ nhảy vọt vào
tâm của bạn: “Chắc chắn là mình đang muốn ăn một cây cà rem!” Rõ ràng nó là
vọng tâm. Đó là cái mà bạn không nên nghĩ đến trong giờ phút này. Bạn biết thế,
cho nên kéo tâm mình trở lại với hơi thở, phẳng lặng trôi chảy, ra, vào … và
rồi: “Mình đã trả tiền ga tháng này chưa?” Một vọng tâm khác. Bạn nhận ra nó
ngay và quay trở về lại hơi thở. Vào, ra, vào, ra.. “Phim khoa học giả tưởng
mới ra rồi. Có lẽ ta đi xem nó thứ ba. Không, thứ ba không được, thứ tư còn quá
nhiều việc để làm. Thứ năm thì tốt hơn..” Lại vọng tâm nữa. Bạn nhận biết ngay
và trở về với hơi thở, nhưng lần này chưa ổn định với hơi thở thì, “cơn đau ở
lưng thật là chết người.” Và cứ thế mà tiếp diễn, từ vọng tâm này sang chập kế
tiếp chừng như vô tận.
Thật là phiền toái. Nhưng đây là
những gì làm cho tu thiền trở nên cần thiết. Sự xao lãng này là vấn đề muốn nói
ở đây. Điểm chính yếu là học cách đối trị chúng. Học phương cách nhận ra chúng
mà không bị lôi cuốn vào. Đó là những gì mà chúng ta đến đây để học. Tâm lang
thang thật không dễ chịu, đó là điều chắc chắn. Nhưng tâm vốn có một vùng hoạt
động bình thường. Đừng nên nghĩ về trạng thái xao lãng như kẻ thù. Nó chỉ là
một sự thật đơn giản. Nếu bạn muốn thay đổi một điều gì, điều bạn phải làm
trước nhất là, thấy điều đó như-nó-là.
Trước khi ngồi xuống để tập trung
vào hơi thở, thì trạng thái tâm của bạn thật đang rất bận rộn. Nó nhảy múa như
con ngựa dở chứng. Nó đổi hướng, chụm bốn vó, quay vòng vòng giống như con chó
chạy đuổi theo chiếc đuôi của mình. Nó nói huyên thuyên, suy nghĩ, tưởng tượng,
mộng du. Đừng nên bực mình về vấn đề này, vì đó là lẽ rất tự nhiên. Khi tâm của
bạn lang thang ra khỏi đề mục thiền, chỉ quan sát sự xao lãng trong chánh niệm.
Khi nói đến vọng tâm trong thiền
Tuệ, chúng tôi muốn nói về tình trạng lơ đãng kéo sự chú tâm rời khỏi hơi thở.
Điều này đưa đến một qui tắc mới trong tu tập: khi nào có một trạng thái tâm
nổi lên đủ mạnh kéo tâm rời khỏi đề mục, thì chuyển sự chú tâm của bạn sang
trạng thái này lập tức. Tạm thời xem trạng thái xao lãng này như là một đề mục
để quan sát. Ghi nhớ là chỉ tạm thời thôi. Điểm này rất quan trọng. Chúng tôi
không khuyên bạn đổi ngựa trong lúc đang cởi, và không mong là bạn chọn đề mục
mới trong mỗi ba phút. Hơi thở bao giờ cũng là đề mục chính. Bạn chỉ chuyển sự
chú tâm qua sự xao lãng đủ lâu, để ghi nhận những đặt tính của nó thôi. Nó là
cái gì? Mạnh yếu ra sao? Ở bao lâu. Đến bao giờ bạn biết (không phải niệm) đủ
về nó, thì quá trình khám xét trạng thái xao lãng xem như hoàn tất, trở lại với
hơi thở. Làm ơn ghi nhớ là BIẾT. Những câu hỏi này không phải là lời mời gọi
cho một cuộc độc thoại bên trong. Nó có thể đưa bạn đi lạc hướng, dần vào trạng
thái suy tự Chúng tôi muốn bạn rời xa tiến trình tư duy, trở lại ngay với kinh
nghiệm trực giác — không lời, không khái niệm — của hơi thở. Những câu hỏi này
dùng để giúp bạn thoát ra khỏi sự xao lãng và cho bạn cái nhìn về thực chất của
nó, chứ không phải nghiên cứu thâm sâu để kẹt vào nó. Chúng điều chỉnh bạn vào
với vọng tâm và giúp bạn buông xả nó — tất cả trong một bước.
Vấn đề là ở chỗ này: khi có sự xao
lãng hay bất kỳ trạng thái tâm nào khác, phát khởi lên trong tâm, nó nảy sinh
từ trong vô thức. Chỉ một sát-na kế tiếp nó xuất hiện ở ý thức. Chỉ một sát-na
thời gian khác biệt thì rất là quan trọng, bởi vì chừng bấy nhiêu thời gian
cũng đủ cho sự chấp thủ xảy ra. Sự chấp thủ hình thành gần như là lập tức, và ở
ngay nơi vô thức. Theo lẽ này, vào thời điểm chấp thủ hiện thân và phát triển
tới tầng mức mà ý thức nhận biết được, chúng ta đã bị dính mắc vào nó rồi. Thật
là rất tự nhiên cho chúng ta cứ tiếp tục tiến trình này, dính càng chặt thêm
hơn vào sự xao lãng trong lúc nhìn theo nó. Phút giây này chắc chắn là chúng ta
đang suy nghĩ, chứ không còn là quan sát vọng tâm bằng sự chú tâm đơn thuần
nữa. Toàn bộ quá trình hoàn tất trong sát-na. Điều này chỉ ra cho chúng ta một
vấn đề là, lúc chúng ta nhận thức ra được vọng tâm, cũng có nghĩa là chúng ta
đã dính vào rồi. Có ba câu hỏi về cách điều trị cho căn bệnh này. Để trả lời
những câu hỏi này, chúng ta phải xác định phẩm chất của sự xao lãng. Muốn làm
được việc này, chúng ta phải (1) tách rời mình ra khỏi nó, (2) đem tâm lùi về
sau một bước, thả nó ra, và (3) nhìn nó một cách khách quan. Chúng ta phải dừng
suy nghĩ hay cảm giác để nhìn đối tượng đang được giám định. Qui trình này là
một bài ứng dụng trong chánh niệm, sự tỉnh giác không dính mắc, dùng để phân
cách với vọng tâm. Sợi dây trói buộc của vọng tâm bị cắt đứt và chánh niệm trở
lại. Ở thời điểm này, chánh niệm nhẹ nhàng mang sự tập trung về lại với hơi
thở.
