Thiền tập là một từ ngữ, mà từ ngữ
thì được dùng bởi nhiều người và bằng nhiều cách khác nhau. Điều này dường như
là một điểm rất thông thường, nhưng thật ra thì không phải vậy. Rất ư là quan
trọng để xác định người nói đang muốn nói về điều gì. Mỗi phong tục đều có
phương pháp tu tập tâm linh mà người bản xứ đều dùng từ ngữ “thiền định” để
gọi. Đó là tuỳ thuộc vào sự hời hợt của cái định nghĩa mà con người gán cho cái
từ ngữ đó. Mọi người trên thế gian đều làm việc đó, từ Phi châu cho đến người
Bắc cực. Phương pháp thì khác biệt rất to lớn, và chúng tôi không có ý định mổ
xẻ vấn đề này vì có nhiều quyển sách đã làm việc đó. Ở đây, chúng tôi chỉ giới
hạn sự thảo luận của chúng ta trong phạm trù của những người Tây phương về từ
ngữ này.
Theo truyền thống Cơ đốc giáo,
chúng tôi thấy hai cách tu tập trùng lặp lên nhau được gọi là “Lời yêu cầu khẩn
thiết” và “Sự trầm ngâm.” “Lời yêu cầu khẩn thiết” là hướng thẳng đến một vài
vị thần thánh nào đó. “Sự trầm ngâm” là kéo dài ý nghĩ về điều gì đó cho nó dài
ra trong một khoãng thời gian, thường thì là một quan niệm hay một đoạn kinh
nào đó. Từ quan điểm tâm linh của từng tập quán, cả hai hành động trên đều là
sự huấn luyện cho khả năng tập trung tâm ý. Những tư tưởng có ý thức thông
thường khi lan tràn thì sẽ bị câu thúc, hạn chế, và được đưa vào một vùng hoạt
động có kiểm soát. Kết quả của cáp pháp này là: sự bình tĩnh sâu lặng, sự
chuyển hóa sinh lý thật chậm, và trạng thái bình an, thoải mái.
Thiền Yoga phát sinh từ truyền
thống Ấn độ giáo, chỉ chuyên nhất cho tính tập trung. Sự huấn luyện cơ bản theo
truyền thống này bao gồm tập trung tâm vào một đối tượng: một viên đá, ngọn lửa
của một cây nến, một âm giai hay bất cứ gì, và giữ không cho tâm đi lung tung.
Có được kỷ năng căn bản, hành giả Yogi sẽ phát triển sự huấn luyện tới nhiều
đối tượng phức tạp hơn: tụng kinh, hình tượng tôn giáo có nhiều màu sắc, những
nguồn năng lượng trong thân thể vv… Mặc dù vậy, không cần biết đối tượng có
phức tạp ra sao, phương pháp vẫn đơn thuần là huấn luyện tập trung.
Trong truyền thống Phật giáo, sự
tập trung cũng có giá trị rất cao. Nhưng cộng thêm vào đó, còn quan trọng hơn
nữa là “sự Tỉnh giác.” Tất cả pháp môn tu thiền trong Phật giáo đều hướng về
phát triển Tỉnh giác, chỉ dùng sự tập trung tâm ý như là một phương tiện.
Truyền thống Phật giáo thì rất rộng rãi, bằng bất cứ cách nào, chỉ có vài cách
thuận tiện để đi tới mục đích. Thiền tông có hai hướng đi khác nhau. Cách thứ
nhất là “lao thẳng vào sự chú tâm bằng tất cả mọi năng lực (khán thoại đầu).”
Bạn ngồi xuống đó, quăng bỏ tất cả ra khỏi tâm, chỉ đơn thuần ngồi đó với sự
chú tâm. Nghe qua thì rất đơn giản, nhưng thật không đơn giản chút nào cả. Một
cuộc trắc nghiệm ngắn ngũi sẽ chứng minh sự khó khăn ra sao. Cách thứ hai, thì
được dùng theo phái Lâm tế là, “lừa dối tâm ra ngoài tư tưởng ý thức để đi vào
sự tỉnh giác đơn thuần.” Để làm được điều này, thiền sinh sẽ được cho một Công
án để giải, nó sẽ đưa thiền sinh vào một tình trạng huấn luyện rất ư là khủng
khiếp. Bởi vì, thiền sinh không thể nào thoát ra khỏi cơn thống khổ của điều
kiện, người ấy phải vượt thoát vào trong kinh nghiệm đơn thuần của phút giây
hiện tại. Không có nơi nào khác để đi. Thiền tông thì rất là khó khăn. Nó thì
rất hiệu nghiệm cho một số người, nhưng nó rất ư là khó.