Lúc mới thực tập phương thức này có
lẽ bạn sẽ phải làm với ngôn ngữ (lập niệm.) Bạn tự hỏi và tự trả lời. Không lâu
bạn phối hợp cách thức với nhau. Một khi quen thuộc rồi thì bạn chỉ đơn giản
ghi nhận vọng tâm, phẩm chất của nó, và rồi trở về lại hơi thở. Quá trình này
không dựa trên khái niệm và hoàn tất rất nhanh chóng. Vọng tâm có thể là bất cứ
gì: một âm thanh, một cảm giác, một cảm xúc, một tưởng tượng, mọi thứ. Không
cần biết nó là gì, đừng thử đè nén nó, đừng đẩy nó ra khỏi tâm. Đó là điều
không cần thiết. Chỉ quan sát nó trong chánh niệm với sự chú tâm đơn thuần. Xem
xét vọng tâm trong êm lặng và nó sẽ tự ra đi. Bạn sẽ thấy sự chú tâm của mình
trở về lại với hơi thở một cách dễ dàng. Đừng tự kết tội vì đã để xao lãng.
Vọng tâm là tự nhiên, chúng đến rồi đi.
Dù cho lời khuyên này có vẻ thông
thái ra sao, bạn rồi sẽ tự kết án mình vào một lúc nào đó. Đó cũng là lẽ tự
nhiên nữa. Chỉ quan sát cả quá trình tự kết tội như là sự xao lãng khác, rồi
trở về lại với hơi thở.
Xem xét cả trình tự của sự kiện:
Thở. Thở. Vọng tâm nổi lên. Thất vọng về vọng tưởng đã nổi lên. Tự trách tại
sao để cho tâm lang bạt. Nhận biết sự tự kết tội. Trở về lại với hơi thở. Thở.
Thở. Rất là tự nhiên, một chu kỳ trơn tru trôi chảy, nếu bạn làm đúng. Điểm
chính yếu dĩ nhiên là Kiên nhẫn. Nếu bạn có thể học quan sát vọng tâm mà không
can thiệp vào với chúng, thì mọi việc trở nên rất dễ dàng. Bạn chỉ lướt nhanh
qua vọng tâm và trở về với hơi thở lập tức. Dĩ nhiên, cũng là vọng tâm này, nó
có thể trở lại vào phút giây kế tiếp. Nếu có thì chỉ quan sát một cách chánh
niệm. Nếu vấn đề này xảy ra có trình tự và khuôn mẫu nhất định, thì bạn phải
cần rất nhiều thời gian để phá vỡ cái khối ký ức tích lũy từ bao đời kia — có
thể vài năm. Đừng nên nản lòng, tình trạng này rất tự nhiên và phổ biến. Chỉ
quan sát sự xao lãng và rồi trở về lại với hơi thở. Đừng đấm đá với những tư
tưởng lang thang này làm gì. Cũng đừng căng thẳng hay vẫy vùng làm gì cho vô
ích. Năng lượng dùng vào sự phản kháng sẽ bị guồng máy tư tưởng thu hút và làm
cho nó lớn mạnh hơn thêm mà thôi. Cho nên, đừng cố gắng đẩy những vọng tưởng ra
khỏi tâm. Đây là một trận chiến tất bại cho bạn. Chỉ quan sát vọng tâm trong
chánh niệm thì nó lập tức ra đi. Thật là lạ kỳ, càng nhiều chú tâm đơn thuần
cho phiền nhiễu như thế bao nhiêu, thì chúng suy tàn nhanh bấy nhiêu. Quan sát chúng
đủ lâu, đủ thường xuyên với chú tâm đơn thuần, thì chúng sẽ tan biến đi vĩnh
viễn. Chống chọi lại chúng thì chúng có thêm sức mạnh; còn ngắm nhìn chúng với
sự thờ ơ thì chúng lại héo tàn.
Chánh niệm có công năng tháo gỡ
vọng tâm, giống như chuyên gia rút ngòi quả bom. Vọng tâm yếu thì chỉ cần một
chớp mắt. Rọi ánh sáng tỉnh giác vào chúng, thì những vọng tâm này lập tức biến
thành mây khói và không còn trở lại nữa. Những tập khí hằn sâu cần phải có
chánh niệm liên tục và áp đặt vào chúng theo thời gian dài để chặt đứt xiềng
xích của chúng ở trong ta. Vọng tưởng thật ra chỉ là những con cọp bằng giấy.
Chúng không có nguồn sinh lực tự tồn. Nếu không có nguồn cung cấp năng lực liên
tục thì chúng sẽ chết. Nếu bạn chối từ nuôi chúng bằng nỗi sợ hãi, cơn giận, và
lòng tham lam của mình, thì chúng sẽ tan biến.
Chánh niệm là bộ phận quan trọng
nhất của thiền định. Nó là điều quan yếu mà bạn cố gắng vun bồi. Cho nên, không
thật cần thiết phải vật lộn với vọng tâm. Điều tất yếu là có chánh niệm về
những gì đang xảy ra, chứ không phải kiểm soát chúng. Nên nhớ, sự tập trung chỉ
là một dụng cụ mà thôi. Nó thuộc vào hàng thứ hai sau sự chú tâm đơn thuần. Từ
góc độ nhìn của chánh niệm, không có gì gọi là vọng tâm cả. Bất cứ gì sinh khởi
trong tâm đều được xem như là một cơ hội vun bồi cho chánh niệm. Ghi nhớ rằng
hơi thở là điểm tập trung tùy tiện và được dùng làm đối tượng chính cho sự chú
tâm. Còn vọng tâm thì được dùng như là đối tượng thứ hai. Chúng cũng không khác
gì so với hơi thở cả trên thực chất. Chỉ có khác biệt một chút là cái nào hiện
là đối tượng của chánh niệm đang trụ vào trong thời điểm ấy mà thôi. Bạn có thể
chú tâm về hơi thở hay về tâm xao lãng. Bạn có thể chú tâm về trạng thái yên
tĩnh của tâm, trạng thái bền vững của sự tập trung, hay sự tập trung giống như
mảnh vải mà tâm của bạn đang kéo lê chân trên nó. Tất cả những thứ đó đều là
chánh niệm. Chỉ duy trì chánh niệm thì sự tập trung lập tức đi theo sau.
Mục đích của tu thiền không phải để
tập trung vào hơi thở không cho gián đoạn mãi mãi. Nếu chỉ là thế thì mục đích
kia hoàn toàn vô ích. Mục đích của tu thiền cũng không phải để đạt đến cái
trạng thái tâm hoàn toàn tĩnh lặng và yên ổn. Dù cho đó là một trạng thái kỳ
diệu, nhưng nó không đưa đến sự giải thoát. Mục đích của tu thiền là để đến
chánh niệm miên mật. Chánh niệm và chỉ có chánh niệm mới phát sinh ra giác ngộ.
Vọng tâm xuất hiện qua thiên hình
vạn trạng. Triết học phật giáo có thống kê chúng vào nhiều loại. Một trong
những loại này là những chướng ngại. Tất cả đều được gọi là chướng ngại bởi vì
chúng làm cản bước phát triển cả hai bộ phận của thiền tập, Chánh niệm và sự
Tập trung. Cẩn thận về từ ngữ này: từ “chướng ngại” mang ý nghĩ không tốt thay
vì những trạng thái tâm này chúng ta muốn đoạn diệt đi. Nhưng đó không có nghĩa
là chúng cần phải bị đàn áp, xa lánh hay kết án.
Hãy dùng tham lam làm ví dụ. Chúng
ta mong tránh trạng thái tham lam càng lâu càng tốt, vì bởi, sự kéo dài của tâm
tham sẽ dẫn đến cảnh nô lệ và đau buồn. Điều đó không có nghĩa là, chúng ta cố
gắng vất bỏ cái tư tưởng kia ra khỏi tâm mỗi khi chúng sinh khởi. Chúng ta chỉ
đơn giản không đồng ý làm điều gì để giúp nó ở lại lâu hơn thôi, mà để cho nó
tự đến và đi. Lúc ban đầu tâm tham bị sự chú tâm đơn thuần quan sát thì không
có sự phán xét hình thành cả. Chúng ta chỉ đơn giản đứng lùi ra sau và ngắm
nhìn nó nổi lên. Toàn bộ chuyển biến của tâm tham được quan sát theo cách này
từ lúc bắt đầu cho đến biến mất. Chúng ta không giúp, ngăn chặn hay cản trở nó
dù một chút nhỏ nào. Nó muốn ở bao lâu tùy ý, và chúng ta học hết khả năng, tính
chất của nó trong lúc nó đang nấn ná ở đây. Chúng ta tra xét xem tâm tham làm
gì. Nó tạo ra khó khăn cho ta như thế nào và tạo nên gánh nặng cho người khác
ra sao. Nhận thấy nó làm chúng ta thất vọng dai dẵng làm sao, và vĩnh viễn sống
trong niềm ao ước không bao giờ toại nguyện. Từ kinh nghiệm lần đầu này, chúng
ta biết chắc tận gốc rễ là, tham lam là một phương cách sống vụng về. Sự hiểu
biết này không phải là một lý thuyết suông.
Tất cả những chướng ngại đều được xử lý theo một chiều hướng giống nhau, và
chúng ta sẽ xem xét chúng từng loại một.
Tham Dục: Giả sử bạn bị xao lãng
bởi một kinh nghiệm nào đó trong tu tập. Nó có thể là một tưởng tượng thích thú
hay một niềm tự hào. Cũng có thể là một cảm giác của lòng tự trọng. Hoặc là một
tình yêu, hay niềm hạnh phúc do cảm xúc sinh lý phát sinh từ kinh nghiệm thiền
định. Bất kỳ nó là gì, theo sau đó là một trạng thái tham dục — ham muốn đạt
được cái gì đó mà bạn nghĩ đến, hay ham muốn kéo dài kinh nghiệm bạn đang có.
Không cần biết bản chất của nó là gì, bạn nên xử lý tham dục theo cách này.