Một phương pháp khác trong Phật
giáo thì gần như trái ngược, đó là Mật tông. Tư tưởng ý thức, ít nhất cũng là
phương cách chúng ta thường hay làm, là sự biểu lộ của cái Ngã, cái “Ta” mà bạn
thường nghĩ bạn là. Tư tưởng ý thức thì liên đới chặt chẽ với quan niệm Bản
ngã. Quan niệm bản ngã hay Ngã thì không gì hơn là một chuỗi phản ứng và hình
tượng tâm linh đã được trùm lên dòng vận hành của sự chú tâm thuần khiết. Mật
tông tìm kiếm để đạt được sự chú tâm thuần khiết bằng cách hủy hoại đi cái hình
tượng “Ta” này. Đây là sự huấn luyện qua quá trình hình dung. Thiền sinh nhận
được một hình tượng tôn giáo nào đó để chú tâm vào, ví dụ như, một trong những
vị thần trong đền thờ Mật tông. Thiền sinh sẽ thâm nhập cho đến khi nào mình
trở thành vị thần ấy. Thiền giả lấy ra cái định danh riêng của mình và thay thế
cái khác vào. Bạn có thể tưởng tượng ra là cần bao lâu thời gian để làm trọn
vẹn việc này, nhưng nó lại có kết quả. Trong suốt quá trình, thiền giả có thể
xem xét cái đường lối mà cái Ngã được tạo nên và tồn tại. Thiền giả rồi sẽ nhận
ra bản chất tùy tiện của các Ngã, ngay cả “cái Ngã” của chính mình, để rồi
thiền giả không còn chấp chặt vào cái Ngã đó nữa. Thiền giả sẽ rơi vào trạng
thái mà người đó có thể chọn cái Ngã của chính mình, hay cái Ngã của bất cứ ai
mà mình muốn, hay là không chọn cái Ngã nào cả. Kết quả là: Sự chú tâm thuần
khiết. Mật tông thì không phải là một đường lối tu tập dễ dàng gì.
Thiền quán là phương pháp tu tập
xưa cũ nhất trong Phật giáo. Phương pháp này được ghi lại trong Kinh Đại niệm
Xứ đã được dạy bởi chính đức Phật. Thiền quán là trực tiếp và vun trồng từ từ
Chánh niệm hay Tỉnh giác. Nó phát triển từng bước một theo thời gian. Sự quan
tâm của thiền sinh là trực diện với sự xem xét cao độ về mọi mặt trong đời sống
của mình một cách cẩn thận. Thiền sinh tập sự nhận ra càng nhiều hơn dòng kinh
nghiệm về cuộc đời mình. Thiền quán là một phương phát rất tinh vi, và cũng rất
ư là thâm sâu. Nó tuy là một hệ thống rất xưa cũ và có qui chế trong lối tu tập
sự bén nhạy, là một bộ môn tập tành cho thiền giả trở nên nhạy bén hơn đối với những
kinh nghiệm cuộc đời. Có chú tâm lắng nghe, thấy toàn diện, và cẩn thận tra
vấn. Chúng ta học cách ngữi chính xác, chạm hoàn toàn, thật sự để ý tới những
gì chúng ta đang cảm giác. Chúng ta học nghe tư tưởng của mình mà không dính
mắc vào chúng.
Đối tượng tu tập thiền quán là học
cách chú ý. Chúng ta hay nghĩ rằng đó là những gì chúng ta đang luôn luôn làm,
nhưng đó chỉ là ảo tưởng. Nó đến từ sự thật là, chúng ta chỉ chú ý rất ít đối
với mọi kinh nghiệm đời sống của mình đang xảy ra, giống gần như chúng ta đang
ngủ. Chúng ta chỉ đơn giản không chú ý đủ để nhận ra rằng chính mình không có
chú tâm. Đó là một tình trạng tiến thoái lưỡng nan khác.
Xuyên qua quá trình tu tập Chánh
niệm, chúng ta dần dần trở nên nhận biết ra về những gì mình thật-sự-là ở phía
dưới cái hình tượng “Ngã” của mình. Rồi chúng ta tỉnh mộng ra, thật sự cuộc đời
là ra sao. Nó không chỉ là một cuộc diễn hành đi lên đi xuống, một que kẹo đập
mạnh vào cổ tay. Đó chỉ là một ảo tưởng. Cuộc sống có sự cấu tạo rất sâu xa,
thâm thúy hơn nhiều nếu chúng ta chịu bận tâm nhìn và nhìn một cách đúng đắn.
Thiền quán là một dạng thể huấn
luyện cho tâm, nó dạy bạn biết thế nào để kinh nghiệm thế gian theo một chiều
hướng mới. Bạn sẽ học lần đầu trong đời mình về những gì thật sự xảy ra cho
thân-tâm của mình, đối với chung quanh và bên trong. Nó là một tiến trình của
sự khám phá tự thân, một phương pháp mang tính cách điều tra mà thiền sinh phải
quan sát những kinh nghiệm riêng của mình, trong khi tham dự và cùng chúng diễn
tiến. Sự tu tập phải luôn được thực hiện với thái độ tích cực.
“Hãy quên đi những gì tôi đã dạy.
Quên hết những học thuyết, sự phán xét, và khuông mẩu. Tôi muốn hiểu bản chất
thật sự của đời sống. Tôi muốn biết những gì mà cái kinh nghiệm của sự sống
thật sự ra sao. Tôi muốn hiểu rõ sự thật và những chất lượng sâu sắc của đời
sống, mà tôi không muốn chỉ chấp nhận sự giải thích của người khác. Tôi muốn tự
mình thấy nó.” Nếu bạn theo đuổi sự tu tập của mình với thái độ này, bạn sẽ
thành công. Tự bạn sẽ thấy mình quan sát sự vật một cách khách quan, đúng
như-nó-là — vận hành và thay đổi trong mỗi sát na thời gian. Cuộc sống rồi sẽ
trở nên phong phú không thể ngờ và không thể nào diễn tả hết được. Nó chỉ có
thể kinh nghiệm mà thôi.
Theo ngôn ngữ Pali thì Thiền Tuệ là
Vipassana Bhavana. Bhavana bắt nguồn từ chữ gốc “Bhu”, có nghĩa là lớn lên hay
trở thành. Do đó, Bhavana có nghĩa là vun trồng, và từ ngữ này luôn luôn dùng
để chỉ cái Tâm. Bhavana có nghĩa là “vun trồng tâm.” 'Vipassana' thì được
chuyển hóa từ hai chữ gốc. 'Passana' nghĩa là thấy hay nhận thấy. 'Vi' là tiếp
đầu ngữ với nghĩa bao hàm ý chính. Nghĩa căn bản là “theo một cách thật đặc
biệt”, nhưng cũng bao hàm của cả hai ý “đi vào” và “xuyên qua”. Toàn nghĩa của
chữ là “nhìn vào một việc gì với sự trong sáng và chính xác”, thấy mỗi một bộ
phận theo từng phần, phân biệt, và xuyên thủng qua tất cả, để nhận thấy những
sự thật cơ bản nhất của vật ấy. Quá trình này dẫn đến sự thấu hiểu sâu sắc cái
bản chất thật của bất cứ sự vật gì đang được xem xét. Rốt cuộc, ‘Vipassana
Bhavana’ có nghĩa là sự vung trồng tâm, với mục đích thấy theo một cách đặc
biệt để đưa đến sự thấu hiểu và nhận thức một cách đầy đủ.