Nhận biết “tư tưởng” hay “cảm giác” khi nó trồi lên. Nhận biết “trạng thái tâm
ham muốn” đi theo nó như một đối tượng biệt lập. Nhận biết chính xác rõ ràng
cái “mức độ” của sự ham muốn. Kế đó, nhận biết nó tồn tại bao lâu cho đến khi
nó cuối cùng diệt đi. Khi bạn làm tất cả những bước trên xong, đem chú tâm về
với hơi thở.
Sân hận: Giả sử bạn bị xao lãng bởi kinh nghiệm tiêu cực. Có thể có những gì đó
làm cho bạn lo sợ hay lo lắng liên tục. Hoặc là cảm giác tội lỗi, phiền muộn,
hay đau đớn. Bất cứ bản chất của tư tưởng hay cảm giác đó là gì, bạn cảm thấy
mình như bị khước từ hay ức chế — cố gắng tránh đừng kháng cự hay phủ nhận nó.
Phương pháp đối trị bản chất sân hận cũng tương tự, ngắm nhìn sự phát sinh của
tư tưởng hay cảm giác. Ghi nhận trạng thái bị từ chối đi theo nó. Ước lượng mức
độ và tầm mức sự khước từ. Xem bao lâu nó tồn tại cho đến lúc nó tan biến đi.
Kế đó đem sự chú tâm về với hơi thở.
Lãnh đạm (Hôn trầm): Lãnh đạm xuất
hiện ở nhiều dạng khác nhau, nhiều cấp bậc, cường độ, phạm vi từ hơi mơ màng
cho tới thật là uể oải. Chúng tôi đang nói về “trạng thái tâm” chứ không phải
về thân. Buồn ngủ hay mệt lả thân thể thì khác, trong hệ thống phật học phân
loại, nó thuộc về cảm giác sinh lý. Tâm lý thờ thẫn thì gần gũi giống với sự ác
cảm theo một chiều hướng có tính cách tinh ranh hơn của tâm, để tránh đi hiện
trạng phải đối diện sự khó chịu. Sự thờ thẫn là một trạng thái tắt nghẽn những
bộ phận hoạt động của tâm,nó làm lụt cùn giác quan và sự bén nhạy của tri thức.
Nó là sự ngớ ngẩn cưỡng chế giả vờ như buồn ngủ. Đây là một tình trạng rất khó
đối phó, bởi vì sự hiện diện của nó thì trực diện đối nghịch lại việc làm của
chánh niệm. Sự uể oải thì gần như là bề trái của chánh niệm. Tuy thế, chánh
niệm cũng điều trị được chướng ngại này, và cũng cùng một phương pháp chung.
Ghi nhớ là, khi trạng thái mơ màng phát sinh, ghi nhận tầm mức và cường độ của
nó; nổi lên khi nào, bao lâu, và lúc nào nó diệt đi. Điểm đặt biệt khác ở đây
là, sự quan trọng nhất là bắt được hiện tượng này thật sớm. Bạn phải nhận ra nó
ngay lúc nó hình thành và áp đặt sự chú tâm đúng mức lập tức. Nếu bạn để cho nó
phát khởi, thì có lẽ nó sẽ lớn mạnh thật nhanh và vượt quá sức mạnh chánh niệm
mà bạn đang có. Khi trạng thái uể oải thắng thế, thì tâm sẽ bị cùn nhụt và tê
liệt suốt cả khoảng thời gian ngồi, và có thể đi vào những buổi ngồi sau đó.
Dao động (Trạo cử): Trạng thái bất
an và lo âu là hình thức biểu lộ trạng thái tâm dao động. Tâm của bạn cứ nhảy
lung tung, khước từ ở yên với bất kỳ một đối tượng nào cả. Bạn có thể gặp phải
vấn đề này rất nhiều lần. Đôi khi, ngay cả cảm giác không yên cũng chiếm ưu thế
hơn. Tâm chối từ dừng lại bất kỳ nơi đâu, nó liên tục nhảy chuyền. Phương pháp
căn bản vẫn là cách đối trị tốt cho tình trạng này. Bất an chiếm một phần cảm
giác trong ý thức. Bạn có thể gọi nó là đặt tính hay phần cấu tạo nếu muốn. Dù
cho gọi nó là gì, cảm giác háo động đó đang hiện hữu với đặc tính có thể định
rõ. Tìm cho ra nó. Một khi xác định ra rồi, ghi nhận xem nó tồn tại bao nhiêu,
khi nào nó phát sinh, ở đó bao lâu, và ngắm nhìn nó ra đi, rồi đem sự chú tâm
về lại hơi thở.
Ngờ vực (Mạn nghi): sự nghi ngờ có
cảm giác khác biệt rõ ràng trong ý thức. Kinh tạng Pali diễn đạt nó một cách
thanh nhã. Cảm giác của một người vật vã xuyên qua một sa mạc, dừng lại một ngã
tư đường không có bảng chỉ dẫn. Con đường nào anh ta sẽ chọn đây? Không có một
manh mối nào cả, cho nên anh chỉ biết đứng đó, mãi do dự. Một mẩu độc thoại
thường hay xảy ra trong những buổi tọa thiền như thế này: “Tôi ngồi như thế này
để làm gì? Tôi thật sự có được gì không từ những thứ này? Dĩ nhiên là có. Việc
này sẽ tốt cho mình, cuốn sách đã nói thế. Không, cái này rõ là điên mà. Những
việc này chỉ tổ làm mất thời gian. Không, tôi không thể nào bỏ cuộc được. Tôi
đã nói tôi sẽ tu tập, thì tôi sẽ làm. Hay là mình chỉ là một người cứng cổ? Tôi
không biết nữa. Tôi thật không biết.” Đừng bị rơi vào tình trạng này. Nó chỉ là
một chướng ngại, một làn mây mù khỏa lấp tâm của bạn, để bạn đừng tiếp tục làm
một việc làm khủng khiếp nhất trên đời: thật sự trở nên tỉnh giác về những gì
đang xảy ra. Để đối trị nghi ngờ, chỉ đơn giản chú tâm về trạng thái tâm đang
nao núng này như là một đề mục giám định. Đừng bị kẹt trong nó. Lùi lại và ngắm
nhìn nó. Nhìn xem nó mạnh ra sao, đến khi nào, ở bao lâu, rồi nó cũng sẽ ra đi,
để rồi trở về với hơi thở.