Trong thiền Minh Sát, chúng ta vun
trồng phương pháp nhìn mới về cuộc đời. Chúng ta tự huấn luyện mình lối nhìn sự
vật một cách chính xác như-nó-là, và trạng thái nhìn đặc biệt này theo thiền
ngữ được gọi là “Chánh niệm.” Tiến trình Chánh niệm này rất khác biệt với những
lề lối mà con người thế gian thường hay làm hàng ngày. Thông thường ta không
nhìn vào những gì thật sự đang diễn ra trước mặt, mà nhìn cuộc đời qua lăng
kính của tư tưởng và khái niệm. Do đó, chúng ta luôn lầm lẫn những “tâm ảnh”
này rồi cho nó là sự thật. Từ đó, chúng ta bị trói buộc bởi dòng tư duy vô tận
trong khi sự thật thì cứ lững lờ đi qua mà không nhận biết ra. Chúng ta hoang
phí phần lớn thời gian vào những công việc bận rộn, bấn loạn đeo đuổi theo dục
lạc, thỏa mãn, và sự trốn lánh đau đớn, khó chịu. Tất cả bao nhiêu năng lượng
đã bị tiêu hao để mong làm cho chúng ta cảm giác tốt hơn, để che dấu sự sợ hãi
của mình. Chúng ta không ngừng tìm cầu sự an toàn. Trong thời gian đó, cả một
trời kinh nghiệm thật sự luôn xảy ra mà ta không hề hay biết tí nào cả. Tu tập
thiền Minh Sát là ta học biết làm ngơ đối với những cảm hứng bất chợt nổi lên
mong muốn thoải mái, mà là lao thẳng vào sự thật. Điều mỉa mai là, sự an bình
thật sự chỉ xuất hiện khi nào bạn không còn đeo đuổi theo nó nữa. Đây cũng là
một điều tiến thoái lưỡng nan khác nữa.
Khi không bị căng thẳng, lòng ham
muốn rất dễ tác động để phát sinh sự đòi hỏi. Còn khi buông xả đi những dính
mắc khát vọng thì nét đẹp chân chính của cuộc đời lại xuất hiện. Khi bạn tìm
biết sự thật mà không còn vướng mắc vào ảo tưởng, ôm trọn tất cả niềm đau và
hiểm họa của nó (sự thật), thì đó chính là lúc sự giải thoát chân chính hiện hữu
với bạn. Đây không phải là một chủ thuyết mà chúng tôi muốn nhồi sọ bạn. Đây là
một sự thật có thể quan sát, một sự kiện mà bạn có thể và nên tự mình kiểm
chứng.
Hơn 2,500 năm tồn tại, hệ thống tư
tưởng Phật giáo có đủ nhân duyên và thời gian để phát triển nhiều từng lớp trên
phương diện chủ thuyết và nghi thức tôn giáo. Tuy thế, quan điểm cơ bản của
Phật giáo vẫn khuyến khích về lãnh vực thực nghiệm và phản đối lại chủ thuyết
độc đoán. Đức phật Thích Ca là người không chủ xướng truyền thống nào cả và không
chấp nhận chủ nghĩa lập khuôn. Ngài không đề ra pháp tu như là một hệ thống
giáo điều; mà là đề cương ra một phương pháp để cho mỗi cá nhân có thể tự mình
thẩm xét. Cũng như lời của ngài đã nói, mời bạn đến để “thấy”. Một điều mà ngài
có nói với các môn đệ rằng “đừng đặt thêm chiếc đầu khác trên đầu của mình.” Ở
đây, ngài muốn nhắc nhở mọi người là, đừng bao giờ chấp nhận tin lời của bất cứ
một ai. Hãy tự mình thấy.
Chúng tôi muốn bạn hãy trang bị cho
mình cái tác phong trên khi đọc từng chữ trong quyển sách này. Chúng tôi không
hứa hẹn rằng bạn sẽ chấp nhận tất cả những gì trong đây, vì nghĩ rằng chúng tôi
là những kẻ có thẩm quyền trong lĩnh vực này. Tin mù quáng không có dính dáng
gì ở đây cả. Đây chỉ là những kinh nghiệm thực tại. Học để điều chỉnh quan niệm
của mình cho phù hợp với cái tinh thần đã được dẫn giải trong đây, rồi bạn sẽ
tự mình thấy ra. Duy nhất điều đó mới tạo cho bạn những căn bản gầy dựng niềm
tin chân chính. Trí tuệ trực quán là quá trình tu tập quán sát cho sự khám phá
cá nhân một cách rất thuần khiết.
Đã từng có nói qua, chúng tôi sẽ
trình bày một bản tóm tắt những điểm quan yếu trong triết học Phật giáo. Chúng
tôi không có ý đi sâu vào chi tiết vì có nhiều sách khác đã làm việc này. Ở
đây, chúng tôi chỉ muốn diễn giải về sự hiểu biết đúng đắn về Thiền quán mà
thôi.
Từ quan điểm Phật giáo, con người
sống theo một lề lối rất là lạ lùng. Chúng ta cho những thứ không bền là những
gì thường hằng, dù cho tất cả mọi hiện tượng và sự vật luôn luôn thay đổi chung
quanh ta. Tiến trình thay đổi thì liên tục và bất tận. Đang khi đọc những dòng
chữ này, thân thể của bạn thì đang già đi, nhưng bạn nào có quan tâm gì về vấn
đề này. Cuốn sách trên tay của bạn đang bị phân hóa, mực chữ thì mờ phai dần và
giấy thì trở nên giòn hơn. Những bức tường chung quanh chúng ta cũng đang cũ
đi; những phân tử bên trong nó đang rung chuyển ở tốc độ to lớn và từng bộ phận
đang xê dịch, rã rời và tan ra một cách từ từ, thế mà bạn cũng đâu có để ý đến
điều này. Rồi một ngày kia, bạn bất chợt nhìn lại chung quanh mình. Bạn nhận
thấy ra da thịt của mình nhăn nhíu, xương cốt kêu rin rít và cảm thấy đau đớn.
Cuốn sách ngã màu và các trang dính vào nhau. Vách tường thì bị mòn khuyết vào.
Rồi bạn buồn bã vì đánh mất tuổi thanh xuân, và khóc than khi những tư hữu bị
mất đi. Những khổ đau này từ đâu đến? Nó bắt nguồn từ sự lơ là của chính mình.
Bạn đã không để ý gì đến cuộc đời mình; không quan sát sự thay đổi không ngừng
của thế giới hiện tượng khi nó đi qua. Bạn chỉ chọn lọc một số kiến trúc tâm
linh, “Ta”, “cuốn sách”, “căn nhà” và rồi giả định rằng chúng sẽ tồn tại mãi
mãi. Chúng sẽ không bao giờ thế. Còn bạn thì khác, bạn có thể hòa nhập vào dòng
thay đổi liên tục kia. Bạn có thể học cách nhận thức cuộc đời mình như là một
chuỗi thay đổi không ngừng, giống như lối hòa hợp của tiếng nhạc giao hưởng và
điệu vũ. Bạn học được niềm vui trong sự hoại diệt của những hiện tượng, và hòa
sống với dòng đời, hơn là liên tục kình chống với tự nhiên. Bạn có thể học, vấn
đề là ở thời gian và phương pháp mà thôi.
Thói quen tri giác của loài người
thì ngu xuẩn một cách rõ rệt trên một số phương diện. Chúng ta bỏ đi 99% những
kích thích của cảm xúc giác quan mà ta thật sự có được, mà chỉ bắt nắm 1% kia
như là đối tượng tâm linh mà thôi. Để rồi chúng ta phản ứng với những đối tượng
này theo thói quen đã được huân tập của mình. Ví dụ: Bạn ở đó; đang ngồi một
mình trong sự vắng lặng của một đêm thật êm ả. Có một con chó nào đó sủa vang
vọng từ xa. Nếu mà chúng ta chịu quan sát thì sẽ thấy rằng, tự thân của sự nhận
thức thì thật không thể nào diễn tả được vẻ đẹp của tình huống này. Nhưng từ vô
thức một đợt sóng gợn lên và phá tan đi sự tĩnh lặng. Bạn bất chợt nghe cái
giai điệu quen thuộc từ muôn thưở và biến dần thành một chất liệu kích thích
vào hệ thần kinh như một dòng điện mạnh. Cả một tiến trình thì thật đẹp và hoàn
hảo, nhưng con người thì lại có chiều hướng lờ hẳn đi. Thay vì, chúng ta ghi
nhận cái nhận thức ấy như là một đối tượng tâm, ta lại làm khác đi, chúng ta áp
đặt một bức tranh lên trên nó và tạo ra một chuỗi cảm xúc và phản ứng vào nó.
“Lại con chó đó nữa, luôn luôn sủa vào giờ này, thật là phiền, đêm nào cũng
vậy. Cần phải có ai đó làm một điều gì. Hay là mình nên gọi cảnh sát? Không!