Đây là mô hình chung mà bạn sẽ dùng
cho bất kỳ vọng tâm nào phát sinh. Vọng tâm là tên gọi chung cho bất cứ trạng
thái tâm nào khởi sinh để ngăn cản sự tu tập của bạn. Một số thì rất vi tế.
Những trạng thái tiêu cực dễ nhận ra như: thiếu tin tưởng, sợ hãi, giận dữ,
phiền muộn, khó chịu, và chán nản.
Khát vọng và tham lam thì hơi khó
nhận diện ra, bởi vì, chúng áp đặt những chiêu bài mà chúng ta thường coi như
là đạo đức hay thánh thiện. Bạn có thể kinh nghiệm sự ham muốn là mình sẽ hoàn
chỉnh bản thân, có thể cảm giác khát vọng có được nền tảng đức hạnh cao hơn.
Ngay cả sự quyến luyến mà bạn có thể bị dính mắc vào trạng thái hạnh phúc của
Thiền-na. Nhưng khó khăn hơn, là làm sao để tách rời bản thân ra khỏi cảm giác
của lòng vị tha. Nói cho cùng, nó là trạng thái tham lam vi tế, cơn ham muốn sự
hài lòng và đây cũng là một cách khôn khéo để tránh cái sự thật trong giây phút
hiện tại.
Quỷ quyệt hơn tất cả là những trạng
thái tâm quá tự tin; nó len lén đi vào trong buổi tu tập của bạn. Sự hài lòng,
bình an, thỏa mãn nội tâm, sự cảm thông, và lòng bi mẫn cho muôn loài, là những
trạng thái tâm quá êm ái, rộng lượng mà bạn có thể mở lòng ra, để bám víu vào
chúng mà không hề bị ngăn ngại; bằng không thì bạn cảm thấy mình giống như kẻ
phản bội loài người (vì mình không có lương tâm và lòng nhân ái). Thật ra không
cần phải cảm thấy như thế. Chúng tôi không khuyên bạn từ bỏ những trạng thái
tâm này, để trở thành một người máy. Chúng tôi chỉ mong bạn thấy chúng
như-nó-là mà thôi. Chúng chỉ là những trạng thái tâm, đến và đi, phát sinh để
rồi hoại diệt. Trong khi tiếp tục việc tu tập của bạn, những trạng thái này sẽ
sinh khởi nhiều hơn. Điều căn bản là đừng bao giờ dính mắc vào chúng, chỉ nhìn
từng chập tâm một nổi lên. Hãy nhìn xem nó là gì, mạnh yếu ra sao, tồn tại bao
lâu, ngắm nhìn nó trôi dạt đi mất. Tất cả đều là một đoạn phim trôi qua trên
nền trời tâm tưởng của bạn mà thôi.
Trạng thái tâm diễn ra cũng giống
tương tự như hơi thở thôi. Mỗi hơi thở đều có giai đoạn ban đầu, giửa, và cuối.
Mỗi trạng thái tâm đều có sinh khởi, phát triển, và rồi hoại diệt. Bạn nên cố
gắng thấy những trạng thái này một cách rõ ràng, nhưng việc này thật không phải
là dễ. Trong khi chúng ta đã ghi nhận, mỗi tư tưởng hay cảm giác bắt đầu trong
vùng vô thức của tâm và chỉ xuất hiện nơi ý thức sau này. Chúng ta thường hay
chú ý vào những thứ này sau khi chúng đã phát sinh ở lãnh vực nhận biết và trụ
lại đó trong một lúc. Thật sự, chúng ta thường trở nên chú ý đến vọng tâm, chỉ
khi nào chúng đang vào giây sắp sửa muốn buông thả chúng ta để ra đi. Vào lúc
ấy, chúng ta bàng hoàng như là bị giáng mạnh một đòn, bởi sự hiểu rõ thình lình
là mình đã lạc lối, mơ ngày, tưởng tượng hay gì khác tự bao lâu rồi. Quá rõ
ràng, lúc ấy là quá trể trong cả một chuỗi tiến trình đã xảy ra. Chúng ta có
thể gọi hiện tượng này là “chộp bắt đuôi sư tử” và nó là một việc làm vụng về.
Giống như đang chạm trán với con thú hung bạo, chúng ta phải tới gần trực diện
với trạng thái tâm. Một cách kiên nhẫn, chúng ta sẽ học nhận ra chúng trong lúc
đang phát khởi, lớn dần và đi sâu vào ý thức của mình.
Vì trạng thái tâm phát sinh từ vô
thức, để bắt được sự sinh khởi của nó, bạn phải nới rộng sự tỉnh giác xuống tới
vùng vô thức. Điều này thật là khó, bởi vì bạn không thể nào thấy những gì xảy
ra ở đó, ít nhất nó không giống như bạn thường hay thấy tư tưởng tri thức.
Nhưng bạn có thể học để nhận ra sự chuyển động của nhận thức mập mờ và được
điều hành bởi một loại cảm giác tâm lý của giác quan. Thứ này đến từ sự tu tập,
và khả năng này chỉ là một trong những hiệu quả của trạng thái tập trung thâm
sâu và tĩnh lặng. Sự tập trung làm chậm lại sự phát khởi trạng thái tâm, đủ
thời gian cho bạn cảm nhận ra từng sự nảy sinh từ vô thức, và trước khi bạn
thấy nó trong ý thức. Tập trung thâm sâu giúp bạn nới rộng sự tỉnh giác vào
bóng tối xôi bỏng, nơi mà tư tưởng và cảm giác khởi sinh.
Khi sự tập trung đã đủ sâu, bạn có
được khả năng nhìn thấy tư tưởng và cảm giác sinh khởi một cách từ từ, giống
như những cái bong bóng riêng biệt, mỗi cái riêng và có khoảng cách giữa chúng.
Chúng sủi bọt lên thật chậm từ vô thức, ở vùng nhận biết một lúc rồi trôi dạt
đi mất.
Áp dụng tỉnh giác vào trạng thái tâm là một qui trình rõ ràng. Điều này thật
đúng đặt biệt cho cảm giác hay khả năng cảm giác. Đối với khả năng cảm giác rất
dễ bị quá trớn, có nghĩa là dễ dàng tô điểm thêm lên trên những gì đang có; và
cũng dễ dàng bỏ qua những chi tiết về đối tượng mà không thấy hết. Cái tiêu
chuẩn ở đây là cố gắng kinh nghiệm trọn vẹn mỗi trạng thái tâm như-nó-là, đừng
thêm hay bớt gì cả. Hãy dùng cơn đau nơi chân làm ví dụ. Ở đó, rõ ràng là một
luồng cảm xúc tinh khiết, liên tục thay đổi, không có hai phút giây nào giống
nhau cả. Nó đi từ chỗ này sang nơi khác; cường độ cũng lên xuống liên tục. Cơn
đau không phải là một thật thể, mà là một hiện tượng; không có khái niệm ghim
dính vào nó hay hộ trợ cho nó cả. Sự chú tâm tinh thuần không đứt khoảng về
hiện tượng này, sẽ kinh nghiệm thật đơn giản nó như một dòng năng lượng không
khác. Không có tư tưởng hay là sự phản kháng nào cả. Chỉ là dòng năng lượng mà
thôi.
Ở giai đoạn ban đầu của sự tu
thiền, chúng ta cần nghĩ lại những giả thuyết phía dưới được cho là khái niệm.
Đa phần trong chúng ta đều có một trình độ tri thức từ học đường, cuộc sống
giúp cho khả năng thao tác những hiện tượng tâm — khái niệm hóa — một cách hợp
lý. Sự nghiệp của chúng ta, những gì mà chúng ta cho là thành công trong đời
sống hàng ngày, những mối quan hệ vui vẻ, đều được nhìn qua cái lăng kính khái
niệm kia. Nhưng trong quá trình phát triển chánh niệm, chúng ta tạm thời gác
lại cái tiến trình khái niệm hóa và tập trung vào thực chất của hiện tượng tâm.
Trong quá trình tu thiền, chúng ta tìm kiếm kinh nghiệm cái tâm ở giai đoạn
trước khi bị khái niệm hóa.
Nhưng tâm con người lại khái niệm
hóa những cố sự như thế, rồi đặt tên là cơn đau. Bạn thấy mình đang nghĩ về nó
như “cơn đau.” Đó là khái niệm. Đó chỉ là cái nhãn hiệu được dán lên cái thực
chất của cảm giác này. Rồi bạn thấy mình gầy dựng lên một tâm ảnh, một bức họa
về cơn đau, nhìn nó như là một hình thể. Bạn có thể thấy ra một biểu đồ của cái
chân với cơn đau được phát họa với màu sắc nổi bật hơn. Đây quả thật là đầy
sáng tạo và rất thú vị, nhưng không phải những gì chúng ta muốn. Những khái
niệm này được đưa vào sự thật của đời sống. Gần như bạn sẽ phải thấy mình nghĩ
là: “Tôi có một cơn đau ở chân.” “Tôi” là khái niệm. Nó là những gì dư thừa đã
được gán thêm vào cơn kinh nghiệm thuần khiết kia.
Khi đưa cái “Tôi” vào trong quá
trình, là bạn đang gầy dựng lên một khoảng cách khái niệm giữa sự thật và sự
tỉnh giác đang nhìn vào sự thật đó. Tư tưởng như là “Tôi”, “của tôi”, hay
“những gì của tôi” không có chỗ đứng trong chú tâm trực giác; chúng chỉ là phần
phụ thuộc với giá trị rất ư là hạn chế. Khi đem cái “tôi” vào trong hiện cảnh,
có nghĩa là bạn xác định cơn đau, và thêm thắt những thứ không liên hệ gì với
nó vào đó. Nếu bạn bỏ “Ta” ra ngoài tầm sự việc thì cơn đau không còn tính đau
đớn nữa. Nó chỉ là một dòng năng lượng tinh khiết đang biến đổi, thậm chí nó
còn rất đẹp nữa. Nếu bạn thấy ra cái “Ta” tiềm ẩn trong kinh nghiệm cơn đau hay
hành động của bất kỳ cảm giác nào, chỉ quan sát nó một cách chánh niệm. Nhìn
những hiện tượng đau đớn mang đầy nét đặc thù cá nhân với sự chú tâm thuần
khiết mà thôi.