Nên gọi sở bắt chó. Có lẽ mình nên viết một lá thư cảnh cáo người chủ của con
chó kia. Không! Nhiều rắc rối lắm. Ta nên có nút bít tai vậy.” Tất cả những thứ
này chỉ là thói quen tâm lý và cảm xúc mà chúng ta đã huân tập từ thưở còn bé
bằng cách bắt chước những người chung quanh. Những phản ứng theo khái niệm này
vốn không có hiện hữu trong hệ thần kinh, nhưng khốn nỗi đó không phải là một
cách duy nhất mà chúng ta dùng tâm trí của mình. Những gì đã được huân tập có
thể quên đi hay thay đổi, mà việc đầu tiên là nhận thức ra những gì chúng ta
đang làm trong khi mình đang làm nó, để rồi lùi lại một bước đứng yên lặng để
quan sát nó.
Từ góc độ nhìn của Phật giáo, con
người có lối nhìn trái ngược về cuộc đời. Chúng ta nhìn vào những sự kiện tạo
ra khổ đau mà lại cho nó là hạnh phúc. Nguyên nhân của khổ đau là những bệnh
chứng của Tham lam và Sân hận mà chúng ta đã nhắc ở phần trước. Xuất phát từ
khái niệm, bất cứ vấn đề gì cũng có thể xảy ra — một người con gái đẹp, một gã
đẹp trai, chiếc du thuyền cao tốc, một tên côn đồ với khẩu súng, xe tải chạy
bừa lên bạn… Bất cứ là điều gì, chúng ta luôn phản ứng với sự kích thích về cảm
giác đó.
Chúng ta lo lắng quá nhiều. Thực
chất của sự lo lắng là vấn đề. Lo lắng là một tiến trình có nhiều giai đoạn.
Bồn chồn thì không chỉ là một trạng thái mà là một trình tự. Những gì bạn nên
làm, là quan sát sự diễn tiến từ lúc phát sinh, chính ở giai đoạn sinh khởi này
trước khi nó phát triển đến mức cao độ. Mối liên hệ trước tiên của chuỗi lo
lắng là hành động của sự chấp thủ/phản kháng. Khi có sự kiện phát sinh trong
tâm, chúng ta có khuynh hướng bám níu vào hay đẩy nó ra. Điều đó tạo nên sự tác
động của lo âu. May mắn là có thiền Minh Sát giúp cho bạn làm bộ phận máy móc
này mất đi tác dụng.
Thiền Minh Sát dạy cho chúng ta
cách khảo sát tiến trình khái niệm của chính mình với sự chính xác rõ ràng.
Chúng ta học cách nhìn sự phát sinh của tư tưởng và khái niệm cảm giác buông bỏ
chân thành; học nhìn những phản ứng của mình phát khởi bằng sự trong sáng và
trầm tĩnh. Chúng ta bắt đầu thấy mình phản ứng mà không bị lôi cuốn vào sự phản
ứng đó, để rồi tư tưởng tự thị ám kỷ dần dần bị diệt đi. Chúng ta vẫn có thể
lập gia đình, vẫn có thể tránh lối xe chạy, nhưng chúng ta không cần phải trải
qua những nỗi đớn đau do tự mình gây ra.
Vượt thoát sự ám ảnh của tư tưởng
tạo nên một quan kiến hoàn toàn mới mẻ về sự thật. Đây là một sự chuyển hướng
to lớn, thay đổi toàn diện về cơ cấu khái niệm. Nó mang theo cảm giác bình an
và lẽ phải, nét hứng khởi của đời sống và hương vị hoàn thiện của từng sinh
hoạt. Cũng chính vì thế, lối nhìn sự vật của đạo Phật theo quan điểm này được
gọi là Chánh kiến, nhìn sự vật như-nó-là.
Thiền Minh Sát là một quá trình
huấn luyện để mở ra dần dần cho chúng ta một lối nhìn vào sự thật như-nó-là.
Bên cạnh cách nhìn mới về sự thật này còn có điều quan yếu nhất là sự thật về
cái “Ta”. Sự quan sát cặn kẻ sẽ làm sáng tỏ về cái “Ta” thì cũng tương tự như
cách chúng ta quan sát những ý niệm khác. Những cơn xoáy tư tưởng, cảm giác và
cảm xúc mà chúng ta luôn đối diện, củng cố, và bồi đắp cho chúng trở thành một
khối trong tâm, để rồi dán cho nó một giả danh là “Ta”. Rồi từ đó, chúng ta xem
nó như là một cá thể bất biến và thật có; đặt nó biệt lập hẳn với mọi thứ khác.