Nhưng cái ý niệm chung thì gần như
là rất đơn giản. Bạn thật sự muốn thấy từng cảm giác, dù cho nó là cơn đau,
niềm hạnh phúc, hay nỗi nhàm chán. Bạn muốn kinh nghiệm hiện tượng đó trọn vẹn
với cái thể tinh nguyên và tự nhiên của nó. Chỉ có một cách duy nhất để làm
được là, điều chỉnh thời gian phải thật chính xác. Sự tỉnh giác của bạn cho mỗi
cảm giác phải phối trí chuẩn xác với sự sinh khởi của nó. Nếu chỉ trễ một chúng
thì bỏ mất phần đầu, bạn sẽ không nhận hết toàn thể tiến trình. Nếu quấn quít
với bất kỳ cảm giác nào trong giây phút, thì nó trở thành dĩ vãng, và bạn chỉ
bận bịu với hồi ức, rồi không còn bắt kịp sự phát sinh của cảm giác kế tiếp
xuất hiện. Đây là một qui trình hoạt động tinh vi. Bạn phải theo dõi đều đều
giây phút hiện tại, nhặt lên và bỏ xuống sự kiện mà không có bất kỳ thời gian
trì hoãn (hay ngập ngừng) nào. Nó cần một sự bén nhạy của cảm giác. Sự tương
quan với cảm giác không thể nào bị rơi vào quá khứ hay tương lai, mà chỉ đơn
thuần trong hiện tại, phút giây hiện tiền.
Tâm con người luôn tìm kiếm những
hiện tượng khái niệm và đã được huấn luyện theo chiều hướng đó qua bao thời
gian rồi. Mỗi một cảm giác nhỏ sẽ bộc phát, làm nổ tung ra một tư tưởng khái
niệm theo chiều hướng tâm đang vận hành. Dùng tiến trình nghe để làm ví dụ. Bạn
đang ngồi tọa thiền và ai đó ở phòng bên đánh rơi một cái dĩa. Âm thanh giáng
mạnh vào tai của bạn. Lập tức bạn thấy toàn diện hiện cảnh của căn phòng ấy, và
có lẽ bạn thấy được người đã đánh rơi chiếc dĩa kia nữa. Nếu đây là chốn quen
thuộc, chẳng hạn như là nhà của bạn, thì có lẽ bạn sẽ có một cuộn phim không gian
ba chiều, đủ màu, chiếu qua tâm là ai đã làm rơi và chiếc dĩa nào đã bị vỡ. Cả
một tiến trình diễn ra trong tri thức một cách nhanh chóng. Nó nhảy ra từ vô
thức, trong sáng và rõ ràng, ép buộc, đẩy tất cả những ý thức khác ra khỏi phạm
vi hiện tại. Còn cảm giác lúc ban đầu đâu, kinh nghiệm thuần khiết của sự nghe
đâu? Nó bị lạc mất trong sự xáo trộn, hoàn toàn bị áp đảo và bỏ quên. Chúng ta
đánh mất hiện tại và đã đi vào thế giới của tưởng tượng rồi.
Một ví dụ khác: Bạn đang ngồi tọa
thiền và âm thanh chọc mạnh vào màng tai. Nó chỉ là một tiếng động mơ hồ, lạo
rạo không được rõ lắm; nó có thể là bất cứ gì. Những gì có thể xảy ra như thế
này. “Cái gì vậy? Ai làm thế? Nó xảy ra từ nơi nào? Cách đây có xa lắm không?
Có nguy hiểm gì không?” Và hơn nữa, bạn càng đi xa hơn, mà không có một câu trả
lời, ngoại trừ sự ức đoán tưởng tượng của bạn. Khái niệm là một quá trình tiềm
ẩn khéo léo. Nó lén đi vào kinh nghiệm và nắm lấy quyền kiểm soát. Khi nghe một
tiếng động đang lúc thiền, chỉ hướng sự chú tâm tinh thuần tới kinh nghiệm nghe
mà thôi, không gì khác. Những gì thật sự xảy ra thì rất đơn giản, và chúng ta
có thể không cần nghĩ tới gì cả. Làn sóng âm thanh chạm vào nhĩ căn theo một
thể nhất định riêng biệt, và được biến đổi thành những xung lực bên trong bộ
não, rồi truyền vào ý thức của dạng tiếng động, vậy thôi. Không có hình ảnh,
hồi ức trong tâm, khái niệm, mẩu chuyện tự hỏi trong đầu, chỉ là tiếng ồn. Sự
thật thì rất đơn giản đến một cách duyên dáng và không tô điểm vẽ vời. Khi bạn
nghe một âm thanh, chỉ chánh niệm về tiến trình của sự nghe. Những thứ khác chỉ
là phần ríu rít thừa thãi, cần nên bỏ đi. Cùng phương cách này, có thể áp dụng
cho từng cảm giác, tình cảm, kinh nghiệm mà bạn có. Nhìn thật cẩn thận vào kinh
nghiệm của riêng mình. Đào sâu và xuyên qua những tầng lớp tâm cũ rích, để xem
thật sự những gì trong ấy. Bạn sẽ phải lấy làm kinh ngạc nó đơn giản và đẹp đẽ
ra sao.
Rồi cũng có những khi nhiều cảm
giác cùng nổi lên một lúc. Bạn có thể có tư tưởng sợ hãi, cái quặn thắt nơi
bụng, cơn đau nơi lưng, và ngứa ngáy nơi vành tai trái một lượt. Đừng ngồi đó
mà cảm thấy khó xử. Cũng đừng phân vân xem chọn cảm giác nào để quan sát. Chọn
cái rõ ràng nhất. Chỉ thoải mái, cởi mở mình ra đón chào những hiện tượng này
xâm nhập vào và đòi hỏi sự chú tâm của bạn. Vì vậy, hãy cho nó sự chú tâm đủ
dài để thấy nó hoại diệt đi, rồi trở về với hơi thở. Nếu hiện tượng khác đến
thì cũng tiếp đãi nó cùng một phương pháp như thế.
Nhưng quá trình này có thể kéo dài
thật lâu. Đừng chỉ ngồi đó tìm kiếm sự kiện để chánh niệm. Giữ sự chánh niệm
của mình nơi hơi thở cho đến bao giờ những sự kiện khác đến mang sự chú tâm của
bạn đi. Khi bạn cảm thấy điều đó xảy ra, thì cũng đừng kháng cự lại. Cứ để cho
sự chú tâm trôi chảy tự nhiên trên vọng tâm và quan sát nó, cho đến khi nào nó
phân hóa, rồi trở lại hơi thở. Đừng tìm kiếm những hiện tượng tâm hay sinh lý,
chỉ ở với hơi thở. Để cho chúng đến với bạn. Dĩ nhiên sẽ có lúc tâm của bạn bị
trôi dạt. Ngay cả sau một thời gian dài tu tập, bất ngờ giật mình, nhận ra rằng
mình đã lạc lõng một lúc thật lâu rồi. Đừng nản lòng. Nhận thức ra rằng, mình
bị trôi dạt chừng bao lâu rồi, rồi trở lại với hơi thở. Không cần phải có một
phản ứng tiêu cực nào cả. Chỉ mỗi hành động của sự nhận thức về vọng tâm đã là
một sự tỉnh giác tích cực rồi. Điều đó chính là một bài thực tập cho sự chánh
niệm thuần khiết.
Chánh niệm lớn dần theo quá trình
tu tập. Cũng tương tự như cơ bắp trong thân thể. Mỗi lần vận động, bạn mang
sinh lực cho nó, làm cho nó mạnh lên một chút. Trên thực tế, bạn cảm nhận ra
rằng, đánh thức cảm giác nghĩa là bạn cải tiến tốt hơn sức mạnh chánh niệm của
mình. Có nghĩa là có kết quả. Trở về lại với hơi thở mà không cần phải hối
tiếc. Nhưng hối tiếc chỉ là một phản ứng tự nhiên đã bị điều kiện hóa và nó chỉ
có thể đi kèm theo một trạng thái tâm — là một trong những thói quen tâm lý.
Nếu bạn thấy mình thất vọng, cảm thấy nản lòng, hay tự trách, thì chỉ quan sát
hiện tượng đó với sự chú tâm đơn thuần. Nó chỉ là vọng tâm mà thôi. Cho nó một
ít sự chú tâm và ngắm nhìn nó diệt đi, rồi trở về hơi thở.
Qui luật mà chúng ta vừa nói qua có
thể và nên áp dụng một cách triệt để đối với tất cả những trạng thái tâm. Bạn
sẽ thấy, đây là những sắc lệnh chính thức, đầy nhẫn tâm, nhưng hoàn toàn có kết
quả thực dụng. Đây là một việc làm khó khăn nhất mà bạn chưa từng đảm trách
qua. Bạn sẽ thấy mình sẵn sàng ứng dụng phương pháp này vào một vài lãnh vực
của kinh nghiệm và miễn cưỡng dùng nó ở những lãnh vực khác.
Thiền định giống như là loại hóa
chất tâm lý. Nó ăn mòn dần bất cứ gì bạn bỏ vào nó. Đời sống con người thì rất
lạ kỳ. Chúng ta thích hưởng thụ chất độc, và tiếp tục một cách cứng đầu cứng cổ
ăn (những chất độc này) dù cho chúng đang giết dần chúng ta. Tư tưởng mà chúng
ta bám díu vào chính là chất độc. Bạn sẽ thấy ra, mình thiết tha đào bứng ra
khỏi gốc rễ một số tư tưởng trong khi lại ganh tỵ bảo vệ và trìu mến một số
khác. Đó là tính điều kiện hóa của con người.
Thiền Minh Sát không phải là một
trò chơi. Tỉnh giác trong sáng có giá trị quan trọng hơn những thú tiêu khiển
cho vui. Đây là con đường dẫn ra khỏi cái đầm lầy, nơi tạo bởi tham ái và sân
hận của chính mình, mà chúng ta đang bị kẹt cứng trong ấy. Thật ra cũng không
khó lắm, khi muốn áp đặt tỉnh giác vào những lãnh vực không tốt của đời sống.
Mỗi khi nhận thấy ra nỗi sợ hãi, cơn phiền muộn tan biến trong sức nóng cao độ
của tỉnh giác, thì bạn sẽ rất muốn diễn lại cái tiến trình này thêm nữa. Những
trạng thái tâm khó chịu này thì gây ra đau đớn, cho nên bạn muốn lánh xa chúng.
Lợi ích cũng không kém khi áp dụng tiến trình này vào những trạng thái tâm thương
yêu, yêu quốc gia, tình thương của bậc cha mẹ, hay tình yêu luyến ái, nếu khi
cần thiết. Những dính mắc lạc quan cũng sẽ giam giữ bạn trong vũng lầy, tương
tự như chấp thủ tiêu cực mà thôi. Bạn có thể trồi lên khỏi mặt bùn đủ để thở dễ
hơn một chút, nếu có tu tập thiền Minh Sát một cách chuyên cần. Thiền Minh Sát
là con đường đi đến Niết Bàn. Từ trong thiền đăng lục đã được để lại của những
người bước trên con đường đi đến quả vị cao thượng, thì thật là xứng đáng cho
mỗi lần phấn đấu trong tu tập.