Chúng ta tách mình ra khỏi dòng vận hành liên tục của vũ trụ vạn hữu, để rồi
buồn rầu là tại sao mình cảm thấy cô đơn quá. Chúng ta đã thờ ơ đối với mối
tương quan vốn có với nhân loại và cho rằng “Tôi” phải có thêm hơn cho “mình”;
rồi sau đó chúng ta lấy làm kinh ngạc là tại sao loài người quá ư là vô tình và
tham lam… Mỗi một hành động bất thiện hay tàn nhẫn trên thế gian đều phát sinh
từ cái “Ta” không thật có này, đã làm cô lập một cá nhân ra khỏi thế giới ngoài
kia.
Khi cái ảo tưởng của khái niệm bị
bùng vỡ, thì toàn bộ nhân sinh quan của bạn sẽ lập tức thay đổi. Đừng bao giờ
kỳ vọng rằng tiến trình này sẽ xảy ra sau một đêm. Bạn đã dùng gần cả một đời
mình để tạo dựng cái khái niệm này, và củng cố nó trong từng tư tưởng, lời nói,
hành động trong bao năm qua, thì nó không thể nào tan biến trong giây phút.
Nhưng nó sẽ ra đi nếu bạn cho nó đủ thời gian và sự chú ý. Thiền Minh Sát là
một quá trình làm cho nó bị phân hóa. Từng chút một, bạn sẽ làm cho nó bị bào
mòn đi bằng cách quan sát nó.
Khái niệm tự ngã cũng là một quá
trình mà chúng ta đang luôn làm. Trong thiền Minh Sát, chúng ta học cách thấy
ra là mình đang làm thế trong lúc chúng ta đang làm, và làm nó như thế nào; để
rồi thấy nó biến dạng và tan dần như một đám mây trôi ngang qua bầu trời trong
xanh. Chúng ta sẽ ở vào trạng thái, mà ta tùy thuộc vào hoàn cảnh thích nghi
nhất để quyết định có làm hay không làm một điều gì đó, mà không còn có tính bị
ép buộc trong lúc đó. Chúng ta luôn có sự lựa chọn.
Dĩ nhiên đây là những đặc thù của
Trí tuệ tự chứng. Mỗi một nét là một lãnh vực hiểu biết thâm sâu của từng vấn
đề cơ bản của đời sống, và nó không bao giờ xảy ra nhanh chóng nếu không có
công phu sâu dày. Đây là một tiến trình rất ư là gian nan, khó khăn nhưng kết
quả cũng rất là tương xứng, một chuyển biến toàn diện đời sống của bạn cho đến
cuối cuộc đời. Hành giả sẽ khổ công đi suốt quá trình tu tập để đạt đến lãnh
vực tâm linh toàn thiện, sống với một tình yêu thương không điều kiện mà không
còn đau khổ. Đây vốn là một mục tiêu vĩ đại trong đời người. Nhưng chúng ta
không phải đợi chờ thành quả ở cuối con đường; những lợi ích này lập tức sản
sinh và được tích lũy theo thời gian. Càng tu tập, bạn càng học được nhiều hơn
về bản chất của đời mình; khả năng quán sát một cách bình thản những cơn cảm
xúc, tư tưởng, cảm giác đang lúc phát sinh trong tâm. Thành quả của sự giải
thoát tùy thuộc vào mức độ tu tập của bạn; và bạn có thể dừng lại bất cứ lúc
nào nếu bạn cảm thấy đủ. Không có một hệ thống đo lường nào ngoài mức độ khát
khao thấy được chân lý cuộc đời mà bạn có, chỉ có trí tuệ này mới có thể giúp
ích cho mình và người chung quanh.
Thiền Minh Sát vốn dựa vào kinh
nghiệm chứ không thuộc về phạm vi lý thuyết. Khi tu thiền, bạn trở nên bén nhạy
hơn đối với kinh nghiệm đời sống và điều kiện chung quanh. Bạn không phải ngồi
loanh quanh để kiến tạo nên những tư tưởng hoàn mỹ về cuộc đời, mà là sống với
nó. Thiền Minh Sát không gì khác hơn là một phương pháp học để sống ra sao.